Trận Ardennes là cuộc tấn công lớn cuối cùng của Đức trên Mặt trận phía Tây của Thế chiến 2.
browser not support iframe.
Cuộc
phản công đầy tham vọng được Adolf Hitler đặt tên là Chiến dịch Rhein,
phe Đồng minh gọi là Cuộc phản công Ardennes, theo tên khu vực rừng rậm
của Bỉ, Pháp và Luxembourg.
Lính Mỹ thuộc sư đoàn 75 tại trận tuyến khu Ardennes. |
Vào
cuối năm 1944, sau khi đổ bộ thành công vào Normandie, quân Đồng Minh
chiếm được lợi thế và dần đẩy lùi phát xít Đức ra khỏi nhiều nước châu
Âu, chiếm lại Paris và Rome. Tuy nhiên, Đức quốc xã đã chuẩn bị một cuộc
phản công lớn nhằm xẻ lực lượng Đồng minh làm đôi, chiếm cảng Antwerp
của Bỉ rồi tiêu diệt các lực lượng Đồng minh còn lại, buộc khối này ký
hòa ước.
Sáng ngày 16/12/1944, hơn 200.000 quân Đức và
gần 1.000 xe tăng đã tiến vào Ardennes, chạy từ phía nam Bỉ đến giữa
Luxembourg. Cuộc phản công này được tổ chức trong bí mật và gây tổn thất
bất ngờ cho quân Đồng Minh.
Bộ binh Đức tấn công trong rừng già. |
Mặc
dầu có tình báo cho biết quân Đức sẽ mở cuộc phản công, song bộ chỉ huy
Đồng Minh lúc bấy giờ đang ỷ thế thắng, mải lo công mà quên thủ, nên
thiếu sự chuẩn bị. Ngoài ra, quân Đồng Minh còn gặp những trở ngại khác
như thiếu liên lạc tình báo và không quân bị trì trệ vì thời tiết mùa
đông.
Báo chí tiếng Anh gọi trận đánh này là Battle of
the Bulge (Trận Chỗ Lồi) vì khi nhìn trên bản đồ quân sự, quân Đức thọc
thủng được một lỗ hổng lớn và tràn sang khu quân sự của Đồng Minh tạo
nên một mũi dùi tương tự như một khối phình ra.
Pháo tự hành StuG-III trong cuộc tấn công Ardennes. |
Ngay ngày đầu của cuộc phản công, quân Mỹ bị
tổn thất nặng nề, với hai trung đoàn của Sư đoàn Bộ binh 106 bị bắt gọn.
Đây là trận đánh đẫm máu nhất của quân đội Mỹ trong Thế chiến 2, với
19.000 binh sĩ tử trận.
Những
bước tiến ban đầu của chiến dịch có thể được xem là chiến thắng cuối
cùng của quân đội Đức, đồng thời là thảm họa đầu tiên mà quân đội Mỹ gặp
phải trong giai đoạn 1944-1945 của cuộc chiến.
Không đoàn số 82 đang tiến về phía Ardennes. |
Tuy
vậy, sau nhiều ngày chiến đấu, quân Đồng Minh giành lại thế chủ động và
đẩy lui quân Đức. Đức Quốc xã không đạt được mục tiêu của kế hoạch và
lực lượng bị suy giảm rất nhiều, phải lui về cố thủ dọc phòng tuyến
Siegfried. Không thể bù đắp thiệt hại quá lớn, quân Đức tiêu tan hy
vọng.
Sau thắng lợi quyết định này, quân Đồng Minh tràn vào nước Đức.
Thanh Hảo
Ngày này năm xưa: Chiến dịch Bão táp Mùa Đông thảm bại của Đức
12/12/2018 03:53 GMT+7
Bão
táp Mùa Đông là tên gọi của chiến dịch lớn tại phía nam Mặt trận Xô-Đức
trong Thế chiến 2 do Cụm Tập đoàn quân Sông Đông của Đức tiến hành từ
ngày 12 đến ngày 29/12/1942.
Video tin về Trận Stalingrad:browser not support iframe.
Lịch sử quân sự Liên Xô gọi đó là Chiến dịch phản công Kotenikovo.
Với
Bão táp Mùa Đông, quân Đức đặt mục tiêu phá vỡ vòng vây của quân đội
Liên Xô tại Stalingrad và khu vực phụ cận hòng giải vây cho Tập đoàn
quân 6 và một phần Tập đoàn quân xe tăng 4, đồng thời ngăn chặn Liên Xô
thực hiện Chiến dịch Sao Thổ, cứu nguy không chỉ cho đạo quân của Thống
chế Friedrich Paulus mà còn cả toàn bộ Cụm tập đoàn quân A. Cụm tập đoàn
quân A của Đức khi đó bao gồm gồm Tập đoàn quân xe tăng 1, Tập đoàn
quân 17 và một phần Tập đoàn quân 11 đang hoạt động tại Bắc Kavkaz và
vùng thảo nguyên Kuban.
Quân đội Đức Quốc xã triển khai Chiến dịch Bão táp Mùa đông. |
Vào
cuối tháng 11/1942, sau khi hoàn tất chiến dịch Sao Thiên Vương, quân
đội Liên Xô thiết lập các vòng vây cả trong và ngoài Stalingrad. Lực
lượng Đức bị bao vây tại đây và các lực lượng ngoài vòng vây được tổ
chức lại thành Cụm tập đoàn quân Sông Đông dưới sự chỉ huy của Thống chế
Erich von Manstein.
Thực hiện kế hoạch Sao Thổ, Liên
Xô tiếp tục tăng viện lực lượng dự bị, vũ khí hạng nặng và không quân
với mục đích tiến công chiếm Rostov, từ đó cô lập Cụm tập đoàn quân A
khỏi phần còn lại của quân đội Đức. Phía không quân Đức thiết lập "cầu
hàng không quân sự" để cung cấp vũ khí, đạn dược, phương tiện chiến
tranh cho đạo quân của Friedrich Paulus đang bị bao vây tại Stalingrad.
Thống chế Erich von Manstein, Tư lệnh của Cụm Tập đoàn quân Sông Đông, vào thời điểm diễn ra chiến dịch Bão táp Mùa đông. |
Nguy
cơ đe dọa toàn bộ cánh Nam của quân đội Đức Quốc xã tại mặt trận Xô-Đức
ngày càng rõ rệt khi cánh quân bị vây tại Stalingrad chìm trong bão
tuyết mùa đông. Bên cạnh đó, quân Liên Xô lại tiến hành một số trận đánh
trinh sát chuẩn bị cho một chiến dịch chia cắt nhằm tiến tới tiêu diệt
và bắt sống đạo quân này.
Mở màn ngày 12/12, cuộc tấn
công dự kiến sẽ phối hợp đòn đột kích từ bên ngoài của Tập đoàn quân xe
tăng 4 mới được cải tổ thành "Cụm quân Hoth" cùng "Cụm tác chiến
Hollidt" với đòn đánh thọc ra từ trong vòng vây của Tập đoàn quân 6 và
Quân đoàn xe tăng 14. Mười sư đoàn còn lại của Tập đoàn quân 4 Romania,
trong đó có 6 sư đoàn đã tổn hại nặng nề trong các trận đánh tháng 11,
cũng được huy động tham gia chiến dịch.
Xe tăng Đức tấn công trong chiến dịch Bão táp Mùa đông. |
Tuy
nhiên, ngay từ đầu, "Cụm tác chiến Hollidt" đã bị quân đội Liên Xô kiềm
tỏa, không những không thể vượt qua sông Chir mà còn bị xe tăng Liên Xô
đe dọa đột kích vào hậu cứ Minlerovo.
Tập đoàn quân 6 của Đức thì quá suy yếu nên
không thể thực hiện được đòn đánh từ trong ra. Chỉ có cuộc tấn công đơn
độc của "Cụm quân Hoth" ở hướng tây nam mặt trận, nhưng cụm quân này
cũng không đủ sức vượt nốt 40km còn lại tại khu vực Kotenikovo để kết
nối với Tập đoàn quân 6 đang bị bao vây bên trong.
Hình ảnh Chiến dịch Bão táp Mùa đông. |
Ngày
23/12, Bộ Chỉ huy cụm tập đoàn quân Sông Đông của Đức buộc phải chấm
dứt tấn công và bắt đầu rút lui. Ngày 24/12, Phương diện quân Stalingrad
của Liên Xô chuyển sang phản công sau khi được tiếp sức bởi Tập đoàn
quân cận vệ 2, đánh bật "Cụm quân Hoth" về vị trí xuất phát.
Tại mặt trận Stalingrad, tháng 10/1942, binh lính không quân Đức được sử dụng như bộ binh. |
Cũng
trong ngày này, các Phương diện quân Tây Nam và Voronezh của Liên Xô
khởi động "Chiến dịch Sao Thổ nhỏ", đánh vào hậu cứ của "Cụm tác chiến
Hollidt" và "Cụm tập đoàn quân Sông Đông", đẩy quân Đức lùi xa thêm hơn
150km về phía Tây.
Ngày 31/12/1942, Chiến dịch Bão táp
Mùa đông của Đức hoàn toàn phá sản. Tập đoàn quân 4 Romania bị tiêu
diệt. Các quân đoàn xe tăng 48 và 57 chịu tổn thất nặng nề.
Hình ảnh Chiến dịch Bão táp Mùa đông. |
Hy
vọng được giải vây cuối cùng của Cụm quân do Friedrich Paulus chỉ huy
bị đập tan. Ngày 10/1/1943, Phương diện quân Sông Đông của Liên Xô bắt
đầu thực hiện chiến dịch "Cái Vòng", đi đến tiêu diệt và bắt làm tù binh
toàn bộ đạo quân của Thống chế Paulus.
Thanh Hảo
Ngày này năm xưa: Nhật bất ngờ tấn công Mỹ
07/12/2018 04:00 GMT+7
Tổng
thống Mỹ Franklin Roosevelt tuyên bố, 7/12/1941 là "ngày sẽ sống mãi
trong nỗi ô nhục" sau khi căn cứ hải quân Mỹ ở Trân Châu Cảng bị Nhật
đánh úp trong một trận chiến đẫm máu có một không hai trong lịch sử.
browser not support iframe.
Cuộc
tấn công của hải quân và không quân Nhật bắt đầu lúc 7h48 sáng, khi
lính Mỹ trong cảng vẫn đang ngủ say sau một buổi tối thứ Bảy vui vẻ.
Ảnh chụp Trân Châu Cảng từ một máy bay Nhật cho thấy các thiết giáp hạm Mỹ vào lúc mở đầu trận đánh. Vụ nổ ở giữa bức ảnh là một quả ngư lôi đánh trúng chiếc thiết giáp hạm USS West Virginia. |
Tổng
cộng 353 máy bay chiến đấu, máy bay ném bom và máy bay thả thuỷ lôi của
Nhật xuất kích từ 6 tàu sân bay, chia làm hai đợt, dội mưa bom bão đạn
xuống Trân Châu Cảng suốt 90 phút. Mục đích của Nhật là giữ chân và ngăn
Hạm đội Thái Bình Dương của Mỹ can thiệp cuộc chiến mà Tokyo lên kế
hoạch nhằm xâm chiếm Đông Nam Á, chống lại Anh, Hà Lan và Mỹ.
Tàu USS Arizona bị đánh chìm. Ảnh: Wikipedia. |
Bị
tấn công bất ngờ, Mỹ hứng thiệt hại nặng nề với 4 tàu chiến Mỹ bị đánh
chìm trong khi 4 chiếc khác hư hỏng. Ngoài ra, Mỹ còn thiệt hại 3 tàu
tuần dương, 3 tàu khu trục và 1 tàu thả mìn, chưa kể 188 chiến cơ. Hơn
2.400 người gồm binh lính và thủy thủ Mỹ thiệt mạng, gần 1.200 người
khác bị thương.
Ảnh: Cơ quan lưu trữ quốc gia Mỹ |
Những
gì diễn ra ngày 7/12/1941 là một bước ngoặt lịch sử làm thay đổi cục
diện Thế chiến 2. Nó giúp Nhật loại Hạm đội Thái Bình Dương của Mỹ ra
khỏi vòng chiến đấu trong nhiều tháng, thuận lợi đánh chiếm nhiều nước ở
Đông Nam Á và làm chủ vùng biển châu Á – Thái Bình Dương trong giai
đoạn đầu của Thế chiến 2.
Ảnh: Cơ quan lưu trữ quốc gia Mỹ |
Trận Trân Châu Cảng diễn ra khi phía Nhật
không hề có một lời tuyên chiến chính thức nào, trong lúc hai nước vẫn
đang trong giai đoạn đàm phán hòa bình. Do vậy, hành động của Nhật bị
coi là đánh lén.
Tổng thống Franklin D. Roosevelt khi
đó gọi là "ngày ô nhục" và ông quyết định tuyên chiến với Nhật Bản,
chính thức đưa Mỹ tham gia vào những cuộc giao tranh đẫm máu ở Thái Bình
Dương.
Ảnh: Cơ quan lưu trữ quốc gia Mỹ |
Năm
1945, khi Nhật sức tàn lực kiệt, Mỹ đã ném hai quả bom nguyên tử xuống
Hiroshima và Nagasaki, phục thù cho những gì diễn ra ở Trân Châu Cảng.
Chiến
tranh thế giới thứ hai kết thúc khi Nhật chính thức đầu hàng ngày
2/9/1945. Sau khi quân đồng minh rút khỏi Nhật Bản, mối quan hệ Mỹ-Nhật
được xem là bình đẳng hơn. Hai bên ký hiệp ước đồng minh thân thiện vào
tháng 1/1960, và Tokyo trở thành đồng minh thân cận nhất của Washington
tại Đông Á.
Ảnh: Cơ quan lưu trữ quốc gia Mỹ |
Giới
chuyên gia quân sự cho rằng, trận Trân Châu Cảng là một bài học về sự
mất cảnh giác, không sẵn sàng chiến đấu và chủ quan khinh địch. Thực tế,
do vị trí đắc địa của Trân Châu Cảng, Mỹ đã sử dụng nơi đây làm căn cứ
chỉ huy, căn cứ hậu cần, cơ sở bảo dưỡng và sửa chữa các chiến hạm của
Hạm đội Thái Binh Dương.
Từ đây, Hạm đội Thái Bình
Dương của Hải quân Mỹ có thể khống chế toàn bộ vùng Bắc Thái Bình Dương
bằng lực lượng tàu nổi, tàu ngầm và không quân của Hạm đội, đồng thời
chống lại mọi sự tấn công từ bên ngoài.
Thanh Hảo
Ngày này năm xưa: Máy bay ném bom Mỹ mất tích bí ẩn
05/12/2018 04:00 GMT+7
Ngày
5/12/1945, phi đội gồm 5 máy bay ném bom và ngư lôi Grumman TBM Avenger
của Hải quân Mỹ cất cánh từ căn cứ Ft. Lauderdale ở bang Florida, để
tham gia một sứ mệnh huấn luyện định kỳ kéo dài 3 giờ. Tuy nhiên, chúng
biến mất bí ẩn ở Tam giác Bermuda.
Theo
lịch trình, Phi đội 19 xuất phát từ Ft. Lauderdale lúc 14h10 ngày
5/12/1945. Cả 5 oanh tạc cơ dự kiến sẽ bay 193km về phía đông, 117,5km
về phía bắc và sau đó thực hiện chặng bay 193km cuối cùng để trở
về căn cứ hải quân. Song, mọi chuyện rốt cuộc đã không xảy ra như kế
hoạch.
browser not support iframe.
Hai
tiếng sau khi cất cánh, chỉ huy Phi đội 19, người đã bay ở khu vực này
suốt hơn 6 tháng, thông báo cả la bàn chính lẫn la bàn dự phòng trên
máy bay ném bom của anh đều bị hỏng, khiến anh không thể xác định
vị trí của mình. Các oanh tạc cơ còn lại cũng báo cáo gặp sự cố
thiết bị tương tự.
5 chiếc oanh tạc cơ thuộc Phi đội 19. Ảnh phục dựng: Wikimedia |
Các
cơ sở thu phát vô tuyến trên mặt đất đã cố gắng liên lạc để xác
định vị trí của họ, nhưng không thành công. Sau hơn 2 tiếng nhận được
các thông điệp lộn xộn từ Phi đội 19, nhà chức trách dưới mặt đất đã bắt
được một tin nhắn vô tuyến bị méo tiếng từ phi đội trưởng lúc 18h20
phút tối. Trong đó, anh dường như yêu cầu các thành viên trong phi
đội chuẩn bị thoát khỏi các máy bay của họ cùng lúc vì thiếu nhiên
liệu.
Các phi công thuộc Phi đội 19. Ảnh: History.com |
Vào
thời điểm đó, nhiều trạm radar mặt đất cuối cùng xác định, Phi đội
19 đang có mặt đâu đó ở phía bắc Bahamas và phía đông bờ biển Florida.
Vì vậy, lúc 19h27 tối cùng ngày, một chiếc máy bay tìm kiếm và cứu nạn
PBM-5 Mariner với 13 thành viên phi hành đoàn được lệnh cất cánh truy
tìm dàn oanh tạc cơ mất tích. Ba phút sau, máy bay báo cáo về căn cứ là
đang thực hiện sứ mệnh.
Máy bay PBM-5 Mariner được cử tìm kiếm Phi đội 19 cũng mất tích ở khu vực Tam giác Bermuda. Ảnh: San Diego Air and Space Museum Archive |
Tuy
nhiên, đó cũng là lần cuối người ta nhận được tin từ chiếc máy
bay này. Về sau, một tàu chở dầu đang di chuyển ngoài khơi Florida
thông báo đã chứng kiến một vụ nổ trên không vào khoảng 19h50 tối
5/12/1945.
Sự biến mất khó hiểu của 14 phi công thuộc
Phi đội 19 và 13 thành viên máy bay Mariner đã dẫn tới một trong
những chiến dịch tìm kiếm trên không và trên biển lớn nhất thời bấy
giờ. Hàng trăm tàu thuyền và máy bay tham gia rà quét hàng ngàn km2 ở
vùng biển Đại Tây Dương, Vịnh Mexico cũng như những vùng xa xôi hẻo léo
nằm sâu trong nội địa của bang Florida. Song, họ chưa bao giờ tìm
thấy bất kỳ dấu vết nào của những con người hay dàn máy bay mất tích.
Mặc
dù các quan chức hải quân quả quyết, việc không tìm thấy dấu vết của 6
chiếc máy bay cùng 27 người có mặt trên đó là do mưa bão đã hủy hoại
mọi manh mối, nhưng những gì xảy ra với “phi đội mất tích” càng
khiến công chúng tin vào huyền thoại về Tam giác Bermuda.
Vị trí "Tam giác quỷ" Bermuda. Ảnh: NBC |
Tam
giác Bermuda thực tế là một khu vực tọa lạc ở phía tây bắc Đại Tây
Dương, bao quanh bờ biển phía đông bang Florida (Mỹ) và Puerto Rico. Một
phần của tam giác này còn kéo dài tới khu vực lân cận bang Nam
Carolina, Mỹ. Sở dĩ vùng biển này có tên là Bermuda là vì nó được đô đốc
người Tây Ban Nha Huan Bermuda lần đầu tiên khám phá ra năm 1503.
Nhìn
chung, Tam giác Bermuda là một khu vực đầy nắng, gió và không có các
mùa phân chia rõ rệt. Đây là một trong hai địa điểm trên Trái đất mà la
bàn sẽ không chỉ đúng về hướng bắc. Rất nhiều người còn nói, các quy
luật vật lý cũng không còn đúng ở nơi này.
Đáng
chú ý, thống kê cho thấy, hơn 100 máy bay và các tàu thuyền đã bị "nuốt
chửng" một cách bí ẩn khi di chuyển qua Tam giác Bermuda, trong đó phải
kế đến một số tàu thủy khổng lồ như tàu vận tải USS Cyclops của Mỹ (mất
tích không để lại dấu vết cùng 306 thành viên thủy thủ đoàn và hành
khách vào năm 1918) hay tàu chở nhiên liệu SS Marine Sulphur Queen (biến
mất bí ẩn cùng 39 thành viên thủy thủ đoàn và 15.000 tấn lưu huỳnh lỏng
năm 1963), khiến khu vực này còn được mệnh danh là Tam giác quỷ, khơi
dậy cả sự tò mò và sợ hãi.
Các chuyên gia nghiên cứu
và nhiều đoàn phim tài liệu về "Tam giác quỷ" lừng danh đã công bố vô
số giả thuyết, "bằng chứng" nhằm cố gắng lí giải bí ẩn. Trong một báo
cáo nghiên cứu công bố hồi tháng 8 năm nay, các chuyên gia thuộc Đại học
Southampton (Anh) tin rằng, những đợt sóng sát thủ, cao tới 30m có thể
là nguyên nhân gây ra các vụ mất tích kỳ bí tại Tam giác quỷ Bermuda.
Song, giả thuyết này cũng như nhiều lời giải thích trước đó vẫn chưa
được đông đảo công chúng chấp nhận.
Tuấn Anh
Ngày này năm xưa: Chấn động vụ xử các lãnh đạo Đức Quốc xã
20/11/2018 04:00 GMT+7
Ngày
20/11/1945, tòa án quân sự đặc biệt của Mỹ, Anh, Pháp và Liên Xô ở
Nuremberg, Đức đã bắt đầu quá trình xét xử 24 cựu quan chức Đức Quốc xã
vì tội ác trong Thế chiến thứ hai. Các vụ xét xử này đã gây chấn động dư
luận toàn thế giới lúc bấy giờ.
Ngay
sau khi Chiến tranh thế giới lần thứ hai kết thúc, bên chiến thắng (phe
Đồng minh) đã thành lập toà án quân sự đặc biệt ở Nuremberg để xét xử
các cá nhân và tổ chức thuộc chế độ Đức Quốc xã bị cáo buộc phạm tội ác
chiến tranh.
Người dân châu Âu đổ ra đường ăn mừng kết thúc Thế chiến thứ hai năm 1945. Ảnh: Word Press |
Thẩm
quyền xét xử của những phiên tòa như trên được bảo đảm theo Hiệp định
London, do Mỹ, Anh, Liên Xô và chính phủ lâm thời của Pháp ký kết vào
tháng 8/1945. Về sau, tổng cộng có 19 quốc gia khác đã tham gia ký kết
hiệp định.
Vào thời điểm đó, các bên thống nhất rằng,
những quan chức thuộc phe Trục phát xít (Đức, Nhật và Italia) có các tội
ác chiến tranh vượt ra ngoài một khu vực địa lý cụ thể, sẽ phải chịu sự
xét xử của một tòa án chiến tranh quốc tế. Tương tự phiên tòa
Nuremberg, Tòa án quân sự quốc tế vùng Viễn Đông chịu trách nhiệm xét xử
các tội phạm chiến tranh Nhật.
Hitler, Himmler và Goebbels năm 1938. Ảnh: Alamy |
Ba
kẻ đầu sỏ của Đức Quốc xã, những tên tội phạm chiến tranh lớn nhất là
trùm phát xít Adolf Hitler, Thống chế Heinrich Himmler và Bộ trưởng
Tuyên truyền Joseph Goebbels đều đã tự sát trước khi chiến tranh kết
thúc. Do đó, chúng tránh được việc bị đưa ra xét xử tại tòa án quốc tế,
với bản án chắc chắn là tử hình.
24
quan chức Đức Quốc xã khác phải ra hầu tòa tại Nuremberg vì hàng loạt
cáo buộc, bao gồm các tội ác chống hòa bình (lên kế hoạch và xúc tiến
những cuộc chiến vi phạm các hiệp ước quốc tế); các tội ác chống nhân
loại (trục xuất, thảm sát và hủy diệt các chủng tộc); các tội ác chiến
tranh (những hoạt động vi phạm “các quy tắc” chiến tranh được đặt ra sau
Thế chiến thứ nhất và trong các thỏa thuận quốc tế sau đó) và âm mưu
thực hiện bất kỳ hoặc toàn bộ 3 tội ác kể trên.
Với
Mỹ, Anh, Pháp và Liên Xô, mỗi nước có quyền cử một chánh án chính và một
chánh án dự khuyết, luân phiên giữ vai trò chủ tọa các phiên xử. Ngoài
ra, hơn 10 nước châu Âu có liên can đến Thế chiến thứ hai, cũng gửi các
thẩm phán tham gia quá trình xét xử.
Trưởng công tố
viên tại tòa Nuremberg là Thẩm phán Tòa án tối cao Mỹ Robert H. Jackson,
người được Tổng thống Harry S. Truman yêu cầu lập ra một cơ cấu tố
tụng. Khi ra hầu tòa, các bị cáo được sắp xếp ngồi theo hai hàng ghế và
có tai nghe riêng để theo dõi các lời tranh biện và phán xử được dịch
tức thời sang tiếng mẹ đẻ.
browser not support iframe.
Tòa quân sự quốc tế ở Nuremberg đã tiến hành
tổng cộng 216 phiên xử các bị cáo Đức Quốc xã trong gần 1 năm, sử dụng
hàng triệu trang tài liệu, hồ sơ, bằng chứng video, hình ảnh và triệu
tập vô số nhân chứng sống. Mọi lời biện hộ từ phía các bị cáo đều bị bác
bỏ.
Ngày 1/10/1946, tòa công bố các phán quyết cuối
cùng đối với 22 trong tổng số 24 bị cáo (2 bị cáo vắng mặt gồm một kẻ tự
sát trong buồng giam và một kẻ được kết luận là không còn đủ sức khỏe
tâm thần).
Chấn động vụ xử tội ác của các lãnh đạo Đức Quốc xã |
Trong
đó, 12 bị cáo lĩnh án tử hình bằng cách treo cổ, bao gồm cả Julius
Streicher, quan chức phụ trách tuyên truyền, xuất bản tờ Der Stürmer;
Alfred Rosenberg, kẻ có tư tưởng bài Do Thái từng giữ chức Bộ trưởng Các
vùng lãnh thổ miền đông bị chiếm đóng; Joachim von Ribbentrop, Bộ
trưởng Ngoại giao; Martin Bormann, Bí thư Đảng Quốc xã và Hermann
Göring, Tư lệnh Không quân kiêm lãnh đạo Mật vụ Gestapo.
Riêng
trường hợp bị cáo Bormann, tòa đã phải xét xử và kết án hắn vắng mặt.
Lí do vì, Bormann được tin đã thiệt mạng trong lúc cố thoát khỏi boong
ke của Hitler vào cuối cuộc chiến, nhưng mãi đến năm 1973 các cơ quan
điều tra của quân đồng minh mới chính thức tuyên bố hắn đã chết.
Bị cáo Goering khi ra hầu tòa năm 1946. Ảnh: Telegraph |
Ngoài
ra, mặc dù trong toàn bộ quá trình xét xử và chờ thi hành án luôn có
người canh gác trước cửa mỗi buồng giam, nhưng bị cáo Goering vẫn tìm
cách có được một ống chứa thạch tín đưa lậu vào trong xà lim. Chiều ngày
15/10/1946, hắn đã uống thuốc độc tự tử và chết trước thời gian hành
quyết vài giờ đồng hồ. Viên tư lệnh Không quân Đức Quốc xã này trước đó
từng đưa đơn xin được xử bắn để giữ danh dự quân đội, nhưng bị từ chối.
10
trong số 12 bị cáo bị kết án tử đã phải lên giá treo cổ vào ngày
16/10/1946. Trong khi đó, các bị cáo còn lại bị kết án từ 10 năm tù giam
đến chung thân.
Tuấn Anh
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét