Thứ Ba, 3 tháng 6, 2014

CÂU CHUYỆN LỊCH SỬ 28

(ĐC chép từ 24h.com.vn)

Những thảm bại trong lịch sử của hải quân TQ

Thứ Tư, ngày 28/05/2014 19:00 PM (GMT+7)
Trong lịch sử, hải quân Trung Quốc đã từng phải hứng chịu những thất bại nặng nề với cả với tư cách là kẻ xâm lược lẫn nước bị xâm lăng.

Trong hàng ngàn năm lịch sử của mình, Trung Quốc là một dân tộc luôn ấp ủ tham vọng “Đại Hán” bành trướng, coi mình là trung tâm của vũ trụ. Để thực hiện tham vọng đó, các triều đại Trung Quốc thường xuyên đem quân đi xâm chiếm, đô hộ các lãnh thổ xung quanh.
Mặc dù nằm trên bờ Thái Bình Dương, song Trung Quốc chưa bao giờ là một quốc gia có lực lượng hải quân mạnh. Các cuộc xâm lăng của Trung Quốc chủ yếu diễn ra trên bộ, trong khi trên biển, hải quân Trung Quốc đã từng phải hứng chịu những thất bại vô cùng nặng nề.
Trong bối cảnh Trung Quốc đang ngày càng hung hăng, ngang ngược với các quốc gia láng giềng trong vấn đề tranh chấp biển đảo, chúng tôi xin điểm lại những trận chiến trên biển mà trong đó hải quân Trung Quốc đã phải chịu thảm bại trước đối phương, cả với tư cách là kẻ đi xâm lược lẫn bị kẻ khác xâm lược.
Kỳ 1: Cơn thịnh nộ của Thần Phong
Trong suốt thế kỷ XIII, vó ngựa xâm lược của quân đội Mông Cổ tung hoành khắp lục địa Âu-Á trong làn sóng bành trướng mãnh liệt. Ở Đông Á, người Mông Cổ đưa quân vào thôn tính Trung Quốc và lập nên triều Nguyên.
Quân Mông Cổ đã chinh phục một vùng đất rộng lớn trải dài từ phía bắc Trung Quốc tới Ba Tư, Trung Á, Nga và một phần Trung Đông. Ở phía đông, sau khi thôn tính Cao Ly (bán đảo Triều Tiên ngày nay), quân Nguyên bắt đầu dòm ngó Nhật Bản, quốc gia duy nhất ở phía đông chưa bị quân Nguyên cai trị.
Những thảm bại trong lịch sử của hải quân TQ - 1
Vó ngựa Nguyên Mông hoành hành khắp lục địa Âu-Á
Trong các năm 1268 và 1271, vua triều Nguyên là Hốt Tất Liệt đã phái sứ giả đến Nhật để đòi người Nhật phải thần phục triều Nguyên, trở thành chư hầu của Trung Quốc.
Tuy nhiên trong thời kỳ này Nhật là một quốc gia tương đối hùng mạnh, cộng với vị trí địa lý tách biệt giữa biển cho phép người Nhật sẵn sàng chống lại các yêu sách của triều Nguyên và không chịu thần phục.
Tức giận trước thái độ chống đối của Nhật Bản, đến năm 1274, Hốt Tất Liệt sai tướng Hàn Đô đem hơn 40.000 quân cùng gần 900 chiến thuyền sang xâm lược Nhật Bản. Với lực lượng hùng hậu của mình, quân Nguyên dễ dàng đánh bại được các đơn vị đồn trú của Nhật trên các đảo tiền tiêu là Tusima và Iki, gây ra những trận thảm sát dã man và hủy diệt nặng nề ở đây.
Sau khi đổ bộ lên vịnh Hakata, lực lượng kỵ binh quân Nguyên với ưu thế về chiến thuật và vũ khí của mình đã áp đảo quân phòng thủ Nhật Bản. Quân Nguyên sử dụng những quả đạn pháo nhồi thuốc nổ mà quân Nhật chưa từng thấy bao giờ, khiến họ kinh hoàng tột độ.
Trước sức tấn công mãnh liệt của quân Nguyên, lính Nhật buộc phải rút lui về cố thủ trong một pháo đài gần Dazaifu. Sau một ngày chiến đấu mệt mỏi, quân Nguyên rút về nghỉ ngơi trên chiến thuyền của mình, chờ đợi cuộc tấn công vào ngày mai.
Tuy nhiên, đêm hôm đó, một cơn bão lớn bất chợt ập vào vịnh Hakata và nhấn chìm 200 chiến thuyền của quân Nguyên. Kỵ binh nhà Nguyên vốn chỉ quen tác chiến trên bộ, không giỏi thủy tính bị sóng dữ vùi dập tơi tả.
Những thảm bại trong lịch sử của hải quân TQ - 2
Đoàn chiến thuyền của quân Nguyên giong buồm đi xâm lược nước Nhật
Cơn bão bất ngờ này đã khiến hơn 13.000 binh sĩ của tướng Hàn Đô thiệt mạng dưới đáy biển, đánh tan cả một hạm đội hùng hậu của nhà Nguyên, buộc số chiến thuyền còn lại cùng số binh sĩ vẫn chưa hết khiếp đảm rút chạy về Cao Ly, kết thúc một cuộc xâm lược thất bại ê chề.
Tuy nhiên, Hốt Tất Liệt vẫn chưa từ bỏ dã tâm xâm lược Nhật Bản trong một cuộc viễn chinh quy mô lớn hơn. Mặc dù vậy, họ cũng phải mất một thời gian mới khôi phục được hạm đội viễn chinh của mình vốn bị thiệt hại nặng sau cơn bão.
Về phía mình, sau trận chiến trên, Nhật Bản cũng tăng cường hơn nữa công cuộc phòng thủ tích cực. Biết rằng quân Nguyên sẽ không chịu từ bỏ dễ dàng, quân đội Nhật Bản đã huy động đông đảo các võ sĩ samurai tập hơn để chuẩn bị cho cuộc chiến tranh vệ quốc mới.
Nhật Bản cũng cho xây dựng một bức tường thành bằng đá dài tới 20 km dọc theo bờ biển vịnh Hakata để đề phòng cuộc tấn công bằng kỵ binh từ phía biển của quân Nguyên.
Những thảm bại trong lịch sử của hải quân TQ - 3
Di tích tường đá phòng thủ của quân Nhật
Năm 1281, sau một thời gian chuẩn bị, Hốt Tất Liệt đã sai các tướng A Tháp Hải, Hàn Đô, Hồng Trà Khâu cùng hơn 150.000 quân và 9000 chiến thuyền tiến theo đường biển xâm lược Nhật Bản lần thứ hai.
Thuyền chiến quân Nguyên chia làm hai đường, một từ bán đảo Triều Tiên qua, và một đường từ miền nam Trung Quốc tới, dự định hội quân ở bờ biển đảo Kiuxiu. Với lực lượng mạnh hơn cuộc xâm lược lần thứ nhất hơn 10 lần, quân Nguyên tin tưởng rằng lần này họ sẽ sáp nhập được Nhật Bản vào đế chế của mình.
Tuy nhiên do một số trục trặc dọc đường, hạm đội từ phía nam Trung Quốc đến chậm, tạo điều kiện cho quân Nhật tập trung lực lượng phục kích, đánh tiêu hao, tiêu diệt hạm đội yếu hơn từ ngả Triều Tiên qua.
Quân Nguyên vẫn còn hạm đội từ phía nam Trung Quốc kéo tới với lực lượng rất hùng hậu. Ngày 16/8/1281, hàng ngàn chiến thuyền hùng hổ kéo vào vịnh Hakozaki và các đảo Taka Hirato với khí thế áp đảo, tưởng chừng như không có gì có thể ngăn cản họ đánh bại quân Nhật và thôn tính cả đất nước này.
Những thảm bại trong lịch sử của hải quân TQ - 4
Hành trình đi xâm chiếm Nhật Bản của hải quân Mông Nguyên
Thế nhưng đúng lúc hạm đội quân Nguyên dàn đội hình chuẩn bị tấn công thì gió bỗng mạnh dần lên, bầu trời mây đen vần vũ, và một cơn bão lớn bất ngờ ập vào bờ biển Nhật Bản.
Những cơn gió lớn quật chiến thuyền của quân Nguyên vào đá ngầm, sóng biển chồm lên nhấn chìm chúng xuống đáy biển. Hàng chục ngàn binh lính chết đuối trong trận cuồng phong, và những người còn lại cố tìm cách vào được bờ lại trở thành mồi ngon cho các cung thủ và võ sĩ Nhật Bản đang phục kích ở đó.
Hơn 15 vạn quân Nguyên lên đường chinh phạt nước Nhật nhưng chỉ có khoảng trên dưới 3 vạn trở về. Người Nhật lại chiến thắng oanh liệt trong cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông lần thứ 2.
Nhờ hai trận bão lớn đầy bất ngờ này, nước Nhật đã thoát khỏi vó ngựa xâm lăng của quân Nguyên. Người Nhật đã thần thánh hóa điều này, cho rằng thần linh đã phù trợ họ bảo vệ đất nước, nên họ gọi cơn cuồng phong đã nhấn chìm quân xâm lược đó là "Thần Phong" (Kamikaze).
Sau hai lần bị thất bại cay đắng, nhà Nguyên trên thực tế vẫn chưa từ bỏ tham vọng chinh phục Nhật Bản. Năm 1283, Hốt Tất Liệt lại sai A Tháp Hải cùng các tướng lĩnh khác chuẩn bị một cuộc viễn chinh lần thứ ba sang Nhật để phục thù.
Những thảm bại trong lịch sử của hải quân TQ - 5
Cơn bão bất ngờ nhấn chìm hạm đội của quân Nguyên
Tuy nhiên thất bại của lực lượng xâm lược nhà Nguyên do Thái tử Thoát Hoan cầm đầu đã khiến quân Nguyên không thể thực hiện được kế hoạch chinh phạt Nhật Bản. Sau hai lần bị quân dân nhà Trần đánh cho tơi tả, Hốt Tất Liệt quyết định gác lại ý đồ xâm lược Nhật Bản để dồn sức tấn công Việt Nam lần thứ ba.
Sau 3 lần bị đánh tan ở Việt Nam, nhà Nguyên cũng từ bỏ tham vọng tiến xuống phía nam, và họ cũng không hề đả động gì đến kế hoạch tiến đánh Nhật Bản nữa. Nhờ vậy, Nhật Bản là một trong số ít quốc gia hiếm hoi ở Đông Á không bị đế quốc Nguyên  Mông chinh phục.
Như vậy, đây là những thảm bại đầu tiên của hải quân Trung Quốc với tư cách là kẻ đi xâm lược nước khác. Cùng với những thăng trầm của lịch sử, đến cuối thế kỷ 19, Trung Quốc dần dần suy yếu và trở thành mục tiêu để các nước khác trên thế giới xâm lược.
Trong thời kỳ này, mặc dù đã xây dựng được lực lượng hải quân tương đối hùng hậu, song Trung Quốc vẫn phải tiếp tục gánh chịu những thất bại nặng nề trên biển, điển hình là trận chiến Thập Phổ nổ ra giữa hải quân Pháp với hải quân nhà Thanh.
Trận hải chiến Thập Phổ đã diễn ra như thế nào, và vì sao hải quân Trung Quốc thất bại thảm hại, mời các bạn đón đọc kỳ 2: Hải chiến Thập Phổ, Trung Quốc nếm mùi hải quân Pháp vào 19h ngày 29/5/2014
Trí Dũng (Tổng hợp) (Khampha.vn)

Hải chiến Thập Phổ, TQ nếm mùi hải quân Pháp

Thứ Năm, ngày 29/05/2014 19:00 PM (GMT+7)

Ở kỳ trước, chúng ta đã chứng kiến những thất bại đầu tiên của hải quân Trung Quốc với tư cách là kẻ đi xâm lược. Trong kỳ này, chúng tôi xin giới thiệu tiếp với các bạn một trận hải chiến khác mà hải quân Trung Quốc cũng đã bị giáng những đòn rất nặng nề, đó chính là trận chiến Thập Phổ trong khuôn khổ cuộc chiến tranh Pháp-Thanh.
Kỳ 2: Hải chiến Thập Phổ, TQ nếm mùi hải quân Pháp
Năm 1884, Pháp đưa quân ra Bắc Kỳ của Việt Nam nhằm dẹp phong trào Cờ Đen và kiểm soát toàn bộ miền bắc Việt Nam. Nhân cơ hội này, nhà Thanh đã điều quân vào Việt Nam với mục đích vừa ngăn chặn quân Pháp ở biên giới, vừa duy trì ảnh hưởng đối với Việt Nam.
Về phần mình, Pháp muốn kiểm soát vùng đồng bằng Bắc Bộ và con đường nối từ Hà Nội đến tỉnh Vân Nam của Trung Quốc. Một số trận đụng độ giữa quân Pháp và quân Thanh diễn ra, và sau khi nhiều lính Pháp thiệt mạng trong một cuộc phục kích của quân Thanh ở biên giới phía bắc, chiến tranh Pháp-Thanh nổ ra.
Hải chiến Thập Phổ, TQ nếm mùi hải quân Pháp - 1
Một số trận đụng độ đã diễn ra trên bộ giữa quân Pháp và quân Thanh
Cuộc chiến tranh không tuyên bố này nổ ra cả ở mặt trận trên bộ và trên biển. Trên biển, hải quân nhà Thanh lần đầu tiên đụng độ và “nếm mùi” của hải quân Pháp là trong trận Phúc Châu, khi 7 tàu chiến và hai tàu phóng lôi nhỏ của Pháp tiêu diệt hoàn toàn một hạm đội quân Thanh gồm 9 tàu chiến, trong đó có cả pháo hạm.
Sau trận chiến này, hải quân Pháp tiến ngược lên phía bắc, phong tỏa eo biển Formosa (Đài Loan ngày nay). Để phá vòng vây của quân Pháp, nhà Thanh điều hạm đội Nam Dương xuất phát từ Thượng Hải tiến đến Formosa.
Thời bấy giờ, hải quân nhà Thanh gồm có 4 hạm đội lớn là Hạm đội Bắc Dương, Hạm đội Nam Dương, Hạm đội Phúc Kiến và Hạm đội Quảng Đông. Lực lượng đặc nhiệm của hạm đội Nam Dương được cử đi phá vây gồm có 3 tàu tuần dương hạm Nanchen, Nanrui và Kaiji cùng tàu khu trục Yuyuan và thuyền buồm loại nhỏ Chengqing do Đô đốc Wu Ankang chỉ huy.
Hải chiến Thập Phổ, TQ nếm mùi hải quân Pháp - 2
Hải quân Pháp phong tỏa bờ biển của Trung Quốc
Đáng lẽ ra hạm đội Nam Dương đi thực hiện nhiệm vụ lần này sẽ được hai tàu tuần dương hạm hiện đại của Hạm đội Bắc Dương đi hộ tống, tuy nhiên vì những mâu thuẫn và đấu đá trong nội bộ, Hạm đội Bắc Dương đã điều 2 tàu tuần dương hạm này đến Triều Tiên, bất chấp sự phản đối của Wu Ankang.
Theo ông L. C. Arlington, một sĩ quan hải quân Mỹ làm “cố vấn nước ngoài” trên tàu khu trục Yuyuan, sau sự cố này sĩ khí của quân Thanh đang sa sút nghiêm trọng. Các thuyền trưởng quân Thanh không tin rằng mình có thể đánh lại được quân Pháp và cố viện mọi lý do để tránh giao tranh hết mức có thể.
Bởi lẽ đó, hạm đội Nam Dương di chuyển một cách chậm chạp và thận trọng, không bao giờ đi quá xa đất liền, và thường xuyên dừng lại để luyện bắn đại bác. Trước khi đến được eo biển Đài Loan, Đô đốc Wu đã tỏ ra tuyệt vọng với nhiệm vụ lần này.
Hải chiến Thập Phổ, TQ nếm mùi hải quân Pháp - 3
Một tàu chiến của hạm đội Nam Dương
Vị đô đốc này nghĩ ra một sáng kiến là tung tin đồn giả rằng hạm đội Nam Dương đang áp sát Formosa với hy vọng rằng thông tin trên sẽ buộc quân Pháp phải dồn tàu chiến về Formosa để phòng thủ và để hở các vị trí khác trong vòng phong tỏa. Trong thời gian đó, hạm đội Nam Dương quay lại và hướng thẳng về vịnh Sanmen, gần cảng Ninh Ba của Trung Quốc.
Tuy nhiên, đến tháng 1/1885, báo chí Hong Kong đồng loạt đưa tin về hành trình di chuyển đích thực của hạm đội Nam Dương. Lực lượng tình báo của Pháp tại Hong Kong đã nắm được thông tin này và ngay lập tức đánh điện cho Đô đốc Amedee Courbet đang phụ trách vòng vây của quân Pháp.
Sau một thời gian dài chờ đợi mà không hề chạm trán quân Thanh, hải quân Pháp “mừng như bắt được vàng” sau khi nhận được thông tin này. Đô đốc Courbet nhận định đây là thời cơ vàng để tiêu diệt phần lớn sinh lực hạm đội Nam Dương nên quyết định di chuyển lên phía bắc Keelung vào đầu tháng Hai để săn lùng hạm đội nhà Thanh.
Lực lượng hải quân Pháp được huy động tham gia chiến dịch tìm diệt này có tàu vỏ sắt Bayard và Triomphante cùng tuần dương hạm Nielly, Eclaireur và Duguay-Trouin, tàu pháo Aspic và tàu chở quân Saone.
Hải chiến Thập Phổ, TQ nếm mùi hải quân Pháp - 4
Chiến hạm Triomphante của hải quân Pháp
Sau một thời gian săn lùng, Courbet nhận được thông tin hạm đội Nam Dương đang tập trung tại vịnh Sanmen, nên ông này quyết định cho hạm đội của mình lợi dụng đêm tối mạo hiểm băng qua các luồng lạch gần đảo Chusan để tiếp cận với quân địch càng sớm càng tốt.
Đến ngày 13/2, tàu Eclaireur phát hiện dấu hiệu của hạm đội Trung Quốc ở ngoài khơi vịnh Thập Phổ và phát tín hiệu: “Phát hiện 5 tàu hơi nước ở phía nam.” Ngay lập tức hạm đội Pháp triển khai đội hình tác chiến và hướng đại bác về phía tàu Trung Quốc.
“Kẻ bao vây” cuối cùng cũng lần ra tung tích của “kẻ phá vây”, hứa hẹn một trận chiến vô cùng khốc liệt sẽ nổ ra trên biển. Trận hải chiến Thập Phổ diễn biến như thế nào, mời các bạn đón đọc kỳ 3: Thảm bại của hạm đội hèn nhát vào 19h ngày 30/5/2014.
Trí Dũng (Tổng hợp) (Khampha.vn)

Hải chiến Thập Phổ: Thảm bại của hạm đội hèn nhát

Thứ Sáu, ngày 30/05/2014 19:00 PM (GMT+7)

Ở kỳ trước, chúng ta thấy rằng mặc dù là hạm đội đóng vai trò là lực lượng xung kích được cử đi phá vòng vây của hải quân Pháp tại eo biển Đài Loan (Formosa), song Hạm đội Nam Dương của hải quân Trung Quốc lại tỏ ra hèn nhát, run sợ và không dám đối đầu.
Sự hèn nhát đó của chỉ huy hạm đội đã tạo điều kiện cho quân Pháp mở chiến dịch truy lùng và tìm diệt, mặc dù lực lượng của quân Pháp kém hùng hậu hơn nhiều. Và cuối cùng, quân Pháp đã phát hiện ra dấu vết của Hạm đội Nam Dương tại vịnh Thập Phổ, và trận hải chiến bắt đầu.
Hải chiến Thập Phổ: Thảm bại của hạm đội hèn nhát
Đang neo đậu tại vịnh Thập Phổ, phát hiện hạm đội Pháp đang tiến lại gần, hạm đội Nam Dương cũng nhanh chóng triển khai đội hình “chữ V”do kỳ hạm Kaiji của Đô đốc Wu dẫn đầu tiến về phía quân Pháp. Nhìn đội hình hoành tráng của quân Trung Quốc đang lừng lững tiến về phía mình, quân Pháp tin rằng đối phương đã sẵn sàng cho một phen sống mái nên chuẩn bị tinh thần để khai pháo và giao chiến.
Hải chiến Thập Phổ: Thảm bại của hạm đội hèn nhát - 1
Đội hình tàu chiến Pháp truy lùng Hạm đội Nam Dương
Thế nhưng họ không ngờ được rằng lúc họ chưa kịp bắn một phát đạn nào thì hạm đội Trung Quốc bất ngờ tan vỡ và tản mát ra khắp nơi. Ba chiếc tuần dương hạm cắm đầu chạy thẳng về phía nam, trong khi tàu khu trục Yuyuan và thuyền buồm Chengqin rúc vào trong vịnh Thập Phổ.
Theo trung úy hải quân Mỹ L. C. Arlington làm cố vấn cho Hạm đội Nam Dương, Đô đốc Wu có mối hiềm khích với thuyền trưởng của hai con tàu trên nên đã ra lệnh cho họ chạy vào vịnh Thập Phổ để trở thành con tốt thí cho quân Pháp nhằm cứu những chiếc tàu khác.
Hải chiến Thập Phổ: Thảm bại của hạm đội hèn nhát - 2
Trung úy hải quân Mỹ L. C. Arlington làm cố vấn cho Hạm đội Nam Dương
Vì không thể đuổi kịp 3 chiếc tuần dương hạm chạy quá nhanh, quân Pháp ngay lập tức quay trở lại vịnh Thập Phổ để chiến đấu với 2 chiếc tàu đang mắc kẹt bên trong. Đêm ngày 14, rạng sáng ngày 15/2/1885, quân Pháp sử dụng 2 tàu phóng ngư lôi loại nhỏ để tấn công quân Thanh.
Quân Pháp đã lợi dụng đúng dịp giao thừa tết Nguyên đán năm đó để phát động tấn công với hy vọng lính gác của quân Thanh sẽ bê trễ nhiệm vụ trong dịp tết. Lợi dụng đêm tối, hai chiếc tàu phóng ngư lôi của quân Pháp lặng lẽ tiến đến gần mục tiêu là 2 tàu chiến Trung Quốc đang thả neo trong cảng.
Hải chiến Thập Phổ: Thảm bại của hạm đội hèn nhát - 3
Quan lại và binh lính nhà Thanh hồi thế kỷ 19
Tuy nhiên khi chỉ còn cách khoảng 100 mét, họ bị quân Thanh ở trên tàu phát hiện và vãi đạn như mưa về phía hai chiếc tàu phóng ngư lôi. Loạt ngư lôi đầu tiên của quân Pháp bắn từ khoảng cách xa bị trượt mục tiêu, và hỏa lực của quân Thanh càng lúc càng dày đặc hơn.
Hai tàu phóng ngư lôi của Pháp đã liều mạng tiếp cận gần hơn dưới làn đạn súng trường và phóng loạt ngư lôi tiếp theo rồi rút ra ngoài an toàn. Hai quả ngư lôi này bắn trúng thân tàu Yuyuan khiến chiếc tàu khu trục của quân Thanh bị thủng một lỗ lớn và chìm dần.
Sau tiếng nổ của quả ngư lôi đầu tiên, các thủy thủ trên tàu Yuyuan cực kỳ hoảng loạn và thi nhau nhảy ra khỏi tàu để bơi vào bờ. Còn các pháo thủ Trung Quốc ở trên bờ cũng hốt hoảng không kém trước cuộc tấn công bất ngờ của quân Pháp và hò nhau bắn như mưa xuống biển.
Tuy nhiên, đại bác của quân Thanh vô cùng kém chính xác và không thể bắn trúng được hai chiếc tàu phóng lôi của Pháp đang rút ra trong đêm tối. Thay vì đó, đạn đại bác của quân Thanh lại rơi trúng vào thân tàu Chengqing đang thả neo gần đó, khiến chiếc tàu này chịu chung số phận với tàu khu trục Yuyuan.
Hải chiến Thập Phổ: Thảm bại của hạm đội hèn nhát - 4
Tàu chiến của Hạm đội Nam Dương rúc vào cảng Thập Phổ để làm mồi cho quân Pháp
Trong cuộc tấn công bất ngờ này của quân Pháp, binh lính Trung Quốc chỉ hoàn toàn lo cho bản thân mình mà không hề quan tâm tới số phận của con tàu. Họ chỉ nháo nhác tìm cách thu thập tài sản ở trên tàu rồi nhảy xuống biển để bơi vào bờ.
Trung úy Arlington kể lại giây phút này: “Xung quanh chúng tôi lúc đó tràn ngập những thủy thủ, binh linh, gà, vịt, ngỗng và đủ loại rác rưởi. Quân Trung Quốc đã mắc sai lầm nghiêm trọng trong trận này. Nếu như họ có ý chí chiến đấu để phản công ngay vào những giây phút cuối cùng, họ có thể đẩy lui được tàu phóng lôi của đối phương và tránh được thảm họa, thậm chí có thể đánh đắm chúng. Thế nhưng họ đã không làm gì cả, và tàu Pháp rút đi mà không gặp trở ngại nào.”
Đến sáng ngày hôm sau, lực lượng trinh sát của Pháp báo cáo rằng cả hai tàu chiến của Trung Quốc trong vịnh Thập Phổ đều đã bị đánh đắm. Tuy nhiên, quá hổ thẹn với việc tàu Chengqing bị chính pháo quân mình đánh đắm, nhà cầm quyền Trung Quốc loan tin rằng binh lính trên tàu đã tự đánh đắm để nó không rơi vào tay quân Pháp.
Hải chiến Thập Phổ: Thảm bại của hạm đội hèn nhát - 5
Lính Trung Quốc hò nhau tháo chạy lên bờ sau khi tàu bị đánh trúng
Điều đáng nói là trong khi Hạm đội Nam Dương bị hải quân Pháp truy lùng và tấn công gắt gao như vậy, Hạm đội Bắc Dương của nhà Thanh lại án binh bất động, dù họ có trong tay những tàu chiến hiện đại và có hỏa lực mạnh đủ để đương đầu với tàu chiến Pháp.
Đó chính là lý do khiến hải quân Pháp dù bị dàn mỏng lực lượng vẫn có thể phong tỏa thành công bờ biển phía nam và tây nam Trung Quốc, giáng cho quân Trung Quốc nhiều thất bại nặng nề.
Tuy cùng nằm trong biên chế của hải quân nhà Thanh, song Hạm đội Bắc Dương hùng hậu lại khoanh tay đứng nhìn Hạm đội Nam Dương bị quân Pháp tấn công tiêu diệt. Vì sao lại xảy ra tình trạng này, và thực lực của Hạm đội Bắc Dương ra sao, mời các bạn đón đọc kỳ 4: Hạm đội Bắc Dương, hổ giấy của hải quân Trung Quốc vào 19h ngày 31/5/2014.
Trí Dũng (Tổng hợp) (Khampha.vn)

Hạm đội Bắc Dương, hổ giấy của hải quân TQ

Thứ Bảy, ngày 31/05/2014 19:00 PM (GMT+7)

Ở kỳ trước, chúng ta đã chứng kiến thất bại ê chề của Hạm đội Nam Dương nhà Thanh trước lực lượng hải quân Pháp ít hơn về số lượng. Một trong những nguyên nhân khiến hạm đội Nam Dương thất bại là do không được cứu viện kịp thời từ Hạm đội Bắc Dương.
Để có cái nhìn rõ hơn về Hạm đội Bắc Dương được cho là mạnh nhất hải quân Trung Quốc này, chúng ta cùng nhìn lại lịch sử Trung Quốc vào cuối thế kỷ 19.
Cuối thế kỷ 19, dưới sự thống trị của triều đình nhà Thanh, Trung Quốc ngày càng suy yếu cả về kinh tế lẫn sức mạnh quân sự. Sau hàng loạt những cuộc khởi nghĩa nông dân và liên tục bị liên quân 8 nước xâu xé, quân đội Trung Quốc trở nên bạc nhược thê thảm.
Tuy nhiên vào thời điểm này cũng không thể phủ nhận rằng ở Trung Quốc không có các điểm sáng, và một trong những điểm sáng đó chính là Hạm đội Bắc Dương, sản phẩm và là niềm tự hào của Từ Hy Thái Hậu.
Hạm đội Bắc Dương, hổ giấy của hải quân TQ - 1
Từ Hy Thái Hậu, người đàn bà đầy mưu lược của nhà Thanh
Theo các sử gia, động cơ khiến Từ Hy Thái Hậu quyết định thành lập Hạm đội Bắc Dương ngoài việc muốn hiện thực hóa tham vọng thống trị vùng biển phía bắc Trung Quốc còn do người phụ nữ đầy quyền lực và mưu lược này đã cảm thấy được nguy cơ đến từ một đế quốc trẻ ở sát ngay bên nách mình, đó chính là Đế quốc Nhật Bản.
Sau thời kỳ Duy Tân Minh Trị, Nhật Bản vươn lên từ một nhà nước phong kiến lạc hậu thành một cường quốc hùng mạnh. Là một đất nước nghèo tài nguyên thiên nhiên, Nhật Bản ngày càng nuôi tham vọng vươn ra đại dương, đánh chiếm thuộc địa để tranh giành ảnh hưởng với phương Tây.
Mục tiêu mà đế quốc non trẻ đang khao khát thuộc địa này nhắm đến chính là Triều Tiên, quốc gia nằm dưới sự bảo hộ của nhà Thanh nhưng cũng đang bước vào giai đoạn suy yếu. Chiếm được Triều Tiên, quân Nhật sẽ có bàn đạp tiến vào vùng Mãn Châu, từ đó sẽ đưa quân nuốt gọn cả Trung Quốc, xưng hùng xưng bá ở châu Á–Thái Bình Dương, sánh vai các cường quốc thế giới. Tuy nhiên, muốn đánh chiếm Triều Tiên, Hải quân Nhật phải đánh bại được Hải quân nhà Thanh, mà chủ yếu là Hạm đội Bắc Dương, hạm đội hùng mạnh nhất châu Á của nhà Thanh, và khả năng thực sự của hai bên đã được bộc lộ trong trận hải chiến Hoàng Hải, đánh dấu bước ngoặt trong quá trình vươn lên mạnh mẽ của hải quân Nhật Bản.
Trong số 4 hạm đội của hải quân nhà Thanh (Bắc Dương, Nam Dương, Phúc Kiến và Quảng Đông, Hạm đội Bắc Dương dưới sự chỉ huy của quan đại thần Lý Hồng Chương được đánh giá là có lực lượng mạnh nhất châu Á và được xếp thứ 8 thế giới.
Hạm đội Bắc Dương, hổ giấy của hải quân TQ - 2
Kỳ hạm Định Viễn khi còn được đóng tại Đức. 
Hạm đội Bắc Dương được trang bị nhiều tàu chiến lớn, hiện đại được đóng ở Anh và Đức. Tổng cộng, hạm đội có 78 tàu với tổng lượng giãn nước lên tới 83.900 tấn, vượt trội hơn nhiều so với Hạm đội Nhật Bản (khoảng 60.000 tấn). Trong số đó có 2 chiến hạm Định Viễn và Trấn Viễn là những tàu mạnh nhất thuộc hạm đội. Tàu Định Viễn đóng vai trò kỳ hạm của Hạm đội Bắc Dương do Đức đóng năm 1881, bàn giao tháng 11/1885. Con tàu dài 94,5 mét này có khả năng vượt 8.300km với tốc độ trung bình 19km/h. Về sức mạnh hỏa lực, kỳ hạm Định Viễn trang bị 4 pháo 305mm có tầm bắn xa 7,8km, 2 pháo 150mm, 2 pháo 57mm, 2 pháo 47mm, 8 pháo 37mm và 4 ống phóng ngư lôi 356mm. Thủy thủ đoàn trên tàu có tổng cộng 363 người.
Chiếc mạnh số 2 trong Hạm đội Bắc Dương là tàu bọc thép Trấn Viễn cũng do Đức đóng năm 1882, được trang bị 4 pháo 305mm, 2 pháo 150mm, 6 pháo 37mm và 3 ống phóng ngư lôi. Trong khi đó, phía Hải quân Nhật Bản chỉ có chiếc tàu tuần dương bảo vệ Matsushima là loại lớn nhất được đóng tại Pháp năm 1886. Tàu Matsushima trang bị một pháo 320mm, 12 pháo 120mm, 16 pháo 57mm và 4 ống phóng lôi 356mm.
Hạm đội Bắc Dương, hổ giấy của hải quân TQ - 3
Tàu tuần dương bảo vệ Matsushima của hải quân Nhật Bản
 Nhìn chung, Hạm đội Bắc Dương vượt trội hơn so với lưc lượng Nhật Bản về mọi mặt, trang bị hiện đại hơn, nhiều tàu hơn, hỏa lực mạnh hơn rất rất nhiều. Tuy nhiên, lịch sử chiến tranh đã cho thấy lực lượng mạnh hơn, hỏa lực tốt hơn không phải lúc nào cũng giành chiến thắng trong chiến trận, và trận hải chiến Hoàng Hải là một ví dụ sinh động cho thực tế trên. Tuy bề ngoài có vẻ hoành tráng và hùng hậu như vậy, nhưng trước khi bắt đầu bước vào trận chiến Hoàng Hải, lực lượng Hạm đội Bắc Dương đã bị mục ruỗng, thối nát từ bên trong.Tuy Hạm đội Bắc Dương có lực lượng khá mạnh, nhưng binh sĩ nhà Thanh có mức độ sẵn sàng chiến đấu rất kém. Do không được luyện tập thường xuyên nên thao tác và kỹ năng của các pháo thủ là rất kém. Ngoài ra, tệ nghiện hút thuốc phiện lan tràn cũng làm suy kiệt thể chất và tinh thần của không ít binh lính và sĩ quan. Cùng với đó là nạn tham nhũng hoành hành, từ cấp thấp lên đến cấp cao. Mặc dù lúc đầu được đầu tư rất lớn, nhưng từ khi Từ Hi Thái Hậu quyết định rút ngân quĩ đầu tư cho hải quân sang xây dựng cung điện Di Hòa Viên, bà đã giáng một đòn mạnh “bóp chết” Hạm đội Bắc Dương, khiến cho hạm đội hùng hậu này mất hoàn toàn khả năng sửa chữa các chiến hạm, duy trì hoạt động huấn luyện chiến đấu.
Hạm đội Bắc Dương, hổ giấy của hải quân TQ - 4
Thủy thủ Trung Quốc trên một tàu chiến của Hạm đội Bắc Dương
Các quan lại tham nhũng tràn lan, đạn pháo bị nhồi xi măng hay mạt cưa thay cho thuốc súng. Về phần số đạn pháo thực sự thì được sản xuất từ nhiều năm trước, đã rất cũ kĩ do bảo dưỡng kém. Trên các chiến hạm, đa số cấp chỉ huy sa đà vào ăn chơi thác loạn, thậm chí có sĩ quan còn cho tháo cặp pháo 254mm đem ra chợ bán lấy tiền tiêu xài. Từ sĩ quan đến binh lính đua nhau tham ô biển thủ, cấp bậc càng cao thì tham nhũng càng nhiều. Ngay cả những thứ nhỏ nhặt nhất như các tay đấm cửa bằng đồng, lan can cầu thang cho đến những lá chắn bảo vệ ụ pháo bằng thép dày đều bị ăn cắp để đem bán. Đây là điều tất yếu, bởi do ngân sách của hạm đội bị cắt giảm, hoạt động đình trệ, thủy thủ đoàn không có tiền lương nuôi bản thân và gia đình, lại “nhàn cư vi bất thiện” mà quên đi bổn phận người lính với đất nước mà sa đà vào ăn chơi. Có thể nói, Hạm đội Bắc Dương là lực lượng có trang bị mạnh, nhưng đang lung lay từ tận gốc rễ, tệ nạn tham nhũng đã gặm nhấm đến những phần tử nhỏ nhất của con tàu.
Không chỉ mục ruỗng, thối nát từ bên trong, quan hệ giữa Hạm đội Bắc Dương với các hạm đội còn lại, đặc biệt là Hạm đội Nam Dương còn bị chia rẽ rất sâu sắc. Điều này đã được thể hiện rất rõ trong trận chiến Thập Phổ, khi Hạm đội Bắc Dương khoanh tay ngồi nhìn Hạm Đội Nam Dương bị quân Pháp săn lùng và tấn công tiêu diệt.
Trước khi trận Thập Phổ diễn ra, Hạm đội Bắc Dương đã cử 2 tuần dương hạm đến hỗ trợ Hạm đội Nam Dương tấn công phá vòng vây của hải quân Pháp ở Đài Loan. Nhưng chưa kịp tham chiến thì Lý Hồng Chương đã cho gọi 2 tuần dương hạm này về, khiến cho Hạm đội Nam Dương thảm bại trước quân Pháp.
Một trường hợp khác, liên quan đến 6 pháo hạm do Anh đóng, có trong biên chế Hạm đội Bắc Dương, lần lượt mang tên: Trấn Bắc, Trấn Nam, Trấn Đông, Trấn Tây, Trấn Trung và Trấn Biên được bàn giao năm 1879. Bốn chiếc đầu tiên trong số 6 pháo hạm này đáng lẽ phải bàn giao cho Hạm đội Nam Dương, nhưng đã bị Lý Hồng Chương giữ lại để trang bị cho Hạm đội Bắc Dương. Thay vào đó, Hạm đội Nam Dương chỉ nhận được 4 pháo hạm cũ kĩ, đã phục vụ trong Hạm đội Bắc Dương từ năm 1876.
Những hành động này của Lý Hồng Chương đã khiến các sĩ quan Hạm đội Nam Dương “khắc cốt ghi tâm”, và trong trận hải chiến Hoàng Hải sau đó, Hạm đội Nam Dương hầu như đã không làm gì để cứu viện cho Hạm đội Bắc Dương.
Rõ ràng, Hạm đội Bắc Dương chỉ là “con hổ giấy”. Tuy bề ngoài được xem là hùng mạnh nhất châu Á nhưng bên trong thì các tàu chiến chủ lực đều bị “mục ruỗng”, sĩ khí binh lính hầu như không có, nội bộ thì chia rẽ trầm trọng.
Khác với Hạm đội Bắc Dương đang suy tàn, Hạm đội Nhật Bản liên tục được nâng cấp, bổ sung thêm các tàu chiến mới. Ngoài ra, thủy thủ Nhật Bản cũng được đào tạo một cách có bài bản, sẵn sàng chiến đấu cao. Rõ ràng, tuy chưa đánh nhưng “hổ giấy” Hạm đội Bắc Dương gần như đã thua.
Chỉ huy kém cỏi, thối nát, trang bị “đông nhưng không mạnh”, Hạm đội Bắc Dương đã hứng chịu thất bại đau đớn trước Hạm đội Nhật Bản trong trận chiến Hoàng Hải năm 1894. Diễn biến của trận hải chiến đầy kịch tính này ra sao, mời các bạn đón đọc Kỳ 5: Kết cục thảm hại của hạm đội mạnh nhất Trung Quốc vào 19h ngày 1/6/2014.
Trí Dũng (Tổng hợp) (Khampha.vn)

Kết cục thảm hại của hạm đội mạnh nhất Trung Quốc

Chủ Nhật, ngày 01/06/2014 19:00 PM (GMT+7)
Hạm đội mạnh nhất Trung Quốc đã bị hải quân Nhật Bản hủy diệt trong trận Hoàng Hải.

Ở kỳ trước, chúng ta biết rằng đế quốc Nhật Bản cuối thế kỷ 19 đang vươn lên mạnh mẽ và khát khao xâm chiếm thuộc địa. Để thực hiện mộng xâm lược của mình, Nhật Bản phải đối mặt với hạm đội được cho là mạnh nhất châu Á thời bấy giờ của Trung Quốc. Thế nhưng, hạm đội đó đã bị mục ruỗng từ bên trong, và nó đã bị hủy diệt trong một trận hải chiến diễn ra trên biển Hoàng Hải.
Ngày 17/9/1894, trận hải chiến giữa 2 hạm đội hùng hậu của nhà Thanh và Nhật Bản diễn ra trên biển Hoàng Hải. Trận hải chiến này còn được gọi là trận sông Áp Lục vì nó xảy ra ở gần cửa sông Áp Lục đổ ra biển Hoàng Hải, nơi giáp ranh giữa Triều Tiên và Trung Quốc.
Trong trận chiến này, hầu hết các tàu chiến chủ lực của cả hai hạm đội đều được tung vào trận, và Hạm đội Nhật Bản mới được tái thiết của Đô đốc Sukeyuki Ito đã chặn đứng được cuộc đổ bộ của lục quân Trung Quốc dưới sự hỗ trợ của Hạm đội Bắc Dương dưới sự chỉ huy của Đô đốc Đinh Nhữ Xương.
Kết cục thảm hại của hạm đội mạnh nhất Trung Quốc - 1
Quan đại thần Lý Hồng Chương và Đô đốc Đinh Nhữ Xương, hai "trụ cột" của Hạm đội Bắc Dương
Trước khi trận chiến xảy ra, Hạm đội Bắc Dương đã có những nỗ lực cuối cùng để sửa chữa lại các chiến hạm, đảm bảo khả năng chiến đấu cao nhất. Đô đốc Đinh Nhữ Xương nhận được sự cố vấn của một số sĩ quan hải quân nước ngoài giàu kinh nghiệm, chẳng hạn như viên đại tá người Đức von Hanneken hoặc một số sỹ quan người Anh đang là giảng viên tại Học viện Hải quân Uy Hải Vệ.
Trong khi đó, người Nhật rất tự tin vào khả năng của mình, nên không sử dụng cố vấn nước ngoài.
Phía Trung Quốc, Đô đốc Đinh Nhữ Xương chia hạm đội theo thế trận “nhạn bay hai cánh” với 2 hải đội chia thành hai cánh cung sẵn sàng nghênh địch. Trong thế trận này, hải đội thứ nhất tập trung chủ yếu những tàu xương sống của Hạm đội Bắc Dương gồm 2 thiết giáp hạm Định Viễn và Trấn Viễn nằm ở trung tâm đội hình chiến đấu.
Bảo vệ cho các thiết giáp hạm này là các tuần dương hạm Dương Uy, Siêu Dũng, Bình Viễn, Tĩnh Viễn, Lai Viễn, Chí Viễn được trang bị nhiều loại pháo có cỡ nòng khác nhau. Đây là một lực lượng rất mạnh gồm tổng cộng có 14 tàu chiến, trong đó có hai tàu phóng lôi cỡ nhỏ.
Kết cục thảm hại của hạm đội mạnh nhất Trung Quốc - 2
Tranh vẽ trận Hoàng Hải 1894. 
Về phía Nhật Bản, Đô đốc Sukeyuki Ito cho hạm đội triển khai theo đội hình hai hàng dọc, trong đó tàu tuần dương Matsushima đóng vai trò là kỳ hạm ở trung tâm của đội hình.
Đi theo bảo vệ cho kỳ hạm Matsushima là 2 chiến hạm cỡ nhỏ Sei-kyo do thuyền trưởng người Anh John Wilson chỉ huy và pháo hạm Akagi. Tổng tham mưu trưởng Hải quân Nhật Bản, Đô đốc Kabayama Sukenori có mặt trên chiếc Sei-kyo. Lực lượng này tiến lên ở cánh trái đội hình.
Lực lượng chính của Hạm đội Nhật Bản bao gồm các tuần dương hạm Chiyoda, Hashidate, Itsukushima, Fuso, còn chiếc Hiei được trang bị 9 khẩu pháo 152mm lùi xuống ở trung tâm đội hình.
Dẫn đầu đội hình tiến công của Nhật Bản ở cánh phải là một hải đội xung kích có tốc độ cao, bao gồm các tuần dương hạm Yoshino, Akitsushima, Takachiho và Naniwa. Đây là những tàu có hỏa lực mạnh và sức cơ động cao, là lực lượng then chốt quyết định trận đánh. Đội hình Hạm đội Nhật Bản như một chữ U lớn, hướng về phía Hạm đội Bắc Dương.
Bước vào trận đánh, Đô đốc Sukeyuki Ito biết rằng nếu đấu tay đôi với các thiết giáp hạm hiện đại có hỏa lực mạnh của hải quân nhà Thanh, quân Nhật sẽ gánh chịu thất bại nặng nề. Thế nên ông quyết định chọn cách sử dụng lực lượng xung kích với ưu thế về tốc độ cao để đánh vỗ mặt các tàu chiến cỡ nhỏ của Hạm đội Bắc Dương, sau đó áp sát phát huy tối đa sức mạnh hỏa lực để giải quyết trận đánh.
Vì hạm đội Nhật tiến theo đội hình hai hàng dọc nên các khẩu pháo 305mm có tầm bắn xa 7,8km của thiết giáp hạm Định Viễn và Trấn Viễn gần như không thể bắn trúng tàu chiến Nhật Bản vì vướng những tàu nhỏ hơn ở phía trước.
Trong khi đó, từ cánh phải, hải đội xung kích của Nhật Bản đã bắt đầu khai hỏa, bắn các tàu chiến nhỏ hơn của đối phương. Trong khi hải đội xung kích lợi dụng ưu thế về tốc độ liên tục di chuyển để đánh vào bên sườn của Hạm đội Bắc Dương, hải đội chính của quân Nhật bất ngờ tiến vào đánh vỗ mặt, buộc quân Thanh phải chật vật chống đỡ trên cả hai phía. Loạt đạn đầu tiên của hải quân Nhật bắn vào kỳ hạm Định Viễn đã khiến Đô đốc Đinh Nhữ Xương bị thương.
Kết cục thảm hại của hạm đội mạnh nhất Trung Quốc - 3
Tàu chiến Nhật Bản tiến đến đánh vỗ mặt Hạm đội Bắc Dương
Sau khi đã áp sát ở cự li đủ để phát huy tối đa hỏa lực hạm tàu, tàu chiến Nhật Bản liên tục di chuyển theo vòng tròn, quây Hạm đội Bắc Dương vào giữa để tiêu diệt. Hạm đội Bắc Dương đã rơi vào cái bẫy của người Nhật Bản.
Tuy nhiên, theo đánh giá sau này thì chiếc bẫy này không hẳn là không có cách phá vỡ. Nếu như Hạm đội Bắc Dương có chiến thuật đúng đắn để triển khai đội hình, đưa các thiết giáp hạm Định Viễn và Trấn Viễn lên tuyến đầu để khai hỏa trực tiếp vào hải đội xung kích của Nhật Bản, sử dụng ưu thế tầm bắn để ra đòn phủ đầu thì họ đã có thể giành được ưu thế, không đánh mất hoàn toàn quyền chủ động vào tay người Nhật Bản.
Nhưng không rõ vì lí do gì mà những mệnh lệnh này đã không được đưa ra, dù cho các sĩ quan nước ngoài cố vấn cho Hạm đội Bắc Dương có mặt trong trận chiến cũng đã sớm nhận ra điều này. Có một số ý kiến cho rằng thuyền trưởng tàu Định Viễn đã hèn nhát, chống lại thượng lệnh của Đô đốc Đinh Nhữ Xương.
Ngoài ra, nguyên nhân thất bại của Hạm đội Bắc Dương chủ yếu nằm ở trang bị quá tồi tệ do nạn tham nhũng hoành hành. Nhiều chiến hạm của Nhật đã bị trúng đạn pháo, thậm chí bị bắn trúng nhiều hơn tàu Trung Quốc. Nhưng những viên đạn pháo nhồi xi măng, mạt cưa thay cho thuốc súng hầu như chẳng gây thiệt hại gì cho quân Nhật.
Kết cục thảm hại của hạm đội mạnh nhất Trung Quốc - 4
Tranh vẽ kỳ hạm Matsushima tấn công tàu chiến Hạm đội Bắc Dương. 
Theo các tài liệu lịch sử, tuần dương hạm Bình Viễn đã bắn nhiều phát trúng vào tàu Matsushima của Nhật Bản, nhưng hầu như các quả đạn đã bị “rút ruột” nên không gây thiệt hại. Những khẩu pháo 305mm và 208mm bất lực trước hạm đội Nhật Bản, khiến các tàu Nhật thoải mái cơ động, chờ cho các tàu Trung Quốc bắn hết đạn để tiến vào áp sát ở cự li 2.700m, khai hỏa đáp trả.
Mục tiêu đầu tiên là 2 tuần dương hạm loại nhỏ Dương Uy và Siêu Dũng của Hạm đội Bắc Dương. Cả hai chiếc đều bốc cháy dữ dội ngay sau loạt đạn đầu. Các tàu Nhật Bản cơ động liên tục, bắn gãy cột cờ tín hiệu của kỳ hạm Định Viễn, khiến Hạm đội Bắc Dương mất khả năng chỉ huy thống nhất. Để đối phó lại, hạm đội Trung Quốc cũng chia thành ba cặp đôi tàu, để chiến đấu độc lập, chi viện cho nhau.
Trận chiến kéo dài suốt cả ngày, và kết thúc với phần thắng thuộc về người Nhật Bản. Hạm đội Bắc Dương bị bắn chìm 5 tàu, bị thương 3 tàu, 850 thủy thủ thiệt mạng, 500 người bị thương. Trong khi đó, Hạm đội Nhật Bản chỉ bị hỏng 4 tàu, 190 thủy thủ thiệt mạng, 200 người bị thương.
Trận Hải chiến Hoàng Hải đã mở đường cho sự vươn lên của Hạm đội Nhật Bản, sánh vai cùng hải quân các cường quốc châu Âu cũng như khẳng định vị trí siêu cường của Nhật Bản trên trường quốc tế.
Về phần Hạm đội Bắc Dương, sau trận Hoàng Hải, lực lượng này còn đọ sức với Nhật Bản một lần nữa trong trận Uy Hải Vệ tháng 2/1985 và một lần nữa bị diệt gọn. Đội tàu phóng lôi của Nhật Bản đã đánh chìm kỳ hạm Định Viễn cùng 3 tàu lớn khác của Hạm đội Bắc Dương, 13 tàu phóng lôi còn sống sót cố chạy đến Yên Đài thì 6 chiếc bị tiêu diệt và 7 chiếc bị bắt giữ. Ngày 12/2/1895, Đô đốc Đinh Nhữ Xương và các tàu còn lại thuộc Hạm đội Bắc Dương đã đầu hàng quân Nhật vô điều kiện.
Kết cục thảm hại của hạm đội mạnh nhất Trung Quốc - 5
Đô đốc Đinh Nhữ Xương đầu hàng Đô đốc Nhật Bản Sukeyuki Ito sau trận Uy Hải Vệ
Sau này, tờ Quân Giải phóng của quân đội Trung Quốc bình luận về trận hải chiến Hoàng Hải đã kêu gọi chỉ huy các đơn vị cần rút ra bài học từ chiến thắng năm 1894 của Nhật Bản trước nhà Thanh, một bài bình luận được coi là ám chỉ nạn tham nhũng lan tràn trong giới tướng lĩnh quân đội hiện nay.
Phân tích nguyên nhân thất bại của trận hải chiến này, Quân Giải phóng nhận định: “Hải quân Trung Quốc được trang bị các tàu chiến tiên tiến cùng vũ khí đã được sử dụng bởi các lực lượng hàng hải Minh Trị Nhật Bản, nhưng các thủy thủ và sĩ quan Trung Quốc đã chỉ biết chế giễu sỹ quan hướng dẫn người nước ngoài được trả lương cao, một sự tương phản nổi bật với thái độ học tập nghiêm túc và khiêm tốn của hải quân Nhật Bản.”
Các nhà phân tích cho nhận định bài bình luận trên của Quân Giải phóng nhằm ám chỉ tới một thực tế rằng quân đội Trung Quốc thời nhà Thanh phải đối mặt với nhiều thách thức tương tự quân đội Trung Quốc bây giờ, đó là nạn gia đình trị, bè phái và tham nhũng.
Ông Nghê Lạc Hùng, một nhà phân tích quân sự từ đại học Khoa học chính trị - luật Thượng Hải phân tích: “Vấn nạn tham nhũng hiện nay trong quân đội Trung Quốc thậm chí còn tồi tệ hơn hạm đội Bắc Dương thời nhà Thanh. Nếu hiện tượng mua bán quân hàm còn tiếp diễn, quân đội Trung Quốc chắc chắn sẽ bị Nhật Bản đánh bại một lần nữa nếu có xung đột quân sự giữa 2 nước".
Trí Dũng (Tổng hợp) (Khampha.vn)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét