Thứ Năm, 4 tháng 9, 2014

ĐỊA LINH NHÂN KIỆT 18 (Lý Công Uẩn)

(ĐC sưu tầm trên NET)

Lý Thái Tổ

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
 
Tượng Lý Thái Tổ.jpg
Tượng Lý Thái Tổ tại Hồ Hoàn Kiếm, Hà Nội, dựng năm 2004
 
Lý Thái Tổ (chữ Hán: 李太祖, 8 tháng 3, 97431 tháng 3, 1028), húy là Lý Công Uẩn (李公蘊), là vị Hoàng đế sáng lập nhà Lý trong lịch sử Việt Nam, trị vì từ năm 1009 đến khi qua đời năm 1028.
Dưới triều nhà Tiền Lê, ông làm quan đến chức Điện tiền chỉ huy sứ (殿前指揮使), là một chức quan võ chỉ huy quân đội bảo vệ kinh đô Hoa Lư (華閭) bấy giờ. Ông được lực lượng của Đào Cam Mộc (陶甘沐) và sư Vạn Hạnh (萬行) tôn làm vua sau khi vua Lê Long Đĩnh qua đời. Dưới triều ông, triều đình trung ương được củng cố, các thế lực phiến quân bị đánh dẹp, kinh đô được dời từ Hoa Lư về thành Đại La (大羅) vào tháng 7 năm Thuận Thiên thứ hai (1010), và thành này được đổi tên thành Thăng Long (昇龍).

Thân thế

Sinh ngày 12 tháng 2 năm Giáp Tuất (甲戌), niên hiệu Thái Bình (太平) năm thứ 5 triều Đinh (丁)  (tức ngày 8 tháng 3 năm 974 Tây lịch), là người ở hương Diên Uẩn (延蘊), châu Cổ Pháp (古法), lộ Bắc Giang (北江) (nay ở làng Dương Lôi, phường Tân Hồng, thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh có đền thờ). Mẹ ông họ Phạm (范). Khi lên ba tuổi, mẹ ông đem ông cho Lý Khánh Văn (李慶文), sư chùa Cổ Pháp (古法) làm con nuôi và đi tu từ đó. Đến bảy tuổi, ông được cha nuôi là Lý Khánh Văn gửi cho một người bạn - thiền sư nổi tiếng là Vạn Hạnh (萬行) dạy dỗ.
Lớn lên, với sự bảo hộ của sư Vạn Hạnh, ông vào kinh đô Hoa Lư (華閭) làm quan nhà Tiền Lê, thăng đến chức Tả thân vệ Điện tiền chỉ huy sứ (左親衛殿前指揮使). Theo Đại Việt sử ký toàn thư, ông là người khoan thứ nhân từ, có lượng đế vương. Các sử gia ghi chép không thống nhất về nguồn gốc và thân thế của ông. Ông đã được sư Vạn Hạnh ở chùa Lục Tổ (六祖) khen như sau:
Đứa bé này không phải người thường, sau này lớn lên ắt có thể giải nguy gỡ rối, làm bậc minh chủ trong thiên hạ.
Sư Vạn Hạnh

Thời Tiền Lê

Lý Công Uẩn lớn lên thời Lê Đại Hành, ông theo giúp hoàng tử Lê Long Việt.
Năm 1005, Lê Đại Hành mất, các con tranh giành ngôi vua. Năm 1006, Lê Long Việt giành được ngôi báu, trở thành vua Lê Trung Tông. Nhưng chỉ được 3 ngày Trung Tông bị em là Lê Long Đĩnh giết hại giành ngôi. Lúc đó các quan đều sợ hãi bỏ chạy, chỉ có Lý Công Uẩn đến ôm xác Trung Tông khóc.
Lê Long Đĩnh không những không trị tội mà khen Lý Công Uẩn là người trung nghĩa, tiếp tục trọng dụng ông vào chức cho làm Tứ sương quân phó chỉ huy sứ, rồi sau đó thăng đến chức Tả thân vệ điện tiền chỉ huy sứ.
Theo "Ngọc phả các vua triều Lê" ở các di tích cố đô Hoa Lư - Ninh Bình, Lý Công Uẩn hàng năm theo thiền sư Lý Vạn Hạnh vào hầu vua Lê ở thành Hoa Lư, Công Uẩn được vua yêu, cho ở lại kinh thành học tập quân sự. Vua lại gả con gái cả là Lê Thị... sinh ra Lý Phật Mã và đặc phong cho Công Uẩn làm Điện tiền cận vệ ở thành Hoa Lư. Dần dần, Công Uẩn thăng lên chức Điện tiền chỉ huy sứ. Chức ấy chỉ dành cho hoàng tộc hoặc quốc thích mới được trao. Chính nhờ vậy mà về sau, Lý Công Uẩn đã đem ngôi vua về cho họ Lý.

Lên ngôi

Các bộ sử cổ của Việt Nam như Việt sử lược, Đại Việt sử ký toàn thưKhâm định Việt sử Thông giám cương mục thống nhất chép rằng tháng 10 năm 1009, vua nhà Tiền LêLong Đĩnh mất, các con còn nhỏ, quan Điền tiền chỉ huy sứ là Lý Công Uẩn được sự ủng hộ của Chi nội là Đào Cam Mộc (陶甘沐) cùng thiền sư Vạn Hạnh đã lên ngôi hoàng đế; các quan trong triều đều nhất trí suy tôn; thái hậu nhà Tiền Lê (vợ Lê Đại Hành) gọi ông vào cung mời lên ngôi vua.
Riêng trong sách Đại Việt sử ký tiền biên, sử gia Ngô Thì Sĩ ghi lại lời nghi vấn về việc Lý Công Uẩn giết Lê Long Đĩnh để đoạt ngôi:
Lý Thái Tổ rất căm phẫn trước tội ác giết anh cướp ngôi của Khai Minh Vương, nhân lúc Khai Minh Vương bệnh tật, sai người vào đầu độc giết đi rồi giấu kín việc đó, nên sử không được chép, nếu quả như vậy, cũng là đạo Trời hay báo, nên chép phụ vào để làm răn
Đại Việt sử ký tiền biên
Sách Đại Việt sử ký toàn thư cũng chép thái độ của Lý Công Uẩn sau khi nghe Vạn Hạnh khuyên giành lấy ngai vàng, nhưng không nói tới việc giết Lê Long Đĩnh:
Công Uẩn sợ câu nói ấy tiết lộ, bảo người anh em đem Vạn Hạnh giấu ở Tiêu Sơn. Song từ đấy cũng lấy thế tự phụ, mới nảy lòng ngấp nghé ngôi vua
Đại Việt Sử ký Toàn thư
Tuy nhiên, các bộ sử, kể cả Đại Việt sử ký tiền biên, đều ghi nhận việc trăm quan của triều đình cũ suy tôn Lý Công Uẩn khi ông lên ngôi và sử sách không ghi nhận một cuộc nổi dậy nào của những người nhân danh trung thành với nhà Tiền Lê để chống lại nhà Lý sau khi triều đại này hình thành.

Tượng đài Lý Thái Tổ (21,18456701°B 106,07636702°Đ) tại trung tâm thành phố Bắc Ninh
Việt sử lược, quyển trung, "Nguyễn kỷ" (阮紀), "Thái Tổ" (太祖) có ghi chép

"Trong làng vua có cây bông gạo bị sét đánh, để dấu vết thành bài văn, trong đó có những câu:
Nguyên văn Hán văn:
樹根杳杳
木表青青
禾刀木落
十八子成
震宮現日
兌宮隠星
六七日間
天下太平
Phiên âm Hán Việt:
Thụ căn yểu yểu
Mộc biểu thanh thanh
Hòa đao mộc lạc
Thập bát tử thành
Chấn cung hiện nhật
Đoài cung ẩn tinh
Lục thất niên gian
Thiên hạ thái bình
Nguyễn Gia Tường dịch thơ:
Gốc rễ thăm thẳm
Vỏ cây xanh xanh
Lúa dao cây rụng
Mười tám hạt thành
Phương đông nhật mọc
Phương tây sao tàn
Khoảng sáu bảy năm
Thiên hạ thái bình "
Theo phép chiết tự chữ Hán, mấy câu này ẩn ý nhà Lê sẽ mất (cây rụng) và nhà Lý (thập () + bát () + tử () thành chữ ()) sẽ nổi lên. Sư Vạn Hạnh bèn nói với Lý Công Uẩn rằng: "Gần đây tôi thấy bài sấm văn lạ, biết nhà Lê đương mất mà nhà Lý đương lên. Họ Lý lại không có ai khoan hòa, nhơn hậu và trung thứ như ông, nên rất được lòng dân. Nay tuổi của tôi đã hơn 70 rồi, chỉ sợ không kịp thấy sự thịnh trị mà lấy làm giận". Lý Công Uẩn sợ lời nói tiết lộ ra nên bảo Vạn Hạnh vào ẩn ở Ba Sơn".
Khâm định Việt sử thông giám cương mục chép bài thơ trên với đôi chút khác biệt, giữa câu "Thập bát tử thành" 十八子成 và "Chấn cung xuất nhật" 震宮出日 có thêm hai câu:
Nguyên văn chữ Hán:
東阿入地
異木再生
Phiên âm Hán Việt:
Đông A nhập địa
Dị mộc tái sinh
Dịch nghĩa:
Đông A vào đất
Cây khác lại mọc lên
Hai câu này có lẽ là do người đời sau thêm vào. Trong đó chữ "trần" 陳 có nghĩa là họ Trần bị chiết tự sai thành "đông a" 東阿.
Khâm định Việt sử Thông giám cương mục, Chính biên, Quyển I nêu lời phê về sấm truyền họ Lý sẽ làm vua như sau:
Bờ cõi Bắc Nam tuy có khác, nhưng vận hội vẫn như nhau: nhà Lê thì có chuyện khoác áo long cổn, nhà Lý thì lời sấm truyền ghi trên thân cây, sao mà giống chuyện với bên Tống thế! Hay là người làm sử thấy thế, gò ép gán gẩm vào với nhau để cho thần dị câu chuyện, chứ trời kia có ý làm ra như thế đâu?
Khâm định Việt sử Thông giám cương mục.
Lý Công Uẩn lên ngôi hoàng đế tháng 11, ngày Quý Sửu, năm Kỷ Dậu (tức 21 tháng 11 năm 1009), đặt niên hiệu là Thuận Thiên (順天, nghĩa là "theo ý trời"). Ông phong cha là Hiển Khánh Vương, mẹ là Minh Đức Thái hậu, chú là Vũ Đạo Vương, anh ruột là Vũ Uy Vương, em ruột là Dực Thánh Vương. Ông lập sáu vương hậu, con trưởng ông là Lý Phật Mã được phong Khai Thiên Vương, lập làm Thái tử. Các con trai khác của ông cũng được phong vương. Đồng thời, con gái lớn của ông là An Quốc công chúa Lý Thiềm Hoa được gả cho Đào Cam Mộc, Đào Cam Mộc cũng được phong Nghĩa Tín Hầu (義信侯). Một người con gái khác là Lĩnh Nam công chúa là Lý Bảo Hòa cho động chủ Giáp Thừa Quý.

Trị vì

Dời đô từ Hoa Lư về Thăng Long


Cố đô Hoa Lư, nơi núi non hiểm trở
Đối với Lý Công Uẩn, ý tưởng tái lập nơi đặt bộ máy điều hành đất nước ở vị trí trung tâm đồng bằng sông Hồng là trung tâm kinh tế, chính trị văn hóa của đất nước đương thời hẳn đã hình thành từ lâu, nhưng thời điểm mang tính quyết định việc dời đô từ Hoa Lư về Đại La (大羅) có xuất phát điểm là chuyến thăm quê vào mùa xuân năm 1010. Ngay sau khi lên ngôi, ông đã về thăm quê và hình thành rất nhanh quyết định dời đô.Lý Thái Tổ thấy đất Hoa Lư, cố đô của Đại Cồ Việt chật hẹp không có thể mở mang ra làm chỗ đô hội được, bèn định dời đô về thành Đại La (hay La Thành), ngày nay là Hà Nội. Quyết định rời bỏ hẳn một kinh đô từ vùng núi non hiểm trở ra vùng đồng bằng có thể cho thấy bản lĩnh và tầm nhìn của vị hoàng đế khai sáng ra triều Lý và thủ đô Hà Nội của Việt Nam. Trong Chiếu dời đô (Thiên đô chiếu), Lý Thái Tổ khẳng định làm thế không phải theo ý riêng như các cựu triều ĐinhTiền Lê, mà để mưu việc lớn, thấy thuận tiện thì thay đổi. Cũng trong Chiếu dời đô, ông còn viết Thăng Long là nơi thắng địa, thực là chỗ tụ hội quan yếu của bốn phương, đúng là nơi thượng đô kinh sư mãi muôn đời.
Đại Việt sử ký toàn thư ghi nhận:
Bề tôi đều nói: "Bệ hạ vì thiên hạ lập kế dài lâu, trên cho nghiệp đế được thịnh vượng lớn lao, dưới cho dân chúng được đông đúc giàu có, điều lợi như thế, ai dám không theo". Vua cả mừng.
Tháng 7 năm Thuận Thiên thứ nhất (1010) thì khởi sự dời đô. Khi ra đến La Thành, ông lấy cớ có điềm trông thấy rồng vàng bay lên trời nên đổi tên Đại La thành sang Thăng Long thành (昇龍城), và cải Hoa Lư làm Trường An phủCổ Pháp làm Thiên Đức phủ.

Tôn giáo


Tượng thờ vua Lý Thái Tổ ở chùa Kiến Sơ, Gia Lâm, Hà Nội
Lý Thái Tổ vì xuất thân từ chùa chiền, nên sau khi lên ngôi rất hậu đãi giới tăng lữ. Vào năm 1010, sau khi đã dời đô từ Hoa Lư về Thăng Long, việc đầu tiên ông làm liền xuất ra 2 vạn quan để làm chùa ở phủ Thiên Đức (tức Cổ Pháp).
Cùng năm, sau khi củng cố xây dựng Hoàng thành, ông lại chùa ngự Hưng Thiên và tinh lâu Ngũ Phượng. Ngoài thành về phía nam dựng chùa Thắng Nghiêm.
Tháng 6 năm Thuận Thiên thứ 9 (Mậu Ngọ 1018), Lý Thái Tổ sai quan là Nguyễn Đạo ThanhPhạm Hạc sang nhà Tống (Trung Quốc) thỉnh kinh Tam Tạng đem về để vào kho Đại Hưng.
Về việc này, Lê Văn Hưu nhận xét:...Lý Thái Tổ lên ngôi mới được 2 năm, tông miếu chưa dựng, đàn xã tắc chưa lập mà trước đã dựng tám chùa ở phủ Thiên Đức, lại trùng tu chùa quán ở các lộ và độ cho làm tăng hơn nghìn người ở Kinh sư, thế thì tiêu phí của cải sức lực vào việc thổ mộc không biết chừng nào mà kể

Chính trị

Lúc bấy giờ nhà Tống của Trung Quốc bận nhiều việc nên không sinh sự lôi thôi gì với Đại Việt. Bởi vậy khi Lý Thái Tổ lên ngôi, sai sứ sang cầu phong, hoàng đế nhà Tống cho làm Giao Chỉ quận vương, sau lại gia phong làm Nam Bình vương vào năm 1017 (thời Tống Chân Tông). Các vương quốc láng giềng như Chiêm ThànhChân Lạp đều sang triều cống, cho nên việc bang giao thời bấy giờ được yên trị. Năm Thuận Thiên thứ 11 (Canh Thân 1020), ông lệnh cho con đem quân đi đánh Chiêm Thành, và giành chiến thắng.
Vua Thái Tổ lưu tâm về việc sửa sang trong nước: đổi phép cũ của nhà Tiền Lê; chia nước ra làm 24 lộ, gọi Hoan ChâuÁi Châu là trại. Năm 1013, lại định ra 6 hạng thuế là: thuế ruộng, đầm, ao; thuế đất trồng dâu và bãi phù sa; thuế sản vật ở núi; thuế mắm muối đi quan Ải quan; thuế sừng tê giác, ngà voi và hương ở trên mạn núi xuống; thuế tre gỗ hoa quả. Ông cho những bậc công chúa coi việc trưng thu các thứ thuế ấy.
Lý Thái Tổ còn thực hiện chính sách "thân dân". Dưới triều ông, có nhiều lần nhân dân được xá thuế, chẳng hạn như tô thuế được xá 3 năm vào năm 1016. Đến năm 1017, tô ruộng cũng được xá.

Đánh dẹp

Ở trong nước cũng có đôi ba nơi nổi lên làm loạn, như ở Diễn Châu (thuộc Nghệ An) và ở mạn thượng du hay có sự phản nghịch, nhà vua phải thân chinh đi đánh dẹp mới yên được. Thời bấy giờ các hoàng tử đều phong tước vương và phải cầm quân ra chiến trường, bởi vậy ai cũng giỏi nghề dùng binh.
Theo Đại Việt sử ký toàn thư, tháng Hai năm Tân Hợi (1011), tức là năm Thuận Thiên thứ hai, vua Lý Thái Tổ mang sáu quân đi phạt quân Cử Long ở Ái Châu. Quân Cử Long thất bại, bộ lạc bị đốt và người cầm đầu bị bắt và giải về.
Tháng 10 năm Thuận Thiên thứ 4 (Quý Sửu 1013), vua Thái Tổ thân chinh đánh quân Man ở châu Vị Long, quân ông giành chiến thắng.
Có lần ông đem quân đi đánh Diễn Châu. Khi ông về tới Vũng Biện, theo Đại Việt sử ký toàn thư "trời đất tối sầm, gió sấm dữ dội". Thấy vậy, ông đốt hương và khấn trời:
"Tôi là người ít đức, lạm ở trên dân, nơm nớp lo sợ như sắp sa xuống vực sâu, không dám cậy binh uy mà đi đánh dẹp càn bậy. Chỉ vì người Diễn Châu không theo giáo hóa, ngu bạo làm càn, tàn ngược chúng dân, tội ác chồng chất, đến nay không thể dung tha không đánh. Còn như trong khi đánh nhau, hoặc giết oan kẻ trung hiếu, hoặc hại lầm kẻ hiền lương, đến nỗi hoàng thiên nổi giận phải tỏ cho biết lỗi lầm, dẫu gặp tổn hại cũng không dám oán trách. Đến như sáu quân thì tội lỗi có thể dung thứ, xin lòng trời soi xét".
Sau khi ông khấn, gió sấm không còn dữ dội nữa và trở nên yên lặng.
Năm Thuận Thiên thứ 5 (Giáp Dần 1014), được lệnh của Lý Thái Tổ, Dực Thánh Vương đánh dẹp quân Man. Theo Đại Việt Sử Lược, ở Lộ Kim Hoa, quân của Dự Thánh Vương đánh bại tướng Man là Đỗ Trương Huệ, chém vạn đầu giặc, bắt được quân sĩ và ngựa nhiều vô số. Ly Châu dâng con Kỳ Lân. Đổi phủ Ứng Thiên làm Nam Kinh. Chân Lạp sang cống.
Năm Thuận Thiên thứ 13 (Nhâm Tuất 1022), ông ra lệnh cho Dực Thánh Vương đánh dẹp Đại Nguyên Lịch.
Năm Thuận Thiên thứ 15 (Giáp Tý 1024), Thái tử được lệnh ra quân đánh châu Phong Luân, còn Khai Quốc Vương thì đánh Châu Đô Kim. Thành Thăng Long được xây.
Năm Thuận Thiên thứ 18 (Mậu Thìn 1028), Thái tử lại được lệnh đánh châu Thất Nguyên, Đông Chinh Vương cũng đi đánh Châu Văn.

Qua đời

Theo Đại Việt sử lược, năm Mậu Thìn 1028 (tức năm Thuận Thiên thứ 19), sức khỏe nhà vua không được tốt. Ông băng hà ở điện Long An vào tháng 3, năm MậuMậu Tuất Thìn (tức ngày 31 tháng 3 năm 1028). Ông ở ngôi 19 năm, hưởng thọ 55 tuổi. Ông được táng ở Thọ Lăng, Thiên Đức phủ. Dâng miếu hiệuThái Tổ, thụy hiệuThần Vũ Hoàng đế (神武皇帝).
Khi còn tại vị, tôn hiệu của ông là Phụng Thiên Chí Lý Ứng Vận Tự Tại Thánh Minh Long Hiện Duệ Văn Anh Vũ Sùng Nhân Quảng Hiếu Thiên Hạ Thái Bình Khâm Minh Quảng Trạch Chương Minh Vạn Bang Hiển Ứng Phù Cảm Uy Chấn Phiên Man Duệ Mưu Thần Trợ Thánh Trị Tắc Thiên Đạo Chính Hoàng Đế.

Nối ngôi

Khi Lý Thái Tổ vừa qua đời, việc tế táng lại chưa hoàn tất, thì ba hoàng tử Võ Đức Vương, Dực Thánh Vương và Đông Chinh Vương cùng quân sĩ vây hãm thành, nhằm mục đích cướp ngôi Thái Tử. Được sự giúp đỡ của Lê Phụng Hiểu, Thái tử Lý Phật Mã lên nối ngôi, tức là vua Lý Thái Tông – vị vua thứ hai của nhà Lý.

Gia quyến

  1. Vũ Uy vương (武威王)
  2. Dực Thánh vương (翊聖王). Có sách ghi là con trai
  • Hậu phi: Thái Tổ lập 9 hoàng hậu, trong đó có một số người được sử ghi danh hiệu:
  1. Linh Hiển hoàng hậu (靈顯皇后, ? - ?), tên là Lê Phất Ngân (黎佛銀), có thuyết là con của Lê Hoàn, là mẹ của Thái tử Lý Phật Mã.
  2. Tá Quốc hoàng hậu (佐國皇后).
  3. Lập Nguyên hoàng hậu (立元皇后).
  4. Lập Giáo hoàng hậu (立教皇后).
Còn lại đều không rõ tên họ.
  • Hậu duệ: Ít nhất 8 hoàng tử, 13 công chúa.
  1. Thái Tông hoàng đế Lý Phật Mã [李佛瑪], còn có tên là Lý Đức Chính [李德政], Khai Thiên vương Hoàng thái tử (開天王 皇太子), phong năm 1009. Mẹ Linh Hiển hoàng hậu.
  2. Khai Quốc vương Lý Bồ [開國王 李菩], phong năm 1013, ở phủ Trường Yên.
  3. Đông Chinh vương Lý Lực [東征王 李力], phong năm 1018.
  4. Vũ Đức vương (武德王, ? - 1028). Khởi đầu loạn Tam vương, bị Lê Phụng Hiểu chém chết.
  5. Uy Minh vương Lý Nhật Quang [李日光], còn có tên Lý Hoảng [李晃]. Theo《Việt Điện U Linh tập》, mẹ là Linh Hiển hoàng hậu.
  6. An Quốc công chúa (安國公主), gả cho Đào Cam Mộc (陶甘沐).

Nhận định


Tượng Lý Thái Tổ và Lý Thái Tông ở đền Lý Bát Đế
Các sử gia phong kiến Việt Nam theo quan điểm Nho giáo có chê trách ông ở mặt quá sùng tín vào đạo Phật, chê trách cơ cấu tổ chức của triều đình ông không phù hợp với quan niệm của họ.
Sử gia Lê Văn Hưu phê bình trong Đại Việt sử ký:
Lý Thái Tổ lên ngôi mới được 2 năm, tông miếu chưa dựng, đàn xã tắc chưa lập mà trước đã dựng tám chùa ở phủ Thiên Đức, lại trùng tu chùa quán ở các lộ và độ cho làm tăng hơn nghìn người ở Kinh sư, thế thì tiêu phí của cải sức lực vào việc thổ mộc không biết chừng nào mà kể. Của không phải là trời mưa xuống, sức không phải là thần làm thay, há chẳng phải là vét máu mỡ của dân ư? Vét máu mỡ của dân có thể gọi là làm việc phúc chăng? Bậc vua sáng nghiệp, tự mình cần kiệm, còn lo cho con cháu xa xỉ lười biếng, thế mà Thái Tổ để phép lại như thế, chả trách đời sau xây tháp cao ngất trời, dựng cột chùa đá, điện thờ Phật, lộng lẫy hơn cung vua. Rồi người dưới bắt chước, có kẻ hủy thân thể, đổi lối mặc, bỏ sản nghiệp, trốn thân thích, dân chúng quá nửa làm sư sãi, trong nước chỗ nào cũng chùa chiền, nguồn gốc há chẳng phải từ đấy?
sách này không còn, dẫn lại theo Đại Việt sử ký toàn thư.
Cũng trong Đại Việt sử ký, Lê Văn Hưu so sánh:
Có người hỏi: Lê Đại Hành với Lý Thái Tổ ai hơn? Thưa rằng: Kể về mặt trừ dẹp gian trong, đánh tan giặc ngoài, làm mạnh nước Việt ta, ra oai với người Tống thì Lý Thái Tổ không bằng Lê Đại Hành có công lao gian khổ hơn. Nhưng về mặt tỏ rõ ân uy, lòng người suy tôn, hưởng nước lâu dài, để phúc cho con cháu thì Lê Đại Hành không bằng Lý Thái Tổ lo tính lâu dài hơn. Thế thì Lý Thái Tổ hơn ư? Đáp: Hơn thì không biết, chỉ thấy đức của họ Lý dày hơn họ Lê, vì thế nên nói theo họ Lý.
sách này không còn, dẫn lại theo Đại Việt Sử ký Toàn thư,
Sử thần Ngô Sĩ Liên soạn bộ Đại Việt sử ký toàn thư bình rằng:
Lý Thái Tổ dấy lên, trời mở điềm lành hiện ra ở vết cây sét đánh. Có đức tất có ngôi, bởi lòng người theo về, lại vừa sau lúc Ngọa Triều hoang dâm bạo ngược mà vua thì vốn có tiếng khoan nhân, trời thường tìm chủ cho dân, dân theo về người có đức, nếu bỏ vua thì còn biết theo ai! Xem việc vua nhận mệnh sâu sắc lặng lẽ, dời đô yên nước, lòng nhân thương dân, lòng thành cảm trời, cùng là đánh dẹp phản loạn, Nam Bắc thông hiếu, thiên hạ bình yên, truyền ngôi lâu đời, có thể thấy là có mưu lược của bậc đế vương. Duy có việc ham thích đạo Phật, đạo Lão là chỗ kém.
Đại Việt Sử Ký Toàn Thư.
Khâm định Việt sử Thông giám cương mục chính biên quyển thứ 2 nhận định:
Nhà Lý được nước, cũng không phải chính nghĩa cho lắm, nhưng đương buổi Lê Ngoạ Triều, lòng người lìa tan, sinh dân vô chủ, không về với Công Uẩn còn biết theo ai?
Khâm định Việt sử Thông giám cương mục .

Vinh danh

Lý Thái Tổ và các vị vua nhà Hậu Lý được thờ ở đền Đô tỉnh Bắc Ninh. Hiện nay, có một ngôi đền thờ riêng ông được xây dựng từ vốn các công trình 1000 năm Thăng Long do Hà Nội kết hợp với Ninh BìnhĐền Vua Lý Thái Tổ đặt tại trung tâm khu di tích Cố đô Hoa Lư.
Nhiều địa phương lấy tên ông đặt cho một số đường phố: đường Lý Thái Tổ ở Bắc Ninh, phố Lý Thái Tổ ở Hà Nội, phố Lý Công Uẩn ở Hải Dương… Tại Hà Nội và Bắc Ninh đều có dựng tượng đài ông.
Tiến tới kỷ niệm 1000 năm Thăng Long, Ban Chỉ đạo quốc gia kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội và nhiều đơn vị đã lên kế hoạch làm phim về Lý Công Uẩn với quy mô lớn như các bộ phim Chiếu dời đô, Đường tới thành Thăng Long, người con của rồng,...
Năm 2004, một tượng đài Lý Thái Tổ được xây dựng tại trục đ­ường Đinh Tiên Hoàng thuộc khu vực vườn hoa Chí Linh, Hồ Hoàn Kiếm, Hà Nội theo mẫu của nhà điêu khắc Vi Thị Hoa, bằng đồng (nặng 14 tấn, cao 3,3 m) thuộc dạng công trình chào mừng kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội. Tuy nhiên, theo một số ý kiến cho rằng "tượng vua nước Nam nhìn lại giống... Tần Thủy Hoàng", với trang phục giống của Tần Thủy Hoàng và "khi rời đô về Thăng Long Lý Thái Tổ mới 36 tuổi nhưng gương mặt vua Lý trong tượng như ngoài 60" . Bà Vi Thi Hoa cho biết là không có tài liệu vật thể nào về khuôn mặt, trang phục của Lý Thái Tổ và "Chúng tôi sáng tác mang tính ước lệ".
Tháng 8 năm 2011, chiếc tàu hộ tống mang tên lửa lớp Gepard 3.9 (Project 11661E) thứ hai của Hải quân nhân dân Việt Nam - HQ 012 - được đặt tên là Lý Thái Tổ.

Đến chùa Dận, nghe giai thoại về vĩ nhân Lý Công Uẩn

Không chỉ nổi tiếng là nơi sinh ra và nuôi dưỡng vĩ nhân Lý Công Uẩn, ông vua đầu tiên của triều Lý, chùa Dận còn nổi danh là nơi che giấu cán bộ cách mạng.

Vừa chào đời, đất nước đã... "nằm trong tay"
Ngay từ khi sinh ra, Lý Công Uẩn đã được dự báo có thiên mệnh hoàng đế với bốn chữ son "sơn hà xã tắc" trong lòng hai bàn tay. Dù chưa lên ngôi nhưng ngay từ nhỏ, Lý Công Uẩn đã có khả năng "đày ải" cả Thần, Phật vì tội mách thầy phạt ông.
Sinh ra và lớn lên tại chùa Dận hay còn gọi là chùa Cổ Pháp hoặc chùa Lục Tổ. Tên gọi chùa Dận được hình thành khi Lý Công Uẩn ra đời, sáng lập ra triều Lý. Ban đầu nhân dân gọi là chùa Rặn (rặn đẻ) sau đọc chệch thành chùa Dận. Ngày nay, nhân dân quanh vùng thành kính gọi tên chùa Cổ Pháp là chùa Ứng Tâm hay chùa Dận.

Tam quan chùa Dận được xây dựng trên nền cũ, nơi Lý Công Uẩn từng được sinh ra.
Lý Công Uẩn sinh ngày 12 tháng 2 năm Giáp Tuất (8/3/974) tại cửa tam quan của chùa Dận. Sinh ra đã không có cha, chỉ biết rằng mẹ ông là Phạm Thị, sinh ông xong thì chết. Theo truyền thuyết, cha của Lý Công Uẩn là một người nghèo, đi làm thuê ở chùa Tiên Sơn (An Phong, Bắc Ninh) phải lòng một tiểu nữ, làm nàng có thai. Nhà chùa thấy thế đuổi đi, hai vợ chồng dẫn nhau đi đến một khu rừng, mệt mỏi ngồi nghỉ. Người chồng khát nước, liền đến cái giếng giữa rừng uống, sảy chân chết đuối. Người vợ đến nơi thì giếng đã lấp, không còn chỗ để đi liền đến xin tá túc ở chùa Ứng Tâm (chùa Dận) gần đó. Thấy người vợ đến, sư trụ trì chùa liền đón tiếp nhiệt tình bởi trước đó, ông đã được thần báo mộng: "Ngày mai dọn chùa cho sạch để đón hoàng đế đến".
Tuy nhiên lại có thuyết khác nói rằng ông là con của Lý Khánh Văn, trụ trì chùa Cổ Pháp. Theo thuyết này, mẹ ông là một bà góa chồng đến làm thuê ở chùa Cổ Pháp, sau đó đi lại với trụ trì chùa là Lý Khánh Văn rồi mang thai. Khi biết Phạm Thị mang thai, Lý Khánh Văn đuổi bà đi nơi khác. Sau khi sinh con, bà bọc con trong manh áo cũ rồi bỏ ngoài cửa tam quan chùa. Nghe thấy tiếng khóc, Lý Khánh Văn ra nhặt đem vào nuôi và đặt tên là Lý Công Uẩn. Thế nên lúc bấy giờ có câu ca dao châm biếm nhẹ nhàng Lý Khánh Văn: "Con ai đem bỏ chùa này. Nam mô di Phật con thầy, thầy nuôi".
Đây chỉ là những tích xưa ra đời để giải thích sự xuất hiện của vĩ nhân Lý Công Uẩn. Cho đến nay, chưa có ai tìm được đáp án chính xác cho nguồn gốc xuất thân của vị vĩ nhân này. Chỉ biết rằng đây là người "mở màn" cho triều đại nhà Lý và là người có công lớn trong việc chuyển kinh thành từ Cố đô Hoa Lư (Ninh Bình) về Thăng Long (Hà Nội).
Sinh ra không có cha lại vừa mất mẹ, nên ông nhận được tình yêu thương và dạy dỗ hết lòng của người cha nuôi Lý Khánh Văn. Mới 6 tuổi, Lý Công Uẩn đã tinh thông khá nhiều sách vở, được coi là một chú bé thông minh, khôi ngô tuấn tú và khá rắn rỏi. Thế nhưng, ngoài sự thông minh ấy, Lý Công Uẩn lại là một cậu bé vô cùng tinh nghịch và mải chơi. Có lần, cha nuôi sai cậu đem oản lên cúng Hộ Pháp, thay vì thành tâm vâng lời, chú liền khoét oản ăn trước. Đến đêm, Hộ Pháp báo mộng cho Lý Khánh Văn biết khiến cậu bị cha nuôi mắng. Tức giận, Lý Công Uẩn lên chùa đánh cho Hộ Pháp ba cẳng tay, sau đó viết vào sau lưng pho tượng mấy chữ: "Đày ba ngàn dặm". Đêm hôm ấy, Lý Khánh Văn lại thấy Hộ Pháp đến báo mộng với vẻ mặt buồn rầu và ngỏ lời từ biệt: "Hoàng đế đã đày tôi đi xa, xin có lời chào ông". Sáng hôm sau, Lý Khánh Văn lên chùa xem pho tượng thì thấy sau lưng quả nhiên có mấy chữ "Đồ tam thiên lý" thật. Ông liền sai chú tiểu lấy nước rửa nhưng không sao rửa sạch. Cuối cùng, ông phải bảo Lý Công Uẩn vào rửa thì chú bé chỉ lấy ngón tay xoa xoa là sạch ngay.
Lớn thêm chút nữa, Lý Công Uẩn vẫn không thay đổi tính nết là bao. Thay vì phải chăm chỉ học hành, cậu bé Công Uẩn lại chỉ ham chơi và luôn tìm cách trốn học. Ngày ấy, khi được gửi sang chùa Tiêu Sơn của thiền sư Vạn Hạnh (anh trai Lý Khánh Văn) để học văn học và tài kinh luân của thầy, Lý Công Uẩn luôn tỏ rõ sự thông minh và nghịch ngợm của mình trong mọi hoàn cảnh. Đến cả khi bị trói ở cổng tam quan, cậu vẫn tức cảnh làm thơ: "Thiên vi khâm chầm địa vị thiên/ Nhật nguyệt đồng song đốt ngã miên/ Dạ thâm bất cảm trăng thân túc/ Chỉ khủng sơn hà xã tắc điên", dịch là: "Trời làm màn gối, đất làm chiên. Nhật nguyệt cùng ta một giấc yên. Đêm khuya chẳng dám dang chân duỗi/ Chỉ sợ sơn hà, xã tắc nghiêng". Nghe xong câu thơ này, nhà sư Vạn Hạnh biết cậu có khí chất đế vương nên ra sức dạy dỗ và lo toan cho Công Uẩn làm nên sự nghiệp lớn.
Vị vua được lòng "thiên hạ"
Thiền sư Vạn Hạnh thường bảo với mọåi người: "Đứa bé này không phải người thường, lớn lên có thể phò nguy, gỡ rối, làm minh chủ trong thiên hạ". Do vậy, những giai thoại ly kỳ về Lý Công Uẩn ngày càng nhiều. Sinh ra đã khác người, cộng thêm trí tuệ siêu phàm của mình, từ một chức quan nhỏ, ông làm tới chức Tả thân vệ Điện tiền chỉ huy sứ (dưới triều Tiền Lê đây là một chức quan to trong hàng võ chỉ người trong hoàng tộc mới được làm). Đây cũng là bước ngoặt đưa ông trở thành vị hoàng đế đầu tiên của nhà Lý.

Tượng đài Lý Công Uẩn (Lý Thái Tổ) ở vườn hoa Lý Thái Tổ (Hà Nội).
Bé thì tinh nghịch nhưng khi lớn lên, đặc biệt khi làm quan, ông luôn là vị quan tốt, được mọi người yêu mến. Có thể nói Lý Công Uẩn là người sống vô cùng trung nghĩa, điều này được thể hiện qua hành động ôm xác Lê Trung Tông mà khóc; Năm 1005, Lê Đại Hành mất, các con trai tranh giành ngôi báu, Lê Trung Việt giành được ngôi trở thành vua Lê Trung Tông. Thế nhưng chỉ được 3 ngày, vị vua này bị em trai là Lê Long Đĩnh giết hại cướp ngôi. Lúc ấy các quan chạy hết, chỉ có Lý Công Uẩn đến ôm xác Lê Trung Tông mà khóc. Hành động này của ông được Lê Long Đĩnh vô cùng nể phục, khen là trung nghĩa và tiếp tục sử dụng, phong cho ông chức Tướng quân phó chỉ huy sứ, sau là Tả thân vệ Điện tiền chỉ huy sứ. Dưới thời cai trị của Lê Long Đĩnh, lòng dân vô cùng oán hận bởi ông vua tàn bạo và ngang ngược coi dân đen như cỏ rác này. Thế nên sau khi Lê Long Đĩnh chết, Lý Công Uẩn được triều thần khanh sỹ tôn lên làm vua.
Việc trở thành vị vua đầu tiên của nhà Lý không chỉ được báo trước bởi những giai thoại kỳ lạ từ khi sinh ra của Lý Công Uẩn mà còn được điềm báo bởi bài Sấm. Thuở ấy, ở làng Cổ Pháp có cây gạo cổ thụ bị sét đánh tước mất vỏ ngoài, để lộ ra mấy câu Sấm: "Thụ căn yểu yểu/ Mộc biểu thanh thanh/ Hòa đao mộc lạc/ Thập bát tử thành" ẩn ý nhà Lê sẽ mất, nhà Lý sẽ nổi lên. Bài Sấm này được Vạn Hạnh nói với Lý Công Uẩn: "Gần đây tôi thấy bài Sấm lạ, biết nhà Lê đương mất mà nhà Lý đương lên. Họ Lý lại không có ai khoan hòa, nhân hậu và trung thứ như ông, nên rất được lòng dân". Điều này cho thấy, sớm muộn gì việc xưng bá thiên hạ của Lý Công Uẩn sẽ thành.
Sau khi lên làm vua, Lý Công Uẩn vẫn trọng dụng các vị quan cũ của triều Tiền Lê, giữ nguyên những gì tốt đẹp mà triều Tiền Lê đã làm. Bên cạnh đó, ông còn là vị vua được lòng dân khi thực hiện chính sách thân dân và nhiều lần xá tô thuế, tô ruộng cho dân. Có thể nói, ông là vị vua anh minh, biết chăm lo, lo lắng làm sao cho người dân có cuộc sống ấm no hạnh phúc.
Trước khi lâm chung, ông cũng dặn con cháu, quan lại không được xây lăng to đẹp bằng gạch đá mà chỉ được đắp bằng đất để đỡ tốn tiền bạc của dân: "Khi ta mất, không được xây lăng to đẹp bằng gạch đá mà chỉ cần đắp bằng đất để đỡ tốn tiền bạc của dân. Quân lính và thường dân nếu có thương nhớ vua thì cứ lấy đất đắp lên, càng cao càng quý. Khi mộ cao, cỏ mọc nhiều thì trâu bò sẽ có thức ăn trở nên béo khỏe, có sức cày ruộng cho dân. Đây cũng là nơi vui chơi của trẻ mục đồng, càng gần với vua, các em càng nhớ tới công ơn của các vị tiền nhân, sẽ trở thành người tốt", theo sách sử chép lại. Nghe lời truyền dạy của ông, các đời vua triều Lý sau này đều không xây lăng mà chỉ xây mộ nhỏ, sau đó phủ đất lên trên.
Có thể nói Lý Công Uẩn là một vị vua anh minh, được lòng dân. Ông không chỉ yêu thương dân như con mà còn là người có tầm nhìn xa trông rộng nghĩ tới tương lai của con dân Đại Việt qua việc chuyển kinh đô từ Hoa Lư về thành Đại La. Điều này được thể hiện khá rõ trong Chiếu dời đô: "Thăng Long là nơi thắng địa, thực là chỗ hội tụ quan yếu của bốn phương, đúng là nơi thượng đô kinh sư mãi muôn đời".
Hồng Mây
nguoiduatin.vn

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét