Người dân Nam bộ có câu vè: “Chợ
không đàn bà là chợ Cầu Ông Lãnh”. Tréo ngoe là ngôi chợ này mang tên
người đàn ông nhưng người họp chợ lại đa số là đàn bà.
Người dân Nam bộ có câu vè: “Chợ không đàn bà là chợ Cầu Ông Lãnh”.
Tréo ngoe là ngôi chợ này mang tên người đàn ông nhưng người họp chợ lại
đa số là đàn bà.
Chợ Thái Bình ngày nay xây dựng trên khu đất chợ trời đầu tiên ở Sài Gòn - Ảnh: Quỳnh Trân
Chợ mang tên đàn ông
Chợ Cầu Ông Lãnh vốn nằm trên đường Nguyễn Thái Học, Q.1, TP.HCM,
được xây cất năm 1929. Chợ chuyên bán những loại trái cây tươi như cam,
bưởi, quýt, dừa, dưa hấu, ổi, xoài và các thứ rau sống. Hàng được các
ghe thuyền từ lục tỉnh chở lên đổ cho các chủ vựa ở chợ.
Chủ vựa bán sỉ hàng lại cho dân buôn bán ở các chợ nhỏ trong phố về
bán lại. Chợ họp suốt ngày đêm nhưng từ nửa đêm tới sáng là đông và
nhộn nhịp nhất. Cạnh chợ Cầu Ông Lãnh còn có một ngôi chợ nhỏ gọi là chợ
Cầu Muối, chuyên bán cá tươi, tôm, cua… cũng do các ghe chài mang lên.
Tuy nhiên, người ta vẫn hay gọi chung khu này là chợ Cầu Ông Lãnh, vì
hai ngôi chợ sát nhau, cùng gần một nơi có cây cầu mang tên Ông Lãnh.
Lý do có cái tên này vì nơi đây có con rạch (nói là rạch chứ khi
trước ghe thuyền đi lại ra cửa sông lớn rất rộng). Từ cuối đường Nguyễn
Thái Học khi muốn qua bến Vân Đồn, khu Khánh Hội, Q.4, người ta phải
dùng ghe mới sang được. Lúc đó có một ông Lãnh hảo ý đã bỏ tiền ra làm
một cây cầu gỗ để dân chúng đi lại cho thuận tiện. Sau này, đến năm
1929, người Pháp cho xây dựng lại cây cầu bằng xi măng dài 120 m, do một
hãng làm cầu của Pháp thiết kế. Đến nay, cây cầu đã gần một thế kỷ nên
bị hư hỏng và đã được xây dựng lại.
Nhiều người thắc mắc: Ông lãnh ở đây là ông lãnh binh hay lãnh sự?
Vì ở gần rạch này phía Chợ Lớn cũng có dinh của một viên lãnh sự VN là
ông Nguyễn Thành Ý ở. Phải chăng cây cầu được dựng lên do một nhân vật
tên tuổi tại địa phương nên người ta gọi là Cầu Ông Lãnh? Hay ông lãnh
sự Thành Ý lúc đó cũng có hảo tâm đã góp tiền dựng nên cầu này cho dân
chúng đi?
Cuối cùng, giả thuyết thứ hai nói tiền xây dựng cây cầu này là do
một lãnh binh bỏ tiền ra nên người địa phương nhớ công ơn đặt cho tên
cầu là cầu “Ông Lãnh” là thuyết phục hơn cả. Nhưng tên thật của “Cầu Ông
Lãnh” này là gì thì không có sách báo nào từ xưa tới nay ghi lại. Người
viết bài này phải tìm tới đình Nhơn Hòa, Q.1 thăm hỏi thì vị trụ trì
cao niên ở đây cho biết: “Đình Nhơn Hòa đã được xây dựng hơn 150 năm,
vào khoảng thế kỷ 19 và đã được sắc phong vào năm Tự Đức thứ 5 (1852).
Đình được xây dựng theo lối kiến trúc xưa, có chính diện, võ ca, nhà túc
mang sắc thái của một ngôi đình làng cổ đang thờ ba vị thần: Thành
hoàng bổn cảnh (thần làng), thần Trần Triều hiển thánh, tức Linh vị đức
Trần Hưng Đạo và thờ lãnh binh Nguyễn Ngọc Thăng (một vị tướng của triều
Nguyễn, trấn giữ đồn Thủ Thiêm - Cây Mai, chống lại quân Pháp khi chúng
tấn công thành Gia Định)... Năm 1885, học giả Trương Vĩnh Ký có viết:
“Chiếc cầu gỗ do ông lãnh binh gần đó cho bắc qua, chắc là ông lãnh Binh
Thăng này chứ không phải ai khác”.
Vậy, ông lãnh binh Nguyễn Ngọc Thăng có lẽ chính là nhân vật đã
được người dân đặt tên cho cây cầu cùng ngôi chợ cũ nổi tiếng và được
thờ trang trọng ở đình Nhơn Hòa để ghi ơn. Hiện nay tên ông Lãnh Binh
Thăng còn được đặt cho một con đường ở Q.11, TP.HCM.
Ngôi chợ trời đầu tiên tại Sài Gòn
Người Việt ta vốn dễ dãi khi đặt tên, từ tên nhân vật thành tên địa
phương như một ngã ba ở khu Chí Hòa, có một ông tên là Tạ. Ông này làm
nghề bốc thuốc, hiệu thuốc của ông đặt ở ngã ba nên mấy chục năm qua,
tên ngã ba Ông Tạ được nhiều người biết đến dù trong giấy tờ hành chính
không ghi. Địa danh Gò Vấp cũng vậy. Từ gần một thế kỷ qua, ở khu vực
này có một cái gò nhiều cây vắp lớn, một loại danh mộc nên người địa
phương kêu là Gò Vắp, đọc trại lâu ngày trở thành Gò Vấp. Cứ như thế,
nhiều địa danh Sài Gòn xưa được dân gian hóa, như tên các ngôi chợ trời
dưới đây.
Nếu miền Bắc có chợ trời đầu tiên ở núi Sài Sơn, tỉnh Sơn Tây, thì
miền Nam cũng có chợ đầu tiên ở đất Bến Nghé. Ngôi chợ này người dân
quen gọi là chợ Chồm hổm hay chợ Lộ thiên, nằm trên một bãi đất trống
gần dinh thành Ô-ma của Pháp. Ngày xưa chợ này họp vào buổi sáng, người
cắp bửng, thúng, rau, thịt, hoa quả tới bán và không dựng quán, tủ, sập.
Người mua kẻ bán cũng chỉ là những người dân địa phương và có tên gọi
rất lạ: chợ “Cây da thằng mọi”. Trong tập Cổ Gia Định vịnh có ghi rõ:
“Cây da thằng mọi, coi bán đủ thuốc xiêm cau mứt. Cái cầu Cao Miên thấy
làm nguyên cột vắp ván chai”.
Xin đừng vội suy đoán nơi đây có người mọi làm nên ngôi chợ hay một
người mọi coi chợ. Mọi là danh từ người Tây phương gọi những dân tộc ít
người ở miền núi. Nguyên do là chỗ chợ có một cây đa to lớn, tán lá sum
suê, và ở chợ này có bán một thứ đồ dùng trong nhà mà ở chợ khác không
có là một loại đèn thắp bằng dầu đậu phộng hoặc dầu dừa, làm bằng đất
nung. Kiểu đèn nắn hình một người hai chân quỳ và hai tay chắp lại, trên
đỉnh đầu thì đội thếp dầu (lúc đó người ta cứ gọi chung là người mọi).
Ngôi chợ trời đầu tiên “Cây da thằng mọi” sau này được xây dựng lại
và có tên mới, rất ý nghĩa là chợ Thái Bình (nằm góc Nguyễn Trãi - Cống
Quỳnh, Q.1, TP.HCM).
gian này phát sinh vài ba ngôi chợ mang tên của các bà nữa. Riêng
quận Bình Thạnh, ngoài chợ Bà Chiểu có thêm chợ Bà Nghè mà người dân vẫn
thường gọi Thị Nghè. Chợ có mặt tiền hướng ra con rạch cùng tên. Và bà
Nghè cùng dân chúng địa phương quyên góp tiền của làm cây cầu gỗ cho
người dân thuận tiện qua lại tạo nên hình ảnh của một ngôi chợ trên bến
dưới thuyền để lại dấu ấn trong lòng người cố cựu.
Nhớ hồi thời trai trẻ đam mê môn thể thao bơi lội, tôi thường xuyên
luyện tập tại Câu lạc bộ bơi lội Yết Kiêu mỗi ngày. Cứ mỗi lần cùng với
thằng bạn thao tập khoảng cách dài là nó rủ tôi về nhà gần chợ Thị Nghè
ăn uống bồi bổ sau một ngày tiêu hao sức lực. Cha mẹ thằng bạn rất vui
tính, ngày trước cả hai làm nghề giáo. Ông già thỉnh thoảng viết bài
biên khảo cho tạp chí Quê Hương của trường Ðại học Luật khoa chủ trương
xuất bản. Sau năm 1975 hai ông bà tiếp tục đứng trên bục giảng, tiền bạc
từ nghề dạy học thời đó chẳng là bao nhưng chắt chiu nấu ăn đầy đủ chất
chăm chút cho thằng con thích môn thể thao mà ông già hồi còn thanh
niên đam mê không kém.
Ông già kể chuyện: “Hồi thời Pháp, Sài Gòn chỉ có mỗi Câu lạc bộ
Cercle Sportif Saigonnais sát bên Vườn Ông Thượng (Tao Ðàn) dành cho
công chức người Pháp. Mãi cho đến thời VNCH thì mới có hồ bơi An Ðông ở
Chợ Lớn và Yết Kiêu cạnh Sở Thú giáp ranh Quận 1 và Quận Bình Thạnh. Lúc
còn thiếu niên, bác mê bơi lội nên mỗi chiều đợi nước lớn rủ đám bạn
trong xóm ra cầu dẫn vào Vườn Bách Thảo (sau 1956 mới gọi là Sở Thú)
nhảy xuống tắm sông, bơi qua bơi lại rạch Thị Nghè cả chục bận mà không
biết mệt. Cái cầu đó sau này chính quyền Ðô thành thời Việt Nam Cộng Hòa
(VNCH) cho làm lưới sắt ngăn lại ở giữa không cho người sống bên Thị
Nghè qua lại Sài Gòn như ngày trước” (ngày nay là cầu Nguyễn Hữu Cảnh).
Nghe chuyện kể của cha người bạn, tôi mường tượng ra con rạch Thị
Nghè ngày xưa nước trong xanh chứ đâu phải giống như khoảng thời gian
của thế hệ chúng tôi dòng nước chuyển màu đen xỉn, sình bùn thấy sợ. “Hồi đó, nước ròng còn thấy sạch huống chi nước lớn. Nước lớn lòng rạch nở rộng xanh trong”. Trong bài phú Gia Ðịnh phong cảnh vịnh miêu tả thế này: “Coi ngoài rạch Bà Nghè / Dòng trắng hây hây tờ quyến trải / Ngó lên Giồng Ông Tố / Cây xanh mù mịt lá chàm rai”.
Theo sách sử biên khảo của Trịnh Hoài Ðức, rạch Thị Nghè xuất hiện từ
cuối thế kỷ 18, trước đó người Cao Miên cư trú ở vùng đất này gọi tên
con rạch là Prêk Kompon Lư, người Việt di dân vào Gia Ðịnh kêu là Nghi
Giang, rồi sau gọi là rạch Bình Trị theo cái tên làng thời khai hoang
lập ấp hình thành tổng Bình Trị thuộc phủ Tân Bình. Bà Nguyễn Thị Khánh,
trưởng nữ của quan Khâm sai Chánh thống Vân Trương Hầu Nguyễn Cửu Vân
kêu gọi dân chúng trong vùng cùng nhau quyên góp tiền bạc bắc cầu qua
con rạch để tiện việc đi lại làm ăn mua bán cho mọi người mà trong đó có
phu quân của bà mỗi ngày phải đi ghe vào thành Phiên An làm việc thật
là bất tiện. Cây cầu gỗ hình thành khoảng năm 1837. Sau đó mảnh đất bên
cầu tự nhiên tập trung người dân buôn bán hình thành nên cái chợ. Người
dân địa phương ghi nhớ công lao của bà nên gọi tên Cầu Bà Nghè, con rạch
Bình Trị là rạch Bà Nghè và ngôi chợ trên bến dưới thuyền không do bà
lập nhưng vẫn được mang tên Chợ Bà Nghè.
Cha người bạn nhận xét: Chắc thuở xa xưa đó, người dân tôn trọng danh
xưng nên gọi là Bà Nghè, chứ từ thuở đời cha của bác (đầu thế kỷ 20) đã
nghe cái tên Rạch Thị Nghè, Chợ Thị Nghè. Chỉ có tên con rạch trên bản
đồ hành chánh do người Pháp thiết lập gọi là Avalanche. Chắc người Pháp
xem Sài Gòn là Paris thứ hai của nước Pháp nên cứ đặt tên đường, sông,
rạch theo tên Pháp bất kể người Việt có biết đọc tiếng Pháp hay không.
Avalanche nguyên là tên của con tàu chiến của Pháp tiến vào sông Sài
Gòn, đi sâu vào rạch Thị Nghè thám thính một ngày trước khi đại quân
Pháp đánh chiếm thành Gia Ðịnh.
Con rạch Thị Nghè chạy ôm trọn một vòng cung phía Tây Bắc thành phố
Sài Gòn được mở rộng sau này ăn thông với kênh Nhiêu Lộc. Kể từ đầu thập
niên 1950, dân chúng khắp nơi kéo về Sài Gòn sinh sống dọc theo bờ
kênh, lấn chiếm ra giữa dòng kênh tạo thành một khu gia cư nhà sàn nhếch
nhác. Vệ sinh yếu kém, xả thải trực tiếp xuống dòng kênh gây nên tình
trạng ô nhiễm dòng nước. Phía hạ lưu rạch Thị Nghè tương đối ít ô nhiễm
hơn nhưng do ngôi chợ Thị Nghè nằm sát rạch, rác rến mỗi ngày dọn dẹp
chất chứa một bãi ngay bên bờ. Ghe thương hồ chở hàng từ Ðồng Nai, Lục
Tỉnh đổ về năm ba bữa mới nhổ sào cho nên vệ sinh môi trường sống ngay
khu chợ càng ngày càng trở nên tệ hại. Bao nhiêu năm trôi qua, tình
trạng sống của cư dân hai bên bờ rạch Nhiêu Lộc – Thị Nghè càng trở nên
tồi tệ làm xấu cảnh quan đô thị. Mãi đến gần đây, nhà cửa bát nháo trên
con rạch này được giải toả trả lại dòng rạch thông thương, bộ mặt hai bờ
rạch trở thành đường Trường Sa và Hoàng Sa phủ bóng cây xanh, vườn hoa
xinh tươi trải dọc theo bờ nước.
Mọi thứ đều phải thay đổi, cũng như ngôi nhà lục giác cột gạch tô xi
măng, mái ngói ba tầng trước Chợ Thị Nghè. Ðây là một công trình trang
trí khá chắc chắn mang hình dáng rất thôn quê dựng lên trước mặt tiền
chợ. Từ lúc cha người bạn còn là một cậu bé thì đã thấy nhà lục giác
này. Nhà kiểu thuỷ tạ không nằm trên mặt nước lại nằm trên bờ không biết
để làm gì mà chỉ thấy mấy bà bán buôn cá sống, các bà gánh nước thuê và
mấy ông thợ cạo đặt ghế bàn hớt tóc. Vào khoảng cuối thập niên 1960,
nhà tròn này bị dỡ bỏ xây lại thành nhà lồng bán cá mắm.
Nhớ có lần ông kể chuyện xưa cho chúng tôi nghe. Hồi đó đâu khoảng
giữa thập niên 1940, tổng Bình Trị còn là những làng thuần nông, dân
chúng làm lúa mỗi năm 2 mùa. Một số nhà dân quanh chợ thì trồng rau màu
chứ ít mở tiệm bán buôn chung quanh như mấy ngôi chợ khác ở Sài Gòn-Chợ
Lớn. Vùng Thị Nghè này còn nét thôn quê, gìn giữ phong tục cúng bái cho
thôn làng bình yên được mùa no ấm. Mỗi năm tổng Bình Trị đều tổ chức lễ
cúng gọi là Kỳ Yên sau ngày Tết nhất hay cúng miễu vào tháng Tám. Ðám
rước quần áo ngũ sắc, cờ lọng trống chầu, xếp hai hàng đi trước, chức
sắc hương làng áo dài khăn đóng dẫn đoàn dân chúng mặc quần lãnh áo hoa,
đầu đội mâm xôi, gà cúng, hương hoa bánh trái nối đuôi theo sau. Ðám
rước khởi đầu từ ngôi chùa cổ Văn Thánh miếu cách đó không xa, tế lễ các
bậc Thành hoàng rồi đi ngang qua Chợ Thị Nghè dừng lại trước ngôi nhà
lục giác bày sẵn hương án, tế lễ cúng Bà Nghè và các bậc tiền hiền khai
canh cho vùng đất Bình Trị để dân làng được ấm no hạnh phúc.
Theo tôi được biết, hiện nay không ít làng xã nông thôn các tỉnh vẫn
còn duy trì việc cúng bái tiền hiền mỗi năm trong mùa lễ Kỳ Yên. Có một
lần tôi về Cù lao Giêng (An Giang) tìm tài liệu về Tu viện dòng Chúa
Quan Phòng có trên trăm tuổi xây dựng từ thời Pháp, sẵn dịp dự lễ Kỳ Yên
của cư dân sống trên vùng đất cù lao. Một lễ hội với nhiều hình ảnh đẹp
tôi còn nhớ đến giờ. Chẳng thế mà cha của người bạn từng ghi vào ký ức
hình ảnh xưa đẹp đẽ đó để có dịp nhắc lại cho con cháu nghe.
Chợ Thị Nghè được xây cùng thời gian với Chợ Gò Vấp, Chợ Hóc Môn vào
khoảng cuối thập niên 1920. Hình thức là một nhà lồng dài, kiểu cách
thuần Việt, bốn phía đều trống không dựng sạp. Về sau từ thời VNCH, chợ
bắt đầu che chắn các sạp mặt tiền chung quanh. Bãi xe chở hàng bên hông
chợ cũng được di dời. Khu bán trái cây, rau cải mở rộng dọc theo bến
sông do dân chúng kéo về định cư ngày càng đông làm tăng nhu cầu buôn
bán ở chợ. Ghe thuyền khắp nơi vẫn tụ tập trên bến sông xưa tạo nên một
hình ảnh trên bến dưới thuyền của một vùng đất Bình Thạnh sống thuần
bằng nghề nông, chăn nuôi và trồng trọt hoa màu. Nhưng ngôi chợ Thị Nghè
mang hình ảnh thôn quê ngày xưa đã thay đổi nhiều khoác lên mình một
diện mạo mới.
Trước năm 1975, nhân vật Đội Có được người dân Sài Gòn - Gia Định
nhắc đến nhiều. Trong giới thương mại ngân hàng, xuất nhập cảng ai cũng
biết ông Đội Có là một tỉ phú hào hoa, có tiếng ăn chơi.
Trước năm 1975, nhân vật Đội Có được người dân Sài Gòn - Gia Định
nhắc đến nhiều. Trong giới thương mại ngân hàng, xuất nhập cảng ai cũng
biết ông Đội Có là một tỉ phú hào hoa, có tiếng ăn chơi.
Chợ Phú Nhuận, nơi “khởi nghiệp” của tỉ phú Sài Gòn Đội Có - Ảnh: Quỳnh Trân
Đội Có tên thật là Nguyễn Văn Có. Trước năm 1940, ông làm mã tà
(cảnh sát) ở bót Tân Bình thuộc xã Phú Nhuận. Theo tài liệu ghi chép,
trong thời gian đương chức ông Có đi bố ráp một vụ đánh bạc và bị du côn
ở rừng cao su xông ra chém vào bả vai nên tên cò Tây đền công lao bằng
cách cho ông lên chức đội. Sau đó Đội Có về coi trật tự ở khu chợ Phú
Nhuận. Chợ này hình thành từ thế kỷ 19, ban đầu có tên “chợ Mới”, để lộ
thiên, không có nhà lồng và mái che. Sau này ông Lê Tự Tài là xã trưởng
Phú Nhuận quyên góp tiền của bà con bán hàng trong chợ mua vật liệu,
dựng sườn tre lợp lá, mấy năm sau thay bằng cột gỗ và mái ngói. Để nhớ
công, dân Phú Nhuận gọi là “chợ Xã Tài” - cũng là một trong các ngôi chợ
lâu đời nhất ở Sài Gòn.
Nhà cửa hết một con hẻm
Qua đầu thế kỷ 20 người ta cho xây mặt tiền chợ nhà lồng và đắp chữ
nổi “Marché de Xã Tài”, sau đó thay bằng chữ “Marché de Phú Nhuận” và
cũng thời gian này Đội Có về coi trật tự tại đây. Hiện nay còn lác đác
chục nhà bên hông chợ; những nhà mái thấp, có vòm tròn, cửa bán nguyệt
có từ năm 1937, trong đó có những căn phố trệt của Đội Có mua lúc về coi
chợ Phú Nhuận.
Đội Có nổi tiếng dữ dằn, bà con buôn bán trong chợ ai cũng sợ vì
ông hay đá thúng, xô đổ hàng hóa bày choán lối đi. Việc thu tiền trả
góp, tiền hụi các chủ cho vay nợ đều giao cho thầy Đội Có, vì với thầy
Đội thì không ai dám trễ, quỵt. Nếu chạy làng thì thầy lôi ngay về nhốt ở
bót Tân Bình nên người ta sợ… vãi đái.
Đội Có là người có óc kinh doanh, khi tích cóp được kha khá, thấy
khu chợ Phú Nhuận tương lai phát triển, nhìn khu vực đất sình lầy còn
trống nên ông bỏ tiền ra mua với giá rẻ mạt rồi cho lấy đất làm nhà gạch
bán và cho thuê. Những dãy nhà phố của Đội Có thời đó từ chân cầu Kiệu
tới chợ là khu thương mại hoành tráng. Vì vậy sau này dân địa phương mới
gọi một con hẻm ở đây, với toàn nhà của ông, là hẻm Đội Có và được
chính quyền Pháp công nhận, bây giờ là đường Cô Giang (Q.Phú Nhuận,
TP.HCM).
Tỉ phú ngân hàng
Bạc đẻ ra bạc, chẳng mấy chốc Đội Có tậu thêm miếng đất khá rộng ở
mặt đường Võ Di Nguy (nay là Phan Đình Phùng) mở rạp hát mang tên Cẩm
Vân nhưng dân địa phương quen gọi là rạp Đội Có. Rạp chuyên cho mướn làm
chỗ hát bội, cải lương và chiếu bóng, sau này ông sử dụng khu nền nhà
hát này xây cất dãy phố cho thuê buôn bán.
Đội Có còn mua mấy chục chiếc xe đò mang tên Bửu Hiệp chạy tuyến
Sài Gòn - Đà Lạt. Tại thành phố mờ sương, Đội Có mua đất trồng hoa đưa
về Sài Gòn bán. Có tiền, ông mua hàng chục biệt thự ở Đà Lạt cho khách
du lịch thuê. Ông còn nghĩ cách đem chó bẹc giê Tây Đức về nuôi sinh con
giống bán cho ngoại kiều và nhà giàu nuôi để canh nhà. Thừa thắng, Đội
Có mua căn biệt thự số 86 Yên Đổ (nay là Lý Chính Thắng) dùng làm ga ra
sửa xe hơi. Khách vào ra nườm nượp như “thần Tài gõ cửa”. Vậy mà thấy
chưa đủ, ông quay sang nghề nuôi ngựa đua. Đội Có cho người đi khắp ba
kỳ trong xứ Đông Dương tìm chọn mua những con ngựa giống tốt về nuôi.
Chuồng của Đội Có thời đó lúc nào cũng có trên 10 con ngựa để đem ra
trường đua mỗi chủ nhật. Việc nuôi ngựa của ông hốt bạc triệu thời 1940 -
1945. Thấy việc nuôi ngựa đua phát đạt nên Đội Có đã ra tận ngoài Bắc
Hà rước nài nổi danh Ba Tuấn, trả lương hậu hĩnh và tiền thưởng xứng
đáng. Ít lâu sau Ba Tuấn “bán độ”, Đội Có nóng giận gọi người bán hết
chuồng ngựa, quay về kinh doanh rạp hát.
Lúc này Đội Có sung túc, có xe hơi riêng. Ông to béo, để râu quai
nón, đội mũ phớt, tay cầm ba toong, miệng ngậm ống vố (píp) oai vệ. Tuy
tuổi đã tứ tuần nhưng ông vẫn được nhiều đào hát ngấp nghé vì vừa “tướng
tốt” lại lắm bạc. Đội Có cưới một cô đào hát khá nổi danh của đất Sài
Gòn làm vợ. Sau này ông xây nhiều ngôi nhà cao tầng (chung cư) cho ngoại
kiều thuê. Đội Có còn cùng ông Nguyễn Tấn Đời mở Tín Nghĩa ngân hàng
với số tiền ký thác của khách hàng gửi có lúc lên tới 20 tỉ bạc.
Năm 1978 Đội Có xuất cảnh sang Pháp thăm con trai, sau đó ông sang
Mỹ ở với người con gái. Vì tin tưởng nên ông đã ký thác hàng triệu đô
la đứng tên con để tậu nhiều biệt thự tại Mỹ cho thuê. Ngôi nhà mà Đội
Có đang ở thì con gái ông đã cho người hầu gái Mỹ da đen đứng tên hộ và
tin cậy trao tay hòm chìa khóa. Nhưng bất ngờ cô con gái của Đội Có chết
đột ngột không kịp trăn trối gì nên chỉ ít lâu sau ông Đội Có bị người
hầu kia đuổi ra khỏi ngôi biệt thự. Vì buồn cảnh con chết, biệt thự đang
ở đoạt mất nên một thời gian ngắn sau khi con gái mất, ông Đội Có cũng
đứt mạch máu, qua đời tại Mỹ.
Cuốn sách tái hiện hồn cũ dấu xưa của Sài Gòn
12:00 27/07/2017
Tiếp nối trong dòng chảy những cuốn sách về Sài Gòn xưa xuất
hiện gần đây trên thị trường, tác giả Nguyễn Ngọc Hà góp thêm vào mạch
cảm xúc đó tập tản văn “Sài Gòn thương và nhớ".
Thời gian trôi qua, phủ lên ký ức những lớp bụi mờ. Có người quên, có
người nhớ. Dù vậy, nhiều kỷ niệm nhiều câu chuyện vẫn nằm đâu đó tận
trong thẳm sâu tâm hồn mỗi người; để mỗi lần có dịp nhớ về lại bồi hồi,
bâng khuâng.
Vốn là một người sinh ra và lớn lên ở Sài Gòn, trải qua biết bao biến
cố thăng trầm của gia đình, của thời cuộc - chính điều này đã tạo nên
sự giàu có trong ký ức của tác giả Nguyễn Ngọc Hà. Những ký ức đó, không
còn nằm yên mà “thức dậy” trên từng trang viết, sống động như vừa mới
hôm qua.
52 bài tản văn cùng rất nhiều tư liệu hình ảnh trong cuốn sách Sài Gòn thương và nhớ xoay
quanh những ấn tượng và kỷ niệm về Sài Gòn - từ những món ăn, thức
uống, quán cóc, chợ búa, đến những công viên, trường học, di tích lịch
sử và văn hóa… Tất cả được khởi đi từ nỗi nhớ niềm thương của một người,
bây giờ trở thành nỗi niềm chung với những ai đã và đang ở Sài Gòn;
nhất là những người từng gắn bó với Sài Gòn trước kia.
Như một hành trình ngược về quá khứ, đến với Sài Gòn thương và nhớ bạn
đọc một lần nữa được quay về thập niên 70 của thế kỷ 20 rồi cùng chậm
rãi bước lên chiếc xe thổ mộ, được “ngồi trên sàn xe bằng gỗ bóng mượt,
rồi đong đưa chân theo nhịp đi của con ngựa”; được “lưu luyến cảm giác
“lắc cùng nhịp đi với bước chân ngựa” của xe thổ mộ” (Chiếc xe thổ mộ).
Hành trình đó vẫn chưa dừng lại mà tiếp tục rong ruổi trên những con
phố của Sài Gòn. Theo bước chân tác giả, người đọc lần lượt đi qua những
nơi chốn, cũng chính là tên các bài viết trong sách: Chợ Nacy, Công
viên Chi Lăng, Nhà mồ Trương Vĩnh Ký, Nhà hàng Brodard, Nhà thờ Huyện
Sỹ… Trải qua thời gian, những địa danh này ít nhiều đã có sự thay đổi,
thậm chí không còn nữa. Tuy vậy, những câu chữ của tác giả Nguyễn Ngọc
Hà vẫn khiến người đọc bồi hồi.
Vẫn trên hành trình đó, bạn đọc lại có cơ hội thưởng thức những món
ăn thức uống mà bây giờ, dù nhiều bạc tiền đến mấy cũng khó để tìm mua,
như bánh pá chạng, bánh pẻng, xí muội cán dẹp…
Cũng có khi đó là món ăn quen thuộc, giản đơn như ổ bánh mì thôi, vậy
mà qua ngòi bút của tác giả Nguyễn Ngọc Hà, người đọc không khỏi thổn
thức: “Cầm ổ bánh nóng giòn trong hai bàn tay và đưa lên miệng cắn.
Miếng bánh ngập giữa hai hàm răng, bột thơm ngọt hòa với vị bùi bùi của
patê, chả, thịt, jambon, vị beo béo của sốt, vị gay gay của hành, ngò,
cảm giác man mát của dưa leo, chua chua của cà chua, đồ chua và cay xè
của ớt... thêm vào âm thanh giòn rụm của bánh mì. Chao ôi, tuyệt vời!” (Bánh mì Sài Gòn).
Tập sách Sài Gòn thương và nhớ của tác giả Nguyễn Ngọc Hà.
Với Sài Gòn thương và nhớ, tác giả Nguyễn Ngọc Hà còn đưa
bạn đọc về với cuộc sống và nền nếp sinh hoạt của Sài Gòn xưa. Cuộc sống
ấy bình dị, có thiếu thốn, lam lũ nhưng luôn an vui và ấm áp trong tình
người nhân ái. Sự ấm áp ấy đến từ những người bán hàng rong ngày ngày
vất vả mưu sinh; từ sự thương yêu, đùm bọc giữa các thành viên trong gia
đình dành cho nhau.
Những bài viết của tác giả Nguyễn Ngọc Hà thiên về cảm xúc cá nhân,
không phải là một cuốn sách mang tính khảo cứu về Sài Gòn xưa. Hầu hết,
các bài viết có điểm chung giống nhau khi cùng nhìn về quá khứ với niềm
rung cảm lắng sâu. Tình cảm ấy vẫn còn nóng hổi.
Ở đó, có những buồn vui, những tinh nghịch thơ trẻ; thậm chí tác giả
không ngần ngại chia sẻ cả những tính xấu của bản thân. Chính điều này,
đã tạo nên sự gắn bó và thiết thân giữa tác giả và bạn đọc. Không còn
khoảng cách, tác giả Nguyễn Ngọc Hà giống như đang thủ thỉ tâm tình cùng
bạn đọc về hồi ức vàng son vẫn luôn nằm trang trọng trong một góc nhỏ
của trái tim.
Đọc Sài Gòn thương và nhớ, Giáo sư Huỳnh Như Phương đánh
giá: “Nguyễn Ngọc Hà là một trường hợp đặc biệt: chị sinh trưởng, đi
học, dạy học ở đây, cuộc đời chẳng mấy ngày xa thành phố, có thể tự hào
là 'dân Sài Gòn chính hiệu'. Người đọc có cảm tưởng như ngả đường nào
của thành phố cũng có dấu chân của chị; quán ăn nào, tiệm cà phê nào chị
cũng từng ghé qua; hiệu sách nào, cửa hàng nào chị cũng có lần bước
vào.
Thành ra, chị có cả một kho chuyện về Sài Gòn để kể, không phải
chuyện lịch sử xã hội lớn lao mà là chuyện đời riêng, bình thường, dung
dị của một người gắn bó với thành phố này như một người dân thuần lương,
mặc cho vật đổi sao dời, vẫn tìm nguồn vui sống nơi từng bóng cây, góc
phố.”
Trịnh Dung
Ba lý giải về tên gọi Sài Gòn
Thị trấn giữa rừng, Vùng đất ăn nên làm ra, Cống
phẩm của phía Tây... là những cách lý giải của học giả về tên gọi thành
phố hơn 300 tuổi.
Từ đầu thế kỷ XX người Pháp đã nỗ lực tìm hiểu nguồn gốc của địa danh
Sài Gòn - thành phố mà họ muốn biến thành “Hòn Ngọc Viễn Đông”. Nhưng
cái tên dung dị, thân quen ấy kể cả người Việt cũng đều không rõ nghĩa.
Sau hơn 300 năm hình thành, phát triển, nhiều thế hệ học giả vẫn chưa thống nhất về nguồn gốc tên gọi này. Trong rất nhiều công trình nghiên cứu, Sài Gòn có 3 cách lý giải được đánh giá cao nhất.
Tàu bè ra vào sông Sài Gòn thế kỷ 19, thành phố còn hoang vu, nhiều rừng rậm. Ảnh: Flickr
Thị trấn giữa rừng
Căn cứ vào từ “Sài” nghĩa “củi” và “Gòn” tức “cây bông gòn”, quyển Ðại Nam Quốc Âm Tự Vị của ông Huỳnh Tịnh Của cho nghĩa của Sài Gòn là “củi gòn”.
Dựa theo thông tin này, học giả Trương Vĩnh Ký nói rằng tên gọi
Sài Gòn được phiên âm từ “Prei Nokor” của người Khmer. Giả thuyết này
được ông Ký đưa ra trong giáo trình “Địa lý Nam Kỳ” của
mình. Một loạt cách gọi tương tự về địa danh Việt - Miên ở Nam Kỳ phiên
âm giống vậy như Cần Giờ là từ “Kanco”, Cần Giuộc là “Kantuộc”, Gò Vấp
là “Kompăp”…
“Prei” theo tiếng Khmer nghĩa là “rừng”, còn “Nokor” là “thị trấn”. Như
vậy “Prei Nokor” nghĩa là một “thị trấn ở trong rừng”. Nghĩa rộng hơn
theo Phạn tự là "lâm quốc". Vùng này trước đây là đại bản doanh của một
Phó vương nước Chân Lạp cũ.
Dần dần, người dân đọc trại từ “Prei” thành “Rai” rồi thành “Sài”. Từ “Nokor” đọc lướt thành “Kor” và từ “Kor” thành ra “Gòn”.
Căn cứ của lý giải này dựa vào việc Prei Nokor xưa kia là rừng rậm
có nhiều cây gòn được dân cư sử dụng làm củi. Học giả Trương Vĩnh Ký kể lại rằng, người Khmer xưa có trồng cây gòn chung quanh đồn Cây Mai. Chính ông còn thấy vài gốc cổ thụ tại đó năm 1885.
Sau Trương Vĩnh Ký, đốc phủ Lê Văn
Phát đồng tình lý giải này. Ông cho rằng, không chỉ người Khmer mà người
Lào cũng gọi vùng này là "rừng cây gòn" thông qua từ Cai Ngon. Vốn dĩ
ngôn ngữ Lào giống tiếng Thái nên Cai Ngon có nghĩa là Rừng Chỗi Cây
Gòn.
Tuy nhiên giả thuyết này bị cho là không có căn cứ, vì qua thời
gian, không ai tìm ra được dấu tích của một “khu rừng có nhiều cây gòn”
tại Prei Nokor cả, mà đó chỉ là suy đoán.
Trung tâm của Sài Gòn xưa. Ảnh: Flickr
Vùng đất ăn nên làm ra
Học giả - nhà văn Vương Hồng Sển cho rằng không thể dựa vào ngữ nghĩa hai từ “Sài Gòn” hay “Prei Nokor” để phân tích. Trong
cuốn “Sài Gòn năm xưa”, cụ Vương đã dày công tra cứu hàng loạt sách báo
Pháp lẫn Việt. Ngoài ra, ông đi thu thập dữ liệu từ dân gian nên rút ra
cách lý giải khác.
Theo Vương Hồng Sển, khi người Hoa rời Cù lao Phố (Biên Hòa) vào
năm 1773, đã tụ về vùng đất mới Chợ Lớn ngày nay. Họ nhận ra đây là nơi
“ăn nên làm ra” cần được củng cố cho thật bền vững. Người Hoa cho đắp
thêm bờ kinh cao ráo và kiên cố hơn, và gọi vùng đất này là “Tai-Ngon”
hay “Tin-Gan” mà theo Hán Việt là Đề Ngạn.
Đề Ngạn phát âm theo giọng Quảng Đông nghe ra là “Thầy Ngồn” hay “Thì
Ngòn”. Và đó chính là âm để gọi vùng đất Chợ Lớn thời ấy. Theo thuyết
này của cụ Vương thì âm “Sài Gòn” là từ “Thầy Ngồn”, “Thì Ngòn” mà ra.
Tuy nhiên theo Phủ Biên Tạp Lục của Lê Qúy Đôn viết năm 1776 có dữ
kiện “năm 1674 Thống suất Nguyễn Dương Lâm vâng lệnh chúa Nguyễn đánh
Cao Miên và phá vỡ lũy Sài Gòn”… Đây cũng là lần đầu tiên hai từ “Sài
Gòn” xuất hiện trong tài liệu Việt Nam. Điều này chứng tỏ từ "Sài Gòn"
có trước thời điểm người Hoa đến Chợ Lớn nên cách lý giải của Vương Hồng
Sến không thuyết phục.
Sài Gòn ngày nay sau hơn 300 năm phát triển. Ảnh: Trần Bảo Hòa
Cống phẩm của phía tây
Còn học giả người Pháp Louis Malleret cho rằng
Sài Gòn có nguồn gốc từ tiếng "Tây ngòn" - nghĩa là cống phẩm của phía
tây (Tây Cống). Tiếng "Tây ngòn" phát âm theo giọng người Hoa thành Sài
Gòn.
Sở dĩ ông Malleret theo thuyết này vì
dựa vào dữ kiện lịch sử do Trịnh Hoài Ðức chép lại. Khi Campuchia bị
phân ra cho hai nhà nước thì cả hai vua đều nạp cống phẩm cho chúa
Nguyễn ở Prei Nokor.
Về lý giải này của học giả người Pháp,
ông Vương Hồng Sển lại cho rằng "Tây Cống" chỉ được người Hoa dùng sau
này. Ngày trước vùng Chợ Lớn được gọi là Sài Gòn nhưng khi người Pháp
chiếm các tỉnh Đông Nam bộ đã gọi vùng Bến Nghé là Sài Gòn vì tên Bến
Nghé quá khó đọc với họ.
Nguồn gốc tên gọi Sài Gòn sẽ còn nhiều tranh luận nhưng nhiều học
giả nhận xét, việc không rõ thực hư như vậy càng khiến Sài Gòn hơn 300
năm càng thêm huyền bí, hấp dẫn, khơi gợi sự tò mò khi muốn tìm hiểu.
Tên gọi Sài Gòn dù nguồn gốc như thế nào thì tính cách người Sài
Gòn vẫn không đổi khác, vẫn là "Anh Hai Nam bộ", đi trước đón đầu trong
nhiều lĩnh vực. Sài Gòn - TP HCM đang chuyển mình phát triển để lấy lại
danh xưng một thời "Hòn ngọc Viễn Đông", là đầu tàu cả nước trong nhiều
lĩnh vực.
Nếu
lấy các quy tắc đặt địa danh của các cụ ngày xưa làm tiêu chuẩn để suy
luận thì ta thấy ngay các thuyết trên đây về nguồn gốc và ý nghĩa của
Sàigòn không ổn.
Tên gọi vùng đất có lịch sử hơn 300
năm như một câu đố thách thức các nhà nghiên cứu và những ai yêu mến Sài
Gòn lâu nay. Tập hợp từ nhiều nguồn tư liệu khác nhau, nhà nghiên cứu
Nguyễn Ngọc Huy đã có loạt bài viết xuất xứ, ý nghĩa tên gọi Sài Gòn,
vốn có nhiều quan điểm khác nhau. Tạp chí Khám phá trân trọng gửi tới
bạn đọc loạt bài nhiều thông tin thú vị này.
Các cụ có thể dịch nghĩa một địa danh Khmer đã có. Thí dụ như tên Bến
Nghé phát xuất từ tiếng Khmer Kompong Krabei có nghĩa la Vũng Trâu.
Theo sử Khmer mà ông Malleret viện dẫn thì ngoài Prei Nokor, vua
Campuchia còn cho chúa Nguyễn đạt sở thuế ở Kas Krobey. Chữ Krobey rất
gần Krabei, và có thể Kas Krobey với Kompong Krobei cũng là một và có
nghĩa là Vũng Trâu, Bến Trâu gì đó.
Nhưng tên theo hai loại trên đây là do người Việt Nam bình dân đặt ra
khi mới đến một địa phương, về sau, khi đã có nhiều người Việt Nam ở và
triều đình Việt Nam đặt ra các đơn vị hành chánh, thì triều đình lại
dùng tiếng Hán Việt như Trấn Biên, Phiên Trấn, Phước Long, Phước Tuy
v.v…
Mặt khác, khi viết sử hay viết sách địa lý mà gặp một tên nôm do
người bình dân đã đặt, các cụ đã dịch nó ra tiếng Hán Việt chứ ít khi
chịu chép tên nôm. Như Ba Giỗng, các cụ dịch là Tam Phụ và Bến Nghé, các
cụ dịch lại là Ngưu Chử khi chép vào sách chứ không chịu viết tên nôm
là Ba Giồng, Bến Nghé.
Nếu lấy các quy tắc đặt địa danh của các cụ ngày xưa làm tiêu chuẩn
để suy luận thì ta thấy ngay các thuyết trên đây về nguồn gốc và ý nghĩa
của Sàigòn không ổn.
Nếu các cụ ta ngày xua muốn dịch tiếng Khmer Prei Kor ra tiếng Việt
thì các cụ đã dùng tên Củi Gòn, Cây Gòn hay Rừng Gòn để đạt cho địa
phương này, chứ không ghép một tiếng Hán Việt là Sài với một tiếng nôm
là Gòn để thành Sàigòn. Cũng nhu khi dịch Kompong Krabei ra tiếng Việt,
các cụ đã gọi là Bến Nghé chứ không nói Tân Nghé, Chử Nghế hay Ngạn Nghé
(Tân, Chử và Ngạn là những tiếng Hán Việt có nghĩa là cái cồn nhỏ, bến
sông, bờ sông).
Nếu bảo rằng gòn là một loại cây không có tên Hán Việt và các cụ đã
dùng tên ấy như tiếng Hán Việt thì các cụ đã theo văn phạm Hán Việt mà
gọi Củi Gòn là Gòn Sài chớ không thể gọi là Sài Gòn.
Chữ Sài là tiếng Hán Việt có nghĩa là Củi, nhưng cũng chữ ấy mà dùng
làm chữ nôm thì lại đọc là Thầy. Vậy, nếu đọc theo tiếng nôm hoàn toàn
hai chữ mà ông bà chúng ta dùng để chỉ tên đất ta đang nghiên cứu thì ta
có Thầy Gòn. Tên này rất gần với Tây Ngòn hay Thầy Ngồnn là những tiếng
Hán Việt Tây Công hay Ðề Ngạn đọc theo giọng Trung Hoa.
Nhưng các cụ ngày xưa rất sính dùng tiếng Hán Việt. Ðến như tiếng nôm
hoàn toàn là Ba Giồng, Bến Nghé mà các cụ còn nhất định phải dịch ra là
Tam Phụ, Ngưu Chử khi viết vào sách vở thì không lý do gì các cụ lại
không dùng các tiếng Hán Việt đã sẵn có là Tây Cống hay Ðề Ngạn, mà lại
dùng tiếng Thầy Gòn là tiếng phiên âm theo giọng của người Trung Hoa.
Vậy, các thuyết kể trên đây đều không vững cả.
Cuối cùng, chỉ còn một dấu vết nhỏ trong các tài liệu nói về ý nghĩa
và nguồn gốc tên Sàigòn có thể giúp ta một lối thoát: đó là việc ông Lê
Văn Phát cho biết rằng người Lào đã gọi vùng Chợ Lớn ngày nay là Cai
ngon, mà Cai ngon theo tiếng Thái có nghĩa là Rừng Chỗi Cây Gòn.
Chúng tôi không biết tiếng Lào hay tiếng Thái nên không thể xác nhận
được ý nghĩa của Cai Ngon theo tiếng Thái, nhưng nếu quả đúng như ông Lê
Văn Phát nói thì tên Sàigòn do ông bà ta phiên âm từ tiếng Thái Cai
Ngon và bỏ dấu theo giọng Việt Nam như thông lệ.
Xét về mặt nguyên tắc đạt địa danh của ông bà chúng ta ngày xưa, thì
vấn đề này có thể kể là tạm giải quyết. Nhưng nghi vấn còn lại là tại
sao lại có tiếng Lào hay tiếng Thái lọt vào đây?
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét