Tuổi niên đại địa chất có thể xác
định thông qua thông qua tuổi của lớp đất đá trầm tích được hình thành
từ cát, bùn của đáy hồ và đại dương. Trong lớp đá trầm tích rất giàu các
hoá thạch sinh vật. Có thể dùng phương pháp đồng vi phóng xạ để xác
định tuổi của đá và hóa thạch. Cac đồng vi phóng xạ phân hủy rất châm.
Bằng những kỹ thuật thích hợp, người ta tính được tổng lượng chất phân
rã đó có thể đánh giá tuổi của đá và các hoá thạch.
Vd: U238 chu kỳ bán rã 4.5 tỉ năm, C14 chu kỳ bán rã 5600 năm
Hình 1.6: Dùng C14 xác định tuổi của vỏ trai (clam shell)
Căn cứ vào cứ vào tuổi của đá và
các hoá thạch, người ta chia sự sống thành 5 đại: đại thái cổ, nguyên
sinh, cổ sinh, trung sinh, tân sinh. Hình bên dưới mô tả cơ thể sống từ
dạng ban đầu sớm nhất và thới gian tương ứng với các đại địa chất từ
tiền Cambri.
Hình 1.7: Các đại địa chất và lịch sử sự sống trên trái đất.
Trước đây các nhà địa chất xem kỷ
Cambri là một trong những điểm mốc quan trọng trong nghiên cứu tiến hoá
vì không thấy mẫu hóa thạch nào ở đá cổ hơn. Tuy nhiên mới đây, bằng kỹ
thuật mới các nhà địa chất phát hiện các vi hoá thạch giống như vi khuẩn
trước kỷ Cambri có tuổi khoảng 3100 triệu năm trong đá cứng Chert đen.
Như vậy trong một thời gian dài,
cách nay khoảng 3 tỉ năm, trên trái đất chỉ tồn tại các sinh vật nhỏ bé,
đơn giản tương tự như các vi khuẩn ngày nay.
Từ prokaryote đến eukaryote, nguồn gốc tế bào nhân chuẩn-Thuyết nội cộng sinh
Trong suốt quá trình hình thành
eukaryotes, cấu trúc tế bào và những quá trình đặc trưng cho eukaryote
đã xuất hiện: nhân được bao bọc bởi màng, ti thể, lạp thể, hệ thống nội
màng, đa nhiễm sắc thể (nhiễm sắc thể gồm DNA và protein).
Prokaryote hình thành, tiến hóa và
thích nghi từ khi sự sống xuất hiện và trở nên phổ biến nhất ngày nay.
Một hướng tiến hóa của prokaryote là hình thành các prokaryote đa bào ví
dụ như vi khuẩn lam. Hướng thứ hai là hình thành tập hợp tế bào mỗi
loại tế bào được lợi từ việc chuyên biệt hóa trao đổi chất của tế bào
khác. Hướng thứ ba là phân cách chức năng khác nhau trong các tế bào
đơn. Hướng tiến hoá này tạo ra những tế bào eukaryote đầu tiên.
Làm thế nào mà sự tổ chức các
buồng của eukaryote tiến hóa từ prokaryote? Một quá trình mà trong đó hệ
thống nội màng của eukaryote: màng nhân mạng lưới nội chất nhám, Golgi
có thể tiến hoá từ gấp nếp màng prokaryote. Một tiến trình khác được gọi
là nội cộng sinh tạo ti thể và lạp thể trong eukaryotes.
Theo thuyết nội cộng sinh, ti thể
của Eukaryote có nguồn góc từ prokaryote tự dưỡng hiếu khí, lạp thể của
Eukaryote có nguồn gốc từ vi khuẩn quang hợp có thể là khuẩn lam
(cyanobacteria).
Có nhiều bằng chứng ủng hộ thuyết nội công sinh:
Cấu trúc của ti thể, lạp thể tương tự như vi khuẩn
Màng trong của ti thể, lạp thể có hệ thống các enzymes vận chuyển điện tử trong màng vi khuẩn.
Ti thể, lạp thể nhân đôi tương tự như trực phân ở vi khuẩn
Ti thể, lạp thể có DNA vòng giống prokaryotes
Một số kháng sinh kìm hảm sinh trưởng của
prokaryote cản trở tổng hợp protein bởi ribosome của ti thể và lạp thể
nhưng không cản trở tổng hợp protein của ribosome tế bào chất. Kháng
sinh ngăn cản sự tổng hợp protein của tế bào chất không ảnh hưởng tổng
hợp protein của các bào quan.
Hình 1.8: Một mô hình nguồn góc của eukaryote
Từ đơn bào đến đa bào
Sự phát triển theo hướng phức tạp hóa tổ chức dẫn tới sự hình thành và phát triển các sinh vật đa bào
-Cấu trúc phức tạp
-Bộ máy sinh sản phức tạp
-Sự biệt hóa tế bào
-Một số hệ thống chuyên bệt
Sự phát triển của sinh vật đa bào
Bảng 1: Các đại địa chất và lịch sử sự sống trên trái đất
Hình 1.9: Sự tiến hóa của sinh vật đa bào
Sự thật "giật mình" về cách tiến hóa của con người
Cùng ngược dòng lịch sử để hiểu hơn về tiến trình tiến hóa của loài người.
Trong quá trình các nhà khoa học khám phá lịch sử tiến hóa
của con người, rất nhiều thông tin được tìm thấy để giải thích việc quá
khứ đã tạo hình con người hiện đại như thế nào, từ kích thước não bộ
cho tới tuổi thọ của chúng ta.
Kì thú hơn là việc những sự kiện bất ngờ xảy đến có vai trò không hề nhỏ trong quá trình hình thành nên chúng ta hiện giờ.
1. Khuôn mặt con người tiến hóa để chịu được cú đấm
Việc
khuôn mặt con người tiến hóa 4 - 5 triệu năm trước để giúp tổ tiên
người Australopithecus của chúng ta nhai được những loại thức ăn cứng
như hạt đã được chấp nhận một cách rộng rãi.
Thế
nhưng trên thực tế, khuôn mặt con người tiến hóa là để chịu được những
cú đấm. Theo một nghiên cứu của trường ĐH Utah, quá khứ của chúng ta
không bình yên như chúng ta thường nghĩ.
Bạo
lực có vai trò rất quan trọng trong tiến trình tiến hóa của chúng ta.
Các nhà nghiên cứu tin rằng, nam giới phát triển hệ thống xương mặt chắc
khỏe để giảm thiểu tối đa các tổn thương gây ra từ những cú đấm trong
trận đánh tranh giành phụ nữ, thức ăn và lãnh thổ. Những khối xương có
khả năng bị đánh vỡ cao trong các trận đấu tay đôi là những khối xương
cần trở nên cứng chắc nhất.
2. Tay người tiến hóa là để đấm nhau
Trong
cùng thời điểm mà khuôn mặt chúng ta "biến hóa" để chịu được những cú
đấm thì phần tay lại phát triển để có khả năng đấm nhau.
Một
nghiên cứu của trường ĐH Utah cho thấy, trên thực tế, tay con người
phát triển theo một cách đầy nghịch lý. Đặc điểm tiến hóa cho phép tay
chúng ta nắm chặt, bàn tay có 4 ngón tay ngắn, một ngón dài, khỏe và
linh hoạt hơn.
Bàn tay này cũng giúp cho chúng
ta có kỹ năng để chế tác, sử dụng công cụ tinh tế. Nhưng điều này lại
không đúng với loài khỉ bởi chúng không có khả năng nắm chặt bàn tay.
Các
nhà nghiên cứu cho rằng, bản năng hung hăng, bạo lực biến cơ thể chúng
ta thành những cỗ máy chiến đấu. Một người có thể đấm đau hơn khi anh ta
nắm chặt tay mà không làm đau chính bản thân. Nói tóm lại, bàn tay của
chúng ta - với khả năng gây tổn thương và chế tác – giúp chúng ta hiểu
được bản chất vừa tốt và xấu của con người.
3. Chúng ta bị mụn rộp trước khi là con người
Không
chỉ có những đặc điểm về ngoại hình là được tiến hóa. Một số chủng bệnh
như là mụn rộp cũng được truyền từ tinh tinh sang người trong quá trình
tiến hóa.
Khoảng 67% người hiện đại có ít nhất
một chủng virus gây bệnh mụn rộp HSV. Trên thực tế, con người là loài
linh trưởng duy nhất có hai chủng HSV (HSV-1 và HSV-2) trong cơ thể. Các
chủng này thường được biểu hiện ra dưới dạng như viêm niêm mạc miệng
hay mụn rộp sinh dục.
Con
người bị nhiễm HSV-1 trước khi tiến hóa từ tinh tinh sáu triệu năm về
trước. Còn chủng HSV-2 được di truyền từ tinh tinh sang người từ 1,6
triệu năm về trước.
Các nhà khoa học ở ĐH
California tin rằng, việc hiểu được nguồn gốc của những chủng virus này
sẽ giúp chúng ta có thể ngăn chặn được virus khác có khả năng xâm nhập
vào hệ miễn dịch cơ thể người.
Một
nhóm các nhà khoa học khác ở ĐH Oxford và ĐH Plymouth đã phát hiện ra,
những virus cổ xưa từ người Neanderthals trong ADN của người hiện đại.
Những chủng này xuất phát từ họ HML2 (retrovirus nội sinh) và có thể là
nguyên nhân của ung thư hay HIV ở giống người hiện đại; điều đó khiến
việc nghiên cứu virus này như là một liệu pháp chữa trị rất hữu ích
trong tương lai.
4. Con người là loài linh trưởng duy nhất có cỡ răng bé đi khi kích cỡ bộ não to lên
Trong
2,5 triệu năm trước, hai xu hướng trong quá trình tiến hóa của loài
người được liên kết với nhau; kích cỡ não bộ tăng lên trong khi kích cỡ
răng nhỏ dần. Chúng ta là loài linh trưởng duy nhất có đặc điểm tiến hóa
thú vị như vậy.
Bình
thường, khi kích cỡ não bộ tăng thì kích cỡ răng cũng phải tăng theo vì
cơ thể cần nhiều năng lượng hơn từ quá trình tiêu thụ thức ăn. Vì vậy
các nhà khoa học gọi hiện tượng này là một nghịch lý trong tiến hóa. Họ
tin điều đó có thể xảy ra bởi khi con người ăn nhiều thịt thì sẽ nuôi
dưỡng bộ não tốt hơn.
5. Bà là người giúp chúng ta sống lâu hơn
Bà
là người tạo nên con người chúng ta - đó là kết luận của các nhà khoa
học thuộc ĐH Utah sau khi nghiên cứu quá trình chạy mô phỏng máy tính để
kiểm nghiệm “Giả thuyết về Bà” rất nổi tiếng.
Theo
thuyết tiến hóa đó, con người có tuổi thọ dài hơn khỉ vì những đứa cháu
đã được chăm sóc bởi bà. Còn các loài linh trưởng khác thì phải tự tìm
thức ăn sau khi được cai sữa. Nhưng ở con người, bà giúp chăm sóc những
đứa cháu khi cai sữa, nhờ đó, mẹ của những đứa trẻ có thể sinh con nhanh
hơn.
Nhiều
nhà nhân chủng học tin rằng, việc kích cỡ não bộ tăng khiến cho tuổi
thọ chúng ta được kéo dài hơn. Nhưng khi các nhà nghiên cứu thuộc ĐH
Utah giữ nguyên các thông số về kích cỡ não bộ, khả năng săn bắt, cặp
đôi, việc cho vào rất ít thôi hiệu ứng của người bà cũng đủ làm cho tuổi
thọ của con người tăng lên đáng kể. Họ kết luận rằng, người bà có tác
động quan trọng trong lịch sử tiến hóa của loài người.
6. Một loại protein đã góp phần vào việc tăng kích thước não bộ ở người
Các
nhà nghiên cứu từ ĐH Colorado đưa ra giả thuyết giải thích về việc tại
sao não bộ của con người lại tiến hóa nhất cả về kích thước và độ phức
tạp.
Những
nhà khoa học này tìm ra một tên miền protein, một đơn vị cụ thể ở trong
phân tử protein, xuất hiện với số lượng lớn hơn ở người so với ở các
loài động vật khác. Miền protein đó là DUF1220 và việc sở hữu nhiều bản
sao của tên miền này sẽ cho bạn một não bộ lớn hơn.
Con
người có 270 bản sao trong bộ gene. Tinh tinh có 125 và khỉ đột có 99,
trong đó chuột chỉ có một. Điều đó đồng nghĩa với việc kích thước não bộ
phụ thuộc rất lớn vào tên miền protein.
7. Khả năng ném giúp chúng ta trở thành con người
Ít
ai ngờ, kỹ năng ném bóng của các cầu thủ bóng chày tiến hóa từ tổ tiên
đã tuyệt chủng của chúng ta. Loài người trong quá khứ đã học ném đá cũng
như các mũi lao bằng gỗ để hỗ trợ trong quá trình săn bắt 2 triệu năm
về trước.
Các
nhà nghiên cứu muốn tìm ra lý do vì sao con người ném tốt như vậy.
Trong khi ghi lại quá trình ném bóng của các vận động viên bóng chày tại
các trường đại học, các nhà khoa học nhận ra rằng, vai của con người
hoạt động như súng cao su thông qua việc dự trữ và giải phóng năng lượng
trong quá trình ném. Một số đặc điểm của phần thân người, vai và tay
cũng tiến hóa để giúp chúng ta dự trữ năng lượng.
Những
kĩ năng ném này cho phép tổ tiên chúng ta săn bắt những loài động vật
lớn. Quá trình tiêu thụ thịt hỗ trợ quá trình tiến hóa của não bộ và cơ
thể, cho phép chúng ta di chuyển đến những vùng đất mới. Vì vậy khả năng
ném cũng giúp chúng ta trở thành con người.
8. Tuổi thọ cao là do quá trình trao đổi chất rất chậm
Con người và các loài linh trưởng khác đốt cháy một lượng calo ít hơn đến 50% so với các loài động vật khác.
Theo
một nghiên cứu gần đây, quá trình trao đổi chất chậm giải thích vì sao
chúng ta phát triển chậm, không có con thường xuyên và sống lâu hơn.
Hầu
hết các loài động vật, như chó hay mèo, có tuổi thọ thấp. Các nhà
nghiên cứu cho rằng, các điều kiện về môi trường đã ảnh hưởng quá trình
tiến hóa của cơ chế trao đổi chất chậm, từ đó cho chúng ta một tuổi thọ
cao hơn các loài động vật khác.
* Bài viết sử dụng tư liệu tham khảo từ các nguồn: Listverse, Livescience, Wikipedia...
Daniel Lee không phải là một chuyên gia trong lĩnh vực
nghiên cứu về thuyết tiến hóa, nhưng anh đã đưa ra ý tưởng cực dị về
nguồn gốc của loài người.
Chỉ với 12 bức ảnh, Daniel Lee đã khiến dân mạng xôn xao về " thuyết tiến hóa" do mình sáng tạo.
Daniel Lee không cố gắng giải thích về nguồn gốc của con người theo hiểu biết khoa học phổ thông.
Thay vào đó anh làm cho ý tưởng của mình biến thành những hình ảnh kỹ thuật số để mọi người tự suy ngẫm.
Anh đưa ra series ảnh mang tên “Nguồn gốc” miêu tả quá trình tiến hóa của con người.
Chùm ảnh gồm tổng cộng 12 bức ảnh.
Từ hình thức cá (như cá vây tay) chuyển đến loài bò sát, loài vượn và cuối cùng thành con người.
Daniel đi theo quan điểm tổ tiên của loài người chúng ta là cá vây tay Coelacanth.
Đầu
tiên ông chụp hình một con cá biển xám xanh đã chết. Con cá này được
Daniel mua trong khu chợ của người Italia ở New York. Tiếp theo, Daniel
Lee chụp hình mẫu nam ở các tư thế bò, trườn, ngồi xổm.
Sau đó anh chỉnh sửa photoshop để tạo nên sự "tiến hóa" từ cá thành người chỉ trong 12 bức ảnh.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét