Thứ Sáu, 13 tháng 12, 2013
VIỆT NAM HIỀN HÒA 4/3
(ĐC sưu tầm trên NET)
Trong xã hội Việt Nam, dân cư tụ hội thành làng xã ở nơi đồng ruộng và phường, hội ở nơi thành thị. Làng và phường đã ra đời ngay từ những buổi đầu trứng nước của dân tộc. Dần dà, các tổ chức này ngày càng ổn định và chặt chẽ hơn.
Trên cơ sở đồng lòng nhất trí, ở làng có luật của làng, gọi là hương ước, thợ thủ công ở các xóm nghề, phố nghề thì có phường ước.
Tinh thần then chốt của những hương ước, phường ước xuất phát từ thuần phong mỹ tục của làng, phường, là những cụ thể hoá phong phú sinh động nằm trong khuôn khổ của luật pháp quốc gia.
Bảo tàng Hán - Nôm ở Hà Nội và ở các địa phương hiện còn lưu giữ hàng vạn bản hương ước, phường ước như vậy.
Miếng
trầu đi đôi với lời chào, người lịch sự không "ăn trầu cách mặt" nghĩa
là đã tiếp thì tiếp cho khắp. Vì trầu cau là "đầu trò tiếp khách" lại là
biểu tượng cho sự tôn kính, phổ biến trong các lễ tế thần, tế gia tiên,
lễ tang, lễ cưới, lễ thọ, lễ mừng...
* Tục ăn trầu Tương truyền có từ thời Hùng Vương và gắn liền với một chuyện cổ tích nổi tiếng "chuyện trầu cau". Miếng trầu gồm 4 thứ nguyên liệu: cau (vị ngọt), lá trầu không (vị cay), rễ (vị đắng) và vôi (vị nồng). Ăn trầu thể hiện nếp sinh hoạt mang đậm tính dân tộc độc đáo của Việt Nam. Sách xưa ghi rằng "ăn trầu làm thơm miệng, hạ khí, tiêu cơm".
Miếng trầu, làm cho người ta gần gũi, cởi mở với nhau hơn. Miếng trầu nhân lên niềm vui, khách đến được mời trầu; tiệc cưới có đĩa trầu để chia vui; ngày lễ, tết, ngày hội miếng trầu với người lạ để làm quen, kết bạn; với người quen miếng trầu là tri âm tri kỷ. Miếng trầu cũng làm người ta ấm lên trong những ngày đông lạnh giá, làm nguôi vợi bớt nỗi buồn khi nhà có tang, có buồn được sẻ chia cảm thông bởi họ hàng bạn bè làng xóm. Miếng trầu còn là sự thể hiện lòng thành kính của thế hệ sau với các thế hệ trước cho nên trên mâm cỗ thờ cúng gia tiên của người Việt có trầu cau.
* Hút thuốc làoTrong khi đa số giới nữ ăn trầu và miếng trầu là đầu câu chuyện thì đối với đàn ông, thuốc lào gắn bó với họ lúc vui, buồn thậm trí suốt cả cuộc đời. Thuốc lào được hút bằng điếu ống, điếu bát, để cho tiện dụng khi xa nhà lại hút bằng điếu cày (điếu để hút thuốc trong lúc cày bừa ở đồng ruộng nên gọi là điếu cày).
Nam
nữ thụ thụ bất thân, đây là câu nói cửa miệng, quen dùng chỉ mối quan
hệ nam nữ theo quan niệm của nhà nho. Người đàn ông và người đàn bà ngày
xưa trao cho nhau cái gì, nhận của nhau cái gì, đều không trực tiếp tận
tay, sợ bấm nháy, ra hiệu gì với nhau chăng? Hai người muốn mời nhau ăn
trầu, thì người chủ tiêm trầu, đặt giữa bàn, khách tự nhặt lấy mà ăn.
Lễ giáo phong kiến thật khắt khe, việc tỏ tình trực tiếp khó mà thực
hiện được, họa chăng chỉ có đôi mắt là thầm lén nhìn nhau! Vì vậy các
nhà quyền quý thường "cấm cung" con gái. Ngay từ tuổi thơ đã sớm hình
thành sự ngăn cách giới tính. Trong xã hội phong kiến xưa "Nam nữ thụ
thụ bất thân" nên hôn nhân cần phải có môi giới. Nếu yêu nhau, cưới hỏi
không cần mối lái sẽ bị chê trách. Trong xã hội cũ, có những người
chuyên làm nghề mối lái, nếu đẹp đôi vừa lứa thì trở thành ân nhân suốt
đời. Ở xã hội mới, ngày nay vẫn còn có các bà mối, các bà mối thời nay
là người cố vấn, người đỡ đầu cho đôi trẻ xây dựng hạnh phúc lâu dài.
Các bà mối chính là phương tiện thông tin đại chúng, câu lạc bộ người
độc thân, các công ty dịch vụ...
Một số tục lệ trong cưới hỏi * Lễ vấn danh có ý nghĩa gì ?
Là lễ nhà trai đến nhà gái hỏi tên tuổi cô gái, ngày nay gọi là lễ "chạm ngõ" hay là lễ "dạm".
Làng - Phường
|
Nền văn hoá truyền thống Việt Nam được hình thành trên cơ sở của nền văn minh nông nghiệp. Cuộc sống của mỗi người Việt Nam đều gắn bó mật thiết với xóm làng, quê hương... |
Trên cơ sở đồng lòng nhất trí, ở làng có luật của làng, gọi là hương ước, thợ thủ công ở các xóm nghề, phố nghề thì có phường ước.
Tinh thần then chốt của những hương ước, phường ước xuất phát từ thuần phong mỹ tục của làng, phường, là những cụ thể hoá phong phú sinh động nằm trong khuôn khổ của luật pháp quốc gia.
Bảo tàng Hán - Nôm ở Hà Nội và ở các địa phương hiện còn lưu giữ hàng vạn bản hương ước, phường ước như vậy.
Giao thiệp
|
Theo phong tục Việt Nam "miếng trầu là đầu câu chuyện" miếng trầu tuy rẻ tiền nhưng chứa đựng nhiều tình cảm ý nghĩa, giầu nghèo ai cũng có thể có, vùng nào cũng có. |
* Tục ăn trầu Tương truyền có từ thời Hùng Vương và gắn liền với một chuyện cổ tích nổi tiếng "chuyện trầu cau". Miếng trầu gồm 4 thứ nguyên liệu: cau (vị ngọt), lá trầu không (vị cay), rễ (vị đắng) và vôi (vị nồng). Ăn trầu thể hiện nếp sinh hoạt mang đậm tính dân tộc độc đáo của Việt Nam. Sách xưa ghi rằng "ăn trầu làm thơm miệng, hạ khí, tiêu cơm".
Miếng trầu, làm cho người ta gần gũi, cởi mở với nhau hơn. Miếng trầu nhân lên niềm vui, khách đến được mời trầu; tiệc cưới có đĩa trầu để chia vui; ngày lễ, tết, ngày hội miếng trầu với người lạ để làm quen, kết bạn; với người quen miếng trầu là tri âm tri kỷ. Miếng trầu cũng làm người ta ấm lên trong những ngày đông lạnh giá, làm nguôi vợi bớt nỗi buồn khi nhà có tang, có buồn được sẻ chia cảm thông bởi họ hàng bạn bè làng xóm. Miếng trầu còn là sự thể hiện lòng thành kính của thế hệ sau với các thế hệ trước cho nên trên mâm cỗ thờ cúng gia tiên của người Việt có trầu cau.
* Hút thuốc làoTrong khi đa số giới nữ ăn trầu và miếng trầu là đầu câu chuyện thì đối với đàn ông, thuốc lào gắn bó với họ lúc vui, buồn thậm trí suốt cả cuộc đời. Thuốc lào được hút bằng điếu ống, điếu bát, để cho tiện dụng khi xa nhà lại hút bằng điếu cày (điếu để hút thuốc trong lúc cày bừa ở đồng ruộng nên gọi là điếu cày).
Cưới hỏi
|
Cưới hỏi là một lễ trọng có quy định chặt chẽ của dân tộc Việt từ trước tới nay không có gì thay đổi trên nền tảng cơ bản, chỉ có một số lễ tục thay đổi để phù hợp với thời đại. |
Một số tục lệ trong cưới hỏi * Lễ vấn danh có ý nghĩa gì ?
Là lễ nhà trai đến nhà gái hỏi tên tuổi cô gái, ngày nay gọi là lễ "chạm ngõ" hay là lễ "dạm".
Trong
hôn nhân xưa chỉ chú trọng có môn đăng hộ đối hay không, có hợp tuổi
không, gia đình nào thận trọng mới tìm hiểu "công, dung, ngôn, hạnh".
Chẳng những các chàng trai, trước khi cưới nhiều chàng chưa biết mặt vợ,
mà cả những ông bố chồng là người chủ động đi hỏi dâu cũng không biết
mặt con dâu.
* Tục thách cưới
Thách
cưới là một lệ tục lạc hậu, trói buộc cả nhà trai lẫn nhà gái, có khi
làm cho chàng rể phải bỏ cuộc mà nỗi thiệt thòi lại rơi vào thân phận
người con gái, dẫu sao cũng mang tiếng một đời chồng, dẫu sao cũng làm
cho những chàng trai khác phải ngại xui nên thân phận hẩm hiu.
Ðáng
lẽ nên vợ nên chồng, thành gia thành thất, là mừng cho cả hai gia đình
nhưng gặp phải ông bác bà cô bên nhà gái khó tính, thách cưới nào là
quần áo, nón dép, nào nhẫn xuyến, hoa tai, tiền mặt, cỗ cưới... nên nhà
trai phải bỏ cuộc hoặc phải chạy ngược chạy xuôi, lo xong việc rồi kéo
cày trả nợ, song ngay từ buổi thành hôn, nghĩa vợ chồng, tình thông gia
đã bị sứt mẻ, đó là mầm mống gây nhiều bất trắc về sau.
Cũng
có trường hợp nhà gái túng thiếu không thể tự lực cung cấp cho đủ lệ
làng, đòi hỏi nhà trai phải lo chu toàn. Cũng có trường hợp bố mẹ cô dâu
còn phải xuất ra gấp năm gấp mười lần, và sau khi thành thân, còn cho
con gái, con rể nhiều thứ, nhưng cũng thách cưới cao để tránh tiếng xì
xào, đàm tiếu rằng con gái mình dở duyên rồi, nên phải cho không.
Hay
các gia đình có học thì lại không thách tiền, thách của mà thách chữ
nghĩa văn chương chọn rể con nhà gia thế, với hy vọng tương lai con gái
mình còn được "võng anh đi trước, võng nàng theo sau".
* Tiền "cheo"
Tiền
"cheo" là khoản tiền nhà trai nạp cho làng xã bên nhà gái. Trai gái
cùng làng xã lấy nhau cũng phải nộp cheo nhưng có giảm bớt. Xuất xứ của
lệ "nạp cheo" là tục "lan nhai" tức là tục chăng dây ở dọc đường hoặc ở
cổng làng. Ðầu tiên thì người ta tổ chức đón mừng hôn lễ, người ta chúc
tụng. Ðể đáp lễ, đoàn đưa dâu cũng đưa trầu cau ra mời, đưa quà, đưa
tiền biếu tặng. Dần dần có nhiều người lợi dụng vòi tiền, sách nhiễu,
trở thành lệ tục xấu, triều đình ra lệnh bãi bỏ. Thay thế vào đó, cho
phép làng xã được thu tiền cheo. Khi đã nộp cheo cho làng, tức là đám
cưới được công nhận có giấy biên nhận hẳn hoi. Ngày xưa, chưa có thủ tục
đăng ký kết hôn, thì tờ nạp cheo coi như tờ hôn thú. Khoản tiền cheo
này nhiều địa phương dùng cho việc công ích như đào giếng, đắp đường,
lát gạch, xây cổng làng... Ðã hơn nửa thế ký, lệ làng này bị bãi bỏ rồi.
* Thủ tục trước khi cô dâu về nhà chồng
Khi
nhà trai bắt đầu đến đón dâu cùng với chú rể đến trước bàn thờ xin tổ
tiên chấp nhận kể từ nay nên vợ nên chồng, phù hộ cho trăm năm duyên ưa
phận đẹp, cầm sắt giao hoà. Lễ xong, hai người đi mời chào thân nhân,
khách khứa, trước hết là những người bề trên, cao tuổi, khách trước,
người nhà sau. Trong khi chào mời, cô dâu phải giới thiệu cho chàng rể
biết mối quan hệ để biết cách xưng hô.
Sau
cùng, trước khi bước ra cửa để về nhà chồng là lễ tạ cha mẹ. Cha mẹ
ngồi sẵn một phía ở cửa chính, nếu ông bà nội ngoại còn thượng tại có
đến dự thì ông bà cũng ngồi chung một phía, nhưng ở phía cao hơn. Thời
xưa đôi tân hôn phải lạy hai lạy, ngày nay châm chước, cúi đầu cung kính
xin phép ông bà, cha mẹ. Lúc đó, cha mẹ ban phát cho con gái, con rể
một vật gì đó làm kỷ niệm.
* Ý nghĩa của lễ xin dâu và thủ tục
Lễ
này rất đơn giản, trước giờ đón dâu, nhà trai cử một hai người, thường
là bác, bà cô, bà chị của chú rể đưa một cơi trầu, một be rượu đến xin
dâu, báo trước giờ đoàn đón dâu sẽ đến, để nhà gái sẵn sàng đón tiếp.
Phong tục này có nhiều ý nghĩa hay: mặc dù hai gia đình đã quy ước với
nhau từ trước về ngày giờ và thành phần đón dâu, song để đề phòng mọi
bất trắc nên mới định ra lễ này để cẩn trọng trong hôn lễ. Thời gian này
chú rể và bố mẹ chú rể rất bận rộn nên không thể sang nhà gái, nên uỷ
thác cho người đại diện sang báo như bộ phận "tiền trạm".
Trong
trường hợp hai gia đình cách nhau quá xa hoặc quá gần, hai gia đình có
thể thoả thuận để miễn lễ nay, hoặc nhập lễ xin dâu và lễ đón dâu vào
làm một. Cách nhập lễ xin dâu và đón dâu tiến hành như sau:
Khi
đoàn vào đón dâu đến ngõ nhà gái, đoàn chỉnh đốn lại y trang, sắp xếp
lại thứ tự đi trước đi sau, trong khi đó một cụ già đi đầu cùng một
người đội lễ (mâm quả trong đựng trầu cau, rượu) vào trước, đặt lên bàn
thờ, thắp hương vái rồi trở ra dẫn đoàn vào chính thức làm lễ đón dâu.
Lễ này phải tiến hành rất nhanh. Thông thường nhà gái vái chào xong, chủ
động xin miễn lễ rồi một vị huynh trưởng cũng ra luôn để đón đoàn nhà
trai vào.
* Mẹ chồng làm gì khi con dâu bắt đầu về nhà?
Phong
tục ở mỗi địa phương một khác, trái ngược nhau nhưng đều có ý nghĩa
hay. Ví dụ như: ngày xưa ở nhiều địa phương Nghệ An, Hà Tĩnh có lệ tục
mẹ chồng ra cất nón cho con dâu. Nhà trai đặt sẵn trước ngõ một nồi
đồng, một cái gáo, trong nồi đặt sẵn một quan tiền đồng và đựng đầy nước
trong. Cô dâu vào đến cổng dùng gáo múc nước rửa mặt mũi chân tay, mẹ
chồng bước ra cất nón cho con dâu...
Sự tích tơ hồng
Tơ
hồng Nguyệt lão thiên tiên dựa theo tích Vi Cố gặp ông lão trong một
đêm trăng, ngồi kiểm soát hướng về phía mặt trăng, sau lưng có túi đựng
dây đỏ. Ông lão bảo đó là văn thư đựng hôn ước của thiên hạ, còn những
sợi dây đỏ để buộc chân những đôi trai gái sẽ thành vợ thành chồng. Một
hôm, Vi Cố vào chợ gặp một bà lão chột mắt bế một đứa bé gái, ông lão
hiện ra bảo cho biết đứa bé gái kia sẽ là vợ anh, Vi Cố giận, sai đầy tớ
tìm giết đứa bé ấy đi. Người đầy tớ đâm đứa bé giữa đám đông rồi bỏ
trốn. Muời bốn năm sau, quan Thứ Sử Trương Châu là Vương Thái gả con gái
cho Vi Cố. Người con gái dung sắc tươi đẹp, giữa lông mày có dính trang
điểm một bông mai vàng. Vương Cố gạn hỏi, vợ mới thưa: thuở còn bé, bà
vú bế vào chợ bị một đứa cuồng tặc đâm. Vi Cố hỏi lại: có phải bà vú bị
chột mắt không? Người vợ bảo: đúng thế. Vi Cố kể lại việc trước, hai vợ
chồng càng quý trọng nhau cho là duyên trời đã định sẵn.
Tục cưới hỏi của một số dân tộc
|
Tục cưới hỏi ở Việt Nam rất phong phú và đa dạng. Đặc biệt hơn cả là tục cưới hỏi của đồng bào Ê Đê và La Hủ... |
Tục cưới hỏi của đồng bào Ê Đê
Mùa
xuân, có dịp lên vùng cao thăm đồng bào Ê Ðê, bạn sẽ cảm nhận được
nhiều điều thú vị. Ví như "lệ" cưới hỏi của trai gái thuộc dân tộc này.
Người
Ê Ðê có một cách làm đẹp riêng. Trai gái đến tuổi trăng rằm - 15, 16
tuổi - phải cà 6 chiếc răng cửa của hàm trên. Ðây là tục lệ bắt buộc,
không bạn trẻ nào có thể chối từ. Một chiếc vòng tay được xem như "giấy
chứng nhận", trao cho bạn trẻ vừa cà răng xong, và từ đó họ có quyền tự
do "tìm hiểu".
Dân
tộc này có tục ở rể. Các cô gái phải tự đi kiếm chồng và chịu phí tổn
toàn bộ tiền cưới. Một cô gái đã "nhằm" một chàng trao nào đó, thì nhờ
ông "mối" đem chiếc vòng đồng sang nhà trai để hỏi chồng. Chàng trai
thấy "ưng bụng" thì sờ tay vào chiếc vòng đồng ấy, rồi làm lễ nhận vòng.
Vậy là, sự "ràng buộc" giữa hai nhà đã có sợi dây thân thiết. Ðể tìm
hiểu cô dâu được kỹ càng, nhà trai có thể "đem" cô gái về ở nhà mình.
Tổ
chức lễ cưới ở họ nhà gái. Tất nhiên phải có lợn và rượu. Con lợn được
mổ để lấy máu thoa vào chân cô dâu, chú rể, rồi cúng tổ tiên cầu cho hai
trẻ được sống hạnh phúc. Tiếp đó, ông "mối" xúc cho cô, cậu mỗi người
hai miếng cơm và ba chén rượu. Tất cả mọi người có mặt đều ăn một miếng
thịt và một miếng ruột lợn. Ông trưởng họ cầm chiếc vòng đồng, cô dâu,
chú rể sờ tay vào chiếc vòng đó, "tiết mục" này kết thúc lễ cưới.
Sau
ba ngày, đôi bạn trẻ về nhà chồng lấy các thứ tư trang, dụng cụ sản
xuất về nhà gái, để vợ chồng cùng làm ăn. Người Ê Ðê coi ngoại tình là
một tội nặng, vì sự việc không đẹp này gây nên mùa màng bị thất thu cho
cả buôn làng. Bởi vậy, kẻ ngoại tình phải phạt một con lợn trắng, hai
cái bát đồng, để làm lễ tế đất. Tế xong, bắt hai người trích máu ở đầu
ngón tay để uống, rồi xuống suối tắm cho sạch.
Tục lệ cưới xin của dân tộc La Hủ
Mời
bạn lên vùng cao phía Bắc, thăm bà con dân tộc La Hủ thuộc tỉnh Lai
Châu. Tục lệ cưới xin ở đây có nét đẹp riêng. Tháng 11, 12 hàng năm - là
dịp tết của người La Hủ - cũng là mùa cưới của các đôi trai gái yêu
nhau. Chàng trai tìm hiểu cô gái, đã tới độ "chín muồi", anh có thể tới
nhà cô gái ngủ một vài tối. Tục lệ cho phép anh, chị có thể ngủ chung
giường.
Lễ
na-nhí, tức lễ dạm hỏi như vùng xuôi, thường vào buổi tối. Ông "mối"
cùng bố mẹ và anh em nhà trai sang nhà gái để "có lời". Lễ vật là rượu
và một thứ "quà quý" của rừng - ("quà quý" này nhất thiết phải có thịt
sóc rừng). Qua trò chuyện, nhà gái thấy bằng lòng thì hai bên cùng uống
rượu, nhắm thịt sóc.
Sau
lễ dạm là lễ hỏi, hai lễ này cách nhau khoảng bảy, tám ngày. Theo tục
lệ, lễ hỏi gồm hai chai rượu và số con sóc phải là số chẵn chứ không
được số lẻ, chừng 6 đến 8 con. Nhà trai phải "tuân theo" số lượng con
sóc của nhà gái: 6 hoặc 8 con, vì theo lệ từ xưa, số sóc không được ít
hơn 4 nhưng cũng không được nhiều hơn 8. Người làm mối trong lễ hỏi còn
là người "đầu bếp", tự tay làm thịt sóc, trình bày các món ăn này sao
cho ngon để mời nhà gái.
Trong
khi ăn uống vui vẻ hai bên trao đổi về tiền cưới và thời gian ở rể.
Ngày xưa, tiền cưới khá "nặng túi": những 70 đến 80 đồng bạc trắng.
Trường hợp nhà rể nghèo, không có bạc trắng, thì anh phải ở lại làm rể
ngay tối hôm đó. Thời gian ở rể bây giờ rút xuống còn từ 2 đến 4 năm,
thời trước từ 8 đến 12 năm.
Nếu
lễ ăn hỏi có số con sóc phải chẵn, thì lễ cưới quy định: đoàn đi đón
dâu phải là số lẻ, trong đó có hai ông "mối" và chàng rể. Khi nhà trai
đón dâu đi, ông "mối" trao tiền cưới cho nhà gái. Trên đường đi, dù có
nhớ bố mẹ, cô dâu cũng không được ngoảnh lại nhìn ngôi nhà cô sinh ra và
lớn lên, vì nếu vấp ngã, e sau này vợ chồng có chuyện cãi cọ không hay.
Rước
dâu về đến nhà, bà mẹ chồng đã đứng đợi ở cửa. Bà lấy một nắm gạo xoa
lên lưng con dâu, ngụ ý "xóa hết cỏ để con dâu không mang cỏ về, trên
nương sẽ không có nhiều cỏ mọc". Lại còn tục lệ: bà mẹ chồng trồng hai
cây riềng ở hai bên cửa vào nhà, rồi buộc sợi chỉ trắng qua hai cây
riềng. Lúc vào nhà, cô dâu đi phía tay trái, chú rể đi phía tay phải,
rồi chú rể dùng tay trái, cô dâu dùng tay phải "cắt" đứt sợi chỉ đó,
bước vào nhà. Xong thủ tục này hai họ cùng nâng chén chúc những câu tốt
lành và ăn uống vui vẻ.
Tang lễ
|
Người Việt Nam quan niệm rằng "nghĩa tử là nghĩa tận" nên khi có người chết, tang lễ được tổ chức trọng thể. |
Trình
tự lễ tang ngày trước như sau: người chết được tắm rửa sạch sẽ, thay
quần áo tươm tất, rồi lấy một chiếc đũa đặt giữa hai hàm răng, bỏ vào
miệng một dúm gạo và ba đồng tiền xu gọi là lễ ngậm hàm. Sau đó đặt người chết nằm xuống chiếu trải sẵn dưới đất (theo quan niệm "từ đất sinh ra lại trở về với đât"). Tiếp đó là lễ khâm liệm (liệm bằng vải trắng) và lễ nhập quan (đua thi hài vào quan tài). Sau khi nhập quan là lễ thành phục,
chính thức phát tang. Con trai, con gái và con dâu của người quá cố,
đội khăn sô, mũ chuối (hoặc mũ tết bằng rơm), mặc áo sô. Cháu chắt họ
hàng, thân thích chít khăn để tang. Những ngày quàn người chết trong nhà
đều phải cúng cơm sớm, chiều. Phường nhạc cử nhạc ai, bà con, bạn bè,
làng xóm đến viếng. Sau khi chọn được ngày, giờ tốt làm lễ đưa tang.
Đám tang có câu đối, linh sàng, nhà táng (nơi đặt linh cữu). Người đưa
tang đi sau linh cữu, dọc đường có rắc vàng thoi (bằng giấy). Đến huyệt
làm lễ hạ huyệt và đắp mộ. Chôn cất xong về nhà làm lễ tế.
Ba ngày sau tang chủ làm lễ viếng mộ (lễ mở cửa mả), được 49 ngày làm lễ chung thất (thôi cúng cơm cho người chết). Sau 100 ngày làm lễ tốt khốc (thôi khóc). Sau mộ năm làm lễ giỗ đầu, sau ba năm (ở nhiều nơi là hai năm) làm lễ hết tang.
Ngày nay, lễ tang được tổ chức theo nghi thức đơn giản hơn: lễ khâm liệm, lễ nhập quan, lễ viếng, lễ đưa tang, lễ hạ huyệt và lễ viếng mộ. Người trong gia đình để tang bằng cách chít khăn trắng hoặc đeo băng tang đen.
Ba ngày sau tang chủ làm lễ viếng mộ (lễ mở cửa mả), được 49 ngày làm lễ chung thất (thôi cúng cơm cho người chết). Sau 100 ngày làm lễ tốt khốc (thôi khóc). Sau mộ năm làm lễ giỗ đầu, sau ba năm (ở nhiều nơi là hai năm) làm lễ hết tang.
Ngày nay, lễ tang được tổ chức theo nghi thức đơn giản hơn: lễ khâm liệm, lễ nhập quan, lễ viếng, lễ đưa tang, lễ hạ huyệt và lễ viếng mộ. Người trong gia đình để tang bằng cách chít khăn trắng hoặc đeo băng tang đen.
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét