Thông
qua các tài liệu chính sử và văn bia, thần phả, thần tích, chúng ta
được biết, Trần Thủ Độ là người có bản lĩnh chính trị và cá tính khác
thường. Ông xử lý việc gì cũng thẳng thắn, quả quyết theo ý chí của
mình, ít khi để cho tình cảm sai khiến. Ông là người luôn đặt lợi ích
của dòng họ Đông A lên trên.
Có
thể nói ông là nhân vật trụ cột, là người thực hiện thành công ý tưởng
đoạt ngôi vua triều Lý về tay triều Trần mà Trần Tự Khánh trước đây
thường ấp ủ nhưng không thực hiện được vì ông mất sớm (1223). Trần Thủ
Độ là một đại công thần, là người sáng lập và trực tiếp lãnh đạo công
cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước những năm đầu thời kỳ nhà Trần. Trong
suốt 40 năm (1226-1264), cuộc đời và sự nghiệp của ông gắn liền với
nghiệp đế của họ Trần, với quá trình khôi phục và phát triển kinh tế xã
hội Việt Nam từ đống tro tàn của triều Lý vào thế kỷ XIII.
Chiến
công oanh liệt đánh bại quân xâm lược Mông Cổ lần thứ nhất (1258) và
câu nói bất hủ, khảng khái, thể hiện ý chí của người anh hùng: "Đầu thần
chưa rơi, xin bệ hạ đừng lo" của ông, đã để lại trong dân tộc Việt Nam
một hình tượng Trần Thủ Độ anh hùng, bất khuất, tài năng, quả cảm. Đánh
giá về ông xưa nay vẫn có nhiều cách nhìn nhận khác nhau; nhưng không
thể phủ nhận được công lao to lớn của ông với Vương triều Trần và nhà
nước Đại Việt.
Trần
Thủ Độ sinh năm Giáp Dần (1194), ở Lưu Gia, Tinh Cương, hương Đa Cương
(nay là làng Lưu Xá, xã Canh Tân, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình).
Theo
nguồn tư liệu điền dã của cụ Dương Quảng Châu, thì thân sinh của Trần
Thủ Độ là Trần Hoằng Nghị. Đáng tiếc các tư liệu điền dã đó chưa đủ cơ
sở để chứng minh một cách khoa học, chính xác về thân phụ của Trần Thủ
Độ. Chính sử đều ghi ông mồ côi cha mẹ từ bé và ở với bác là Trần Lý chứ
không ghi rõ bố mẹ ông là ai.
Thực tế khảo sát điền dã ở làng Mẹo (Thái Phương, Hưng Hà), chúng ta đã thấy rõ
đền đình ở đây thờ lục vị thần hoàng (những vị thần hoàng này không có
ai là họ Trần như một số người lầm tưởng); và cũng không thờ vị nào tên
là Trần Hoằng Nghị được tôn là thần hoàng hay phúc thần của làng. Nhân
vật được thờ ở làng Xuân La và Phương La là "Trang Nghị Đại Vương". Đây
là nhân vật mà một số nhà nghiên cứu cho rằng đó là Trần Hoằng Nghị,
nhưng theo thần phả, thần tích ở đình làng Xuân La thì Trang Nghị Đại
Vương là một Thiên thần (con thần sấm) được vua Đường Trung Quốc và Cao
Biền phong cho chứ không phải là một nhân thần.
Thực
tế, nếu một người có công với dân với nước như Trần Hoằng Nghị: Khai
hoang, lập ấp, dạy dân làm nghề, mở chợ, buôn bán và lại là thân sinh
của Trần Thủ Độ (?) thì chắc hẳn triều đình phong kiến ngày xưa chí ít
cũng phải phong cho ông làm một chức gì đó hoặc tôn ông làm thần hoàng
và thờ ở đình làng. Ngay cả Trần Thủ Độ cũng không được thờ ở làng ứng
Mão xa xưa thì quả là điều vô lý vì nó trái với đạo lý uống nước nhớ
nguồn của người Việt Nam.
Từ đó có thể nói rằng, đền Nhà Ông và Trần Hoằng Nghị không liên quan
đến Trần Thủ Độ. Ông sinh ra ở Lưu Xá chứ không phải ở làng Mẹo như một
số người lầm tưởng.
"Đại
Việt sử ký toàn thư" từng ghi nhận thời Trần có hai người được vua cho
lập sinh từ thờ khi vẫn còn sống là Trần Thủ Độ và Trần Quốc Tuấn. Vậy
chẳng lẽ bố Trần Thủ Độ lại không được thờ phụng hoặc được truy phong,
chí ít cũng là thần hoàng của một làng (?). Trong khi đó ở Hưng Hà hiện
có năm làng thờ Trần Thủ Độ nhưng không phải là ở làng Mẹo mà là ở tổng
Tống Xuyên xưa (nay gồm các xã Thái Hưng, Liên Hiệp thuộc Hưng Hà, Thái
Bình).
Điều
đó rõ ràng không phải nhà Trần quên Trần Hoằng Nghị mà thực ra không có
nhân vật này. Thực tế chỉ có vị Thiên thần Trang Nghị Đại Vương được
thờ ở xã Thái Phương mà thôi. Vì thế, không thể nói khi chưa đủ chứng cứ
để khẳng định có nhân vật Trần Hoằng Nghị và càng không thể nói ông là
thân sinh của Trần Thủ Độ được. Giáo sư Vũ Khiêu trong tổng kết cuộc hội
thảo về Trần Hoằng Nghị tại Hà Nội năm 2007, khi đánh giá về việc ai là
thân sinh của Trần Thủ Độ, đã nói: "Đây là vấn đề tồn nghi cần phải tìm
hiểu các tư liệu ở các địa phương trong nước và ngoài nước. Tiến hành
hội thảo nhiều lần mới đi đến kết luận chính xác được".
Thực
tế bố mẹ Trần Thủ Độ là ai, đến nay qua bảy, tám trăm năm vẫn chưa ai
giải đáp được (kể cả Lê Văn Hưu - sử gia thời Trần; Phan Phu Tiên và Ngô
Sĩ Liên - thời Lê).
Chính
sử khẳng định Trần Lý ở Lưu Gia trang và chính sử cũng cho biết Trần Lý
nuôi Trần Thủ Độ từ nhỏ. Từ đó có thể nói Trần Thủ Độ sinh ra ở đất Lưu
Xá (Hưng Hà, Thái Bình). Cuộc đời Trần Thủ Độ là cuộc đời của một con
người tài ba, thao lược cả về chính trị, quân sự và kinh tế... Có thể
nói sau khi Trần Tự Khánh chết (1223), Trần Thủ Độ là người kế tục một
cách xuất sắc sự nghiệp toan tính giành ngôi từ vương triều nhà Lý về
tay nhà Trần. Đỉnh cao của toan tính này là "màn kịch" nhường ngôi vua
của Lý Chiêu Hoàng cho chồng là Trần Cảnh vào cuối thời Lý (1225); mở
đầu cho giai đoạn nắm quyền cai trị nước Đại Việt của Vương triều Trần.
Khi còn sống, Trần Thủ Độ là người nắm thực quyền và là linh hồn của
Vương triều Trần. Sử chép: "Thủ Độ tuy làm Tể tướng, nhưng mọi việc
không việc gì là không để ý tới". Thực tế khi Trần Cảnh bị ép lấy chị
dâu (vợ Trần Liễu), bỏ lên Yên Tử nhưng cuối cùng cũng phải quay về kinh
thành trước sự cứng rắn và khôn khéo của Trần Thủ Độ: "Vua ở đâu thì
kinh thành ở đó". Với tư tưởng có dựng được nước mạnh mới giữ được nước
bền, Trần Thủ Độ tiến hành từng bước đổi mới đất nước Đại Việt.
Trần
Thủ Độ là người không chỉ có mưu lược trong việc dựng nước và giữ nước
mà ông còn là một người có đầu óc tổ chức, phát triển kinh tế đất nước.
Các tư liệu lịch sử về việc đổi mới kinh tế thời Trần (khi Trần Thủ Độ
còn sống) không có nhiều, nhưng qua các tài liệu hiện còn lưu giữ, ta có
thể thấy rằng khi thực sự nắm quyền điều hành đất nước, Trần Thủ Độ và
Vương triều Trần đã nhận thấy sự yếu kém về kinh tế của nhà nước Đại
Việt dưới thời Lý Huệ Tông. Vì thế ông đã tiến hành cho phép chuyển công
hữu thành tư hữu.
Cụ
thể, "Đại Việt sử ký toàn thư" ghi: "Tháng Sáu bán ruộng công, mỗi diện
5 quan tiền (diện tương đương với mẫu bây giờ), cho phép nhân dân mua
làm ruộng tư".
Sau
khi đã nắm thực quyền trong tay, Thủ Độ đã tấu với vua không chỉ bán
ruộng cho những người nông dân không tấc đất cắm dùi mà ông còn củng cố
đê điều, đắp đê ngăn nước mặn, đào sông khai thông đường thuỷ, bộ. "Đại
Việt sử ký toàn thư" viết: "Tháng 3, sai các lộ đắp đê giữ nước sông,
gọi là đê Đỉnh Nhĩ (Quai Bạc), đắp suốt từ đầu nguồn đến bờ biển để giữ
nước lụt khỏi tràn ngập. Đặt chức Hà đê Chánh phó sứ để trông coi. Chỗ
đắp thì đo xem đắp mất bao nhiêu ruộng đất của dân, theo giá trả lại
tiền. Đắp đê Đỉnh Nhĩ bắt đầu từ đấy"(1). Qua các tài liệu lịch sử triều
đại thì các công trình thuỷ lợi dẫn nước, tiêu nước sản xuất nông
nghiệp ở thời nhà Trần phát triển rất cao.
Trần
Thủ Độ huy động không chỉ sức dân mà còn lệnh cho binh lính phải tham
gia làm thuỷ lợi. "Đại Việt sử ký toàn thư" ghi: "Tân Mão năm thứ 7
(1231), (Tống Thiên Định năm thứ 4), mùa xuân, tháng giêng, sai Nội Minh
Tự là Nguyễn Bang Cốc (hoạn quan) trông coi các binh hữu đường phủ, đào
vét các kênh trầm và hào từ phủ Thanh Hoá đến cõi Nam Diễn Châu"(2).
Được sự tấu trình của Trần Độ, Trần Cảnh xuống chiếu cho cả nước Đại
Việt dùng tiền "tinh bạch", mỗi tiền là 60 đồng (tiền nộp cho nhà nước
là tiền thượng cung thì mỗi tiền là 70 đồng).
"Năm
Bính Thìn (1236), mùa xuân, tháng giêng, định lệ cấp lương bổng cho các
quan văn võ trong triều và các quan ở cung điện, lăng miếu, chia tiền
thuế ban cấp theo thứ bậc" (Sđd). Không những thế, Trần Thủ Độ còn bỏ
tiền đánh thuế bằng hiện vật, thu thuế bằng tiền mặt. Một sự đổi mới
chính sách thuế theo sở hữu ruộng đất cũng là một việc làm hơn hẳn các
triều đại trước. Nó thể hiện tư duy phát triển kinh tế rất cao của Trần
Thủ Độ: "Nhân dân có ruộng đất thì nộp tiền thóc, người không có ruộng
đất thì miễn cả... (riêng tô vẫn thu bằng thóc)" (Sđd).
"Tháng
Chín, xuống chiếu cho các ty xét án được lấy tiền bình bạc" hoặc "duyệt
sổ đinh" để thu thuế và cũng là để điều động xây dựng kinh tế, thành
lập ra 61 phường ở kinh thành để quản lý việc giao thương. Rõ ràng, dưới
sự quản lý và chỉ đạo của Trần Thủ Độ, kinh tế Đại Việt đã phát triển
mạnh mẽ, việc buôn bán giao lưu bằng đường bộ, đường sông rất thuận lợi,
không những thế ông còn chú trọng mở các thương cảng ven sông, biển để
đẩy mạnh việc giao lưu buôn bán hàng hoá trong nước và ngoài nước.
Không
chỉ chú trọng phát triển kinh tế mà ông còn chủ trương phát triển Nho
học. Trần Thủ Độ tâu vua cho xây Quốc Tử Giám, đẩy mạnh việc thi cử để
tuyển chọn hiền tài cho đất nước: "Tháng 2 (1232), thi thái học sinh. Đỗ
đệ nhất giáp là Trương Hanh, Lưu Diễm, đệ nhị giáp là Đặng Diễn, Trịnh
Phẫu, đệ tam giáp là Trần Chu Phổ"(1).
"Đinh
Mùi năm thứ 16 (1247), mùa xuân, tháng 2, mở khoa thi chọn học trò. Cho
Nguyễn Hiền đỗ trạng nguyên, Lê Văn Hưu đỗ bảng nhãn, Đặng Ma La đỗ
thám hoa, lấy đỗ thái học sinh 48 người"(2). Chính nhờ sự chú ý và coi
trọng (hiền tài là nguyên khí quốc gia) nên thời nhà Trần đã xuất hiện
rất nhiều hiền tài phục vụ cho công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Đặc
biệt là trong ba cuộc chiến tranh chống Nguyên Mông, các nhân sĩ, tướng
lĩnh Đại Việt, tuổi trẻ tài cao đã góp phần làm vẻ vang cho lịch sử dân
tộc như: Nguyễn Hiền, Đặng Ma La, Trương Hán Siêu, Phạm Ngũ Lão, Trần
Nhật Duật, Trần Quang Khải v.v...
Trần Thủ Độ còn hoạch định: "Chép công việc của quốc triều làm Bộ Quốc triều thường lễ, 10 quyển" (Sđd).
Ông
đề ra khung bậc, thể thức của luật hình. Tạo đường cho Bộ Quốc triều
hình luật ra đời để tiện việc nắm tình hình đất nước, quản lý chặt chẽ
hơn. Trần Thủ Độ chia nước thành 12 lộ, mỗi lộ đặt chức chánh phủ xứ.
Trần Thủ Độ còn duyệt định hộ khẩu trong cả nước, đặt các chức quan đại
tư xã cùng các chức xã chính, xã quan. Không chỉ là người đề ra các tư
tưởng pháp trị, mà ông còn để lại cho đời sau tấm gương về tính thẳng
thắn, nghiêm túc trong việc thi hành luật. Đối với ông, luật pháp không
phân biệt giàu nghèo, sang hèn, bất cứ ai, dù là đối tượng nào, ở vị trí
nào đi chăng nữa, nếu vi phạm lụât pháp đều bị xử lý theo đúng quốc
luật đã ban hành. Nặng hay nhẹ tuỳ thuộc vào hành vi vi phạm luật của
người đó.
"Đại
Việt sử ký toàn thư" chép: "Thủ Độ tuy không có học vấn nhưng tài lược
hơn người, làm quan triều Lý được mọi người suy tôn. Thái Tôn lấy được
thiên hạ đều là mưu sức của Trần Thủ Độ cả, cho nên nhà nước phải nhờ
cậy"... (tr.478).
Tài
năng nhìn người của ông được thể hiện ở việc "khi vua Trần Thái tông
muốn cho người anh của Thủ Độ là An Quốc làm tướng, Thủ Độ nói: "An Quốc
là anh thần, nếu là người hiền thì thần xin nghỉ việc, nếu cho là thần
hiền hơn An Quốc thì không nên cử An Quốc"... vua bèn thôi"(1). Phải
chăng, Trần Thủ Độ đã sớm nhìn ra tính cách hai mặt của anh trai mình?
Sự thật sau này An Quốc đã cùng với vợ (tương truyền là một công chúa
nhà Lý) nổi loạn chống lại nhà Trần ở Quắc Hương, Vụ Bản, Nam
Định. Cuộc nổi loạn đã bị chính Trần Thủ Độ dẹp tan. Phải khẳng định
rằng ông là người có bản lĩnh chính trị và cá tính đặc biệt trong lịch
sử Việt Nam. Ông làm việc gì cũng dứt khoát, xử lý quyết đoán theo ý chí của mình, ít để cho người khác sai khiến.
Ông
luôn là người đi tiên phong trong cuộc đấu tranh giành ngôi vua từ tay
nhà Lý chuyển sang nhà Trần cũng như các cuộc chiến đấu chống lại các
phe phái như Đoàn Thượng, Nguyễn Nộn hoặc trong kháng chiến chống Nguyên
Mông. Đối với ông hoặc là chết cả họ hoặc là được cả thiên hạ! Bất cứ
việc gì có lợi cho dòng tộc nhà Trần thì ông đều quyết làm bằng được.
Ông là người đa mưu túc trí, khi đánh dẹp các thế lực chống đối, ông
thấy thắng thì đánh, thấy cần hòa hoãn để đợi thời cơ thì tiến hành đàm
phán. Thậm chí gả cả em gái vua cho Nguyễn Nộn hoặc phong vương cho
Nguyễn Nộn và Đoàn Thượng (Đông Hải Đại Vương). Không những thế, ông còn
bày mưu chia rẽ, gây mâu thuẫn để Nguyễn Nộn tiến đánh và giết Đoàn
Thượng, nhằm mượn tay người để giảm bớt lực lượng chống đối mình.
Khi
giặc Nguyên xâm lược Đại việt lần thứ nhất, ông là linh hồn của cuộc
kháng chiến với câu nói bất hủ "Đầu tôi chưa rơi xuống đất thì bệ hạ
không cần lo ngại gì cả"(1). Ông là người ngồi trong màn trướng mà định
việc thiên hạ; chỉ đạo các tướng Lê Tần, Trần Khánh Dư, Trần Phó Duyệt
và kể cả Trần Hưng Đạo (lúc đó còn trẻ) ra trận. Ngay chính cả vua Trần
Thái Tông, thái tử Trần Hoảng... cũng đều vác gươm đánh giặc. Trần Thủ
Độ là nhà chính trị, kinh tế, quân sự toàn tài.
Ông
một lòng trung thành với triều đình nhà Trần. Đối với ông, Vương triều
Trần là tất cả. Ngay cả việc ép vợ Trần Liễu gả cho Trần Cảnh ông cũng
dám làm. Không phải ông không nghĩ tới việc Trần Liễu có hay không có
động thái phản ứng; mà điều ông quan tâm nhất là tương lai của ngai vàng
triều đình do ông tốn bao công sức xây dựng lên, liệu có người nối dõi
hay không. Ông quả là một công thần hiếm có của Vương triều Trần - Đại
Việt và là một người anh hùng của dân tộc Việt Nam ở thế kỷ thứ XIII.
Sử
chép: "Giáp Tý năm thứ 7 (1264), Tống cảnh định năm thứ 5, Nguyên chí
nguyên năm thứ 1, mùa xuân, tháng giêng, Thái sư Trần Thủ Độ chết (tuổi
71), truy tặng Thượng phụ Thái sư Trung Vũ Đại Vương".
Đặng Hùng
Hội viên Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét