Thứ Ba, 24 tháng 6, 2014
CÂU CHUYỆN TÌNH BÁO 18 (Tình báo Liên Xô-Nga)
(ĐC sưu tầm trên NET)
(Bí mật quân sự) - Khi nói về cơ quan tình báo của Liên Xô trước đây và Nga hiện nay, người ta thường nghĩ tới KGB (Ủy ban an ninh quốc gia Liên Xô trước đây) và FSB (Cơ quan an ninh quốc gia Liên Bang hiện nay), đặc biệt là KGB với những chiến tích huyền thoại. Tuy nhiên, Liên Xô và Nga còn có một tình báo nữa cũng hoạt động rất hiệu quả tuy ít nổi tiếng hơn- đó là cơ quan tình báo quân sự (Tổng cục tình báo trực thuộc Bộ Tổng tham mưu các Lực lượng vũ trang Nga hiện nay- GRU). Nhân kỷ niệm 68 năm chiến thắng Phát xit Đức, xin giới thiệu với bạn đọc một số thông tin về cơ quan tình báo này. Nguồn từ các thông tin công khai trên các báo Nga.
Vào các giai đoạn khi mà tình hình quốc tế
trở nên phức tạp, xuất hiện các mối đe dọa an ninh quốc gia, xuất hiện
các nguy cơ xảy ra chiến tranh hoặc các xung đột quân sự, kể cả khi tiến
hành cải cách lực lượng vũ trang, cắt giảm quân số và vũ khí thì vai
trò và vị trí của cơ quan tình báo quân sự trong việc cung cấp các tin
tức đáng tin cậy, chính xác cho giới lãnh đạo chính trị và quân sự càng
trở nên đặc biệt quan trọng.
Bí mật về tổng cục tình báo quân sự Nga
(Bí mật quân sự) - Khi nói về cơ quan tình báo của Liên Xô trước đây và Nga hiện nay, người ta thường nghĩ tới KGB (Ủy ban an ninh quốc gia Liên Xô trước đây) và FSB (Cơ quan an ninh quốc gia Liên Bang hiện nay), đặc biệt là KGB với những chiến tích huyền thoại. Tuy nhiên, Liên Xô và Nga còn có một tình báo nữa cũng hoạt động rất hiệu quả tuy ít nổi tiếng hơn- đó là cơ quan tình báo quân sự (Tổng cục tình báo trực thuộc Bộ Tổng tham mưu các Lực lượng vũ trang Nga hiện nay- GRU). Nhân kỷ niệm 68 năm chiến thắng Phát xit Đức, xin giới thiệu với bạn đọc một số thông tin về cơ quan tình báo này. Nguồn từ các thông tin công khai trên các báo Nga.
Để có thể đưa ra
được các quyết sách phù hợp với tình hình, giới lãnh đạo chính trị- quân
sự phải có trong tay các tin tức chính xác về cán cân lực lượng trên
thế giới, các xu hướng phát triển tình hình chính trị- quân sự, mức độ
các mối đe dọa chính trị - quân sự, thực trạng (kể cả về số lượng và
chất lượng) vũ khí- trang bị kỹ thuật và sinh lực cũng như tiềm lực
phát triển trang bị, vũ khí của đối phương tiềm năng. Thu thập, xử lý
các thông tin cần thiết nói trên chính là nhiệm vụ hàng đầu của tình báo
quân sự.
Từ cách nhìn như vậy, ta hãy điểm lại
hoạt động và hiệu quả công tác của Cơ quan tình báo quân sự Liên Xô và
Nga, mốc thời gian tính từ thời kỳ trước khi Phát xít Đức tấn công Liên
Xô cho đến nay. (Từ khi thành lập đến nay, Tổng cục tình báo Bộ Tổng
tham mưu các LLVT LB Nga đã có nhiều lần đổi tên, thay đổi tổ chức biên
chế).
Ilze Shtebe (điệp viên “Alta”, ảnh chụp 3 tuần trước khi bị bắt vào Tháng 8 năm 1942). Ảnh từ tác phẩm của V.I. Lot “Alta” đối đầu với “Barbaros”. Matxcova, 2004. |
Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại
Chiến
tranh là một thử thách khốc liệt đối với toàn bộ hệ thống tình báo quân
sự, các cán bộ tình báo quân sự Xô Viết và năng lực của họ trong việc
thực hiện nhiệm cụ đảm bảo tin tức tình báo cho Lãnh đạo đất nước, Bộ
quốc phòng và Bộ Tổng tham mưu về những mối đe dọa và các kế hoạch của
Bộ tư lệnh tối cao Quân đội Đức quốc xã cả trong thời kỳ trước chiến
tranh và trong suốt cuộc chiến tranh vệ quốc.
Trước
chiến tranh, Bộ tư lệnh tối cao phát xít Đức đã chuẩn bị nhiều kế hoạch
nhằm tiêu diệt Liên Xô. Nổi tiếng nhất là kế hoạch “Barbaros” với các
mục tiêu là tiến hành một chiến dịch quân sự nhằm đánh tan Hồng quân,
chiếm đóng lãnh thổ Liên Xô theo tuyến Arkhangelsk- Volga- Astrakhan và
phá hủy tiềm lực công nghiệp Liên Xô.
Yếu tố chính
trị cấu thành của chiến dịch này là tiêu diệt Liên Xô với tư cách là
một quốc gia và trên lãnh thổ Liên Xô thành lập khoảng 10 quốc gia bù
nhìn (Litva, Latvia, Estonia, Belarusia, Ucraina, các nước cộng hòa Bắc
Káp kaz và v.v). Trên các khu vực lãnh thổ bị chiếm đóng dự kiến sẽ tiêu
diệt hết người Do thái và một nửa dân số Nga .
Để
đánh giá đúng hiệu quả hoạt động của Cơ quan tình báo quân sự cần chú ý
tới một đặc điểm là trước chiến tranh Cơ quan này đã phải trải qua một
đợt thanh trừng tổ chức và cán bộ khốc liệt. Chỉ trong vòng 2 năm rưỡi,
đã có tới 5 cục trưởng bị bắt và bị xử bắn (lúc bấy giờ mới là Cục tình
báo): Ian Berzin, Semen Uritskin, Semen Gendin, Alecxandr Orlov, Ivan
Prokurov.
Trước khi bị bắt không lâu, anh hùng Liên
Xô - trung tướng Ivan Prokurov (cục trưởng khi đó) đã báo cáo với Dân
ủy quốc phòng (bộ trưởng quốc phòng), nguyên soái Liên Xô S. Timosenkho
như sau: “2 năm trở lại đây là giai đoạn thanh lọc các phần tử xa lạ và
thù địch tại các cục và cơ quan tình báo. Trong thời gian đó, Bộ nội vụ
đã bắt giữ 200 người, thay toàn bộ đội ngũ lãnh đạo từ cấp trưởng phòng
trở lên”.
Mặc dù bị thanh lọc (đúng hơn là thanh
trừng) như vậy, mạng lưới điệp viên và các cơ quan tình báo còn lại vẫn
đảm bảo cho giới lãnh đạo đất nước những thông tin rất quan trọng về
việc Đức chuẩn bị tấn công.
Từ các báo cáo của Cục
tình báo thời gian đó (nay đã giải mật) cho phép rút ra những kết luận
sau: 1/ Tình báo quân sự đã cung cấp những bằng chứng không thể bác bỏ
về việc Đức chuẩn bị tấn công Liên Xô.
2/ Không
những thế, đã xác định được thời điểm tấn công, cụ thể - vào nửa sau
tháng 6, trong vòng 48 tiếng đồng hồ sau 3 giờ sáng ngày 22 tháng 6 (Đức
tấn công Liên Xô vào 3 giờ 30 sáng ngày 22/06 ).
3/Giới
lãnh đạo Xô Viết cũng đã được thông báo về những đồng minh sẽ tham gia
tấn công cùng với Đức và cụ thể là: Rumani, Hung gary và Phần Lan.
4/
Tiếp theo đó, tình báo quân sự cũng đã cung cấp tin về việc số lượng
các binh đoàn Đức tập trung dọc biên giới với Liên Xô và họ tên cụ thể
của tư lệnh các binh đoàn lớn của Quân Đức.
Các
thông tin trên của Cục tình báo đã giúp giới lãnh đạo đất nước đánh giá
chính xác tình hình chính trị- quân sự và rút ra những kết luận cần
thiết. Mặc dù trong báo cáo gửi Dân ủy quốc phòng của Cục trưởng -
trung tướng Filip Golikov ngày 20 tháng 3 năm 1941 có ý kiến rằng:
“Nên
coi những tin đồn và tài liệu nói về chiến tranh không thể tránh khỏi
chống Liên Xô mùa xuân năm nay là các thông tin giả” nhưng những đánh
giá về các sự kiện nửa đầu năm 1941, thông tin về quan điểm của Đức và
Anh cũng như về các kế hoạch chiến lược quân sự của Đức nhìn chung là
khách quan và chính xác. Trong trường hợp này cần phải rất thông cảm với
F. Golikov vì nếu nhận xét khác đi thì trong bối cảnh lúc đó chính
Golikov đã tự tay ký bản án tử hình cho mình.
Có
một thực tế là các cán bộ tình báo quân sự, các điệp viên và nguồn tin
của họ đã thu thập thông tin về các kế hoạch chính trị- quân sự của Đức
trong những điều kiện vô cùng phức tạp, dưới sự kiểm soát gắt gao của
các cơ quan phản gián Đức và liên tục chịu nhiều rủi ro tính mạng.
Như
mọi người đã biết, điệp viên “Alta” (ảnh trên) và người cung cấp tin
cho bà trong Bộ ngoại giao Đức với mật danh” Ariets”, -người kịp thời
cung cấp các kế hoạch tấn công Liên Xô của Đức đã bị bắt và bị hành
hình. Trong các chiến dịch phản gián với mật danh “Krasnaia Kapella” của
Gestapo chống lại các lưới điệp báo của tình báo Xô Viết tại các nước
Tây u đã có 129 người bị bắt, trong số đó có 49 người bị tử hình.
Cũng
có một sự thật cay đắng đầy nghịch lý thời kỳ này: một số cán bộ tình
báo Xô Viết, trong đó có 02 tổ trưởng tổ điệp báo của Cục tình báo ở
Pháp, Bỉ và Thụy Sỹ là Leopold Trepper và Shandor Rado, thoát được sự
bắt bớ của các cơ quan phản gián Đức nhưng khi về đến Matxcova thì lại
bị bắt và bị kết án tù - Leopol Trepper - 15 năm tù và Shandor Rado-10
năm tù vì “hoạt động gián điệp” chống Liên Xô.
Khi
cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại bắt đầu và trong suốt thời kỳ chiến
tranh, các nỗ lực của tình báo quân sự tập trung chủ yếu vào việc thu
thập tin tức chính xác về các kế hoạch của Bộ tư lệnh tối cao Đức, hoạt
động và năng lực của nền công nghiệp quân sự Đức và các nước vệ tinh, về
việc liệu Nhật Bản và Thổ Nhĩ Kỳ có cùng với Đức tấn công Liên Xô hay
không.
Trong thời gian chiến dịch Matxcova, tổ
trưởng điệp báo bất hợp pháp ở Nhật Bản là Richard George ngày 14 tháng 9
đã cung cấp tin là Chính phủ Nhật đã quyết định trong năm 1941 không
tấn công Liên Xô. Chính nhờ thông tin trên mà Bộ tư lệnh Xô Viết đã
quyết định điều 10 sư đoàn đủ quân từ Viễn Đông sang mặt trận Xô- Đức, -
đây là một một sự kiện có ý nghĩa cực kỳ quan trọng quyết định thắng
lợi của Quân đội Xô Viết trong chiến dịch tại ngoại ô Matxcova cuối năm
1941.
Tiếp theo đó, nhiệm vụ của tình báo quân sự
là phải nắm được các kế hoạch tác chiến của Bộ tư lệnh tối cao Đức trong
năm 1942. Cơ quan tình báo quân sự đã xác định được là hướng tấn công
chủ yếu trong năm 1942 của Bộ tư lệnh tối cao Đức là phía nam Liên Xô.
Để
giữ bí mật hướng tấn công chủ yếu, người Đức đã soạn một kế hoạch giả
với mật danh “Kremlin” và sử dụng các biện pháp nghi binh và nghiệp vụ
nhằm làm cho Bộ tư lệnh tối cao Xô Viết tin rằng hướng tiến công chiến
lược chủ yếu vẫn là hướng miền trung Liên Xô để chiếm Matxcova như năm
1941.
Các điệp viên của Cục tình báo đã cảnh báo
Bộ Tổng tham mưu Xô Viết về việc Đức chuẩn bị đợt tấn công mùa xuân theo
hướng Kapkaz và Xtalingrad. Trong báo cáo gửi Bộ Tổng tham mưu có đoạn
ghi rõ: “Trọng tâm đợt tấn công mùa xuân sẽ được chuyển về hướng nam
cùng với các đòn tấn công hỗ trợ ở hướng bắc, đồng thời sẽ có các chiến
dịch nghi binh ở hướng Trung tâm nhằm vào Matxcova.
Thời
hạn bắt đầu đợt tấn công mùa xuân nhiều khả năng sẽ vào trung tuần
tháng 4 hoặc đầu tháng 5 năm 1942”. Rất tiếc là những thông tin trên của
tình báo quân sự đã không được chú ý, và Quân đội Xô Viết đã phải trả
giá đắt.
Trong các chiến dịch tiếp theo của chiến
tranh vệ quốc, tình báo quân sự đã cung cấp các tin tức tình báo chính
xác cho Bộ tư lệnh tối cao Xô Viết để đưa ra các quyết định mang tính
chiến lược. Nguyên soái Liên Xô G. Zukov đã đánh giá đóng góp của tình
báo quân sự trong chiến dịch đập tan Quân Đức ở vòng cung Kursk (1943)
như sau:
“Bằng tất cả các phương thức và các hình
thức hoạt động của mình, tình báo quân sự đã cung cấp cho Bộ tư lệnh tối
cao và bộ tư lệnh các phương diện quân thông tin xác định được chính
xác thời điểm quân Đức chuyển sang tấn công là trong khoảng thời gian từ
ngày 03 đến 06 tháng 7”.
Trên thực tế, Quân Đức đã
bắt đầu tấn công vào ngày 5 tháng 7, - các tin tình báo chính xác trên
đã cho phép quân đội Xô Viết đánh các đòn phủ đầu, giành chiến thắng
cuối cùng và cũng từ thời điểm đó hoàn toàn giữ quyền chủ động trên
chiến trường cho đến khi kết thúc chiến tranh.
Tình
báo Quân sự cũng đã có những đóng góp to lớn không chỉ cho các chiến
dịch trên chiến trường Châu u mà còn trong việc đánh tan đạo quân Quan
Đông của Nhật Bản. Không phải ngẫu nhiên khi theo chỉ thị của Xtalin,
người thay mặt Chính phủ Xô Viết ký hiệp ước đầu hàng của Nhật Bản chính
là trung tướng tình báo Kuzma Derevianko. Phải coi đây là sự đánh giá
rất cao của chính bản thân Xtalin đối với Cơ quan tình báo quân sự.
Dự án hạt nhân
Chiến
tranh kết thúc. Nhưng những kỳ vọng của nhân dân thế giới được sống
trong hòa bình đã không trở thành hiện thực. Thời kỳ chiến tranh nóng
được thay thế bằng thời kỳ chiến tranh lạnh với một thành tố mới xuất
hiện là vũ khí hạt nhân.
Mốc khởi đầu của chiến
tranh lạnh chính là thời điểm mà Mỹ ném bom hạt nhân xuống 2 thành phố
Hirosima và Nagasaki của Nhật Bản. Làm giàu nhờ chiến tranh, Mỹ bắt đầu
thực hiện chính sách nhằm tiêu diệt Liên Xô với hướng ưu tiên là sử dụng
vũ khí hạt nhân.
Nếu xét từ góc độ quân sự thì
việc Mỹ ném bom hạt nhân xuống 2 thành phố của Nhật Bản hoàn toàn không
có ý nghĩa gì vì vào thời điểm Nhật đã thua trận. Bản chất của nó chính
là sự phô trương sức mạnh quân sự để đe dọa Liên Xô.
Giới
lãnh đạo và các nhà khoa học Xô Viết đã hiểu được điều đó và cũng hiểu
những ưu thế của việc sở hữu vũ khí hạt nhân từ trước chiến tranh vệ
quốc. Ngay từ khi đó, tình báo quân sự đã rất tích cực tìm cách thu thập
thông tin về các nghiên cứu trong lĩnh vực vũ khí nguyên tử do Mỹ và
Anh tiến hành.
Trước chiến tranh, vào tháng 12 năm
1940 nhân viên Cơ quan Tùy viên quân sự Liên Xô tại Luân Đôn Semen
Cremer đã nhận được từ nhà khoa học Anh C. Fuchs 570 trang tài liệu gồm
các thông tin về các nghiên cứu phân rã Urani và chế tạo bom nguyên tử.
Vào tháng 2 năm 1942, Cục tình báo đã giao nhiệm
vụ thu thập các tài liệu nghiên cứu về nguyên tử cho tổ trưởng tổ điệp
báo bất hợp pháp tại New York là Ian Chernhiak và ông này, thông qua
Fuchs đã tổ chức việc khai thác thông tin về các hướng nghiên cứu chủ
yếu về Urani. C.Fuchs đã chuyển cho Chernhiak gần 130 trang tài liệu,
trong đó có các số liệu về các thiết bị phân tách các đồng vị Urani, bản
mô tả kỹ thuật quy trình thu Plutoni, bản vẽ lò phản ứng Urani.
Tháng
4 năm 1944, một tổ trưởng tổ điệp báo bất hợp pháp khác tại New York
Artur Adam qua điệp viên của mình đã tổ chức tiếp nhận thành công 2.500
trang tài liệu tuyệt mật về dự án hạt nhân, kèm theo đó là các mẫu
urani, berili, grafit và nước nặng. Trong thư mật gửi Cục trưởng tình
báo, Adams đã báo cáo về kế hoạch ném bom nguyên tử xuống các thành phố
Nhật Bản của Mỹ.
Tháng 2 năm 1945, nhân viên Tùy
viên quốc phòng tại Canada Pavel Angelov đã khôi phục được liên lạc với
nhà khoa học Fuchs mới đến từ Anh, và ông này đã chuyển nhiều tài liệu
mật để P.Angelov chụp lại. Trong số đó có bản thuyết minh kỹ thuật thiết
bị tách đồng vị của Urani và thu Plutoni, bản báo cáo của Enricho Fermy
về thiết bị và các nguyên tắc hoạt động của lò phản ứng Urani, các mẫu
Urani 235 và 233.
Ngoài Adams và Chernhiak, tại Mỹ
còn có một sỹ quan tình báo bất hợp pháp khác của Cục tình báo là George
Koval làm việc tại một cơ sở bí mật của lực lượng đặc nhiệm Mỹ ở Oak-
Ridge, nơi có hàng nghìn các nhà khoa học, kỹ sư, các chuyên gia kỹ
thuật đang làm việc trong lĩnh vực nghiên cứu năng lượng hạt nhân.
G.Koval
đã thu thập được nhiều thông tin về các cơ sở nguyên tử bí mật của Mỹ,
xác định được cơ cấu, khối lượng sản xuất nguyên liệu hạt nhân, số
lượng các chuyên gia được huy động và thiết lập được liên lạc được với
một số điệp viên tại các cơ sở hạt nhân bí mật khác trong chương trình
này.
Tình báo quân sự đã hoàn thành xuất sắc nhiệm
vụ đảm bảo cho giới lãnh đạo chính trị- quân sự và các nhà khoa học Xô
Viết những thông tin về công tác nghiên cứu khoa học ở Mỹ, Anh, Canada
trong việc chế tạo vũ khí nguyên tử.
Vào các năm
1941-1945, các sỹ quan tình báo quân sự đã thu thập được 6.000 trang tài
liệu mật và 25 mẫu có liên quan đến việc sản xuất Uran vũ khí và quy
trình làm giàu Urani. Những thông tin mà tình báo quân sự thu thập được
trong lĩnh vực này đã cho phép các nhà khoa học Xô Viết đẩy nhanh tiến
trình chế tạo quả bom nguyên tử đầu tiên của Liên Xô.
Để
có thể đánh giá hết tầm quan trọng của những tin tức trên trong lĩnh
vực hạt nhân, xin dẫn lời của Viện sỹ I. Kurchatov nói với Bộ trưởng Bộ
công nghiệp hóa học Liên Xô M. Pervukhin ngày 7 tháng 3 năm 1943 như
sau: ”Những tài liệu thu thập được có một ý nghĩa vô cùng to lớn và vô
giá đối với quốc gia và nền khoa học của chúng ta… Cũng cần phải nhận
xét thêm rằng, toàn bộ các tài liệu thu thập được đã chỉ ra những khả
năng kỹ thuật giúp giải quyết toàn bộ vấn đề trong một thời gian ngắn
hơn rất nhiều..”
Trước khi V. Stalin đi dự Hội nghị
Postdam, ông đã nhận được một báo cáo của Cục tình báo, trong đó có
đoạn: “Vào tháng 7 năm nay nhiều khả năng là sẽ có một vụ thử bom nguyên
tử đầu tiên”. Cũng trong bản báo cáo này, các cán bộ của Cục đã trình
bày chi tiết các đặc tính kỹ thuật và mô tả bom nguyên tử, cũng như
thông báo cụ thể về ngày tiến hành vụ nổ thử nghiệm đầu tiên - 10 tháng 7
năm 1941.
Vụ thử bom nguyên tử đầu tiên của Liên
Xô vào ngày 29 tháng 8 năm 1949 có thể thực hiện được là nhờ rất nhiều
vào những tin tức mà các sỹ quan tình báo quân đội khai thác được. Cuộc
thử nghiệm thành công này đã đặt dấu chấm hết cho sự độc quyền của Mỹ
trong việc sở hữu vũ khí hạt nhân và làm thay đổi căn bản cán cân lực
lượng trên thế giới.
Vì sự dũng cảm và chủ nghĩa
anh hùng khi thực hiện các nhiệm vụ đặc biệt, các sỹ quan tình báo quân
sự Ian Chernhiak, George Koval và Artur Adams đã lần lượt được truy tặng
danh hiệu anh hùng Liên Bang Nga vào các năm 1994, 1995 và 1999.
Thời kỳ chiến tranh lạnh
Năm
1960. Điệp viên “Miurat” gửi về 2 tài liệu đóng dấu “Tuyệt mật” (Top
Secret. Cosmic. NATO. Ngay tên gọi đã nói lên tầm quan trọng của các tài
liệu này: “Kế hoạch của Tư lệnh tối cao Lực lượng vũ trang NATO tại
Châu u về việc tiến hành các đòn tấn công hạt nhân” và “Kế hoạch phòng
thủ khẩn cấp của Bộ tư lệnh chiến dịch- chiến thuật tại chiến trường
Trung u”.
Vào tháng 2 năm 1961 cũng điệp viên
“Miurat” này đã gửi về Trung tâm “Kế hoạch chiến tranh hạt nhân đối với
Chiến trường Nam u” và nhiều tài liệu quan trọng khác, - vào tháng 10
năm 1962, một tuần trước cuộc khủng hoảng Caribe, Trung tâm đã nhận được
2 tập “Danh mục các mục tiêu cần tấn công hạt nhân trên lãnh thổ Liên
Xô và các nước Hiệp ước Varsava”.
Trong thời
kỳ chiến tranh lạnh, cần đặc biệt nhân mạnh vai trò của Tổng cục tình
báo đối với các quyết định của Lãnh đạo Liên Xô trong việc giải quyết
cuộc khủng hoảng Caribe. Đại tá tình báo trong tổ điệp báo bất hợp pháp
(Xô Viết) tại Washinton G. Bolshakov dưới bình phong là một phóng viên
đã thu thập được các thông tin cực kỳ quan trọng, thiết lập được mối
quan hệ cá nhân với em trai Tổng thống Mỹ là Robert Kennedy và thông qua
ông này đã tổ chức một kênh liên lạc không chính thức giữa Tổng thống
Mỹ và giới lãnh đạo Matxcova.
Khả năng sử dụng
kênh liên lạc theo tuyến Khrushov- Bolshakov- Kennedy đã được xem xét
tại cuộc họp Bộ Chính trị Trung ương Đảng Công sản Liên Xô và tại cuộc
họp này Bộ chính tri đã quyết định: “Chấp thuận đề nghị của Bộ ngoại
giao Liên Xô và Bộ quốc phòng Liên Xô về cuộc gặp giữa đồng chí
Bolshakov với em trai Tổng thống Mỹ”.
Căn cứ vào
quyết định này cả Bộ ngoại giao, Bộ quốc phòng Liên Xô đã soạn thảo các
chỉ thị cần thiết và được Trung ương Đảng CS Liên Xô thông qua gửi Tổ
điệp báo của Tổng cục tại Washinton để chuyển cho Bolshakov và bản phô
tô gửi cho Đại sứ Liên Xô tại Mỹ M. Menshikov.
Một báo cáo của Tổng cục tình báo (Ảnh chụp không nét nên không đọc được). |
Trong
tháng 8, tháng 9 năm 1962 Bolshakov đã gặp Robert Kennedy tới hơn 40
lần. Vào đầu tháng 9 năm 1963 Bolshokov được triệu về Matxcova và báo
cáo trực tiếp với Khrushov về tình hình trong giới lãnh đạo Mỹ và báo
cáo chi tiết về các cuộc gặp với anh em nhà Kennedy. Khrushov đã giao
Bolshakov trực tiếp chuyển bức thư riêng của ông cho tổng thống Mỹ và
thông báo với G. Kennedy là Liên Xô sẽ không bố trí các vũ khí tấn công
tại Cuba.
Ngay sau khi quay trở lại
Washinton, Bolshakov đã thực hiện nhiệm vụ Khrushov giao. Tất cả những
điều đó đã đóng vai trò quyết định trong việc giải quyết cuộc khủng
hoảng Caribe và ngăn chặn được việc chuyển từ chiến tranh lạnh sang một
cuộc chiến tranh thế giới mới (rất có thể là chiến tranh hạt nhân hủy
diệt). Vào năm 2000, Tổng thống Nga đã truy tặng đại tá G. Bolshakov
Huân chương hữu nghị vì đã thực hiện xuất sắc các nhiệm vụ tổ quốc giao.
Cuộc khủng hoảng Caribe kết thúc, nhưng tình
trạng đối đầu giữa Liên Xô và Mỹ, giữa hai hệ thống chính trị, giữa hai
tổ chức quân sự NATO và Hiệp ước Varszawa vẫn rất căng thẳng cho đến
khi Liên Xô và Hiệp ước Varszawa tan rã. Mỹ và NATO vẫn tiếp tục lên các
kế hoạch nhằm tiêu diệt Liên Xô, và như vậy hoạt động của Cơ quan tình
báo quân sự cũng không một phút giây ngưng nghỉ.
Một cơ quan tình báo độc nhất vô nhị
Khi nói về hoạt động của cơ quan tình báo quân sự không thể không nhắc
tới những công việc mà họ đã làm ở Apganistan ngay sau khi Liên Xô đưa
quân vào nước này.
Tổng cục trưởng GRU lúc đó là
đại tướng Petr Ivanshutin đã có những đánh giá sau đây: “GRU đã xây dựng
được tại Apganistan một mạng lưới tình báo mà thế giới chưa từng biết
đến”. Các chiến dịch tác chiến của Quân đội Xô Viết ở Apganistan đã nhận
được sự trợ giúp hết sức tích cực và hiệu quả các cơ quan tình báo
chiến lược và chiến dịch, các phân đội và đơn vị đặc nhiệm (của GRU),
trinh sát vũ trụ, đường không và trinh sát vô tuyến điện tử. Chính sự hỗ
trợ đó đã tạo điều kiện cho quân đội giải quyết các nhiệm vụ tác chiến
với tổn thất tối thiểu.
Một trong những chiến
tích đáng ghi nhận của GRU tại Apganistan là chiến dịch chung do KGB và
GRU tiến hành - tấn công dinh tổng thống Apganistan Khaiula Amin. Trước
khi ra quyết định loại bỏ ông này, phía Liên Xô đã thấy rõ là Amin đang
tiến hành chính sách nhằm chống lại các lợi ích của Liên Xô ở
Apganistan.
Lợi dụng yêu cầu của Amin về việc cử
tới Kabul một tiêu đoàn bộ binh cơ giới để bảo vệ Dinh tổng thống, theo
đề nghị của IU. Andropov và N. Ogarkov Bộ chính trị Trung ương Đảng CS
Liên Xô đã quyết định “cử tới Kabul một đơn vị của GRU được huấn luyện
đặc biệt để thực hiện nhiệm vụ này với quân số khoảng 500 người mặc đồng
phục, không được để lộ là thuộc Lực lượng vũ trang Liên Xô”. Đội quân
này được những người đã từng tham chiến ở Apganistan gọi là “Tiểu đoàn
Hồi giáo”.
Kế hoạch đánh chiếm Dinh tổng
thống Kh.Amin được đại tá GRU Vasili Kolesnhik soạn thảo. Cố vấn quân sự
trưởng và đại diện KGB tại Apganistan đồng ý bằng miệng nhưng không ký
vào bản kế hoạch. Đại tá GRU V. Kolesnhik, phó chỉ huy phụ trách các
nhóm đặc nhiệm của KGB “Grom” và “Zenhit” - là thiếu tướng KGB Iuri
Drozdov chịu trách nhiệm chỉ huy chiến dịch.
Khi
đó có tất cả 2.500 sỹ quan và binh lính Apganistan được huấn luyện đặc
biệt và trung thành tuyệt đối với Kh. Amin bảo vệ Dinh tổng thống. Cuộc
tiến công chiếm dinh Tổng thống kéo dài 43 phút. 1700 lính và sỹ quan
đầu hàng bảo vệ Kh.Amin.
Kết thúc chiến dịch,
“tiểu đoàn Hồi giáo” có 5 người thiệt mạng, 35 người bị thương. Trong
các nhóm đặc nhiệm của KGB “Grom” (25 người) và “Zenhit” (30 người) có 5
người thiệt mạng và 17 người bị thương. Riêng đại tá Vasili Kolesnhik
sau chiến dịch này được phong tặng danh hiệu anh hùng Liên Xô. Hơn 300
sỹ quan và binh lính của tiểu đoàn “Hồi giáo” này được tặng thưởng huân
huy chương các loại. Đây là chiến dịch chung đầu tiên của KGB và GRU,
cũng là chiến dịch đầu tiên của đặc nhiệm KGB ở nước ngoài.
Một thử thách khốc liệt khác đối với tình báo quân sự là cuộc xung đột
vũ trang ở ngoại Kapkaz tháng 8 năm 2008. Tình báo quân sự đã thông tin
trước cho lãnh đạo Nga về tình hình Gruzia và việc chế độ Saakashvili
sẵn sàng có các hành động khiêu khích đối với Nam Oxetia và Abkhazia.
Căn cứ vào các báo cáo và tin tức của GRU, giới lãnh đạo Nga đã quyết
định tiến hành chiến dịch quân sự “áp đặt hòa bình” đối với Gruzia.
Cần một vị thế mới
Các sự kiện những năm gần đây cho thấy Mỹ và NATO vẫn không từ bỏ các
toan tính giải quyết các vấn đề toàn cầu và khu vực bằng vũ lực.
Những minh chứng cho điều đó là các hành động của Mỹ và các đồng minh ở
Nam Tư, Irắc, Libi và bây giờ là Xiri, là việc Mỹ bố trí hệ thống phòng
thủ chống tên lửa dọc biên giới Nga. Trong các văn kiện bí mật của Mỹ
thì nước Nga, cũng như trước đây vẫn được coi là đối thủ chủ yếu của Mỹ.
Trong điều kiện như vậy vai trò của Tình báo quân sự trong việc đảm bảo
các lợi ích quốc gia của Nga sẽ ngày càng tăng lên.
Hiện nay, một số tướng lĩnh và các chuyên gia quân sự Nga đang đề nghị
nâng cao vị thế của GRU bằng cách chuyển sang trực thuộc Bộ Quốc phòng
với tư cách là bộ phận tình báo đối ngoại cấu thành quan trọng nhất.
Luận chứng cho đề nghị trên là kinh nghiệm hoạt động của tình báo quân
sự vào năm 1942, khi Bộ trưởng quốc phòng Xtalin ký sắc lệnh về việc tái
tổ chức GRU, trong sắc lệnh có đoạn:
“Nhằm lập
lại trật tự và nâng cao hiệu quả công tác của tình báo quân sự, tôi ra
lệnh tách GRU khỏi Bộ tổng tham mưu và chuyển sang trực thuộc Dân ủy
quốc phòng”. Kinh nghiệm 3 năm hoạt động sau đó của GRU đã khẳng định
tính đúng đắn của của sắc lệnh trên.
Kinh nghiệm
của các đối thủ tiềm năng của Nga cũng cho thấy sự cần thiết phải nâng
cao vị thế của GRU. Ví dụ như Mỹ, do nhận thức được những nguy cơ toàn
cầu và khu vực đối với an ninh quốc gia đã quyết định nâng cao vai trò
của Tình báo quân sự bằng cách thành lập Cục các chiến dịch đặc biệt
trực thuộc Cục tình báo Bộ Quốc phòng do một thứ trưởng Bộ quốc phòng
phụ trách tình báo trực tiếp kiểm soát.
Giới chức
Mỹ cho rằng việc tối ưu hóa Cục tình báo Bộ quốc phòng sẽ là làm hoàn
thiện và tăng tính hiệu quả trong hoạt động của tình báo quân đội, giảm
sự phụ thuộc của Bộ Quóc phòng vào CIA trong việc thu thập nhận các
thông tin cần thiết liên quan đến các vấn đề quân sự. Có thể, những kiến
nghị trên của các tướng lĩnh và các chuyên gia đã được giới lãnh đạo
Nga chấp nhận.
Ngày 18 tháng 4 năm 2013, Tổng
tham mưu trưởng các lực lượng vũ trang Liên Bang Nga đã tuyên bố là Nga
sẽ thành lập Lực lượng các chiến dịch đặc biệt, lực lượng này không chỉ
hoạt động trên lãnh thổ Nga mà còn cả ở nước ngoài.
Hiện chưa rõ, lực lượng này có trực thuộc GRU hay không nhưng chắc chắn
một điều là trong lực lượng này sẽ có một thành phần là các đội đặc
nhiệm của GRU- vốn được coi là lực lực lượng đặc nhiệm tinh nhuệ nhất
thế giới hiện nay.
Lê Hùng (tổng hợp từ các nguồn báo Nga)
http://baodatviet.vn
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét