Thứ Ba, 24 tháng 6, 2014

CÂU CHUYỆN TÌNH BÁO 18 (Tình báo Liên Xô-Nga)

(ĐC sưu tầm trên NET)

Bí mật về tổng cục tình báo quân sự Nga

(Bí mật quân sự) - Khi nói về cơ quan tình báo của Liên Xô trước đây và Nga hiện nay, người ta thường nghĩ tới KGB (Ủy ban an ninh quốc gia Liên Xô trước đây) và FSB (Cơ quan an ninh quốc gia Liên Bang hiện nay), đặc biệt là KGB với những chiến tích huyền thoại. Tuy nhiên, Liên Xô và Nga còn có một tình báo nữa cũng hoạt động rất hiệu quả tuy ít nổi tiếng hơn- đó là cơ quan tình báo quân sự (Tổng cục tình báo trực thuộc Bộ Tổng tham mưu các Lực lượng vũ trang Nga hiện nay- GRU).  Nhân kỷ niệm 68 năm chiến thắng Phát xit Đức, xin giới thiệu với bạn đọc một số thông tin về cơ quan tình  báo này. Nguồn từ các thông tin công khai trên các báo Nga.
                    
Vào các giai đoạn khi mà tình hình quốc tế trở nên phức tạp, xuất hiện các mối đe dọa an ninh quốc gia, xuất hiện các nguy cơ xảy ra chiến tranh hoặc các xung đột quân sự, kể cả khi tiến hành cải cách lực lượng vũ trang, cắt giảm quân số và vũ khí thì vai trò và vị trí của cơ quan tình báo quân sự trong việc cung cấp các tin tức đáng tin cậy, chính xác cho giới lãnh đạo chính trị và quân sự càng trở nên đặc biệt quan trọng.
Để có thể đưa ra được các quyết sách phù hợp với tình hình, giới lãnh đạo chính trị- quân sự phải có trong tay các tin tức chính xác về cán cân lực lượng trên thế giới, các xu hướng phát triển tình hình chính trị- quân sự, mức độ các mối đe dọa chính trị - quân sự, thực trạng (kể cả về số lượng và chất lượng) vũ khí- trang bị kỹ thuật và sinh lực  cũng như  tiềm lực phát triển trang bị, vũ khí của đối phương tiềm năng. Thu thập, xử lý các thông tin cần thiết nói trên chính là nhiệm vụ hàng đầu của tình báo quân sự.
Từ cách nhìn như vậy, ta hãy điểm lại hoạt động và hiệu quả công tác của Cơ quan tình báo quân sự Liên Xô và Nga, mốc thời gian tính từ thời kỳ trước khi Phát xít Đức tấn công Liên Xô cho đến nay. (Từ khi thành lập đến nay, Tổng cục tình báo Bộ Tổng tham mưu các LLVT LB  Nga đã có nhiều lần đổi tên, thay đổi tổ chức biên chế).
        Ilze Shtebe (điệp viên “Alta”, ảnh chụp 3 tuần trước khi bị bắt vào Tháng 8 năm 1942). Ảnh từ tác phẩm  của V.I. Lot “Alta” đối đầu với “Barbaros”. Matxcova, 2004.
Ilze Shtebe (điệp viên “Alta”, ảnh chụp 3 tuần trước khi bị bắt vào Tháng 8 năm 1942). Ảnh từ tác phẩm của V.I. Lot “Alta” đối đầu với “Barbaros”. Matxcova, 2004.
Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại
Chiến tranh là một thử thách khốc liệt đối với toàn bộ hệ thống tình báo quân sự, các cán bộ tình báo quân sự Xô Viết và năng lực của họ trong việc thực hiện  nhiệm cụ đảm bảo tin tức tình báo cho Lãnh đạo đất nước, Bộ quốc phòng và Bộ Tổng tham mưu về những mối đe dọa và các kế hoạch của Bộ tư lệnh tối cao Quân đội Đức quốc xã cả trong thời kỳ trước chiến tranh và trong suốt cuộc chiến tranh vệ quốc.
Trước chiến tranh, Bộ tư lệnh tối cao phát xít Đức đã chuẩn bị nhiều kế hoạch nhằm tiêu diệt Liên Xô. Nổi tiếng nhất là kế hoạch “Barbaros” với các mục tiêu là tiến hành một chiến dịch quân sự nhằm đánh tan Hồng quân, chiếm đóng lãnh thổ Liên Xô theo tuyến Arkhangelsk- Volga- Astrakhan và phá hủy tiềm lực công nghiệp Liên Xô. 
Yếu tố chính trị cấu thành của chiến dịch này là tiêu diệt Liên Xô với tư cách là một quốc gia và trên lãnh thổ Liên Xô thành lập khoảng 10 quốc gia bù nhìn (Litva, Latvia, Estonia, Belarusia, Ucraina, các nước cộng hòa Bắc Káp kaz và v.v). Trên các khu vực lãnh thổ bị chiếm đóng dự kiến sẽ tiêu diệt hết người Do thái và một nửa dân số Nga .
Để đánh giá đúng hiệu quả hoạt động của Cơ quan tình báo quân sự cần chú ý tới một đặc điểm là trước chiến tranh Cơ quan này đã phải trải qua một đợt thanh trừng tổ chức và cán bộ khốc liệt. Chỉ trong vòng 2 năm rưỡi, đã có tới 5 cục trưởng bị bắt và bị xử bắn (lúc bấy giờ mới là Cục tình báo): Ian Berzin, Semen Uritskin, Semen Gendin, Alecxandr Orlov, Ivan Prokurov.
Trước khi bị bắt không lâu, anh hùng Liên Xô - trung tướng Ivan Prokurov (cục trưởng khi đó) đã báo cáo với Dân ủy quốc phòng (bộ trưởng quốc phòng), nguyên soái Liên Xô S. Timosenkho như sau: “2 năm trở lại đây là giai đoạn thanh lọc các phần tử xa lạ và thù địch tại các cục và cơ quan tình báo. Trong thời gian đó, Bộ nội vụ đã bắt giữ 200 người, thay toàn bộ đội ngũ lãnh đạo từ cấp trưởng phòng trở lên”.
Mặc dù bị thanh lọc (đúng hơn là thanh trừng) như vậy, mạng lưới điệp viên và các cơ quan tình báo còn lại vẫn đảm bảo cho giới lãnh đạo đất nước những thông tin rất quan trọng về việc Đức chuẩn bị tấn công.
Từ các báo cáo của Cục tình báo thời gian đó (nay đã giải mật) cho phép rút ra những kết luận sau: 1/ Tình báo quân sự đã cung cấp những bằng chứng không thể bác bỏ về việc Đức chuẩn bị tấn công Liên Xô.
2/ Không những thế, đã xác định được thời điểm  tấn công, cụ thể - vào nửa sau tháng 6, trong vòng 48 tiếng đồng hồ sau 3 giờ sáng ngày 22 tháng 6 (Đức tấn công Liên Xô vào 3 giờ 30 sáng ngày 22/06 ).
3/Giới lãnh đạo Xô Viết cũng đã được thông báo về những đồng minh sẽ tham gia tấn công cùng với Đức và cụ thể là: Rumani, Hung gary và Phần Lan.
4/ Tiếp theo đó, tình báo quân sự cũng đã cung cấp tin về việc số lượng các binh đoàn Đức tập trung dọc biên giới với Liên Xô và họ tên cụ thể của tư lệnh các binh đoàn lớn của Quân Đức.
Các thông tin trên của Cục tình báo đã giúp giới lãnh đạo đất nước đánh giá chính xác tình hình chính trị- quân sự và rút ra những kết luận cần thiết. Mặc dù trong báo cáo gửi Dân ủy quốc phòng của Cục trưởng -  trung tướng Filip Golikov ngày 20 tháng 3 năm 1941 có ý kiến rằng:
“Nên coi những tin đồn và tài liệu nói về chiến tranh không thể tránh khỏi chống Liên Xô mùa xuân năm nay là các thông tin giả” nhưng những đánh giá về các sự kiện nửa đầu năm 1941, thông tin về quan điểm của  Đức và Anh cũng như về các kế hoạch chiến lược quân sự của Đức nhìn chung là khách quan và chính xác. Trong trường hợp này cần phải rất thông cảm với F. Golikov vì nếu nhận xét khác đi thì  trong bối cảnh lúc đó chính Golikov đã tự tay ký bản án tử hình cho mình.
Có một thực tế là các cán bộ tình báo quân sự, các điệp viên và nguồn tin của họ đã thu thập thông tin về các kế hoạch chính trị- quân sự của Đức trong những điều kiện vô cùng phức tạp, dưới sự kiểm soát gắt gao của các cơ quan phản gián Đức và liên tục chịu nhiều rủi ro tính mạng.
Như mọi người đã biết, điệp viên “Alta” (ảnh trên) và người cung cấp tin cho bà trong Bộ ngoại giao Đức với mật danh” Ariets”, -người kịp thời cung cấp các kế hoạch tấn công Liên Xô của Đức đã bị bắt và bị hành hình. Trong các chiến dịch phản gián với mật danh “Krasnaia Kapella” của Gestapo chống lại các lưới điệp báo của tình báo Xô Viết tại các nước Tây u đã có 129 người bị bắt, trong số đó có 49 người bị tử hình.
Cũng có một sự thật cay đắng đầy nghịch lý thời kỳ này: một số cán bộ tình báo Xô Viết, trong đó có 02 tổ trưởng tổ điệp báo của Cục tình báo ở Pháp, Bỉ và Thụy Sỹ là Leopold Trepper và Shandor Rado, thoát được sự bắt bớ của các cơ quan phản gián Đức nhưng khi về đến Matxcova thì lại bị bắt và bị kết án tù -  Leopol Trepper - 15 năm tù và Shandor Rado-10 năm tù vì “hoạt động gián điệp” chống Liên Xô.
Khi cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại bắt đầu và trong suốt thời kỳ chiến tranh, các nỗ lực của tình báo quân sự tập trung chủ yếu vào việc thu thập tin tức chính xác về các kế hoạch của Bộ tư lệnh tối cao Đức, hoạt động và năng lực của nền công nghiệp quân sự Đức và các nước vệ tinh, về việc liệu Nhật Bản và Thổ Nhĩ Kỳ có cùng với Đức tấn công Liên Xô hay không.
Trong thời gian chiến dịch Matxcova, tổ trưởng điệp báo bất hợp pháp ở Nhật Bản là Richard George ngày 14 tháng 9 đã cung cấp tin là Chính phủ Nhật đã quyết định trong năm 1941 không tấn công Liên Xô. Chính nhờ thông tin trên mà Bộ tư lệnh Xô Viết đã quyết định điều 10 sư đoàn đủ quân từ Viễn Đông sang mặt trận Xô- Đức, - đây là một một sự kiện có ý nghĩa cực kỳ quan trọng quyết định thắng lợi của Quân đội Xô Viết trong chiến dịch tại ngoại ô Matxcova cuối năm 1941.
Tiếp theo đó, nhiệm vụ của tình báo quân sự là phải nắm được các kế hoạch tác chiến của Bộ tư lệnh tối cao Đức trong năm 1942. Cơ quan tình báo quân sự đã xác định được là hướng tấn công chủ yếu trong năm 1942 của Bộ tư lệnh tối cao Đức là phía nam Liên Xô.
Để giữ bí mật hướng tấn công chủ yếu, người Đức đã soạn một kế hoạch giả với mật danh “Kremlin” và sử dụng các biện pháp nghi binh và nghiệp vụ nhằm làm cho Bộ tư lệnh tối cao Xô Viết tin rằng hướng tiến công chiến lược chủ yếu vẫn là hướng miền trung Liên Xô để chiếm Matxcova như năm 1941.  
Các điệp viên của Cục tình báo đã cảnh báo Bộ Tổng tham mưu Xô Viết về việc Đức chuẩn bị đợt tấn công mùa xuân theo hướng Kapkaz và Xtalingrad. Trong báo cáo gửi Bộ Tổng tham mưu có đoạn ghi rõ: “Trọng tâm đợt tấn công mùa xuân sẽ được chuyển về hướng nam cùng với các đòn tấn công hỗ trợ ở hướng bắc, đồng thời sẽ có các chiến dịch nghi binh ở hướng Trung tâm nhằm vào Matxcova.
Thời hạn bắt đầu đợt tấn công mùa xuân nhiều khả năng sẽ vào trung tuần tháng 4 hoặc đầu tháng 5 năm 1942”. Rất tiếc là những thông tin trên của tình báo quân sự đã không được chú ý, và Quân đội Xô Viết đã phải trả giá đắt.
Trong các chiến dịch tiếp theo của chiến tranh vệ quốc, tình báo quân sự đã cung cấp các tin tức tình báo chính xác cho Bộ tư lệnh tối cao Xô Viết để đưa ra các quyết định mang tính chiến lược. Nguyên soái Liên Xô G. Zukov đã đánh giá đóng góp của tình báo quân sự trong chiến dịch đập tan Quân Đức ở vòng cung Kursk (1943) như sau:
“Bằng tất cả các phương thức và các hình thức hoạt động của mình, tình báo quân sự đã cung cấp cho Bộ tư lệnh tối cao và bộ tư lệnh các phương diện quân thông tin xác định được chính xác thời điểm quân Đức chuyển sang tấn công là trong khoảng thời gian từ ngày 03 đến 06 tháng 7”.
Trên thực tế, Quân Đức đã bắt đầu tấn công vào ngày 5 tháng 7, -  các tin tình báo chính xác trên đã cho phép quân đội Xô Viết đánh các đòn phủ đầu, giành chiến thắng cuối cùng và cũng từ thời điểm đó hoàn toàn giữ quyền chủ động trên chiến trường cho đến khi kết thúc chiến tranh.         
Tình báo Quân sự cũng đã có những đóng góp to lớn không chỉ cho các chiến dịch trên chiến trường Châu u mà còn trong việc đánh tan đạo quân Quan Đông của Nhật Bản. Không phải ngẫu nhiên khi  theo chỉ thị của Xtalin, người thay mặt Chính phủ Xô Viết ký hiệp ước đầu hàng của Nhật Bản chính là trung tướng tình báo Kuzma Derevianko. Phải coi đây là sự đánh giá rất cao của chính bản thân Xtalin đối với Cơ quan tình báo quân sự.
Dự án hạt nhân        
Chiến tranh kết thúc. Nhưng những kỳ vọng của nhân dân thế giới được sống trong hòa bình đã không trở thành hiện thực. Thời kỳ chiến tranh nóng được thay thế bằng thời kỳ chiến tranh lạnh với một thành tố mới xuất hiện là vũ khí hạt nhân.
Mốc khởi đầu của chiến tranh lạnh chính là thời điểm mà Mỹ ném bom hạt nhân xuống 2 thành phố Hirosima và Nagasaki của Nhật Bản. Làm giàu nhờ chiến tranh, Mỹ bắt đầu thực hiện chính sách nhằm tiêu diệt Liên Xô với hướng ưu tiên là sử dụng vũ khí hạt nhân.
Nếu xét từ góc độ quân sự thì việc Mỹ ném bom hạt nhân xuống 2 thành phố của Nhật Bản hoàn toàn không có ý nghĩa gì vì vào thời điểm Nhật đã thua trận. Bản chất của nó chính là sự phô trương sức mạnh quân sự để đe dọa Liên Xô.
Giới lãnh đạo và các nhà khoa học Xô Viết đã hiểu được điều đó và cũng hiểu những ưu thế của việc sở hữu vũ khí hạt nhân  từ trước chiến tranh vệ quốc. Ngay từ khi đó, tình báo quân sự đã rất tích cực tìm cách thu thập thông tin về các nghiên cứu trong lĩnh vực vũ khí nguyên tử do Mỹ và Anh tiến hành.
Trước chiến tranh, vào tháng 12 năm 1940 nhân viên Cơ quan Tùy viên quân sự Liên Xô tại Luân Đôn Semen Cremer đã nhận được từ nhà khoa học Anh C. Fuchs 570 trang tài liệu gồm các thông tin về các nghiên cứu phân rã Urani và chế tạo bom nguyên tử.   
Vào tháng 2 năm 1942, Cục tình báo đã giao nhiệm vụ thu thập các tài liệu  nghiên cứu về nguyên tử cho tổ trưởng tổ điệp báo bất hợp pháp tại New York là Ian Chernhiak và ông này, thông qua Fuchs đã tổ chức việc khai thác thông tin về các hướng nghiên cứu chủ yếu về Urani. C.Fuchs đã chuyển cho Chernhiak gần 130 trang tài liệu, trong đó có các số liệu về các thiết bị phân tách các đồng vị Urani, bản mô tả kỹ thuật quy trình thu Plutoni, bản vẽ lò phản ứng Urani.
Tháng 4 năm 1944, một tổ trưởng tổ điệp báo bất hợp pháp khác tại New York Artur Adam qua điệp viên của mình đã tổ chức tiếp nhận thành công 2.500 trang tài liệu tuyệt mật về dự án hạt nhân, kèm theo đó là các mẫu urani, berili, grafit và nước nặng. Trong thư mật gửi Cục trưởng tình báo, Adams đã báo cáo về kế hoạch ném bom nguyên tử xuống các thành phố Nhật Bản của Mỹ.
Tháng 2 năm 1945, nhân viên Tùy viên quốc phòng tại Canada Pavel Angelov đã khôi phục được liên lạc với nhà khoa học Fuchs mới đến từ Anh, và ông này đã chuyển nhiều tài liệu mật để P.Angelov chụp lại. Trong số đó có bản thuyết minh kỹ thuật thiết bị tách đồng vị của Urani và thu Plutoni, bản báo cáo của Enricho Fermy về thiết bị và các nguyên tắc hoạt động của lò phản ứng Urani, các mẫu Urani 235 và 233.
Ngoài Adams và Chernhiak, tại Mỹ còn có một sỹ quan tình báo bất hợp pháp khác của Cục tình báo là George Koval làm việc tại một cơ sở bí mật của lực lượng đặc nhiệm Mỹ ở Oak- Ridge, nơi có hàng  nghìn các nhà khoa học, kỹ sư, các chuyên gia kỹ thuật đang làm việc trong lĩnh vực nghiên cứu năng lượng hạt nhân.
G.Koval đã thu thập được nhiều thông tin về  các cơ sở nguyên tử bí mật của Mỹ, xác định được cơ cấu, khối lượng sản xuất nguyên liệu hạt nhân, số lượng các chuyên gia được huy động và thiết lập được liên lạc được với một số điệp viên tại các cơ sở hạt nhân bí mật khác trong chương trình này.
Tình báo quân sự đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ đảm bảo cho giới lãnh đạo chính trị- quân sự và các nhà khoa học Xô Viết những thông tin về công tác nghiên cứu khoa học ở Mỹ, Anh, Canada trong việc chế tạo vũ khí nguyên tử.
Vào các năm 1941-1945, các sỹ quan tình báo quân sự đã thu thập được 6.000 trang tài liệu mật và 25 mẫu có liên quan đến việc sản xuất Uran vũ khí và quy trình làm giàu Urani. Những thông tin mà tình báo quân sự thu thập được trong lĩnh vực này đã cho phép các nhà khoa học Xô Viết đẩy nhanh tiến trình chế tạo quả bom nguyên tử đầu tiên của Liên Xô.
Để có thể đánh giá hết tầm quan trọng của những tin tức trên trong lĩnh vực hạt nhân, xin dẫn lời của Viện sỹ I. Kurchatov nói với Bộ trưởng Bộ công nghiệp hóa học Liên Xô M. Pervukhin ngày 7 tháng 3 năm 1943 như sau: ”Những tài liệu thu thập được có một ý nghĩa vô cùng to lớn và vô giá đối với quốc gia và nền khoa học của chúng ta… Cũng cần phải nhận xét thêm rằng, toàn bộ các tài liệu thu thập được đã chỉ ra những  khả năng kỹ thuật giúp giải quyết toàn bộ vấn đề trong một thời gian ngắn hơn rất nhiều..”
Trước khi V. Stalin đi dự Hội nghị Postdam, ông đã nhận được một báo cáo của Cục tình báo, trong đó có đoạn: “Vào tháng 7 năm nay nhiều khả năng là sẽ có một vụ thử bom nguyên tử đầu tiên”. Cũng trong bản báo cáo này, các cán bộ của Cục đã trình bày chi tiết các đặc tính kỹ thuật và mô tả bom nguyên tử, cũng như thông báo cụ thể về ngày tiến hành vụ nổ thử nghiệm đầu tiên - 10 tháng 7 năm 1941.
Vụ thử bom nguyên tử đầu tiên của Liên Xô vào ngày 29 tháng 8 năm 1949 có thể thực hiện được là nhờ rất nhiều vào những tin tức mà các sỹ quan tình báo quân đội khai thác được. Cuộc thử nghiệm thành công này đã đặt dấu chấm hết cho sự độc quyền của Mỹ trong việc sở hữu vũ khí hạt nhân và làm thay đổi căn bản cán cân lực lượng trên thế giới.
Vì sự dũng cảm và chủ nghĩa anh hùng khi thực hiện các nhiệm vụ đặc biệt, các sỹ quan tình báo quân sự Ian Chernhiak, George Koval và Artur Adams đã lần lượt được truy tặng danh hiệu anh hùng Liên Bang Nga vào các năm 1994, 1995 và 1999.
Thời kỳ chiến tranh lạnh
Năm 1960. Điệp viên “Miurat” gửi về 2 tài liệu đóng dấu “Tuyệt mật” (Top Secret. Cosmic. NATO. Ngay tên gọi đã nói lên tầm quan trọng của các tài liệu này: “Kế hoạch của Tư lệnh tối cao Lực lượng vũ trang NATO tại Châu u về việc tiến hành các đòn tấn công hạt nhân” và “Kế hoạch phòng thủ khẩn cấp của Bộ tư lệnh chiến dịch- chiến thuật tại chiến trường Trung u”.
Vào tháng 2 năm 1961 cũng điệp viên “Miurat” này đã gửi về Trung tâm “Kế hoạch chiến tranh hạt nhân đối với Chiến trường Nam u” và nhiều tài liệu quan trọng khác, - vào tháng 10 năm 1962, một tuần trước cuộc khủng hoảng Caribe, Trung tâm đã nhận được 2 tập “Danh mục các mục tiêu cần tấn công hạt nhân trên lãnh thổ Liên Xô và các nước Hiệp ước Varsava”.    
Trong thời kỳ chiến tranh lạnh, cần đặc biệt nhân mạnh vai trò của Tổng cục tình báo đối với các quyết định của Lãnh đạo Liên Xô trong việc giải quyết cuộc khủng hoảng Caribe. Đại tá tình báo trong tổ điệp báo bất hợp pháp (Xô Viết) tại Washinton G. Bolshakov dưới bình phong là một phóng viên đã thu thập được các thông tin cực kỳ quan trọng, thiết lập được mối quan hệ cá nhân với em trai Tổng thống Mỹ là Robert Kennedy và thông qua ông này đã tổ chức một kênh liên lạc không chính thức giữa Tổng thống Mỹ và giới lãnh đạo Matxcova.
Khả năng sử dụng kênh liên lạc theo tuyến Khrushov- Bolshakov- Kennedy đã được xem xét tại cuộc họp Bộ Chính trị Trung ương Đảng Công sản Liên Xô và tại cuộc họp này Bộ chính tri đã quyết định: “Chấp thuận đề nghị của Bộ ngoại giao Liên Xô và Bộ quốc phòng Liên Xô về cuộc gặp giữa đồng chí Bolshakov với em trai Tổng thống Mỹ”.
Căn cứ vào quyết định này cả Bộ ngoại giao, Bộ quốc phòng Liên Xô đã soạn thảo các chỉ thị cần thiết  và được Trung ương Đảng CS Liên Xô thông qua gửi Tổ điệp báo của Tổng cục tại Washinton để chuyển cho Bolshakov và bản phô tô gửi cho Đại sứ Liên Xô tại Mỹ M. Menshikov.
Một báo cáo của Tổng cục tình báo (Ảnh chụp không nét nên không đọc được).
Một báo cáo của Tổng cục tình báo (Ảnh chụp không nét nên không đọc được).
Trong tháng 8, tháng 9 năm 1962 Bolshakov đã gặp Robert Kennedy tới hơn 40 lần. Vào đầu tháng 9 năm 1963 Bolshokov được triệu về Matxcova và báo cáo trực tiếp với Khrushov về tình hình trong giới lãnh đạo Mỹ và  báo cáo chi tiết về các cuộc gặp với anh em nhà Kennedy. Khrushov đã giao Bolshakov trực tiếp chuyển bức thư riêng của ông cho tổng thống Mỹ và thông báo với G. Kennedy là Liên Xô sẽ không bố trí các vũ khí tấn công tại Cuba.       
Ngay sau khi quay trở lại Washinton, Bolshakov đã thực hiện nhiệm vụ Khrushov giao. Tất cả những điều đó đã đóng vai trò quyết định trong việc giải quyết cuộc khủng hoảng Caribe và ngăn chặn được việc chuyển từ chiến tranh lạnh sang một cuộc chiến tranh thế giới mới (rất có thể là chiến tranh hạt nhân hủy diệt). Vào năm 2000, Tổng thống Nga đã truy tặng đại tá G. Bolshakov Huân chương hữu nghị vì đã thực hiện xuất sắc các nhiệm vụ tổ quốc giao.
Cuộc khủng hoảng Caribe kết thúc, nhưng tình trạng đối đầu giữa Liên Xô và Mỹ, giữa hai hệ thống chính trị, giữa  hai tổ chức quân sự NATO và Hiệp ước Varszawa vẫn rất căng thẳng cho đến khi Liên Xô và Hiệp ước Varszawa tan rã. Mỹ và NATO vẫn tiếp tục lên các kế hoạch nhằm tiêu diệt Liên Xô, và như vậy hoạt động của Cơ quan tình báo quân sự cũng không một phút giây ngưng nghỉ.
Một cơ quan tình báo độc nhất vô nhị
Khi nói về hoạt động của cơ quan tình báo quân sự không thể không nhắc tới những công việc mà họ đã làm ở Apganistan ngay sau khi Liên Xô đưa quân vào nước này.
Tổng cục trưởng GRU lúc đó là đại tướng Petr Ivanshutin đã có những đánh giá sau đây: “GRU đã xây dựng được tại Apganistan một mạng lưới tình báo mà thế giới chưa từng biết đến”. Các chiến dịch tác chiến của Quân đội Xô Viết ở Apganistan đã nhận được sự trợ giúp hết sức tích cực và hiệu quả  các cơ quan tình báo chiến lược và chiến dịch, các phân đội và đơn vị đặc nhiệm (của GRU), trinh sát vũ trụ, đường không và trinh sát vô tuyến điện tử. Chính sự hỗ trợ đó đã tạo điều kiện cho quân đội giải quyết các nhiệm vụ tác chiến với tổn thất tối thiểu.
Một trong những chiến tích đáng ghi nhận của GRU tại Apganistan là chiến dịch chung do KGB và GRU tiến hành - tấn công dinh tổng thống Apganistan Khaiula Amin. Trước khi ra quyết định loại bỏ ông này, phía Liên Xô đã thấy rõ là Amin đang tiến hành chính sách nhằm chống lại các lợi ích của Liên Xô ở Apganistan.
Lợi dụng yêu cầu của Amin về việc cử tới Kabul một tiêu đoàn bộ binh cơ giới để bảo vệ Dinh tổng thống, theo đề nghị của IU. Andropov và N. Ogarkov Bộ chính trị Trung ương Đảng CS Liên Xô đã quyết định “cử tới Kabul một đơn vị của GRU được huấn luyện đặc biệt để thực hiện nhiệm vụ này với quân số khoảng 500 người mặc đồng phục, không được để lộ là thuộc Lực lượng vũ trang Liên Xô”. Đội quân này được những người đã từng tham chiến ở Apganistan gọi là “Tiểu đoàn Hồi giáo”.     
Kế hoạch đánh chiếm Dinh tổng thống Kh.Amin được đại tá GRU Vasili Kolesnhik soạn thảo. Cố vấn quân sự trưởng và đại diện KGB tại Apganistan đồng ý bằng miệng nhưng không ký vào bản kế hoạch. Đại tá GRU V. Kolesnhik, phó chỉ huy phụ trách các nhóm đặc nhiệm của KGB “Grom” và “Zenhit” - là thiếu tướng KGB Iuri Drozdov chịu trách nhiệm chỉ huy chiến dịch.
Khi đó có tất cả 2.500 sỹ quan và binh lính  Apganistan được huấn luyện đặc biệt và trung thành tuyệt đối với Kh. Amin bảo vệ Dinh tổng thống. Cuộc tiến công chiếm dinh Tổng thống kéo dài 43 phút. 1700 lính và sỹ quan đầu hàng bảo vệ Kh.Amin.
Kết thúc chiến dịch, “tiểu đoàn Hồi giáo” có 5 người thiệt mạng, 35 người bị thương. Trong các nhóm đặc nhiệm của KGB “Grom” (25 người) và “Zenhit” (30 người) có 5 người thiệt mạng và 17 người bị thương. Riêng đại tá Vasili Kolesnhik sau chiến dịch này được phong tặng danh hiệu anh hùng Liên Xô. Hơn 300 sỹ quan và binh lính của tiểu đoàn “Hồi giáo” này được tặng thưởng huân huy chương các loại. Đây là chiến dịch chung đầu tiên của KGB và GRU, cũng là chiến dịch đầu tiên của đặc nhiệm KGB ở nước ngoài.
Một thử thách khốc liệt khác đối với tình báo quân sự là cuộc xung đột vũ trang ở ngoại Kapkaz tháng 8 năm 2008. Tình báo quân sự đã thông tin trước cho lãnh đạo Nga về tình hình Gruzia và việc chế độ Saakashvili sẵn sàng có các hành động khiêu khích đối với Nam Oxetia và Abkhazia. Căn cứ vào các  báo cáo và tin tức của GRU, giới  lãnh đạo Nga đã quyết định tiến hành chiến dịch quân sự “áp đặt hòa bình” đối với Gruzia.
  
Cần một vị thế mới
Các sự kiện những năm gần đây cho thấy Mỹ và NATO vẫn không từ bỏ các toan tính giải quyết các vấn đề toàn cầu và khu vực bằng vũ lực.
Những minh chứng cho điều đó là các hành động của Mỹ và các đồng minh ở Nam Tư, Irắc, Libi và bây giờ là Xiri, là việc Mỹ bố trí hệ thống phòng thủ chống tên lửa dọc biên giới Nga. Trong các văn kiện bí mật của Mỹ thì nước Nga, cũng như trước đây vẫn được coi là đối thủ chủ yếu của Mỹ. Trong điều kiện như vậy vai trò của Tình báo quân sự trong việc đảm bảo các lợi ích quốc gia của Nga sẽ ngày càng tăng lên.    
Hiện nay, một số tướng lĩnh và các chuyên gia quân sự Nga đang đề nghị nâng cao vị thế của GRU bằng cách chuyển sang trực thuộc Bộ Quốc phòng với tư cách là bộ phận tình báo đối ngoại cấu thành quan trọng nhất. Luận chứng cho đề nghị trên là kinh nghiệm hoạt động của tình báo quân sự vào năm 1942, khi Bộ trưởng quốc phòng Xtalin ký sắc lệnh về việc tái tổ chức GRU, trong sắc lệnh có đoạn:
“Nhằm lập lại trật tự và nâng cao hiệu quả công tác của tình báo quân sự, tôi ra lệnh tách GRU khỏi Bộ tổng tham mưu và chuyển sang trực thuộc Dân ủy quốc phòng”. Kinh nghiệm 3 năm hoạt động sau đó của GRU đã khẳng định tính đúng đắn của của sắc lệnh trên.
Kinh nghiệm của các đối thủ tiềm năng của Nga cũng cho thấy sự cần thiết phải nâng cao vị thế của GRU. Ví dụ như Mỹ, do nhận thức được những nguy cơ toàn cầu và khu vực đối với an ninh quốc gia đã quyết định nâng cao vai trò của Tình báo quân sự bằng cách thành lập Cục các chiến dịch đặc biệt trực thuộc Cục tình báo Bộ Quốc phòng do một thứ trưởng Bộ quốc phòng phụ trách tình báo trực tiếp kiểm soát.
Giới chức Mỹ cho rằng việc tối ưu hóa Cục tình báo Bộ quốc phòng sẽ là làm hoàn thiện và tăng tính hiệu quả trong hoạt động của tình báo quân đội, giảm sự phụ thuộc của Bộ Quóc phòng vào CIA trong việc thu thập  nhận các thông tin cần thiết liên quan đến các vấn đề quân sự. Có thể, những kiến nghị trên của các tướng lĩnh và các chuyên gia đã được giới lãnh đạo Nga chấp nhận.
Ngày 18 tháng 4 năm 2013, Tổng tham mưu trưởng các lực lượng vũ trang Liên Bang Nga đã tuyên bố là Nga sẽ thành lập Lực lượng các chiến dịch đặc biệt, lực lượng này không chỉ hoạt động trên lãnh thổ Nga mà còn cả ở nước ngoài.
Hiện chưa rõ, lực lượng này có trực thuộc GRU hay không nhưng chắc chắn một điều là trong lực lượng này sẽ có một thành phần là các đội đặc nhiệm của GRU- vốn được coi là lực lực lượng đặc nhiệm tinh nhuệ nhất thế giới hiện nay.
Lê Hùng (tổng hợp từ các nguồn báo Nga)
http://baodatviet.vn


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét