Cô Tám nhắn tin trên
facebook hỏi tôi có biết cái hẻm nhà cô hồi đó gọi là hẻm “Ba cây Sao”
không?. Đó là cái hẻm trên đường Nơ Trang Long, xưa là đường Nguyễn Văn
Học. Hẻm gần Ngã tư Bình Hòa, không xa cái nhà gỗ trên đường Rừng Sác
nay là đường Nguyễn Thiện Thuật của ông Vương Hồng Sển.
Cũng không xa cái nhà xưa trên cầu Băng
Ky, mà mùa hè năm trước tôi viếng thăm và đưa vào cuốn “Sài Gòn, chuyện
đời của phố”. Đằng trước hẻm nhà cô Tám có trồng ba cây sao cao vút. Bây
giờ nó chỉ còn cái tên cũ không mấy ai biết, chỉ biết đó là cái hẻm 109
mà thôi.
Một tin nhắn nhỏ khiến tôi nghĩ ngợi về vùng Bà Chiểu và thấy rằng mình luôn có cảm giác dễ chịu khi đến nơi đó. Đất Bà Chiểu, giống như Lái Thiêu hay Trảng Bàng, đều là những vùng dân cư luôn khiến người mang tình hoài cổ có cảm xúc khi vãng lai. Ở những nơi đó, xen giữa những nhà phố, thỉnh thoảng lại ló ra một căn nhà ngói rêu phong, một cây cổ thụ um tùm lá, một góc miếu thờ nhỏ hay mái đình to và ở đó dân cư thường hiền hòa, bình dị. Đi về Bà Chiểu như đi về một quá khứ không xa lắm. Trường vẽ Gia Định nay đã không còn mặt tiền xưa có những cái cột Toscan và các vòm cửa arcade rất đẹp, điều này khiến tôi luôn tự hỏi tại sao những người quản lý trường hay ở cấp cao hơn không tìm cách giữ lại một vẻ đẹp kiến trúc cổ điển và mang giá trị văn hóa, lịch sử và mỹ thuật rõ nét như vậy?. Đi ngang nhà ông Vương Hồng Sển, nhìn vào sân sau nhà thấy cây xoài thanh ca cuối sân đã chết nhưng vẫn cố đứng vững chịu đựng lũ dây leo quấn quanh chằng chịt. Kệ thờ ở dưới cái mái nhỏ trong sân giữa có di ảnh của ông và bà Năm Sa đéc nhìn ra cái hòn non bộ buồn thiu, vài cây chậu nhỏ tiêu sơ và cái nhà lớn cửa đóng im ỉm. Ngôi nhà gỗ mấy trăm năm tuổi này ngày càng xuống cấp, chờ đợi một phương án giải quyết không biết bao giờ thành hiện thực để có thể thực sự biến thành bảo tàng như ước nguyện cuối đời của ông. Bên ngoài đường, một đám múa lân rầm rộ mừng một ngân hàng vừa khánh thành, bóng loáng trên nhôm, trên kính và trên gương mặt vài vị quan chức.
Một tin nhắn nhỏ khiến tôi nghĩ ngợi về vùng Bà Chiểu và thấy rằng mình luôn có cảm giác dễ chịu khi đến nơi đó. Đất Bà Chiểu, giống như Lái Thiêu hay Trảng Bàng, đều là những vùng dân cư luôn khiến người mang tình hoài cổ có cảm xúc khi vãng lai. Ở những nơi đó, xen giữa những nhà phố, thỉnh thoảng lại ló ra một căn nhà ngói rêu phong, một cây cổ thụ um tùm lá, một góc miếu thờ nhỏ hay mái đình to và ở đó dân cư thường hiền hòa, bình dị. Đi về Bà Chiểu như đi về một quá khứ không xa lắm. Trường vẽ Gia Định nay đã không còn mặt tiền xưa có những cái cột Toscan và các vòm cửa arcade rất đẹp, điều này khiến tôi luôn tự hỏi tại sao những người quản lý trường hay ở cấp cao hơn không tìm cách giữ lại một vẻ đẹp kiến trúc cổ điển và mang giá trị văn hóa, lịch sử và mỹ thuật rõ nét như vậy?. Đi ngang nhà ông Vương Hồng Sển, nhìn vào sân sau nhà thấy cây xoài thanh ca cuối sân đã chết nhưng vẫn cố đứng vững chịu đựng lũ dây leo quấn quanh chằng chịt. Kệ thờ ở dưới cái mái nhỏ trong sân giữa có di ảnh của ông và bà Năm Sa đéc nhìn ra cái hòn non bộ buồn thiu, vài cây chậu nhỏ tiêu sơ và cái nhà lớn cửa đóng im ỉm. Ngôi nhà gỗ mấy trăm năm tuổi này ngày càng xuống cấp, chờ đợi một phương án giải quyết không biết bao giờ thành hiện thực để có thể thực sự biến thành bảo tàng như ước nguyện cuối đời của ông. Bên ngoài đường, một đám múa lân rầm rộ mừng một ngân hàng vừa khánh thành, bóng loáng trên nhôm, trên kính và trên gương mặt vài vị quan chức.
Bà ngoại tôi, một tiểu thư của một gia
đình hết thời từ phía Vĩnh Hội đầu thế kỷ 20 kể với má tôi rằng khi còn
trẻ, bà thường có việc đi qua khu Bà Chiểu từ Gò Vấp trên xe thổ mộ theo
đường làng số 15, bây giờ là đường Lê Quang Định. Xe đi qua xóm Gà,
thường thấy hàng cây sao dài um tùm trong những buổi sáng sương sớm hay
buổi chiều tối. Lúc đó là những năm 1925, 1926 khi bà vừa sinh ra má
tôi.. Xe thổ mộ lóc cóc đi ngang Tòa Bố Gia Định (nay là Ủy ban nhân dân
quận Bình Thạnh , góc Phan Đăng Lưu – Đinh Tiên Hoàng) vào ban ngày,
khách đi đường thưa thớt và ban đêm tối âm u vì đèn đường cách nhau rất
xa, đầy tiếng ếch nhái ểnh ương kêu inh ỏi. Tới Tòa Bố, xe quẹo cua vào
đường Hàng Bàng ngay góc Lăng Ông. Đường Hàng Bàng là đoạn đường mang
tên Đinh Tiên Hoàng từ đường Phan Đăng Lưu, quận Bình Thạnh ngày nay cho
tới Cầu Bông. Thời đó, hai bên đường có mọc nhiều cây bàng dùng để đan
đệm, không phải loại bàng lá to thân cứng, nên con đường này được gọi
tên như vậy. Bà Chiểu khi đó còn có đường Hàng Gòn, Hàng Dừa, Hàng
Sanh…đặt tên tùy theo cây trồng hai bên. Đường Hàng Gòn nay là Hồ Xuân
Hương. Đường Hàng Sanh bây giờ là đường Bạch Đằng xưa rất vắng vẻ có
trồng nhiều cây sanh có rể phụ như cây đa, cây si… Vài người già ở Bà
Chiểu luôn cảm thấy bực mình khi chữ Hàng Sanh bị viết sai thành Hàng
Xanh như lâu nay.
Khi gả con gái út vào một gia đình ở ngã
Năm Bình Hòa, hiểu biết của bà ngoại tôi về vùng Bà Chiểu càng đầy lên
qua những câu chuyện với ông bà sui là dân cố cựu ở đây. Lúc đó, khoảng
đầu thập niên 1950 đã có đông người lao động nghèo về ở nhưng khỏang
thập niên 1920 thì còn thưa vắng. Từ Cầu Bông về xóm Đình gần đó người
ta còn làm ruộng, thậm chí còn thấy hai bên đường Hàng Bàng ruộng lúa
tươi tốt chín vàng khi đến mùa gặt. Thú vui của dân xóm Đình gần đó là
đi câu ếch và bắt cá lia thia, bắt còng. Cá lia thia ở đây là cá xiêm
lai, đá rất giỏi nên cá các xóm Cầu Lầu, Thanh Đa hay Hàng Sanh, Thị
Nghè gần đó đều chạy mặt.
Tuy nhiên, đám trẻ đi bắt cá lia thia ở
quanh quẩn đường Hàng Bàng trong ngày nghỉ học thường không dám nán lại
lâu vì sợ đến giờ Ngọ là giờ… ma đi. Giờ đó, mấy người thả trâu cũng đã
về ăn cơm chứ không còn ai ngoài ruộng. Ai cũng sợ cô Ba Trâm… nhát ma.
Nếu đi ngang con đường vào ban đêm thì thật là mừng nếu thấy có ánh đèn
dầu của mấy anh soi ếch, bắc cóc gần đó. Đi từ cầu Bông thì khách bộ
hành luôn mong cho nhanh tới Lăng Ông, vì phía trước Lăng có một dãy nhà
phố và một cái lò đóng móng bò. Cái lò này chính là nơi trú lý tưởng
khi gặp trời mưa, rồi từ đó đi tiếp về miệt Phú Nhuận, Bình Hòa hay Gò
Vấp vì không có nhà cửa nào gần đó.
Đứng tại lò đóng móng bò, không bị nhà
cửa nào che khuất nên có thể nhìn thấu tới xóm Đình, thấy cả một cây khô
rất cao là chỗ cô Ba Trâm treo mình tự tử ở đó. Cây này không ai dám
đốn hạ kể từ khi chuyện đó xảy ra vì ai cũng tin oan hồn cô vương vấn ở
đó. Từ lò đóng móng bò ngó qua bên kia đường có một miếng đất trống và
một cái nhà lợp thiếc, sườn bằng sắt. Đó là nơi phú de (fourrière, nơi
chưa đồ vật của công an) nhốt chó, nhốt bò vô chủ đi lang thang. Sau một
thời gian, phú de ấy dời đi. Trước kia ở đây là trại lính, cũng là nơi
tập dượt của lính mã tà. Dân quanh vùng thường thấy từng tốp lính bốn
năm người bồng súng có gắn lưỡi lê đứng tập theo khẩu lệnh của của mấy
chú cai, thầy đội. Người dân còn nhớ câu khẩu hiện dù không hiểu nghĩa
nhưng nghe riết thành thuộc lòng :
Chục ba la quăng băn tê !
Chục ba la de quách quả rề
Quách quả rê ! Rề bản lề ! Chục ba la về !
Về cô Ba Trâm, ông bà sui của ngoại tôi kể rằng: cô còn trẻ, con nhà khá giả. Cô treo cổ tự tử sau khi bị bà mẹ ghẻ tàn độc hành hạ và ép gả không theo ý mình. Nơi cô Ba Trâm tự tử là gốc cây trâm gần Trường Vẽ Gia Định (Đại học mỹ thuật TPHCM ngày nay). Nơi đó cây cối sấm uất, nhà cửa thưa thớt nên thân xác cô khi được phát giác đã không còn nguyên vẹn do bị thú ăn. Vì chết oan, lại chết thảm nên người dân tin là hồn cô không đầu thai được mà còn vất vưởng trên dương gian và họ đồn về đêm cô hay hiện về trong dáng vẻ một cô gái bận áo trắng đứng đón xe song mã ở Hàng Xanh đi dạo một vòng rồi về Gia Định. Xe nào đưa cô đi thì gặp may, từ chối thì gặp xui rủi và giở trò ong bướm sẽ bị vật chết. Bây giờ người ta cho rằng xóm Đình chính là đoạn đường Nguyễn Duy hiện nay, một con đường nhỏ còn tồn tại một số nhà kiểu xưa.
Chục ba la quăng băn tê !
Chục ba la de quách quả rề
Quách quả rê ! Rề bản lề ! Chục ba la về !
Về cô Ba Trâm, ông bà sui của ngoại tôi kể rằng: cô còn trẻ, con nhà khá giả. Cô treo cổ tự tử sau khi bị bà mẹ ghẻ tàn độc hành hạ và ép gả không theo ý mình. Nơi cô Ba Trâm tự tử là gốc cây trâm gần Trường Vẽ Gia Định (Đại học mỹ thuật TPHCM ngày nay). Nơi đó cây cối sấm uất, nhà cửa thưa thớt nên thân xác cô khi được phát giác đã không còn nguyên vẹn do bị thú ăn. Vì chết oan, lại chết thảm nên người dân tin là hồn cô không đầu thai được mà còn vất vưởng trên dương gian và họ đồn về đêm cô hay hiện về trong dáng vẻ một cô gái bận áo trắng đứng đón xe song mã ở Hàng Xanh đi dạo một vòng rồi về Gia Định. Xe nào đưa cô đi thì gặp may, từ chối thì gặp xui rủi và giở trò ong bướm sẽ bị vật chết. Bây giờ người ta cho rằng xóm Đình chính là đoạn đường Nguyễn Duy hiện nay, một con đường nhỏ còn tồn tại một số nhà kiểu xưa.
Câu chuyện này rộ lên từ cuối thập niên
1910 và mai một dần, hầu như dân cư ở đó không mấy ai biết. Tôi hỏi về
câu chuyện đó, chú Lý Lược Tam, một nhà nghiên cứu cho biết đến đầu thập
niên 1950, không thấy ai còn nhắc đến chuyện cô Ba Trâm nữa ngoài những
câu chuyện của ông bà kể cho con cháu nghe. Đến lúc đó, đường Hàng Bàng
đã trở thành đường Lê Văn Duyệt và nhà cửa đã đông đúc hơn. Phía bên
trái, từ Lăng Ông đi Cầu Bông nhiều nhà hơn, sau này đến thập niên 1960 ở
hẻm số 100 nhiều người biết vì trong đó có Tiệm bán khăn đóng “Khăn đen
Suối Đờn” nổi tiếng từ Thủ Dầu Một xuống làm ăn. Gần Cầu Bông có bãi
đất trống sau khi chặt bỏ những cây bàng. Buổi chiều người dân tụ lại
thành khu chợ trời, bán đủ thứ phục vụ cho bữa ăn như nồi đất, bí bầu,
gạo…có cả một ông thợ may được gọi là anh Năm đặt bàn máy may ở đó may
quần áo cho khách. Có cả mấy cái quán cà phê.
Năm 1952, nghệ sĩ lão thành Năm Châu đến
mua một trại cưa trong con đường dốc là nhánh của đường Hàng Bàng đổ
xuống khu Miếu Nổi, làm thành chỗ ăn ở cho đoàn Việt kịch Năm Châu. Ở
đó, gia đình ông ở một cái nhà sàn de ra sông, khỏang giữa dành làm sân
khấu để tập tuồng và trong trại chia ra từng gia đình nghệ sĩ ở với cái
bếp chung, ăn “cơm hội”. Gia đình nghệ sĩ Trần Hữu Trang cũng ở một cái
nhà sàn gần đó. Cho đến sau 1975, đến lượt nhà văn Sơn Nam cũng về ngụ
trên con đường này, rất tiện cho ông khi cần đi đến Lăng Ông để tham gia
việc Lăng, hoặc đi giao dịch các tòa báo ở quận I, quận 3. Khi đến thăm
ông năm 1999, ông nhắc lại một chuyện: Khi con trai là Nguyễn An Ninh
còn măng trẻ muốn sang Pháp du học, cụ Nguyễn An Khương, một nhà nho yêu
nước hưởng ứng phong trào Duy Tân và Đông Du đã đưa con đến Lăng Ông Bà
Chiểu để tuyên thệ giữ vững khí tiết, không bị bả vinh hoa xứ người mê
hoặc mà phản bội quê hương. Con trai ông không chỉ vượt qua mọi cám dỗ
vinh hoa mà còn trở nên một nhà cách mạng lừng lẫy chống chế độ thực
dân. Câu chuyện khiến tôi nghĩ nhiều về vai trò của Lăng Ông trong đời
sống người Sài Gòn- Gia Định. Họ đến Lăng không chỉ để cầu xin buôn may
bán đắt, thề thốt đúng sai với nhau mà còn là đến để có nơi chứng giám
lòng kiên trinh với đất nước. Một nơi như vậy sẽ không bao giờ có cảnh
hương tàn khói lạnh cho dù cuộc sống có biến đổi thế nào đi nữa.
Cơn mưa đầu hè khiến tôi trú lại khu chợ
Bà Chiểu, ăn tô mì hòanh thánh bên cái xe có tranh kiếng màu đầy tích
tuồng xưa cũ. Những mảng màu đã lợt lạt trên tranh. Tô hoành thánh không
còn ngon như hồi được bà ngoại cho tôi đi ăn mỗi khi thăm bà bác, sui
gia của bà ở đầu hẻm Ba cây Sao. Mưa đi qua vùng Bà Chiểu, như đã qua
trăm năm trước, nhưng cảnh vật đã khác rất nhiều, trên một vùng đất văn
hóa tiêu biểu của đất Gia Định .
Theo Phạm Công Luận/Sài Gòn – chuyện đời của phố
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét