Thứ Hai, 9 tháng 6, 2014
BÀI VIẾT HAY 72
Tấm lòng sùng tín quê hương!...
Thôi anh ạ, thiền trong đằm thắm
Chấp chi giữa cõi vô thường!
(ĐC chép từ http://chimviet.free.fr)
Thương nhớ
"hồn thiêng nguyên khí
đất Tây-Sơn" *****
ở Tây-Sơn
An-Tiêm
MAI-LÝ-CANG
(Paris)
Bình-Định
là một tỉnh của nước Việt-Nam nhưng lại là một vùng
đất có bề dày quá khứ oai hùng, oanh liệt đã từng khoác
lên mình được những hào quang địa linh nhân kiệt mang dấu
ấn tinh thần rạng rỡ thật là đặc biệt về cho lịch sử
dân tộc nước nhà. Và sau mấy mươi năm chấm dứt chiến
tranh, thì giờ đây, từ trong đổ nát hoang tàn người dân
ở khắp cả mọi miền trong nước đều đã phải bị mất
khá nhiều thời gian để cùng nhau hướng tới tương lai, và
xây dựng lại một hình ảnh quê hương mới như ngày hôm
nay. Tuy nhiên, tùy theo từng hoàn cảnh địa phương, mà công
cuộc kiến thiết từ thành thị cho đến thôn trang ở mỗi
nơi đều có những điều kiện phát triển không được đồng
đều. Chẳng hạn như ở miền Trung thì Quy-Nhơn cũng là một
thành phố biển thơ mộng, hữu tình nhưng lại không có nhiều
lợi thế nếu đem so bì với Nha-Trang nhờ vào yếu tố địa
dư được thiên nhiên ưu đãi cho nên đã có nhiều thắng
cảnh xinh đẹp hấp dẫn hơn. Tuy nhiên, nói như vậy không
có nghĩa là hình ảnh của đất võ trời văn ở Quy-Nhơn
không có được những đường nét quyến rũ kỳ lạ, để
làm cho thu hút được sự chú ý của những thành phần người
dân có phương tiện tìm đến tham quan khám phá lịch sử,
cảnh quan mỗi vùng một vẻ.
Thuở sinh tiền,
nhạc sĩ Trịnh-Công-Sơn đã từng viết lưu bút "Về Một
Thành Phố Tôi Đã Xa" có đoạn văn như sau:
(Paris)
- Hôm nay cũng là quá khứ và chúng ta cố giành giựt với thời gian để biến ngày hôm nay thành một hiện tại vô tận. Quy-Nhơn có những tháp Chàm đứng một mình lặng lẽ nghìn năm "mưa vẫn mưa bay trên tầng tháp cổ". Cái giấc mộng dài nó buộc con người không được quên và phải nhớ về những dấu tích đã in thành vết không tàn phai trên tâm hồn mỗi con người.
Cụm tháp Dương-Long (tháp Ngà) ở Tây-Sơn
Và ngày nay, ảnh hưởng về mặt tinh thần của cái nôi võ thuật Tây-Sơn tại đây cũng vẫn hãy còn được lưu truyền như là một hình thức sinh hoạt văn hóa thể thao cổ truyền làng xã ở địa phương. Ngoài ra, trong chương trình huấn luyện ở tại nhiều võ đường trong các thành phố lớn trong nước cũng có tổ chức thường xuyên mở ra những khóa đặc biệt, để truyền thụ cho môn sinh về võ thuật cổ truyền Bình-Định. Đặc biệt, là về tinh hoa của các bài bản tập dượt nổi tiếng như "Độc phủ", "Song đao", "Chấn thiên cung", "Trường kích", "Thập bát ban binh khí" giờ đây đã được các võ sư của nhiều hệ phái võ Tây-Sơn tận tình nghiên cứu, bảo tồn chiêu thức trước nguy cơ có thể sẽ bị thất truyền. Trong năm 2013 vừa qua, môn võ thuật cổ truyền Bình-Định đã được công nhận là di sản văn hóa phi vât thể quốc gia.
Võ công Bình-Định trình diễn quyết đấu
Sẵn sàng tự vệ
Hơn thế nữa, nếu nói sang qua về lĩnh vực sân khấu cổ nhạc thì ông tổ của kịch nghệ hát bội là nhà soạn tuồng kiệt xuất, danh nhân văn hóa Đào-Tấn, tên thật là Đào-Đăng-Tấn (1845-1907) ở Bình-Định miền Trung quả là một bậc kỳ tài, được liệt vào hàng đầu trong ba danh nhân nghệ sĩ sân khấu đặc biệt của nước Việt-Nam từ xưa cho tới nay. Và cũng như mọi người đều biết, thì dưới thời nhà Đinh ở nước ta cũng đã có nữ nghệ sĩ Phạm-Thị-Trân (926-976), hiệu là Huyền-Nữ sinh ở Hồng-Châu (thuộc vùng địa lý của tỉnh Hải-Dương ngày nay). Bà chính là bà tổ của nghệ thuật sân khấu hát chèo, mà hằng bao thế kỷ qua từng được phổ biến rộng rãi tại miền Bắc. Còn nhạc sĩ Cao-Văn-Lầu (1892-1976), tục danh Sáu Lầu sinh ở Long-An miền Nam. Ông là tác giả khai sinh ra bài "Dạ-Cổ Hoài-Lang" về sau phát triển ra thành bài ca "Vọng-Cổ" thật là nổi tiếng, và được phổ biến rất là cực thịnh hành trên cả vùng trời ở đất phương Nam.
Trở lại trường hợp của nhà soạn tuồng, danh nhân văn hóa Đào-Tấn, tự là Chỉ-Thúc, hiệu là Tô-Giang và Mộng-Mai, biệt hiệu là Mai-Tăng, hoặc Mai-Tăng Tiểu-Linh-Phong. Ông là nhà trí thức thanh liêm từng được vua nhà Nguyễn ban cho giữ chức vụ Tổng-Đốc An-Tĩnh (Nghệ -An – Hà-Tĩnh). Trong quá trình cống hiến rất nhiều cho sự nghiệp viết tuồng giá trị xuất sắc của ông còn để lại cho đến bây giờ, thì có ba vở tưồng diễn đặc biệt rất được nhiều khán thính giả thường xuyên nhắc nhở. Đó là tuồng Tam-Nữ Đồ-Vương, Đào-Phi-Phụng và Sơn-Hậu. Và với tài nghệ văn chương uyên bác, giàu tính ước lệ không kém phần nghiêm túc trong ý lẫn lời làm cho giá trị của bất cứ tuồng hát nào của ông cũng đều được người đời đánh giá cho là có chất lượng cao trong mọi góc cạnh của vấn đề. Tuy nhiên, Đào-Tấn cũng còn là một nhà thơ yêu nước luôn luôn trăn trở trước họa xâm lăng nước nhà. Và một trong những chứng tích của các bài thơ dưới đây, đã nói lên được sự chân thành trong tấm lòng thiết tha gởi gấm của ông:
Tích niên thu chiến đoạt nguy khoa
Kim nhật tha hương khổ nhược hà?
Đãn nguyện nhân dân như thử sĩ
Bất sầu định quốc dữ an gía
………………………….
Nhớ Phan-San (Phan-Bội-Châu)
Năm ấy thi hương chiếm bảng cao
Giờ đây đất khách cực ra sao?
Ước chi ai cũng như người vậy
Nước thịnh nhà yên chẳng khổ sầu
Ngày nay kể từ năm 1989, sau khi tỉnh Bình-Định được tái lập lại sau một thời kỳ hợp nhất với tỉnh Quảng-Ngãi để trở thành tỉnh Nghĩa-Bình, thì cho đến năm 2004 tổ chức về hành chánh trên địa bàn của tỉnh Bình-Định đã được tái cấu trúc chia ra gồm có một thành phố Quy-Nhơn, một thị xã An-Nhơn. Và 9 huyện là: Tây-Sơn, Phù-Cát, Phù-Mỹ, Hoài-Ân, Hoài-Nhơn, Tuy-Phước, Vân-Canh, Vĩnh-Thạnh và An-Lão. Cùng với, tổng số dân là 1.497.300 đầu người theo thống kê vào năm 2011. Và trải qua bao thời kỳ bị đổi thayvề hoàn cảnh lịch sử địa lý, xã hội, thì bây giờ địa phương nầy là nơi cộng cư còn lại của bốn sắc dân chính là Việt, Chăm, Ba-Na và Hrê cùng sống chung nhau trong một diện tích dải đất 6.050,6km² với mật độ là 247 người/km². Ngoài ra, với ưu thế chiều dài của bờ biển là 134km cùng với những vịnh, vũng, mỏm đá, đảo, nhiều bãi biển thiên nhiên hoang sơ. Ngày nay, Bình-Định không những là một địểm hẹn dừng chân lý tưởng dành cho du khách, mà nó còn được coi như là một trong những cửa ngõ hàng hải có điều kiện dễ dàng để phát triển giao thông lên tận Tây-Nguyên và miền Nam của nước Lào.
Cảng Quy-Nhơn
Bãi tắm Hoàng-Hậu
Toàn cảnh thành phố Quy-Nhơn
Bãi biển Quy-Nhơn ngày nay
Cầu Thị-Nại
với 54 nhịp cầu
Tháp đôi ở Quy-Nhơn
Tháp Phú-Lốc (tháp Vàng)
Tháp Bánh Ít (tháp Bạc)
Tháp Cánh Tiên (tháp Đồng)
Đến thời kỳ Tây-Sơn, sau khi cuộc khởi nghĩa cách mạng thành công thì cũng đã chọn Đồ-Bàn làm kinh đô của chính quyền trung ương. Tuy nhiên, sau đó vua Thái-Đức (Nguyễn-Nhạc) ban lệnh cho xây cất mở rộng cung điện, thành lũy và đổi lại tên là thành Hoàng-Đế và đặt đại bản doanh chỉ huy quân sự Tây-Sơn tại đây. Ngược dòng thời gian, khi còn trong giai đoạn khởi nghĩa thì Đồ-Bàn cũng lại là điểm xuất quân Nam tiến của đoàn quân Tây-Sơn đánh đại bại liên quân Xiêm-La – Nguyễn-Ánh, và Bắc tiến lật đổ chế độ chúa Trịnh, đánh tan quân nhà Thanh, lập lại nền thống nhất quốc gia.
Bên trong thành Đồ-Bàn
Tượng Voi ở kinh thành Đồ-Bàn
Hồ bán nguyệt trong thành Hoàng-Đế
Chùa Thập-Tháp trong thành Đồ-Bàn
Về các nhân vật anh hùng nghiệp võ ở Bình-Định kể ra rất nhiều nhưng hình như người địa phương (nhất là phái nữ), ai nấy cũng thường tự hào về trường hợp đặc biệt của nữ tướng Bùi-Thị-Xuân. Bà là một người đẹp sinh ra ở ngay tại đất Tây-Sơn, lớn lên theo học võ thuật và đạt tới trình độ cao cường về tài múa kiếm, bắn cung, cỡi ngựa, tập luyện voi chiến thuần phục. Là công thần, tướng giỏi của triều Nguyễn Tây-Sơn, bà đã từng lập được rất nhiều chiến công hiển hách là đánh tơi bời đạo quân của Nguyễn-Ánh trên trận mạc. Ngày nay, tuy các sử gia đã có những công trình sưu khảo về hình ảnh bi thảm nhưng oai hùng, bất khuất trong phút cuối cùng của cuộc đời bà khi sa cơ thất thế bị hành hình bằng với những cái nhìn theo mỗi góc cạnh thán phục khác nhau. Nhưng thái độ hiên ngang, khí khái của bà khi ngẩng cao đầu trước mặt Nguyễn-Ánh (Gia-Long) mà bà cho là một kẻ đi cầu viện ngoại bang hết Xiêm đến Tây về làm tan nát sơn hà, thì đã được dân gian đồng kính phục và truyền tụng mãi cho đến bây giờ:
Vận nước đang xoay chuyển
Quần thoa cũng vẫy vùng
Liều thân lo cứu chúa
Công trận quyết thay chồng.
Khảng khái khi lâm nạn!
Kiên trinh lúc khốn cùng
Ngàn thu gương nữ liệt
Gương sáng hãy soi chung
Còn danh nhân Tăng-Bạt-Hổ, tên thật là Tăng-Doãn-Văn (1858-1906), tự là Sư-Triệu, hiệu là Điền-Bát, và huyện Hoài-Ân ngày nay chính là quê hương của ông. Là một nhà chí sĩ tiêu biểu nhiệt tình cho lòng yêu nước, ông hưởng ứng phong trào Cần-Vương của vua Hàm-Nghi lập chiến khu ngay tại quê nhà nổi lên chống Pháp. Sau khi thất bại trước thế mạnh của kẻ địch, ông lưu vong sang qua các quốc gia như Lào, Xiêm, Trung-Quốc, Nga và cuối cùng ông đến Nhật-Bản để xin cầu viện. Năm 1905, ông trở về nước bắt dầu dấn thân tích cực họp cùng với các sĩ phu vận động động quảng bá phong trào Đông-Du của cụ Phan-Bội-Châu cho đến khi lâm trọng bệnh qua đời, và lăng mộ của ông được xây cất trong ngay trong khu nhà thờ của cụ Phan-Bội-Châu tại Huế. Tuy nhiên, vào ngày 18-8-2013 vừa qua thì tộc Tăng cùng chính quyền ở Hoài-Ân đã có làm lễ mang một phần đất từ ngôi mộ (Tăng-Bạt-Hổ) ở tại Huế để rước về chôn cất ở trong ngôi mộ phiên bản trong khuôn viên đền thờ ông tại Hoài-Ân, Bình-Định.
Ngoài ra, ở ngay tại cục đất Tây-Sơn ngày trước cũng có một nhà chí sĩ thanh niên văn hay võ giỏi đó là ông Mai-Xuân-Thưởng (1860-1887) tên thật là Mai-Văn-Siêu. Ông từng là phụ tá cho Tổng-Đốc Đào-Doãn-Địch hưởng ứng phong trào Cần-Vương đứng lên chiêu mộ nghĩa sĩ phất cờ chống giặc xâm lăng tàn bạo Pháp vào cuối thế kỷ 19 ở tại Bình-Định. Ảnh hưỏng truyền hịch của nhà Vua lúc bấy giờ đã lan rộng được hàng ngàn từng lớp dân gian hưởng ứng dưói cờ, và thắng lợi nhiều phen trên trận địa cũng như loại trừ được những bọn Việt-gian bán nước cam tâm làm tay sai cho giặc. Sau khi được chủ tướng Đào-Doãn-Địch phong chức cho làm Nguyên-soái, ông liền cho làm lễ tế cờ và truyền lệnh xuất quân tấn công trong khí thế lẫy lừng chiến thắng rất nhiều đồn bót của bọn Việt-gian theo giặc. Tuy nhiên, sau cùng vì có sự tiếp viện của lính Pháp có nhiều vũ khí tối tân hơn cho nên ông sa cơ rơi vào tay giặc, và cùng các đồng đội bị chúng bắt đem ra xử trảm. Trước khi bị hành quyết ở pháp trường, ông khẳng khái ngâm vang lên một bài thơ để lại cho đời có ý nhĩa thật là hào hùng, tráng lệ.
Nợ trai lo trả ấy là khôn.
Gió đưa hồn nghĩa, gươm ba thước
Đá tạc lòng trung núi mấy hơn
Tái ngắt mặt gan sương tệ giá
Đỏ lòe bìa sách máu là son
Rồi đây thoi ngọc đưa xuân tới
Một nhánh mai già trổ nụ non.
Hầm-Hô kỳ ảo
Thắng cảnh tuyệt đẹp Hầm-Hô
Tuy nhiên, không gian trong Viện Bảo-Tàng Quang-Trung ở ngay tại Tây-Sơn mới chính lại là một hình ảnh vô cùng đặc biệt, để cho hầu hết tất cả mọi người dân ta đều phải cùng nhau thành tâm cúi đầu xúc động bồi hồi trước bao nhiêu chứng tích kỷ vật của triều đại Tây-Sơn kiêu hùng còn lưu lại. Và cho dù suốt thời kỳ Gia-Long đã tìm đủ mọi cách để mong xóa sạch những dấu ấn chói rạng uy danh của Tây-Sơn, nhất là vết tích của vị anh hùng tướng quân Nguyễn-Huệ. Nhưng sau 143 năm triều nhà Nguyễn tàn lụi, thì người dân địa phương lại cũng tìm bằng đủ mọi phương cách, để làm sống lại hình ảnh oai phong lẫm liệt của vua Quang-Trung, và cũng để trả lại mọi sự công bằng về cho lịch sử nước nhà. Do vậy, vào ngày 16-01-2006 thì người dân Bình-Định cùng với chính quyền địa phương đã hợp sức khánh thành bức tượng vua Quang-Trung mới ở trước viện Bảo-Tàng trong tư thế khoan thai, đĩnh đạc hơn với đôi mắt sáng rực thần hồn, tay cầm đốc kiếm, tay đưa về phía trước với động thái nghiêm nghị như đang đứng truyền hịch giữa hàng ba quân tướng sĩ, và thốt lên những lời hiệu triệu quốc dân đồng bào.
Bảo-Tàng Quang-Trung ở Tây-Sơn
Ngày nay, mỗi khi du khách vừa bước chân đến viếng thăm cảnh trí phía ngoài không gian của bên trong viện Bảo-Tàng thì thường hay cảm thấy lòng mình bị xúc động bồi hồi, vì khi đứng trên mảnh đất thiêng mà không còn thấy bóng dáng của những vị anh hùng dân tộc thuở xa xưa. Tuy nhiên, trong một giây phút linh thiêng bất chợt thoáng qua nào đó, thì hình như hầu hết tất cả mọi người cũng đều có thể cùng nhau nghe được có tiếng vó ngựa hí vang, tung bụi ngập trời của đoàn quân mãnh hổ Tây-Sơn rộn ràng hòa lẫn trong hồi trống trận giục giã xuất quân xông ra chiến địa. Lúc đó, tâm hồn của họ mới có dịp để sâu lắng vào cái hồn, cái uy nghi của các vị tướng quân còn phảng phất ở nơi nầy. Và giờ đây, di tích giếng nước từ thuở mấy trăm năm về trước, và cây me cổ thụ dạn dày phong vũ với thời gian bây giờ cũng đã hãy còn sót lại trên mảnh đất nhà xưa, vườn cũ của gia đình tam kiệt. Hình ảnh đó chính là những kỷ niệm đẹp đẽ dưới thời thơ ấu của ba anh em Nhạc-Huệ-Lữ nhà Nguyễn Tây-Sơn, trước khi đĩnh đạc thành nhân với sự nghiệp cuộc đời ngang dọc hiên ngang thời thế tạo anh hùng.
Cây me cổ thụ hơn 250 năm
gắn liền thời thơ ấu của Tây-Sơn tam kiệt
Di tích giếng nước xưa
của gia đình Tây-Sơn tam kiệt
Gương đồng và bát cổ thời Tây Sơn
Và cũng như mọi người đều biết, từ lâu địa danh tỉnh Bình-Định cũng còn được người ta gọi bằng một cái tên rất ngộ nghĩnh khác nữa là xứ "Nẫu ‘‘, và thổ âm thân thương đó có nghĩa là anh, chị, nó, họ…Xứ "Nẫu" của quê hương Bình-Định có rất nhiều danh lam thắng cảnh, và một cuộc hành trình ngắn hạn thì sẽ không bao giờ du khách có thể tham quan cho hết được. Ngoài các thắng cảnh thiên nhiên nổi tiếng như bán đảo Phương-Mai, suối Tiên, suối khoáng nóng Hội-Vân, hồ núi Một, động Cườm, núi Bà, đảo Yến, thì còn có các di tích do bàn tay của những con người từng sống trên đất " Nẫu" tạo dựng thành hình. Đó là những từ đường Bùi-Thị-Xuân, hải đăng cù lao Xanh, rồi nào là chùa thập Tháp Di-Đà, chùa Long-Khánh, chùa Sơn-Long, chùa Linh-Phong, Tu-viện Nguyên-Thiều, nhà thờ Chính-Tòa v.v. Còn các lễ hội truyền thống thì có lễ cầu ngư, hội Xuân chợ Gò, hội làng rèn Tây-Phương-Danh, hội làng đúc đồng Bằng-Châuv.v, và đặc biệt là ngày lễ hội trọng đại Đống-Đa.
Lễ hội truyền thống Đống-Đa từ lâu đã được nước nhà chính thức coi như là quốc lễ, và hằng năm đều có tổ chức chu đáo diễn ra đúng vào ngày mồng 5 Tết Nguyên-Đán ở tại Gò Đống-Đa Hà-Hội, để cho mọi người dân thủ đô kéo đến tham dự đông đảo nhằm mục đích tưởng nhớ đến chiến công lịch sử của vua Quang-Trung đánh đại bại quân xâm lăng. Và nói riêng về hình ảnh của ngày lễ hội truyền thống Đống-Đa ở tại huyện Tây-Sơn hằng năm cũng đã xảy ra vào cùng thời điểm đó, thì lễ hội nầy là một ngày trọng đại có ý nghĩa vô cùng thật là đặc biệt đối với hầu hết mọi người dân Bình-Định. Vì từ lâu, ngoài sự tôn kính hương linh của Tây-Sơn tam kiệt, thì hình ảnh của riêng vị anh hùng tướng quân Nguyễn-Huệ đã được đi vào huyền thoại, và từng được bao người dân sở tại luôn luôn nhắc nhở tiếc thương nhiều hơn bất cứ ở nơi nào khác.
Festival Tây-Sơn – Bình-Định năm 2008
Tái hiện hình ảnh đoàn tượng binh nhà Tây-Sơn ra trận
Đoàn kỵ binhTây-Sơn diễn hành
Hàng vạn người tham dự lễ hội Đống-Đa năm 2008 ở Bình-Định
Ngoài ra, nói riêng về địa danh ngàn năm bất hủ Tây-Sơn thì tiếng vang của nó bây giờ không còn đóng khung ở tại địa phương Bình-Định hay ở trong nước của dân ta nữa. Vì thực ra, từ lâu địa danh lịch sử của nó từng đã được các nhà nghiên cứu lịch sử trên thế giới nghiêm túc tô đậm rõ nét trên tấm bản đồ, để mỗi khi họ muốn tìm hiểu về trường hợp thân thế của nhân vật anh hùng áo vải Nguyễn-Huệ ở nước Nam. Vả lại, ngày nay nếu cần phải được lấy công tâm mà nói thì triều đại của nhà Nguyễn Tây-Sơn tuy ngắn ngủi nhưng mà là một triều đại đặc biệt kiêu hùng chưa từng có xảy ra trong hoàn cảnh lịch sử dân tộc nước nhà. Và trận thủy chiến "Rạch-Gầm – Xoài-Mút" xảy ra trong năm 1785, cũng như trận địa chiến "Ngọc-Hồi - Đống-Đa" xảy ra trong năm 1789là hai chứng tích quân sử kiêu hùng đại thắnggiặc ngoại xâm vẻ vang oanh liệt. Là đánh tiêu diệt quân Xiêm-La ở phương Nam do Nguyễn-Ánh cầu viện cõng rắn cắn gà nhà. Và đánh đại bại quân xâm lược nhà Thanh ở phía Bắc do Lê-Chiêu-Thống cầu viện rước voi về giày mả tổ, (cũng như trước đó đã toàn thắng trên tất cả khắp các chiến trường khi rượt đuổi đạo quân Nguyễn-Ánh chạy ra khỏi biên thùy tổ quốc, và diệt Trịnh) mở đường đưa đến thống nhất san hà lập nên trang sử mới vẻ vang hào hùng cho dân tộc. Nhưng không may! Tiếp liền theo đó, là một biến cố lịch sử trọng đại đột ngột xảy ra trong cơn bão tố Vô-Thường nghiệt ngã. Đấng anh hùng đoản mệnh, chí lớn không thành.
tưởng rằng đất lệch trời nghiêng
nào hay khí lạnh gươm thiêng buột rời
Vì rằng trước đó Quang-Trung là một vị Vua dũng cảm phi thường, có thừa nghị lực, khí phách hiên ngang duy nhất trong lịch sử nước nhà đã từng có quyết định là sẽ đem quân sang đánh Trung-Hoa để đòi lại phần đất lưỡng Quảng (Quảng-Đông và Quảng-Tây). Do vậy, cho nên Ngài đã khéo léo dùng đến chiến thuật ngoại giao mềm mỏng, tế nhị, là đưa Quang-Trung giả sang đất địch để thương thuyết nghị hòa, và đồng thời cũng xin được giao hảo cầu hôn với công chúa Mãn-Thanh. Và cũng tiếc thay! Định mệnh khắc nghiệt an bài làm cho vua Quang-Trung mất sớm, thành ra di sản công lao xây dựng của nhà Nguyễn Tây-Sơn là khi vừa mới đã hoàn thành sứ mạng thực hiện xong được con đường cái quan lịch sử nối liền lại dải đất hai miền Nam-Bắc, thì đành phải để lại cho nhà Nguyễn Gia-Long may mắn tiếp tục thời cơ thừa hưởng gia tài.
Ngày nay, đối với hầu hết thế giới bên ngoài thì Bình-Định là một địa điểm du lịch tuy không được nổi tiếng nhiều như những vùng miền khác. Tuy nhiên, từ lâu thì cũng đã có những thành phần du khách trí thức đặc biệt, họ từng am tường về lịch sử của dân tộc Việt-Nam và có lòng mến mộ các bậc anh hùng hào kiệt nước nhà. Nhất là uy danh của đại đế Quang-Trung, tướng quân Nguyễn-Huệ một vị thiên tài thao lược, với chiến công hiển hách dụng binh thần tốc bách chiến bách thắng trên khắp cả các chiến trường. Chính vì vậy, mà bằng mọi giá họ đã tìm đến tham quan miền quê sơn kỳ thủy tú, địa linh nhân kiệt Bình-Định với thành tâm là để được hòa mình tưởng niệm vào với mảnh hồn thiêng nguyên khí đất Tây-Sơn.
Và cũng để chính thức nói lên sự khâm phục về hình ảnh của một trong những vị cái thế anh hùng, mà họ đã từng cho là hiếm hoi tìm thấy trong quân sử cổ kim trên thế giới.
An-Tiêm
MAI-LÝ-CANG
(Paris)
(Paris)
tại Gò Đống-Đa ở Hà-Nội
Di tích lịch sửRạch-Gầm - Xoài-Mút ở Tiền-Giang
**************************
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét