Học giả Trương Vĩnh Ký cho rằng, Bà Chiểu, Bà Hom, Bà Điểm và Bà Quẹo
đều là vợ của vị tướng Lãnh Binh Thăng và 4 ngôi chợ có tên trên được
đặt theo tên các bà vợ.
Những địa danh như chợ Bà Chiểu (quận Bình Thạnh), Bà Hom (quận Bình
Tân), Bà Điểm (huyện Hóc Môn) và Bà Quẹo (quận Tân Bình) dường như đã
quá quen thuộc với người dân Sài Gòn từ xưa đến nay. Mặc dù có một số
địa danh không còn giữ cái tên này nữa nhưng vì lịch sử gắn liền với
hàng trăm năm nên người dân vẫn quen gọi theo tên cũ.
Theo
học giả Trương Vĩnh Ký - một trong số các học giả nổi tiếng ở thế kỉ
19, bà Chiểu, bà Hạt, bà Hom, bà Điểm, bà Quẹo đều là vợ của một vị
tướng có tên Lãnh Binh Thăng. Vị tướng này có tên thật là Nguyễn Ngọc
Thăng (1798-1866), là một võ tướng của nhà Nguyễn thời vua Tự Đức. Ông
được phong lãnh binh trong quá trình tham gia chống thực dân Pháp ở lục
tỉnh Nam Kì. Tương truyền những vị quan thời xưa thường có đa thê, vì
thế vị tướng lĩnh này cũng không phải ngoại lệ với 5 người vợ.
Để
tránh các bà vợ không đụng nhau thường xuyên, dễ bất hòa nên ông Lãnh
Binh Thăng áp dụng phương pháp kinh tế tự túc từ thế hệ trước đó để xây
cho mỗi bà một cái chợ để tự cai quản. Theo đó, vị lãnh binh đã lập 5
ngôi chợ nằm ở cách xa nhau và đặt tên theo tên các bà vợ.
Trong
khi học giả Trương Vĩnh Ký cho rằng 5 ngôi chợ có tên được đặt theo
những bà vợ của vị tướng Lãnh Binh Thăng, còn theo một số học giả khác
cũng như một số tài liệu ghi chép lại cho biết chỉ là tên của một vùng
đất do những người phụ nữ khai hoang mở cõi.
1. Chợ Bà Chiểu
Nói
về lịch sử có tên chợ Bà Chiểu (thuộc khu vực trung tâm quận Bình
Thạnh, TP. HCM) theo nhà văn Sơn Nam (nhà nghiên cứu văn hóa nổi tiếng ở
Việt Nam) thì Bà Chiểu là tên vùng đất, chỉ mới xuất hiện thời vua Tự
Đức. Từ "Chiểu" ở đây có nghĩa là ao nước thiên nhiên, còn Bà Chiểu là
một nữ thần được thờ bên ao thiên nhiên.
Chợ Bà Chiểu ngày xưa... - Ảnh tư liệu
Và ngày nay vẫn luôn nhộn nhịp suốt cả ngày.
Chợ
Bà Chiểu được xây dựng từ năm 1942 với tổng diện tích 8.465 m2, nhưng
đến năm 1987 thì được nâng cấp sửa chữa. Chợ Bà Chiểu được chia làm 8
khu chính, bố trí cho gần 800 hộ kinh doanh 40 ngành hàng.
2. Chợ Bà Hom
Ngôi
chợ đã được xây mới sau năm 2012, tọa lạc tại phường Tân Tạo (quận Bình
Tân, TP. HCM). Trước khi được xây mới, chợ Bà Hom là chợ tự phát Hồ Văn
Long, chủ yếu phục vụ cho công nhân của các khu công nghiệp ở đây.
Chợ Bà Hom cũ trong khung cảnh tấp nập - Ảnh tư liệu chụp trước năm 2012.
Chợ Bà Hom hiện tại được xây dựng khang trang.
Cũng
như các chợ khác mang tên "Bà" nhưng Bà Hom không được cho là vợ của
tướng Lãnh Binh Thăng như học giả Trương Vĩnh Ký mà theo sách cũ ghi
chép về Sài Gòn, Bà Hom có lẽ do Bàu Hom (bàu ngâm hom tre) nói chệch,
vì Bàu Bèo, Bàu Hói, Bàu Môn cũng nói chệch thành Bà Bèo, Bà Hói, Bà
Môn. Năm 1986 còn có một cái bèo nơi đây nhưng sau đó đã được lấp.
Sau này có chợ tự phát ở khu vực này cũng như một ngôi chợ mới được xây lên cũng đặt tên Bà Hom theo vùng này.
3. Chợ Bà Điểm
Chợ
Bà Điểm thuộc xã Bà Điểm (huyện Hóc Môn, TP. HCM), theo tài liệu thì
vùng này xưa kia nhiều rừng hoang sơ, cọp dữ. Canh ba, canh tư, dân gánh
nông sản về Bến Nghé bán phải đi thành đoàn, đốt đuốc chống cọp. Bên
cạnh đó, bên đây cũng là vùng trồng nhiều trầu cau với tất cả 18 thôn
đều trồng loại cây này.
Chợ Bà Điểm ở thời điểm hơn 1 thế kỷ trước - Ảnh tư liệu.
Chợ Bà Điểm hiện tại, đặc sản bán tại đây là trầu cau.
Bà
Điểm là chợ đầu mối về trầu, cau cho Lục tỉnh từ thế kỷ 19 cho đến cuối
thập niên 1980. Giữa thập niên 1990 vẫn còn bến xe ngựa. TS. Lê Trung
Hoa - Nhà nghiên cứu ngôn ngữ học, cho rằng bà Điểm là chủ quán bán nước
chè đầu tiên ở vùng này nên từ đó về sau này được gọi là vùng Bà Điểm.
Về sau khi thành lập xã cũng đặt tên Bà Điểm và ngôi chợ lớn nhất nằm
trong xã cũng đặt tên này.
4. Chợ Bà Quẹo
Chợ
hiện nay được đổi tên thành chợ Võ Thành Trang, nằm trên đường Trường
Chinh (đường Lê Văn Duyệt nối dài cũ, sau ngày 30/4 đổi là Cách Mạng
Tháng Tám, sau lại đổi là Trường Chinh) thuộc 14, quận Tân Bình, TP.
HCM.
Chợ Bà Quẹo thành lập từ năm 1967, với
diện tích hơn 2.000 m2 theo kiểu nhà lồng, nằm lọt sâu giữa hai lối nhà
cửa là những quán tiệm sạp hàng. Mặc dù sau năm 1975, chợ Bà Quẹo đã đổi
tên thành Võ Thanh Trang nhưng hiện tại cái tên Bà Quẹo vẫn được người
dân nhắc đến nhiều.
Chợ Bà Quẹo năm xưa - Ảnh tư liệu.
Sau năm 1975, chợ Bà Quẹo đổi thành chợ Võ Thành Trang.
Lý
giải về tên Bà Quẹo theo học giả Vương Hồng Sển viết trong sách Sài Gòn
xưa, tên này là do bị đọc chệch từ chữ Bờ Quẹo hoặc Bàu Quẹo. Trong
sách, học giả này lý giải vì đường Thiên Lý cũ ngày xưa (khu Bà Quẹo) có
một khúc quẹo rất rõ ở xã Phạm Văn Hai, huyện Bình Chánh có Cống Quẹo, ở
xã Cần Thạnh, huyện cần Giờ, TP. HCM.
Ngoài
4 khu chợ này, còn có 1 khu chợ nữa cũng bắt đầu bằng chữ bà - chợ Bà
Hạt (ở quận 10). Bà Hạt cũng là vợ của Lĩnh Binh Thăng và là người có
công phát triển nghề bán bạc hà ở quận 10. Tuy nhiên, khu chợ này hiện
không còn hoạt động.
Những chuyện chưa biết về Bà Chiểu xưa
Cô Tám nhắn tin trên
facebook hỏi tôi có biết cái hẻm nhà cô hồi đó gọi là hẻm “Ba cây Sao”
không?. Đó là cái hẻm trên đường Nơ Trang Long, xưa là đường Nguyễn Văn
Học. Hẻm gần Ngã tư Bình Hòa, không xa cái nhà gỗ trên đường Rừng Sác
nay là đường Nguyễn Thiện Thuật của ông Vương Hồng Sển.
Cũng không xa cái nhà xưa trên cầu Băng
Ky, mà mùa hè năm trước tôi viếng thăm và đưa vào cuốn “Sài Gòn, chuyện
đời của phố”. Đằng trước hẻm nhà cô Tám có trồng ba cây sao cao vút. Bây
giờ nó chỉ còn cái tên cũ không mấy ai biết, chỉ biết đó là cái hẻm 109
mà thôi.
Một tin nhắn nhỏ khiến tôi nghĩ ngợi về vùng Bà Chiểu và thấy rằng mình
luôn có cảm giác dễ chịu khi đến nơi đó. Đất Bà Chiểu, giống như Lái
Thiêu hay Trảng Bàng, đều là những vùng dân cư luôn khiến người mang
tình hoài cổ có cảm xúc khi vãng lai. Ở những nơi đó, xen giữa những nhà
phố, thỉnh thoảng lại ló ra một căn nhà ngói rêu phong, một cây cổ thụ
um tùm lá, một góc miếu thờ nhỏ hay mái đình to và ở đó dân cư thường
hiền hòa, bình dị. Đi về Bà Chiểu như đi về một quá khứ không xa lắm.
Trường vẽ Gia Định nay đã không còn mặt tiền xưa có những cái cột Toscan
và các vòm cửa arcade rất đẹp, điều này khiến tôi luôn tự hỏi tại sao
những người quản lý trường hay ở cấp cao hơn không tìm cách giữ lại một
vẻ đẹp kiến trúc cổ điển và mang giá trị văn hóa, lịch sử và mỹ thuật rõ
nét như vậy?. Đi ngang nhà ông Vương Hồng Sển, nhìn vào sân sau nhà
thấy cây xoài thanh ca cuối sân đã chết nhưng vẫn cố đứng vững chịu đựng
lũ dây leo quấn quanh chằng chịt. Kệ thờ ở dưới cái mái nhỏ trong sân
giữa có di ảnh của ông và bà Năm Sa đéc nhìn ra cái hòn non bộ buồn
thiu, vài cây chậu nhỏ tiêu sơ và cái nhà lớn cửa đóng im ỉm. Ngôi nhà
gỗ mấy trăm năm tuổi này ngày càng xuống cấp, chờ đợi một phương án giải
quyết không biết bao giờ thành hiện thực để có thể thực sự biến thành
bảo tàng như ước nguyện cuối đời của ông. Bên ngoài đường, một đám múa
lân rầm rộ mừng một ngân hàng vừa khánh thành, bóng loáng trên nhôm,
trên kính và trên gương mặt vài vị quan chức.
Tòa bố Gia Định thời Pháp thuộc, nay là Ủy ban Nhân dân quận Bình Thạnh
Bà ngoại tôi, một tiểu thư của một gia
đình hết thời từ phía Vĩnh Hội đầu thế kỷ 20 kể với má tôi rằng khi còn
trẻ, bà thường có việc đi qua khu Bà Chiểu từ Gò Vấp trên xe thổ mộ theo
đường làng số 15, bây giờ là đường Lê Quang Định. Xe đi qua xóm Gà,
thường thấy hàng cây sao dài um tùm trong những buổi sáng sương sớm hay
buổi chiều tối. Lúc đó là những năm 1925, 1926 khi bà vừa sinh ra má
tôi.. Xe thổ mộ lóc cóc đi ngang Tòa Bố Gia Định (nay là Ủy ban nhân dân
quận Bình Thạnh , góc Phan Đăng Lưu – Đinh Tiên Hoàng) vào ban ngày,
khách đi đường thưa thớt và ban đêm tối âm u vì đèn đường cách nhau rất
xa, đầy tiếng ếch nhái ểnh ương kêu inh ỏi. Tới Tòa Bố, xe quẹo cua vào
đường Hàng Bàng ngay góc Lăng Ông. Đường Hàng Bàng là đoạn đường mang
tên Đinh Tiên Hoàng từ đường Phan Đăng Lưu, quận Bình Thạnh ngày nay cho
tới Cầu Bông. Thời đó, hai bên đường có mọc nhiều cây bàng dùng để đan
đệm, không phải loại bàng lá to thân cứng, nên con đường này được gọi
tên như vậy. Bà Chiểu khi đó còn có đường Hàng Gòn, Hàng Dừa, Hàng
Sanh…đặt tên tùy theo cây trồng hai bên. Đường Hàng Gòn nay là Hồ Xuân
Hương. Đường Hàng Sanh bây giờ là đường Bạch Đằng xưa rất vắng vẻ có
trồng nhiều cây sanh có rể phụ như cây đa, cây si… Vài người già ở Bà
Chiểu luôn cảm thấy bực mình khi chữ Hàng Sanh bị viết sai thành Hàng
Xanh như lâu nay.
Đường Hàng Bàng, ngày nay là Đinh Tiên Hoàng thuộc Bình Thạnh. Ảnh: Nguyễn Đình
Khi gả con gái út vào một gia đình ở ngã
Năm Bình Hòa, hiểu biết của bà ngoại tôi về vùng Bà Chiểu càng đầy lên
qua những câu chuyện với ông bà sui là dân cố cựu ở đây. Lúc đó, khoảng
đầu thập niên 1950 đã có đông người lao động nghèo về ở nhưng khỏang
thập niên 1920 thì còn thưa vắng. Từ Cầu Bông về xóm Đình gần đó người
ta còn làm ruộng, thậm chí còn thấy hai bên đường Hàng Bàng ruộng lúa
tươi tốt chín vàng khi đến mùa gặt. Thú vui của dân xóm Đình gần đó là
đi câu ếch và bắt cá lia thia, bắt còng. Cá lia thia ở đây là cá xiêm
lai, đá rất giỏi nên cá các xóm Cầu Lầu, Thanh Đa hay Hàng Sanh, Thị
Nghè gần đó đều chạy mặt.
Biên nhận gia công nữ trang năm 1929 tại Gia Định – Tư liệu gia đình bà Nguyễn Thị Nam,
Tuy nhiên, đám trẻ đi bắt cá lia thia ở
quanh quẩn đường Hàng Bàng trong ngày nghỉ học thường không dám nán lại
lâu vì sợ đến giờ Ngọ là giờ… ma đi. Giờ đó, mấy người thả trâu cũng đã
về ăn cơm chứ không còn ai ngoài ruộng. Ai cũng sợ cô Ba Trâm… nhát ma.
Nếu đi ngang con đường vào ban đêm thì thật là mừng nếu thấy có ánh đèn
dầu của mấy anh soi ếch, bắc cóc gần đó. Đi từ cầu Bông thì khách bộ
hành luôn mong cho nhanh tới Lăng Ông, vì phía trước Lăng có một dãy nhà
phố và một cái lò đóng móng bò. Cái lò này chính là nơi trú lý tưởng
khi gặp trời mưa, rồi từ đó đi tiếp về miệt Phú Nhuận, Bình Hòa hay Gò
Vấp vì không có nhà cửa nào gần đó.
Giấy mướn ruộng ở Gia Định năm 1920. Tư liệu gia đình bà Nguyễn Thị Nam,
Đứng tại lò đóng móng bò, không bị nhà
cửa nào che khuất nên có thể nhìn thấu tới xóm Đình, thấy cả một cây khô
rất cao là chỗ cô Ba Trâm treo mình tự tử ở đó. Cây này không ai dám
đốn hạ kể từ khi chuyện đó xảy ra vì ai cũng tin oan hồn cô vương vấn ở
đó. Từ lò đóng móng bò ngó qua bên kia đường có một miếng đất trống và
một cái nhà lợp thiếc, sườn bằng sắt. Đó là nơi phú de (fourrière, nơi
chưa đồ vật của công an) nhốt chó, nhốt bò vô chủ đi lang thang. Sau một
thời gian, phú de ấy dời đi. Trước kia ở đây là trại lính, cũng là nơi
tập dượt của lính mã tà. Dân quanh vùng thường thấy từng tốp lính bốn
năm người bồng súng có gắn lưỡi lê đứng tập theo khẩu lệnh của của mấy
chú cai, thầy đội. Người dân còn nhớ câu khẩu hiện dù không hiểu nghĩa
nhưng nghe riết thành thuộc lòng :
Chục ba la quăng băn tê !
Chục ba la de quách quả rề
Quách quả rê ! Rề bản lề ! Chục ba la về !
Về cô Ba Trâm, ông bà sui của ngoại tôi kể rằng: cô còn trẻ, con nhà khá
giả. Cô treo cổ tự tử sau khi bị bà mẹ ghẻ tàn độc hành hạ và ép gả
không theo ý mình. Nơi cô Ba Trâm tự tử là gốc cây trâm gần Trường Vẽ
Gia Định (Đại học mỹ thuật TPHCM ngày nay). Nơi đó cây cối sấm uất, nhà
cửa thưa thớt nên thân xác cô khi được phát giác đã không còn nguyên vẹn
do bị thú ăn. Vì chết oan, lại chết thảm nên người dân tin là hồn cô
không đầu thai được mà còn vất vưởng trên dương gian và họ đồn về đêm cô
hay hiện về trong dáng vẻ một cô gái bận áo trắng đứng đón xe song mã ở
Hàng Xanh đi dạo một vòng rồi về Gia Định. Xe nào đưa cô đi thì gặp
may, từ chối thì gặp xui rủi và giở trò ong bướm sẽ bị vật chết. Bây giờ
người ta cho rằng xóm Đình chính là đoạn đường Nguyễn Duy hiện nay, một
con đường nhỏ còn tồn tại một số nhà kiểu xưa.
Văn bản ở đình Bình Hòa. Tư liệu gia đình bà Nguyễn Thị Nam,
Câu chuyện này rộ lên từ cuối thập niên
1910 và mai một dần, hầu như dân cư ở đó không mấy ai biết. Tôi hỏi về
câu chuyện đó, chú Lý Lược Tam, một nhà nghiên cứu cho biết đến đầu thập
niên 1950, không thấy ai còn nhắc đến chuyện cô Ba Trâm nữa ngoài những
câu chuyện của ông bà kể cho con cháu nghe. Đến lúc đó, đường Hàng Bàng
đã trở thành đường Lê Văn Duyệt và nhà cửa đã đông đúc hơn. Phía bên
trái, từ Lăng Ông đi Cầu Bông nhiều nhà hơn, sau này đến thập niên 1960 ở
hẻm số 100 nhiều người biết vì trong đó có Tiệm bán khăn đóng “Khăn đen
Suối Đờn” nổi tiếng từ Thủ Dầu Một xuống làm ăn. Gần Cầu Bông có bãi
đất trống sau khi chặt bỏ những cây bàng. Buổi chiều người dân tụ lại
thành khu chợ trời, bán đủ thứ phục vụ cho bữa ăn như nồi đất, bí bầu,
gạo…có cả một ông thợ may được gọi là anh Năm đặt bàn máy may ở đó may
quần áo cho khách. Có cả mấy cái quán cà phê.
Công Lăng Đức ông Lê Văn Duyệt. Ảnh: Nguyễn Đình.
Năm 1952, nghệ sĩ lão thành Năm Châu đến
mua một trại cưa trong con đường dốc là nhánh của đường Hàng Bàng đổ
xuống khu Miếu Nổi, làm thành chỗ ăn ở cho đoàn Việt kịch Năm Châu. Ở
đó, gia đình ông ở một cái nhà sàn de ra sông, khỏang giữa dành làm sân
khấu để tập tuồng và trong trại chia ra từng gia đình nghệ sĩ ở với cái
bếp chung, ăn “cơm hội”. Gia đình nghệ sĩ Trần Hữu Trang cũng ở một cái
nhà sàn gần đó. Cho đến sau 1975, đến lượt nhà văn Sơn Nam cũng về ngụ
trên con đường này, rất tiện cho ông khi cần đi đến Lăng Ông để tham gia
việc Lăng, hoặc đi giao dịch các tòa báo ở quận I, quận 3. Khi đến thăm
ông năm 1999, ông nhắc lại một chuyện: Khi con trai là Nguyễn An Ninh
còn măng trẻ muốn sang Pháp du học, cụ Nguyễn An Khương, một nhà nho yêu
nước hưởng ứng phong trào Duy Tân và Đông Du đã đưa con đến Lăng Ông Bà
Chiểu để tuyên thệ giữ vững khí tiết, không bị bả vinh hoa xứ người mê
hoặc mà phản bội quê hương. Con trai ông không chỉ vượt qua mọi cám dỗ
vinh hoa mà còn trở nên một nhà cách mạng lừng lẫy chống chế độ thực
dân. Câu chuyện khiến tôi nghĩ nhiều về vai trò của Lăng Ông trong đời
sống người Sài Gòn- Gia Định. Họ đến Lăng không chỉ để cầu xin buôn may
bán đắt, thề thốt đúng sai với nhau mà còn là đến để có nơi chứng giám
lòng kiên trinh với đất nước. Một nơi như vậy sẽ không bao giờ có cảnh
hương tàn khói lạnh cho dù cuộc sống có biến đổi thế nào đi nữa.
Tranh Phạm Công Tâm.
Cơn mưa đầu hè khiến tôi trú lại khu chợ
Bà Chiểu, ăn tô mì hòanh thánh bên cái xe có tranh kiếng màu đầy tích
tuồng xưa cũ. Những mảng màu đã lợt lạt trên tranh. Tô hoành thánh không
còn ngon như hồi được bà ngoại cho tôi đi ăn mỗi khi thăm bà bác, sui
gia của bà ở đầu hẻm Ba cây Sao. Mưa đi qua vùng Bà Chiểu, như đã qua
trăm năm trước, nhưng cảnh vật đã khác rất nhiều, trên một vùng đất văn
hóa tiêu biểu của đất Gia Định .
Theo Phạm Công Luận/Sài Gòn – chuyện đời của phố
Lăng Ông Bà Chiểu: Nơi thờ vị đệ nhất khai quốc công thần dưới triều vua Gia Long
Thượng
Công miếu, Lăng Ông – Bà Chiểu, hay lăng Ông, là khu đền và mộ của Tả
quân Lê Văn Duyệt (1764-1832) hiện nay tọa lạc tại số 1 đường Vũ Tùng,
phường 1, quận Bình Thạnh, Sài Gòn.
Lăng Ông Bà Chiểu (Ảnh qua wikipedia)
Lăng mộ và kiến trúc
Lăng
Ông Bà Chiểu rộng 18.500 m² trên một gò đất cao, nằm giữa bốn con
đường: Đinh Tiên Hoàng, Phan Đăng Lưu, Trịnh Hoài Đức và Vũ Tùng. Lăng
nằm kế bên khu chợ Bà Chiểu nên mỗi khi nhắc đến tên chợ này là nghĩ
ngay đến lăng Ông. Rất nhiều người nơi khác thường nhầm rằng đây là lăng
thờ ông và bà tên Chiểu, thật ra không phải như vậy, đây là lăng thờ
ông bà Lê Văn Duyệt và do lệ kiêng cữ tên không biết từ lúc nào người
dân đã ghép hai từ “lăng Ông” với hai từ “Bà Chiểu” để chỉ khu lăng của
Tả Quân. Theo cuốn sách năm xưa của cụ Vương Hồng Sến, tên Bà Chiểu là
tên vùng đất, chỉ mới xuất hiện thời vua Tự Ðức. Chiểu có nghĩa là ao
nước thiên nhiên, Bà Chiểu là nữ thần được thờ bên ao thiên nhiên. Ở Thủ
Đức cũng có vùng đất tên là Linh Chiểu.
Chung
quanh khu lăng có bức tường bao bọc dài 500m, cao 1,2 m được trổ bốn
cổng ra vào theo bốn hướng, được xây dựng vào năm 1948. Năm sau, cổng
Tam quan cũng được xây. Cổng có hàng đại tự nổi bằng chữ Hán Thượng Công
Miếu, được đặt ở hướng Nam, mở ra đường Vũ Tùng, thời Đệ Nhứt và Đệ Nhị
Cộng Hòa cổng này đã từng được chọn là biểu tượng của vùng Sài Gòn-Gia
Định xưa và khu lăng được xây dựng trên một trục đường chính. Từ cổng
Tam quan ở phía Nam vào qua một khu vườn cảnh là nhà bia nơi đặt bia đá
ghi công đức Tả quân – Mộ Tả quân và vợ, có bình phong và tường hoa bao
quanh Miếu thờ.
Lăng Ông Bà Chiểu. (Ảnh qua danang24h.vn)
Nhà
bia được xây dựng như một ngôi điện nhỏ, tường gạch, mái lợp ngói âm
dương. Bên trong có tấm bia đá khắc văn bia chữ Hán đề “Lê công miếu bi”
(Bia dựng tại miếu thờ Lê công) do Kinh lược sứ Hoàng Cao Khải viết năm
Giáp Ngọ (1894). Nội dung văn bia ca tụng công đức Lê Văn Duyệt đối với
triều đình và nhân dân.
ADVERTISEMENT
Phần
mộ gồm hai ngôi mộ song táng: Tả quân và vợ là bà Đỗ Thị Phận. Hai ngôi
mộ đặt song song và được cấu tạo giống nhau, có hình dạng như nửa quả
trứng ngỗng xẻ theo chiều dọc, úp trên bệ lớn hình chữ nhật. Trước mộ có
một khoảnh sân nhỏ để làm lễ. Từ nơi nhà bia nhìn vào, mộ Lê Văn Duyệt
phía bên phải. Bao quanh mộ là một bức tường bằng đá ong dày hình chữ
nhật, thông ra tận sân đốt nhang đèn.
Nhà bia của khu lăng mộ. (Ảnh qua nghean24h.vn)
Ngoài
ra, ở đây còn hai phần mộ nhỏ của hai cô hầu cách khu lăng mộ một
khoảng sân rộng đến khu vực “Thượng công linh miếu”, nơi diễn ra các
sinh hoạt tín ngưỡng của nhân dân trong việc thờ cúng Lê Văn Duyệt. Bố
cục của miếu bao gồm tiền điện, trung điện và chính điện. Mỗi gian điện
thờ cách nhau bằng một khoảnh sân lộ thiên, gọi là sân thiên tỉnh (giếng
trời). Đối xứng hai bên trục nhà chính là hai dãy Đông lang và Tây
lang, công trình mang dấu ấn của lối kiến trúc miếu thờ nhà Nguyễn, với
những mái “trùng thiềm điệp ốc” và kỹ thuật kết nối khung nhà bằng các
lỗ mộng. Ngoài ra, nhờ kỹ thuật chạm khắc gỗ, chạm khắc đá, khảm sành sứ
mà nơi thờ cúng này còn giữ được vẻ đẹp cổ kính cho đến ngày nay.
Thân thế và sự nghiệp của Tả quân Lê Văn Duyệt
Con
người này ít học nhưng lạ lùng thay lại có được cái nhìn cởi mở hơn
nhiều những đại thần và cả nhà vua học rộng, giàu kinh sử của Khổng
giáo. Ngài sống thanh liêm, muốn mở mang đất Gia Định này trù phú hơn
mọi quốc gia khác ở trong vùng biển Đông…
Lê
Văn Duyệt sinh năm Giáp Thân 1764 tại Cù Lao Hổ, cạnh vàm Trà Lọt, nay
thuộc làng Hòa Khánh, tỉnh Tiền Giang. Nội tổ là Lê Văn Hiếu từ Quảng
Ngãi đi vào Nam sinh sống. Sau khi ông Hiếu qua đời , cha Lê Văn Duyệt
là Lê Văn Toại và thân mẫu là Phúc Thị Hào rời Trà Lọt đến ở tại vùng
Rạch Gầm, thuộc làng Long Hưng tỉnh Tiền Giang ngày nay.
Thuở
nhỏ Lê Văn Duyệt ít chịu học hành mà chỉ thích bắt chim, đánh cá, nhất
là việc nuôi gà, đá gà và tụ tập các trẻ trong làng, chia phe tập trận
đánh giặc. Sau này, ông còn là người rất mê xem đấu hổ, đấu voi. Ngoài
ra ông cũng là người sành thưởng thức hát bội và thường tự tay cầm chầu.
Tương truyền ông khỏe mạnh, thông minh, giỏi võ thuật, tuy không học
nhiều, nhưng biết nhiều tuồng tích Tàu.
Lê Văn Duyệt luôn ước ao trở thành hào kiệt như trong truyện xưa miêu tả. Mới 15 tuổi, Lê Văn Duyệt đã nói “sinh ở đời loạn, không dựng cờ đánh trống đại tướng, chép công danh vào sử sách không phải là trượng phu”.
Lê Văn Duyệt trên tờ tiền 100 đồng.
Năm
Lê Văn Duyệt lên 17 tuổi, một cơ may đến với ông. Đêm hôm đó chúa
Nguyễn Phúc Ánh bị quân nhà Tây Sơn đuổi gấp. Nhờ mưa to gió lớn thuyền
của đối phương không đuổi kịp, tưởng vậy đã yên, nào ngờ khi vừa đến vàm
Trà Lọt thì thuyền chở chúa bị sóng lớn làm cho suýt chìm. Lê Văn Duyệt
xuất hiện đúng lúc, cứu Nguyễn Phúc Ánh thoát nạn.
Biết
là gặp dòng dõi chúa Nguyễn, cụ Lê Văn Toại hết sức cung kính, cho tất
cả tạm trú ở đây, nhân đó ông được Nguyễn Phúc Ánh tuyển dụng làm thái
giám. Ít lâu sau, Lê Văn Duyệt được phong làm cai cơ trông coi nội binh.
Từ năm 1789, ông bắt đầu đứng vào hàng tướng lãnh của chúa Nguyễn. Năm
1793, Lê Văn Duyệt cùng với Nguyễn Phúc Ánh đi đánh Qui Nhơn, lấy được
phủ Diên Khánh và phủ Bình Khương.
Tháng
1 năm 1801, ông cùng chúa và các tướng lãnh khác như Nguyễn Văn Trương,
Tống Phước Lương, Võ Di Nguy đánh chiếm cửa biển Thị Nại. Trận Thị Nại
khiến quân Tây Sơn thua to. (Xem bài: Trận thủy chiến hỏa công bậc nhất sử Việt vào đầu thế kỷ 19)
Tháng
4, Nguyễn Phúc Ánh đem thủy quân ra Đà Nẵng. Đến tháng 5 vào cửa Tư
Dung. Lê Văn Duyệt phá được quân Tây Sơn, bắt được phò mã Nguyễn Văn Trị
và đô đốc Phan Văn Sách rồi vào cửa Eo. Vua Cảnh Thịnh mang quân ra giữ
cửa Eo nhưng thua phải chạy ra Bắc.
Ngày 3 tháng 5, Nguyễn Phúc Ánh đem binh vào thành Phú Xuân.
Tháng
5 năm 1802, chúa Nguyễn lên ngôi, chọn đế hiệu: Gia Long. Vua phong Lê
Văn Duyệt là Khâm Sai Chưởng Tả Quân Dinh Bình Tây Tướng Quân, lệnh cùng
với Lê Chất mang quân thâu phục Bắc Hà. Chỉ trong vòng một thời gian
ngắn thì xong việc.
Do có nhiều công
lao lớn nên Lê Văn Duyệt được liệt vào hàng Đệ Nhất Khai Quốc Công Thần,
với đặc ân được vào chầu vua không phải lạy (nhập triều bất bái) và
được đặc quyền chém trước tâu sau (tiền trảm hậu tấu) nơi biên
thùy. Cũng vì thế, sau này ông không chịu lạy vua Minh Mạng và đã giết
Huỳnh Công Lý, cha một quí phi của ông vua này, vì tội tham nhũng.
Lê
Văn Duyệt còn là người được vua Gia Long triệu vào cung hỏi ý kiến về
việc chọn ngôi Thái tử. Tuy vua không nghe lời ông chọn con của Đông
Cung Cảnh nối ngôi, thay vì hoàng tử Đảm là vua Minh Mạng sau này, nhưng
ông vẫn phò tá cho đến hết đời, mặc dù lòng không kính phục ông vua
trẻ.
Ngược lại, Minh Mạng cũng không
ưa gì Lê Văn Duyệt nhưng vẫn phải dùng đến. Năm 1823, Lê Văn Duyệt được
Minh Mạng ân thưởng ngọc đái với lời dụ: “Từ xưa hoàng tử, chư công chưa ai được ân tứ ngọc đái này, nay khanh đã nhiều công lao nên đặc biệt ân tứ vậy.”
Sài Gòn hoa lệ là một
thành phố hiện đại nhưng ẩn mình trong nó vẫn còn nhiều công trình cổ
xưa được gìn giữ tới tận ngày nay. Một trong số đó là Lăng ông bà Chiểu.
Lăng ông bà Chiểu vô cùng cổ kính
1. Địa chỉ
Lăng ông
bà Chiểu hay Thượng Công miếu là khu đền và mộ của Tả quân lê Văn Duyệt
ở địa chỉ số 1 đường Vũ Tùng, phường 1, quận Bình Thạnh, TP Hồ Chí
Minh.
Nơi đây
rất dễ tìm đường tới bởi được bao quanh bởi các con đường Đinh Tiên
Hoàng, Phan Đăng Lưu, Vũ Tùng, Trịnh Hoài Đức và ở ngay gần chợ Bà
Chiểu.
Lăng ông
bà Chiểu là quần thể khu đền và ngôi mộ của Tả Quân Lê Văn Duyệt – Tống
trấn thành Gia Định khi xưa và vợ là bà Đỗ Thị Phận. Ở đây còn có mộ
của hai cô hầu nằm bên ngoài khuôn viên lăng. Tất cả nằm trong một khu
đất rộng 18.500m2.
Khu đền nổi bật với sự cổ kính theo thời gian của mình ( Ảnh ST)
Rất
nhiều người lầm tưởng rằng đây là lăng thờ ông bà tên Chiểu nhưng tuy
nhiên không phải vậy. Do lăng nằm trên chợ Bà Chiểu và do tục lệ kiêng
cữ tên nên không biết từ khi nào, người dân đã ghét hai từ “Lăng ông”
với hai từ “bà Chiểu” để gọi tên địa điểm này.
Khu lăng
mộ của Tả Quân Lê văn Duyệt được xây dựng từ năm 1948 và đây là một
trong những nơi linh thiêng, cổ xưa của Sài Gòn. Lăng được bao bọc bởi
tường dài 500m, cao 1,2m và có bốn cổng theo bốn hướng ra bốn con đường.
Du khách tới đây có thể chụp ảnh tại những bức tường này sẽ cực kì ấn
tượng với nét cổ điển nơi đây.
Bức tường vàng cổ kính tại đây ( Ảnh ST)
Phía bên
trong Lăng Ông có kiến trúc cổ kính với một trục đường chính, từ phía
cổng Tam quan vào có một khu vườn cảnh và nhà bia, lăng mộ, miếu thờ ở
đây. Nhà bia của Lăng Ông được xây dựng như một ngôi điện nhỏ, tường
gạch và mái ngói lợp âm dương. Ở trong còn có tấm bia đá khắc chữ Hán
“Lê công miếu bi” do Kinh lược sứ Hoàng Cao Khải viết năm 1894 với nội
dung ca ngợi công đức Lê Văn Duyệt đối với triều đình cũng như nhân dân.
Một phần lăng mộ nơi đây ( Ảnh ST)
Phía mộ thì gồm mộ của tả Quân và vợ là bà Đỗ Thị Phận đặt song song. Bao quanh mộ là một bức tường bằng đá ong dày hình chữ nhật thông ra tận sân đốt nhang đèn.
Công
trình mang đậm dấu ấn, lối kiến trúc miếu thờ nhà Nguyễn với kỹ thuật
chạm khắc trên gỗ, trên đá cực kỳ đặc biệt còn giữ được vẻ đẹp cho đến
ngày nay. Khu miếu thờ có màu sắc chủ đạo là đỏ và vàng là nơi các bạn
trẻ thường lựa chọn là background chụp hình vào những ngày lễ tết.
3. Ngày lễ tại đây
Hàng
năm, vào ngày 29,30 tháng 7, mồng 1,2 tháng 8 âm lịch nơi đây tổ chức lễ
giỗ Lê Văn Duyệt thu hút rất nhiều người dân và du khách thập phương
tới đây. Người dân tới đây có thể cầu bình an, sức khỏe, tình duyên cho
gia đình mình.
Khu đốt nhang tại đây ( Ảnh ST)
Chú ý là
nếu các bạn trẻ có tới đây chụp hình ngày lễ thì nên chú ý bởi đây là
chốn tâm linh nên chú ý giữ trật tự, vệ sinh chung, không xả rác tại
đây.
(ĐC sưu tầm trên NET) Oscar Là Ai? Câu Chuyện Về Cuộc Đời Bi Kịch Của “Thiên Tài Bị Xã Hội Vùi Dập” Ít ai biết rằng, giải thưởng danh giá của làng điện ảnh – Oscar - được lấy theo tên của nhà văn nổi tiếng Oscar Wilde. Năm 1854, khi rửa tội cho con trai thứ hai nhà Wilde, Đức cha Prideaux Fox không hề biết rằng cậu bé này rồi sẽ là “thiên tài bất thường” của Ireland. Về sau, Oscar Wilde đã trở thành một trong những nhân vật đặc biệt nổi bật của giới văn chương, người luôn ở giữa tôn vinh và hạ nhục, giữa cái đẹp và sự tăm tối, giữa sa hoa và khốn cùng. Không nhiều người có thể trả lời câu hỏi: " Oscar là ai?" Quang Thạch | 01/03/2016 10:07 7 Theo một video phỏng vấn ngay trước thềm Oscar 2016, các diễn viên tới dự giải Oscar cũng không thể trả lời câ...
(ĐC sưu tầm trên NET) Thời sự quốc tế sáng 10/5/2018 TIN TỨC VIỆT NAM MỚI NHẤT TRONG NGÀY 10/5/2018 60 Giây Chiều - Ngày 09/05/2018 - Tin Tức Mới Nhất An ninh ngày mới ngày 09.05.2018 - Tin tức cập nhật TRỰC TIẾP THỜI SỰ BIỂN ĐÔNG 10/05 Cận cảnh Tàu Việt Nam trong diễn tập Komodo 2018 Hai Chị Em - Trung Hậu và Thuỵ Vân Hội nghị Trung ương 7: Sẽ có quyết sách dẹp vấn nạn "cả họ làm quan" (TTXVN/Vietnam+) 09/05/2018 21:06 GMT+7 Bản in Đại biểu dự hội nghị. (Ảnh: Phương Hoa/TTXVN) Hội nghị lần thứ 7, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII, diễn ra từ ngày 7-12/5, tập trung thảo luận, cho ý kiến về các nội dung: xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; cải cách chính sách tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang và người lao động trong các doanh nghiệp; cải cách chính sách bảo hiểm xã hội; và một ...
(ĐC sưu tầm trên NET) Giang hồ Sài Gòn trước 1975: Trùm du đãng Mã Thầu Dậu Mã Thầu Dậu nhận tất cả đơn đặt hàng giải quyết ân oán trong đời thường và trong làm ăn. "Tiền nào của ấy" nên mỗi dịch vụ đều có mức giá khác nhau. Trùm du đãng một vùng rộng lớn không hành xử như đám du đãng cắc ké. Chợ Lớn có trùm du đãng ba Tàu Mã Thầu Dậu (Con ngựa đầu gà) nổi tiếng với vai trò đâm thuê chém mướn. Trùm bảo kê Mã Thầu Dậu xuất thân từ một đứa bé con nhà người Hoa gốc Quảng Đông nghèo. Tuổi thơ Mã Thầu Dậu trải qua nhiều cơ cực, từ bửa củi thuê, bưng cà phê, bưng hủ tiếu đến cả rửa chén bát thuê. Mã Thầu Dậu khởi nghiệp trùm du đãng khét tiếng trên hè phố La Kai (đường Nguyễn Tri Phương, quận 5 ngày nay). Hắn nổi danh nhờ những vụ trừ khử đám du thủ du thực cho các chủ tiệm buôn giàu có người Hoa và dần đi theo con đường đâm thuê chém mướn chuyên nghiệp. Khu vực chợ Lớn xưa Băng du đãng Mã Thầu Dậu h...
Nhận xét
Đăng nhận xét