VIỆT NAM HIỀN HÒA 5
(ĐC sưu tầm trên NET)
Trong số các dân tộc ở Việt Nam,
tiếng nói, chữ viết của dân tộc Việt được sử dụng rộng rãi nhất và trở
thành tiếng nói, chữ viết phổ thông, ngôn ngữ chính thức trên toàn đất
nước Việt Nam.
Về
chữ viết, trong một thời gian dài dưới thời Bắc thuộc, Việt Nam sử dụng
chữ Hán (của Trung Quốc) trong giao dịch, giáo dục, trong các văn bản
của nhà nước phong kiến. Việc sử dụng chữ Hán còn kéo dài đến đầu thế kỷ
20. Đến thế kỷ thứ 10, song song với việc sử dụng chữ Hán, người Việt
Nam đã sáng tạo ra chữ Nôm (dùng đặc tính tượng hình của chữ Hán để ký
âm tiếng Việt). Sự xuất hiện của chữ Nôm (có thể) đánh dấu sự trưởng
thành trong ý thức dân tộc của người Việt và giúp cho nền văn học Việt
Nam phát triển rực rỡ. Đến thế kỷ 16, chữ Quốc ngữ xuất hiện sau đó thay
thế cả chữ Hán và chữ Nôm.
Từ
khi có chữ Hán, chữ Nôm và sau này là chữ Quốc ngữ thì văn học dân gian
đã là chất men tạo nên văn học bác học thực sự của dân tộc và phát
triển thành nền văn học Việt Nam hiện nay. Đó là con đường đi cũng như
đặc điểm ra đời và sự liên quan của văn học dân gian và văn học bác học
Việt Nam.
Văn
học quốc ngữ từ buổi đầu đã mau chóng dấy lên cao trào đổi mới, hoàn
chỉnh các thể loại từ văn xuôi, thơ, nghiên cứu lý luận phê bình.
Các
nhà văn Việt Nam đã thể hiện trong tác phẩm những chuyển biến của lịch
sử từ con người đến gia đình, cộng đồng. Nội dung và tư tưởng của các
tác phẩm đều mang tính hiện thực và dự báo trong từng giai đoạn, tạo
thành một sắc thái riêng.
Đặc
biệt, hơn nửa thế kỷ qua văn học Việt Nam đã phát triển mạnh mẽ. Việt
Nam vừa trải qua hai cuộc kháng chiến anh hùng, ngày nay bước vào thời
kỳ xây dựng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Văn học Việt Nam đã
có phong trào, có lực lượng. Lớp lớp người cầm bút không ngừng nảy sinh
và số hội viên ngày một hùng hậu.
Người Mường ở Bắc Trung Bộ có trường ca Đẻ đất đẻ nước, người Thái ở Tây Bắc có Xống chụ xôn xao, dân tộc Ê Đê ở Tây Nguyên có Đam San, Xinh Nhã, mỗi trường ca này gồm hàng nghìn câu... Còn ở vùng đồng bằng Bắc bộ thì có truyện kể về Nòi giống Lạc Hồng, Thánh Gióng, Tấm Cám, Bánh chưng bánh dày...
Điểm
sơ qua một số ít tác phẩm truyền miệng tiêu biểu. Trong dòng văn học
dân gian Việt Nam có nhiều thể loại như thần thoại, sử thi, truyền
thuyết, cổ tích, truyện cười, truyện ngụ ngôn, truyện thơ, tục ngữ, câu
đố, cao dao, vè. Văn học dân gian là sản phẩm tinh thần của người bình
dân, nảy sinh trong quá trình sinh hoạt, lao động, xây dựng và đấu
tranh. Chính vì vậy, kho tàng văn học dân gian ở dân tộc nào cũng có
hàng trăm, hàng nghìn tác phẩm dưới các dạng thức khác nhau; ở mỗi vùng,
thậm trí ở mỗi làng xã lại có những tác phẩm dân gian riêng. Đấy là
linh hồn và sức sống của dân tộc. Ngày nay, đối với mỗi dân tộc đều có
các công trình nghệ thuật và văn học dân gian đã được sưu tầm và bảo
tồn. Trên nền tảng văn học dân gian này, bằng tiếng nói và chữ viết đã
xây nên tư tưởng chân chính cho văn học bác học của Việt Nam.
Ngôn ngữ văn học
Tiếng nói và chữ viết
|
Về
chữ viết, trong một thời gian dài dưới thời Bắc thuộc, Việt Nam sử dụng
chữ Hán (của Trung Quốc) trong giao dịch, giáo dục, trong các văn bản
của nhà nước phong kiến. Việc sử dụng chữ Hán còn kéo dài đến đầu thế kỷ
20. Đến thế kỷ thứ 10, song song với việc sử dụng chữ Hán, người Việt
Nam đã sáng tạo ra chữ Nôm (dùng đặc tính tượng hình của chữ Hán để ký
âm tiếng Việt). Sự xuất hiện của chữ Nôm (có thể) đánh dấu sự trưởng
thành trong ý thức dân tộc của người Việt và giúp cho nền văn học Việt
Nam phát triển rực rỡ. Đến thế kỷ 16, chữ Quốc ngữ xuất hiện sau đó thay
thế cả chữ Hán và chữ Nôm.
Từ
khi có chữ Hán, chữ Nôm và sau này là chữ Quốc ngữ thì văn học dân gian
đã là chất men tạo nên văn học bác học thực sự của dân tộc và phát
triển thành nền văn học Việt Nam hiện nay. Đó là con đường đi cũng như
đặc điểm ra đời và sự liên quan của văn học dân gian và văn học bác học
Việt Nam. Văn học hiện đại
|
Các
nhà văn Việt Nam đã thể hiện trong tác phẩm những chuyển biến của lịch
sử từ con người đến gia đình, cộng đồng. Nội dung và tư tưởng của các
tác phẩm đều mang tính hiện thực và dự báo trong từng giai đoạn, tạo
thành một sắc thái riêng.
Đặc
biệt, hơn nửa thế kỷ qua văn học Việt Nam đã phát triển mạnh mẽ. Việt
Nam vừa trải qua hai cuộc kháng chiến anh hùng, ngày nay bước vào thời
kỳ xây dựng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Văn học Việt Nam đã
có phong trào, có lực lượng. Lớp lớp người cầm bút không ngừng nảy sinh
và số hội viên ngày một hùng hậu. | Văn học dân gian
|
Điểm
sơ qua một số ít tác phẩm truyền miệng tiêu biểu. Trong dòng văn học
dân gian Việt Nam có nhiều thể loại như thần thoại, sử thi, truyền
thuyết, cổ tích, truyện cười, truyện ngụ ngôn, truyện thơ, tục ngữ, câu
đố, cao dao, vè. Văn học dân gian là sản phẩm tinh thần của người bình
dân, nảy sinh trong quá trình sinh hoạt, lao động, xây dựng và đấu
tranh. Chính vì vậy, kho tàng văn học dân gian ở dân tộc nào cũng có
hàng trăm, hàng nghìn tác phẩm dưới các dạng thức khác nhau; ở mỗi vùng,
thậm trí ở mỗi làng xã lại có những tác phẩm dân gian riêng. Đấy là
linh hồn và sức sống của dân tộc. Ngày nay, đối với mỗi dân tộc đều có
các công trình nghệ thuật và văn học dân gian đã được sưu tầm và bảo
tồn. Trên nền tảng văn học dân gian này, bằng tiếng nói và chữ viết đã
xây nên tư tưởng chân chính cho văn học bác học của Việt Nam. |
|


Nhận xét
Đăng nhận xét