Thứ Năm, 12 tháng 2, 2015

ĐỊA LINH NHÂN KIỆT 36 (TRẠNG TRÌNH NGUYỄN BỈNH KHIÊM)

(ĐC sưu tầm trên NET)


Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm: Lời tiên tri kinh ngạc trong phần mộ

(VTC News) - Thầy Tàu quá kinh hãi, răm rắp làm theo mọi việc Trạng đã chỉ bảo, và tự xấu hổ nhận mình chỉ đáng là học trò bậc thánh nhân này.

Nhà sử học Ngô Đăng Lợi (Hải Phòng) vốn là người rất quan tâm tới những sự kiện lịch sử, những danh nhân tiêu biểu của đất nước. Vào thời gian ông còn dạy học, có lần qua đất Vĩnh Bảo, thấy đền thờ Trạng Trình xập xệ, cũ kỹ, không ai trông giữ, phía trước trâu bò nhởn nhơ gặm cỏ, ông cất tiếng thở dài.

Năm 1985, ông Lợi cùng một số nhà sử học bắt đầu nghiên cứu thân thế và sự nghiệp, cũng như vai trò lịch sử của Trạng Trình. Suốt quá trình 6 năm (1985-1991), với những tư liệu thu thập được, ông Lợi cùng các nhà khoa hoc đã khẳng định Trạng Trình là một nhân vật toàn diện, một danh nhân văn hóa tiêu biểu của đất nước.

Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm: Lời tiên tri kinh ngạc trong phần mộ
Nhà sử học Ngô Đăng Lợi luôn mong mỏi tìm thấy phần mộ của Trạng 

Năm 1991, tên tuổi, danh tiếng, tài năng kiệt xuất của Trạng Trình được sống lại. Lễ kỷ niệm 500 năm ngày sinh của ông được Nhà nước tổ chức long trọng tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám. Đó cũng là thời điểm bắt đầu cuộc hành trình tìm mộ 'nhà tiên tri số một' Việt Nam, dù rằng lúc ấy, những tài liệu ghi chép về Trạng còn cực kỳ mơ hồ.

Trước đó, nhà sử học Ngô Đăng Lợi tham mưu, đề xuất với Ủy ban MTTQ TP. Hải Phòng thành lập Hội Từ thiện Hải Phòng trên cơ sở lưu giữ và phát huy truyền thống tương thân, tương ái, hỗ trợ giúp đỡ lẫn nhau... Ý tưởng của ông được lãnh đạo và ủy ban MTTQ thành phố ủng hộ. Năm 1991, Hội Từ thiện chính thức ra đời, và ông có mời thêm một số người về làm cố vấn cho hội, trong đó có cụ cố thanh đồng Lã Thị Vân (thường gọi là cụ Chấn Hưng), một người nổi tiếng ở Hải Phòng lúc đó.

Sau ngày ra mắt Hội, ông Lợi dẫn cả đoàn từ thiện về thăm đền Trạng ở Vĩnh Bảo, tiện thể mang ít quần áo về phân phát cho những người nghèo ở đó. Với kiến thức phong thủy của mình, cụ Chấn Hưng nhận ra mảnh đất Trung Am là vùng đất có khí thiêng, nhất là chỗ hồ bán nguyệt trước cửa đền Trạng, có thế đất nghiêng thủy ánh, có nghĩa là cái hồ nằm nghiêng để hứng ánh mặt trăng, mặt trời chiếu vào. Rồi cụ Chấn Hưng khẳng định: "Thế đất bên phải có hình lá cờ, bên trái có hình thanh kiếm, không ngạc nhiên khi mảnh đất này đã sinh ra một bậc thánh nhân".

Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm: Lời tiên tri kinh ngạc trong phần mộ
Ao bán nguyệt trước đền Trạng Trình

Thắp hương trong đền Trạng Trình xong, ngồi nói chuyện với những người trong dòng họ Nguyễn, ông Lợi cùng đoàn từ thiện được nghe những câu chuyện lưu truyền trong những phút cuối đời của Trạng. Theo đó, vào lúc lâm chung, Trạng Trình có gọi người con cả vào và viết lên lòng bàn tay 4 chữ “Táng tại Ao Dương”.

Khi Trạng mất, gia đình và học trò theo di huấn mang thi thể xuống thuyền đưa đi chôn cất tại địa điểm mà Trạng đã căn dặn. Ngày hôm sau tại Trung Am có tổ chức lễ viếng Trạng linh đình và quan tài giả được khiêng đi chôn cất công khai. Theo các cụ, ngôi mộ thật, bị mưa nắng bào mòn rồi xóa sạch dấu tích.

Truyền thuyết ứng với câu đồng dao cổ mà trẻ con làng Trung Am thời xưa hay hát truyền, mà bản thân nhà sử học Ngô Đăng Lợi cùng mọi người thỉnh thoảng vẫn được nghe: “Ba Rá nhìn sang/ Ba Đồng ngoảnh lại/ Táng tại Ao Dương”.

Nhà sử học Ngô Đăng Lợi cùng các chuyên gia đã tiến hành khảo sát toàn bộ con sông Hàn, thì đúng là phần phía nam có một đoạn sông mang tên Ba Rá thuộc địa phận tỉnh Thái Bình, phía đông có đoạn sông mang tên Ba Đồng trên địa phận Hải Phòng.

Có thể suy ra, nếu đúng như câu đồng dao, thì phần mộ của Trạng Trình sẽ nằm trong khoảng đất đâu đó gần 2 đoạn sông có tên Ba Rá và Ba Đồng. Điều đó cho thấy sự lựa chọn gần như bí mật tuyệt đối của Trạng khi chọn vị trí đặt huyệt mộ của mình. Khi tiến hành chôn cất, có thể là vào thời điểm mùa khô nước cạn. Và khi nước mạnh lên, dòng chảy sẽ dễ dàng xóa sạch mọi dấu tích mà không để lộ. Nhất là vào thời của Trạng, dân cư lúc ấy còn rất thưa thớt.

Tuy nhiên, địa danh Ao Dương được nhắc đến, cho đến giờ vẫn còn gây tranh luận vì những ý nghĩa khác nhau của nó.

Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm: Lời tiên tri kinh ngạc trong phần mộ
Nhà sử học Ngô Đăng Lợi

Có một huyền tích vẫn được lưu truyền ở Vĩnh Bảo và càng khẳng định thêm về những khả năng tiên đoán về tương lai của Trạng Trình. Đó là sau ngày Trạng mất khoảng nửa thế kỷ, một thầy địa lý có tiếng của Trung Quốc vì kính nể tiếng tăm đã lặn lội sang thăm và viếng mộ. Thầy Tàu ngạc nhiên khi nhìn thấy rõ ràng ngôi mộ được đặt vào huyệt đất rất tốt, nhưng huyệt phát ở đằng chân mà mộ lại đặt ngược, ông ta cho rằng Trạng Trình là “thánh nhân mắt mù”, người hữu danh vô thực.

Nghe thấy thế, ông trưởng tộc vội vàng ra mời thầy về rồi khẩn khoản nhờ thầy địa lý đặt lại mộ cho, vì trước khi mất Trạng đã dặn dò con cháu mai sau sẽ xảy ra sự việc này. Nghe thế, thầy Tàu bảo chỉ cần đào huyệt mộ lên rồi xoay lại là được. Nhưng đào được một lúc thì mọi người phát hiện có 1 tấm bia được chôn cùng, khắc bài thơ: "Ngũ thập niên tiền mạch tại đầu/ Ngũ thập niên hậu mạch quy túc/ Hậu sinh nhĩ bối ná năng tri?/ Hà vị thánh-nhân vô nhĩ mục?". Nghĩa là:"Ngày nay mạch lộn xuống chân/ Năm mươi năm trước mạch dâng đằng đầu/ Biết gì những kẻ sinh sau?/ Thánh nhân mắt có mù đâu bao giờ?”.

Đến lượt ông thầy Tàu cùng mọi người mới ngã ngửa. Rõ ràng, Trạng đã biết trước mọi việc và dặn dò con cháu chôn theo tấm bia đã được bọc kỹ, không ai hiểu bia ghi điều gì. Và 50 năm sau nếu có ai đến thăm mộ mà nói: “Thánh nhân mắt mù” thì phải mời họ về nhà rồi nhờ họ đổi lại hướng của ngôi mộ.

Thầy Tàu quá kinh hãi, răm rắp làm theo mọi việc Trạng đã chỉ bảo, và tự xấu hổ nhận mình chỉ đáng là học trò bậc thánh nhân này.

Những câu chuyện mà nhà sử học Ngô Đăng Lợi đã sưu tầm được về phần mộ của Trạng Trình, có thể thấy phần lớn là do truyền khẩu, hoặc tin đồn, rất ít có sử sách ghi chép lại, do đó rất khó có thể làm căn cứ chính xác. Chỉ có Trạng và những người tham gia mai táng theo đúng di huấn của Trạng mới biết chính xác nhất phần mộ đang ở đâu. Tuy nhiên, tất cả đã trở thành người thiên cổ.



Minh Khang – Minh Hải
(Ghi theo lời kể của nhà sử học Ngô Đăng Lợi)

 

Hành trình tìm mộ 'nhà tiên tri' kỳ lạ trong lịch sử Việt Nam

(VTC News) – Trạng Trình dự đoán rằng, sau ngày sinh của ông 500 năm, thì đất nước sẽ hưng thịnh vĩnh viễn.


Kỳ 1: Nhà tiên tri đại tài
Trong lịch sử Việt Nam, nhà tiên tri đầu tiên được mọi người biết đến là Thiền sư Vạn Hạnh (938-1025) với những câu sấm về việc xuất hiện nhà Lý. Hơn 500 năm sau, xuất hiện Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm - nhà tiên tri thứ hai.

Ông sinh năm Tân Hợi, đời vua Lê Thánh Tông (tức năm Hồng Đức thứ 22 - 1491) tại làng Trung Am, xã Lý Học, huyện Bĩnh Bảo, Hải Phòng, trong một gia đình danh gia vọng tộc. Ông mất năm Ất Dậu (1585), hưởng thọ 95 tuổi.

Trạng Trình là người tinh thông về thuật số, được dân gian truyền tụng và suy tôn là “nhà tiên tri số 1” của Việt Nam. Người Trung Hoa thì coi ông là “An Nam lý số hữu Trình Tuyền”. Ngay từ thuở nhỏ, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã rất thông minh, học đâu nhớ đó, lớn lên được theo học quan Bảng Nhãn Thượng thư Lương Đắc Bằng.

Hành trình tìm mộ 'nhà tiên tri' kỳ lạ trong lịch sử Việt Nam
Đền thờ Trạng Trình tại Vĩnh Bảo, Hải Phòng 

Thời thế nhiễu nhương, ông ẩn cư ở quê dạy học, sáng tác thơ văn. Mãi đến năm 1535, đời vua Mạc Thái Tông Đăng Doanh , ông mới ra thi, liên tiếp 3 khoa Hương, Hội, Đình đều đậu đầu, giành học vị Trạng nguyên. Ông làm quan nhà Mạc tới chức Lại bộ Tả thị lang - Đông các Đại học sĩ. Sau thấy nhiều phe phái quan to cậy thế hại dân, hại nước, ông dâng sớ xin vua chém 17 lộng thần. Vua không nghe, ông quyết từ quan về quê mở trường dạy học, tổ chức Bạch Vân thi xã, đào tạo nhân tài cho đất nước, mong đem thi văn giúp vãn hồi thế đạo nhân tâm.

Tuy về hưu nhưng triều đình có việc nước, việc quân trọng đại, vua Mạc đều cử người về quê Trung Am hỏi kế sách hoặc mời ông lên kinh đô thỉnh giáo. Ông luôn sẵn sàng hiến kế, xong việc đòi về quê, vua Mạc cố giữ nhưng không được.

Hành trình tìm mộ 'nhà tiên tri' kỳ lạ trong lịch sử Việt Nam
Khu di tích Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm  Ảnh: internet

Nguyễn Bỉnh Khiêm đã có những dự đoán tương lai bí ẩn, thường gọi là “sấm Trạng Trình, mà cho đến những đời sau, khi sự việc xảy ra, người ta mới giật mình bởi độ chính xác đến kinh ngạc.

Vô số giai thoại được dân gian truyền tai về những lời tiên đoán của Trạng Trình trước khi sự việc xảy ra. Có chuyện kể rằng, lúc nhà Mạc sắp mất, nhà vua liền sai người đến hỏi, ông đã đưa ra lời sấm cho nhà Mạc rằng: “Cao Bằng tàng tại, tam đại tồn cô”. Nghĩa là nếu chạy lên Cao Bằng thì sẽ tồn tại được 3 đời. Quả nhiên, nhà Mạc lên Cao Bằng thì tồn tại được thêm 3 đời.

Một câu chuyện khác, vào năm 1568, khi ấy Trạng đã 77 tuổi và đang ở ẩn tại am Bạch Vân, Nguyễn Hoàng thấy anh trai mình bị chúa Trịnh Kiểm giết, bèn lén sai người đến xin ý kiến của Trạng. Trạng dẫn sứ giả ra chỉ vào hòn non bộ và nói: “Hoành Sơn nhất đái khả dĩ dung thân”.

Hiểu được ngầm ý ấy, Nguyễn Hoàng xin vào trấn thủ đất Thuận Hóa từ đèo Ngang trở vào, và về sau gây dựng nên cơ nghiệp nhà Nguyễn ở phương nam. Sau này, nhà Nguyễn đã đổi câu sấm của Trạng thành: “Hoành sơn nhất đái vạn đại dung thân” hy vọng sẽ giữ được cơ nghiệp mãi mãi nhưng quả đúng như lời sấm ban đầu của Trạng, nhà Nguyễn chỉ có thể dung thân ở dải Hoành sơn chứ không thể tồn tại mãi mãi, nhà Nguyễn chấm dứt vào năm 1945.

Hành trình tìm mộ 'nhà tiên tri' kỳ lạ trong lịch sử Việt Nam
Một số tài liệu cổ về Sấm Trạng Trình được nhà sử học Ngô Đăng Lợi sưu tầm 

Trạng cũng đã dự đoán vận nước trở nên hưng thịnh sau 500 năm với câu sấm: “Hồng lam ngũ bách nghinh thiên hạ/Hưng tổ diên trường ức vạn xuân”. Có nghĩa là đất nước Hồng Lam này sau ta 500 năm sẽ đến những mùa xuân hưng thịnh vĩnh viễn. Thực tế cho thấy, tính vừa tròn 500 năm từ ngày sinh của Trạng (1491 - 1991), đất nước thay đổi. Trước đó, đất nước ta đã có cuộc đổi mới tư duy từ năm 1986 nhưng đến năm 1991 mới thực sự chuyển mình.

Năm 1585, Trạng Trình qua đời tại quê nhà, nhân dân học trò triều đình làm lễ tang long trọng. Vua Mạc Mậu Hợp cử Phụ chính đại thần Ứng vương Mạc Đôn Nhượng về tế, tự tay nhà vua viết biển treo ở đền chính: Mạc triều Trạng nguyên Tể tướng từ.

Vua lại cấp 12 mẫu ruộng để hàng năm lấy hoa lợi sắm lễ. Ông lại được phong phúc thần làng Trung Am, huyện Vĩnh Bảo và làng Thanh Am, huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội bây giờ.

Những năm sau đó, vì những lý do khác nhau, và nhất là vào thời Pháp đô hộ Việt Nam, rất nhiều tài liệu, sách vở ghi chép của Trạng Trình đã bị thất lạc, chỉ còn một số ít được lưu giữ dưới dạng chép tay. Tuy nhiên, trong dân gian vẫn lưu truyền câu sấm về hậu vận và sự trở về của ông : “Bao giờ Tiên Lãng xẻ đôi/ Sông Hàn nối lại thì tôi lại về”.

Thật đáng ngạc nhiên, vào năm 1991, tức 500 năm sau ngày sinh của Trạng Trình, huyện Tiên Lãng bị xẻ đôi vì có công trình đào con sông để làm kênh thủy lợi. Đồng thời, một cây cầu được xây dựng để nối con sông Hàn từ quê nhà Vĩnh Bảo sang đất Thái Bình. Cũng vào thời điểm đó, tên tuổi, danh tiếng, tài năng kiệt xuất của Trạng được sống lại, lễ kỷ niệm 500 năm ngày sinh được Nhà nước tổ chức lọng trọng tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám.

Hành trình tìm mộ 'nhà tiên tri' kỳ lạ trong lịch sử Việt Nam
Hội thảo nghiên cứu về thân thế và sự nghiệp của Trạng Trình - Ảnh do nhà sử học Ngô Đăng Lợi cung cấp 

Thực ra, năm 1991 là kết quả của cả một quá trình nghiên cứu của những chuyên gia sử học, nhằm vinh danh một nhân vật nổi tiếng từ thế kỷ 16, mà trước đó ít nhiều đã bị lãng quên. Trong đó, nhà sử học Ngô Đăng Lợi là một trong những người đi tiên phong trong việc tìm hiểu về cuộc đời và thân thế của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm.

Sau ngày miền Bắc giải phóng, nhà sử học Ngô Đăng Lợi là chuyên viên văn hóa - xã hội, thuộc Văn phòng UBND thành phố; làm giáo viên dạy môn sử ở trường phổ thông và sau đó làm Chủ tịch Hội Khoa học lịch sử Hải Phòng, Phó Chủ tịch Hội Từ thiện thành phố cho đến nay.

Hành trình tìm mộ 'nhà tiên tri' kỳ lạ trong lịch sử Việt Nam
Nhà sử học Ngô Đăng Lợi trong buổi làm việc với phóng viên 

Tiếp chúng tôi trong căn nhà nhỏ ở phố Hoàng Văn Thụ, quận Hồng Bàng, Hải Phòng, nhà sử học Ngô Đăng Lợi cho biết, năm 1985, tức là 400 năm sau ngày mất của Trạng Trình, ông bắt đầu hành trình nghiên cứu. Lúc đó, vẫn còn hai luồng ý kiến trái chiều về thân thế của Trạng: một bên giữ nguyên quan điểm rằng cuộc đời Trạng thân tại Mạc tâm tại Lê, và những người theo nhà Mạc là xấu, quan điểm còn lại đánh giá tích cực hơn về vai trò và sứ mệnh của Trạng đối với lịch sử.

Trải qua rất nhiều hội thảo khoa học trong suốt 6 năm (1985 - 1991), vai trò to lớn của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm đã được khẳng định.


Minh Khang – Minh Hải
(Ghi theo lời kể của nhà sử học Ngô Đăng Lợi)

Giải mã những tiên tri kinh ngạc của Trạng Trình

(VTC News) - Cho đến những đời sau, khi sự việc xảy ra, người ta mới giật mình bởi độ chính xác đến kinh ngạc của những câu sấm truyền.

Trạng nguyên Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491–1585), người mà dân gian quen là Trạng Trình là một nhà văn hóa lỗi lạc của Việt Nam trong thế kỷ 16. Ông được người đời biết đến với tư cách đạo đức, tài thơ văn của một nhà giáo có tiếng thời kỳ Nam - Bắc triều cũng như tài tiên tri các tiến triển của lịch sử Việt Nam.

Ông không chỉ nổi tiếng về văn chương, chính sự mà còn rất nổi tiếng về tài dự đoán. Trong cuốn Phả ký Nguyễn Bỉnh Khiêm được viết vào năm 1743, Vũ Khâm Lân đã nhận xét: “Ông là người khôi ngô anh tuấn, học hết các kinh sách lại rất tinh tế về nghĩa lý Kinh Dịch. Phàm việc mưa nắng, lụt hạn, họa phúc, điềm dữ, điềm lành, cơ suy, cơ thịnh... việc gì cũng biết trước”.

Giải mã những tiên tri kinh ngạc của Trạng Trình
Đền thờ Trạng Trình ở Vĩnh Bảo, Hải Phòng 

Nguyễn Bỉnh Khiêm đã có những dự đoán tương lai bí ẩn, thường gọi là Sấm Trạng Trình, mà cho đến những đời sau, khi sự việc xảy ra người ta mới giật mình bởi độ chính xác đến kinh ngạc.

Vào những năm cuối cùng của thế kỷ 19, nhà sư Vương Quốc Chính, người xã Cổ Am (Vĩnh Bảo, Hải Phòng), phát động phong trào chống Pháp đô hộ. Trước đó, trong dân gian đã lan truyền khá rộng câu sấm của Trạng: “Thầy tăng mở nước trời không bảo”. Nghĩa đen đã khá rõ, không có trời nào giúp nhà sư, vì đã là người xuất gia tu theo Phật mà còn mưu đồ bá vương.

Các nhà nho thời ấy lại giải thích theo một nghĩa khác, theo họ thì chữ “thầy tăng” ở đây, Trạng nói kín chỉ “thằng Tây” đến cướp nước ta, đô hộ dân ta thì trời không dung thứ. Ngày ấy, chính quyền đô hộ và tay sai rất sợ sấm ký và uy tín của Trạng nên bắt bớ và khủng bố dã man những người đã truyền bá, lưu giữ sấm Trạng.

Cho đến nay, rất tiếc là Sấm Trạng Trình vốn chỉ còn lại ở dạng truyền miệng, chỉ có số ít lưu giữ dưới dạng chép tay. Tuy nhiên, trong những tập sấm ký mà người đời sau sưu tầm được, khó có thể do những ai hiếu sự đã đặt ra, bởi nó đã được cố định hóa trước những sự kiện lịch sử hàng chục, hàng trăm năm, lại được lan truyền rộng rãi trong dân gian.

Nam Đàn sinh thánh

Đã từ lâu, ở nhiều địa phương trên cả nước, nhất là vùng Nghệ Tĩnh, người ta đã lưu truyền những câu sấm của Trạng Trình như sau: “Đụn Sơn phân giải/ Bò Đái thất thanh/ Thủy đáo Lam thành/ Nam Đàn sinh thánh”. Tạm dịch nghĩa là: “Khi núi Đụn chẻ đôi, khe Bò Đái mất tiếng, sông Lam khoét vào chân núi Lam Thành, đất Nam Đàn sẽ sinh ra bậc thánh nhân”.

Giải mã những tiên tri kinh ngạc của Trạng Trình
Am Bạch Vân, nơi Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm mở lớp dạy học năm xưa 

Nhà sử học Ngô Đăng Lợi (Hải Phòng), người chuyên nghiên cứu về Sấm Trạng cho biết, sau khi thực dân Pháp đàn áp tàn khốc phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh, câu sấm này lại được bàn tán trao đổi rộng với niềm khát khao mong chờ vị thánh nhân xuất thế. Lúc đó, khe Bò Đái cũng đã ngừng chảy, tiếng suối chảy ở khe không còn nghe được nữa, do đó người dân càng tin và càng chờ đợi.

Trong một cuộc gặp giữa cụ Phan Bội Châu, học giả Đào Duy Anh, và nhà nho Trần Lê Hữu, nội dung cuộc đối thoại chỉ xoay quanh tình thế nước nhà và tương lai sẽ ra sao, Trần Lê Hữu có hỏi: "Thưa cụ Phan, “Bò Đái thất thanh, Nam Đàn sinh thánh” chẳng phải là cụ hay sao? Cụ còn thất bại nữa là người khác!". Phan Bội Châu đáp: "Kể cái nghề cử tử xưa kia tôi cũng có tiếng thật. Dân ra thường có thói trọng người văn học và gán cho người ta tiếng nọ tiếng kia. Nhưng nếu Nam Đàn có thánh thực thì chính là ông Nguyễn Ái Quốc chứ chẳng phải ai khác".

Khởi nghĩa Yên Bái 1930

Sau cuộc khởi nghĩa do Việt Nam Quốc dân Đảng phát động bị thất bại tháng 2 năm 1930 (Canh Ngọ), nhiều căn cứ bị Pháp đàn áp, khủng bố dã man như Yên Bái, Lâm Thao, Hưng Hóa, Kiến An, Vĩnh Bảo... R

iêng làng Cổ Am bị 5 máy bay đến ném bom làm nhiều người chết, nhiều nhà cửa bị thiêu cháy, đổ nát. Nhân sự kiện này, tuần báo Phụ nữ tân văn số 44 có đăng bài “Ông Trạng Trình có biết trước rằng làng Cổ Am của ông có ngày nay không?”. Tác giả bài viết ngờ rằng Trạng có biết nên “đã dời hết sách vở của ông vào Thanh Hóa... vì theo di chúc của ông thì làng Cổ Am không được bền vững”.

Sau đó, báo nhận được một bài thơ do bạn đọc sưu tầm và gửi cho, được cho là bài thơ sấm của Trạng Trình. Phụ nữ tân văn (số 48) đã cho đăng bài thơ sấm đó: “Hiu hiu gió thổi, lá rung cây/ Từ Bắc sang Nam, Đông tới Tây/ Cửa nhà tan tác ra cồn cát/ Rừng núi ruộng nương hóa vũng lầy/ Tan tác Kiến kiều An đất nước/ Xác xơ Cổ thụ sạch Am mây/ Một gió, một Yên ai sùng Bái/ Cha con người Vỉnh, Bảo cho hay”.

Có một người dân làng Cổ Am cho hay, khi Pháp ném bom xuống làng, miếu thờ Trạng bị đổ lây. Mấy tuần sau dân ra sửa sang lại thì phát hiện ra một tấm bia nhỏ khắc ba hàng chữ Hán theo lối triện: “Canh niên tân phá/ Tuất, hợi phục sanh/ Nhị ngũ dư bình”.

Lúc ấy người ta đoán Canh niên tức là năm Canh Ngọ (1930), còn ý tứ của 2 câu sau cho đến giờ vẫn đang còn tranh luận. Còn bài thơ sấm ở trên chắc chắn có trước năm 1930 và được lưu truyền, những địa danh lịch sử liên quan đến cuộc khởi nghĩa Yên Bái đều được phản ánh dưới dạng kín đáo.

Cách mạng Tháng 8

Theo các nhà sưu tầm và nghiên cứu, trong các sự kiện lớn của lịch sử Việt Nam thế kỷ 20, cuộc Cách mạng Tháng 8 năm 1945 đã được Trạng Trình dự báo qua câu thơ: “Đầu Thu gà gáy xôn xao/ Trăng xưa sáng tỏ soi vào Thăng Long”.

Theo luận giải, ở câu 1, “đầu Thu” là tháng 7 Âm lịch, “gà” nghĩa là năm Ất Dậu, thời điểm sự kiện lịch sử này diễn ra, “gáy xôn xao” nghĩa là có tiếng vang lớn, thức tỉnh muôn người.

Ở câu 2, “Trăng xưa” nghĩa là “cổ nguyệt” theo Hán tự, ghép lại thành từ “hồ”, là họ của Hồ Chủ tịch. “Sáng tỏ soi vào Thăng Long” là sự kiện Bác Hồ đọc Tuyên ngôn độc lập trước hàng vạn đồng bào ở quảng trường Ba Đình của thủ đô Thăng Long – Hà Nội.

Giải mã những tiên tri kinh ngạc của Trạng Trình
Nhà sử học Ngô Đăng Lợi bên các tài liệu nghiên cứu về Sấm Trạng Trình 

Cũng liên quan đến sự kiện Cách mạng Tháng Tám, nhà sử học Ngô Đăng Lợi còn sưu tầm thêm một bài thơ trong dân gian, tương truyền là của Trạng Trình để lại: “Rồng nằm bể cạn dễ ai hay (năm thìn 1940)/ Rắn mới hai đầu khó chịu thay (năm tỵ 1941)/ Ngựa để gác yên không ai cưỡi (năm ngọ 1942)/ Dê khan ăn lộc ngoảnh về tây (năm mùi 1943)/ Khỉ nọ bồng con ngồi khóc mếu (năm thân 1944)/ Gà kia xào xạc cất cánh bay (năm dậu 1945)/ Chó ve vẩy đuôi mừng thánh chúa (năm tuất 1946)/ Lợn ủn ỉn ăn no ngủ ngày (năm hợi 1947)”.

Nhà sử học Ngô Đăng Lợi cho biết, nếu để ý tới câu thứ 6 thì “Gà kia xào xạc cất cánh bay”, phải chăng là ám chỉ việc quân Pháp bị tước khí giới và phải trở về nước, trả lại nền độc lập cho chúng ta, vì chữ gaulois (người Pháp) do chữ latin gallus cũng có nghĩa là con gà.

Như vậy câu 6 của bài sấm ứng vào Cách mạng Tháng 8. Câu 7 “Chó ve vẩy đuôi mừng thánh chúa” sẽ ứng với việc Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa bầu lãnh tụ dân tộc Hồ Chí Minh làm chủ tịch nước vào năm 1946 (năm Bính Tuất).

Giải mã những tiên tri kinh ngạc của Trạng Trình
Phóng viên trao đổi với nhà sử học Ngô Đăng Lợi giai thoại về Sấm Trạng Trình 

Phần lớn các nhà Nho học nước ta cho rằng Trạng Trình am tường sâu sắc kinh Dịch và Lý học nên tiên tri ứng nghiệm. Những lời sấm chủ yếu là tiên đoán giai đoạn từ khi ông qua đời cho đến hôm nay.

Các sự kiện như: Hoành sơn nhất đái khả dĩ dung thân; Cao Bằng tuy tiểu khả diên sổ thế; Nam Đàn sinh thánh... về sau đã ứng nghiệm một cách đáng kinh ngạc. Và còn rất nhiều những câu sấm còn lưu truyền trong dân gian vẫn đang là đề tài phân tích, lý giải.
 
Minh Khang – Minh Hải
(Ghi theo lời kể của nhà sử học Ngô Đăng Lợi)


Chuyện phá đền và câu sấm truyền của Nguyễn Bỉnh Khiêm

Năm Minh Mạng năm thứ 14 (Minh Mạng ở ngôi từ 1820 – 1840), Nguyễn Công Trứ được vua điều đi khẩn hoang ở vùng Hải Dương, Nguyễn Công Trứ thấy địa thế cần phải đào con sông, đào sông thì phải phá đền thờ Trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, ông ra lệnh cho dân phu phá đền để khai phá công trường. Nào ngờ...
Khi sai người đào mang bát hương ra, Nguyễn Công Trứ chợt thấy dưới bát hương có một tấm bia đá nhỏ phủ vải điều.

Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm (Nguồn Internet, ảnh mang tính minh họa cho bài viết).
Nguyễn Công Trứ lau sạch đọc được các câu đã ghi : 

Minh Mạng thập tứ/ Thằng Trứ phá đền
Phá đền phải làm đền/ Nào ai đụng đến doanh điền nhà bay

Nguyễn Công Trứ lập tức thảo sớ về kinh, xin bãi bỏ lệnh phá đền. Ông còn cho người sửa sang lại đền Trạng khang trang hơn. Từ đó, ông không còn nghĩ đến việc phá đền để đào sông nữa.   
Nguyễn Công Trứ (Nguồn Internet, ảnh mang tính minh họa cho bài viết)
Tục truyền trong làng có cha con ông Khả đi bắt chuột kiếm sống. Khi đến bên mộ Trạng, hai cha con vướng víu thế nào lại làm đổ tấm bia trên mộ. Dân làng rất sùng kính trạng Trình, nên khi thấy bia mộ bị đổ, họ nổi giận bắt cả hai cha con, kêu nộp phạt ba quan tiền mới tha, vì khi tấm bia đổ xuống thấy có hàng chữ ở sau: 

Cha con thằng Khả. Đánh ngã bia tao/ Làng xóm xôn xao. Bắt đền quan tám 

Cha con ông Khả chịu nộp phạt, nhưng dân làng phải tha cha con về nhà chạy tiền. chỉ tìm được có một quan tám, dân làng không chịu, cha con ông Khả ngẫm nghĩ mới tìm được cách, cha con bèn nói với dân làng: Cha con tôi bị Trạng Trình bắt phạt có quan tám, "Tam quán" nói lái lại thành quan tám . Ðúng như cha con ông Khả đã tìm đủ số tiền
 
Nguyễn Bỉnh Khiêm là một nhà thơ lớn, không chỉ của thế kỷ XVI. Thơ văn của Trạng trình Nguyễn Bỉnh Kiêm còn lưu lại khoảng gần 1000 bài trong bộ Bạch Vân thi tập (gồm Bạch Vân am thi tập bằng chữ hán và Bạch Vân quốc ngữ thi tập - còn gọi là Trình quốc công Bạch Vân quốc ngữ thi tập). Thơ của ông mang nặng tình người, khuyên người đời biết điều nhân nghĩa, ngoài ra còn một số giai thoại truyền tụng trong nhân gian…. và những lời sấm ký có giá trị.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét