Thứ Bảy, 23 tháng 8, 2014

ĐỊA LINH NHÂN KIỆT 12 (Lý Bí)

(ĐC sưu tầm trên NET)

Lý Nam Đế

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Lý Nam Đế (chữ Hán: 李南帝; 503548) là vị hoàng đế sáng lập nhà Tiền Lý và khai sinh nhà nước Vạn Xuân trong lịch sử Việt Nam. Ông tên thật là Lý Bí (李賁), còn gọi là Lý Bôn, người làng Thái Bình, phủ Long Hưng, Việt Nam (khoảng Thạch Thất và thị xã Sơn Tây, Hà Nội). Tuy nhiên, theo nhận định gần đây, quê gốc của Lý Nam Đế thuộc địa bàn tỉnh Thái Nguyên ngày nay.
Lý Nam Đế có tài văn võ. Ông đã lãnh đạo nhân dân khởi nghĩa, đánh đuổi được quân đô hộ, rồi xưng là Nam Đế (vua nước Nam), đặt tên nước là Vạn Xuân, đóng đô ở vùng cửa sông Tô Lịch (Hà Nội)

Quê hương

Nhiều sách sử cho biết tổ tiên của Lý Nam Đế là người Trung Quốc thuộc tộc Bách Việt, vào cuối thời Tây Hán thì tránh sang ở Việt Nam (lúc đó đang là thuộc địa của Trung Quốc) để trốn nạn binh đao. Qua 7 đời, đến đời Lý Bí thì dòng họ Lý đã ở Việt Nam được hơn 5 thế kỷ. Chính sử Trung Quốc đều coi Lý Bí là "Giao Châu thổ nhân".
Theo sách Văn minh Đại Việt của Nguyễn Duy Hinh căn cứ các thần phả thì Lý Bí không phải là thế hệ thứ 7 mà là thế hệ thứ 11 của họ Lý từ khi sang Việt Nam. Khoảng cách 11 thế hệ trong 5 thế kỷ hợp lý hơn là 7 thế hệ trong 5 thế kỷ. Theo đó, đời thứ 7 là Lý Hàm lấy bà Ma thị là người Việt, sinh ra Lý Thanh. Lý Thanh phục vụ dưới quyền thứ sử Giao châu là Đàn Hòa Chi nhà Lưu Tống thời Nam Bắc Triều (Trung Quốc). Lý Thanh sinh ra Lý Hoa, Lý Hoa sinh ra Lý Cạnh. Lý Cạnh sinh ra Lý Thiên Bảo và Lý Bí. Nguồn tài liệu khác cho biết vợ Lý Cạnh là Phí thị, ngoài Lý Thiên Bảo và Lý Bí còn sinh ra Lý Xuân và Lý Hùng.
Về quê hương Lý Bí, các nguồn tài liệu ghi khác nhau. Đại Việt sử ký toàn thưLịch triều hiến chương loại chí ghi ông là người Thái Bình, phủ Long Hưng. Theo Khâm định Việt sử thông giám cương mục: "tên Thái Bình đặt từ thời Đường (618-907), còn Long Hưng đặt từ thời Trần (1225-1400)", như vậy gọi Thái Bình và Long Hưng là gọi theo tên sau này đặt. Các sử gia nhà Nguyễn xác định Long Hưng thuộc Thái Bình và cho rằng quê Lý Bí thuộc Thái Bình. Việt Nam Sử Lược ghi rằng phủ Long Hưng thuộc tỉnh Sơn Tây (cũ). Các nhà nghiên cứu hiện nay chỉ ra rằng: thời Bắc thuộc, tỉnh Thái Bình hiện nay vẫn là biển. Tên gọi Thái Bình thời Bắc thuộc nằm trong khoảng vùng Sơn Tây. Tại khu vực này có nhiều đền thờ Lý Bí và những người gắn bó với ông như Triệu Túc, Phạm Tu, Lý Phật Tử.
Nhân kỷ niệm 1.470 năm (542 - 2012) ngày cuộc khởi nghĩa Lý Bí bùng nổ, ngày 6/10 tại Hà Nội, Hội Khoa học lịch sử Việt Nam và UBND tỉnh Thái Nguyên tổ chức Hội thảo khoa học "Một số vấn đề về Vương triều Tiền Lý và quê hương của vua Lý Nam Đế" với sự tham dự của đông đảo các nhà sử học, nhà khoa học và nhân dân địa phương (Hà Nội, Thái Nguyên, Phú Thọ,...). Dựa trên cơ sở tư liệu điền dã thực địa ở các vùng: xã Tiên Phong - huyện Phổ Yên và huyện Thái Thụy, kết hợp với thần tích, truyền thuyết… còn lưu giữ tại các xã Giang Xá, Lưu Xá (huyện Hoài Đức), 27 tham luận tại hội thảo đưa ra kết luận vua Lý Nam Đế có quê gốc ở thôn Cổ Pháp, xã Tiên Phong, huyện Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên.
Về kinh đô của nước Vạn Xuân: "Lý Nam Đế có tài văn võ. Ông đã lãnh đạo nhân dân khởi nghĩa, đánh đuổi được quân đô hộ, rồi xưng là Nam Đế (vua nước Nam), đặt tên nước là Vạn Xuân, đóng đô ở Long Biên. Về Thành Long Biên: Thành Long Biên toạ lạc tại xã Hoà Long huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh, nay là xã Hoà Long. thành phố Bắc Ninh.(Sách Dư địa chí Bắc Ninh). Hiện nay tại xã Hoà Long, thành phố Bắc Ninh còn rất rõ dấu tích một dạng thành cổ. Thành cổ nằm sát đê sông Cầu, có dạng hình tròn, thành nội là một ốc đảo dạng hình tròn có diện tích khoảng 50ha; hào nước bao quanh chỗ rộng nhất đến 147m, chỗ hẹp nhất cũng hơn 100m,chu vi ngoài của hào nước dài 3340m, ngoài hào nước có đường bao quanh dài 3865m. Tổng diện tích khu vực này là 112,5 ha.

Tuổi thơ

Lý Bí sinh ngày 12 tháng 9 năm Quý Mùi (17-10-503). Từ nhỏ, Lý Bí đã tỏ ra là một cậu bé thông minh, sớm hiểu biết. Khi Lý Bí 5 tuổi thì cha mất; 7 tuổi thì mẹ qua đời. Ông đến ở với chú ruột. Một hôm, có một vị Pháp tổ thiền sư đi ngang qua, trông thấy Lý Bí khôi ngô, tuấn tú liền xin Lý Bí đem về chùa nuôi dạy. Sau hơn 10 năm rèn sách chuyên cần, Lý Bí trở thành người học rộng, hiểu sâu. Nhờ có tài văn võ kiêm toàn, Lý Bí được tôn lên làm thủ lĩnh địa phương.
Lý Bí có tài, được Thứ sử Tiêu Tư nhà Lương mời ra làm chức Giám quân ở Đức châu (huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh ngày nay).
Thứ sử Giao Châu là Vũ Lâm hầu Tiêu Tư hà khắc tàn bạo nên mất lòng người. Do bất bình với các quan lại đô hộ tàn ác, Lý Bí bỏ quan, về quê, chiêu binh mãi mã chống lại chính quyền đô hộ.

Đánh đuổi quân Lương và Lâm Ấp

Khởi nghĩa đuổi Tiêu Tư

Được nhiều người hưởng ứng, lực lượng của Lý Bí lớn mạnh. Tù trưởng ở Chu Diên (Hải Dương) là Triệu Túc cùng con là Triệu Quang Phục phục tài đức của ông nên đã đem quân nhập với đạo quân của ông. Tinh Thiều, một người giỏi từ chương, từng đến kinh đô nhà Lương xin được chọn làm quan, nhưng chỉ cho chức "gác cổng thành", nên bỏ về Giao Châu theo Lý Bí. Ngoài ra trong lực lượng của Lý Bí còn có một võ tướng là Phạm Tu đã ngoài 60 tuổi. Thần phả còn ghi nhận thêm các tướng theo giúp Lý Bí là Trịnh Đô, Lý Công Tuấn.
Lý Bí liên kết với các châu lân cận cùng chống lại Tiêu Tư. Cuối năm 541, Lý Bí chính thức khởi binh chống nhà Lương, khí thế rất mạnh. Theo sách Lương thư của Trung Quốc, Tiêu Tư liệu thế không chống nổi quân Lý Bí, phải sai người mang của cải đến đút lót cho Lý Bí để được tha chạy thoát về Quảng châu. Quân của Lý Bí đánh chiếm lấy thành Long Biên.
Tuy Tiêu Tư đã bỏ chạy nhưng Lý Bí mới kiểm soát được vùng Bắc Bộ Việt Nam hiện nay, các châu phía nam vẫn trong tay nhà Lương. Tháng 4 năm 542, Lương Vũ Đế sai Thứ sử Việt châu là Trần Hầu, thứ sử La châu là Ninh Cự, thứ sử An châu là Úy Trí, thứ sử Ái châu là Nguyễn Hán cũng hợp binh đánh Lý Bí. Nhưng Lý Bí đã chủ động ra quân đánh trước, phá tan lực lượng quân Lương ở phía nam, làm chủ toàn bộ Giao châu.

Đánh lui cuộc phản công của nhà Lương

Cuối năm 542, Lương Vũ Đế (Vua Ác) lại sai thứ sử Giao châu là Tôn Quýnh, thứ sử Tân châu là Lư Tử Hùng sang đàn áp. Tôn Quýnh và Lư Tử Hùng sợ thế mạnh của Lý Bí nên không dám tiến quân, xin khất tới mùa thu năm sau. Thứ sử Quảng Châu là Hoán (theo Trần thư là Tiêu Ánh) không cho, Tiêu Tư cũng thúc giục, nên Quýnh và Hùng buộc phải tiến quân.
Được tin quân Lương lại tiến sang, Lý Bí chủ động mang quân ra bán đảo Hợp Phố đón đánh. Tôn Quýnh và Lư Tử Hùng đi đến Hợp Phố, bị quân Lý Bí đánh bại, 10 phần chết đến 6-7 phần, quân tan rã.
Chiến thắng này giúp Lý Bí kiểm soát toàn bộ Giao châu, tức là miền Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ Việt Nam, cộng thêm quận Hợp Phố thuộc Quảng Đông, Trung Quốc hiện nay.

Đánh đuổi Lâm Ấp

Trong khi Lý Bí bận đối phó với nhà Lương ở phía Bắc thì tại phía nam, vua Lâm Ấp định nhòm ngó Giao châu.
Biên giới giữa Giao châu và Lâm Ấp lúc đó là dãy Hoành Sơn. Tháng 5 năm 543, vua Lâm Ấp mang quân xâm chiếm quận Nhật Nam và tiến đến quận Cửu Đức. Lý Nam Đế sai Phạm Tu cầm quân vào nam đánh Lâm Ấp.
Sử sách không mô tả rõ diễn biến trận đánh này, chỉ ghi sơ lược: Phạm Tu tiến quân vào Nam đánh tan quân Lâm Ấp ở Cửu Đức khiến vua Lâm Ấp phải bỏ chạy.
Có ý kiến cho rằng người đi đánh Lâm Ấp là Lý Phục Man chứ không phải Phạm Tu và đây là 2 vị tướng khác nhau; lại có ý kiến cho rằng chính Phạm Tu là Lý Phục Man, vì có công đánh Lâm Ấp mà được ban họ Lý, đổi tên Phục Man (chinh phục người Man).

Dựng nước Vạn Xuân

Năm 544, tháng giêng, ông tự xưng là Nam Việt Đế, lên ngôi, đặt niên hiệu là Thiên Đức (đức trời), lập trăm quan, đặt tên nước là Vạn Xuân thể hiện mong muốn rằng xã tắc truyền đến muôn đời. Đóng đô ở vùng cửa sông Tô Lịch (Hà Nội). Dựng điện Vạn Thọ làm nơi triều hội. Thành lập triều đình với hai ban văn, võ. Lấy Triệu Túc làm thái phó, Tinh Thiều đứng đầu ban văn, Phạm Tu đứng đầu ban võ.

Chạy về động Khuất Lão

Năm 545, tháng 6, nhà Lương cho Dương Phiêu (Thiệu hay Phiêu) làm thứ sử Giao Châu, Trần Bá Tiên làm tư mã, đem quân xâm lấn, lại sai thứ sử Định Châu là Tiêu Bột hội với Phiêu ở Giang Tây.
Trần Bá Tiên đem quân đi trước. Khi quân của Bá Tiên đến Giao Châu, Lý Nam Đế đem 3 vạn quân ra chống cự, bị thua ở Chu Diên, lại thua ở cửa sông Tô Lịch, tướng Tinh Thiều tử trận. Ông chạy về thành Gia Ninh (xã Gia Ninh, huyện Vĩnh Lạc tỉnh Vĩnh Phúc cũ ngày nay thuộc xã Thanh Đình, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ.). Quân Lương đuổi theo vây đánh.
Tháng giêng năm 546, Trần Bá Tiên đánh lấy được thành Gia Ninh, tướng Phạm Tu tử trận. Lý Nam Đế chạy vào đất người Lạo ở Tân Xương. Quân Lương đóng ở cửa sông Gia Ninh.
Sau một thời gian tập hợp và củng cố lực lượng, tháng 8, ông đem 2 vạn quân từ trong đất Lạo ra đóng ở hồ Điển Triệt (xã Tứ Yên, huyện Lập Thạch, tỉnh Phú Thọ), đóng nhiều thuyền đậu chật cả mặt hồ. Quân Lương sợ, cứ đóng lại ở cửa hồ không dám tiến vào. Đêm hôm ấy nước sông lên mạnh, dâng cao 7 thước, tràn đổ vào hồ. Trần Bá Tiên nhân đó đem quân theo dòng nước tiến trước vào. Quân Vạn Xuân không phòng bị, vì thế tan vỡ.
Lý Nam Đế phải lui giữ ở trong động Khuất Lạo, ông ủy cho con thái phó Triệu Túc là tả tướng là Triệu Quang Phục giữ việc nước, điều quân đi đánh Bá Tiên.

Qua đời

Năm 548, ngày 20 (ngày Tân Hợi) tháng 3 (tức ngày 13-4 dương lịch), Lý Nam Đế ở động Khuất Lạo lâu ngày bị nhiễm lam chướng, ốm qua đời. Ông ở ngôi được 5 năm (543-548), thọ 46 tuổi.
Theo sách "Việt Nam văn minh sử cương" của Lê Văn Siêu dẫn một số nguồn tài liệu cổ, Lý Nam Đế ở lâu ngày trong động, vì nhiễm lam chướng nên bị mù hai mắt. Vì vậy đời sau đến ngày giỗ thường phải xướng tên các đồ lễ để vua nghe thấy. Lại cũng theo tài liệu này, có thuyết cho rằng không phải Lý Nam Đế ốm chết mà vua bị người Lạo làm phản giết hại. Tướng Lý Phục Man cũng mất theo vua vì nạn này

Hoàng hậu

Theo thần tích cổ, Lý Nam Đế có người vợ là Hứa Trinh Hòa, con ông Hứa Minh và bà Bùi Thị Quyền người làng Đông Mai, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh. Bà được Lý Nam Đế lập làm hoàng hậu. Bà đã cùng chồng chinh chiến ngoài mặt trận và bị tử trận do thuyền đắm tại hồ Điển Triệt cuối năm 546. Sau này bà được Triệu Việt Vương lập đền thờ tại quê nhà

Bình luận

Theo sử gia Lê Văn Hưu:
Binh pháp có câu: "Ba vạn quân đều sức, thiên hạ không ai địch nổi". Nay Lý Bí có 5 vạn quân mà không giữ được nước, thế thì Bí kém tài làm tướng chăng? Hay là quân lính mới họp không thể đánh được chăng? Lý Bí cũng là bậc tướng trung tài, ra trận chế ngự quân địch giành phần thắng không phải là không làm được, nhưng bị hai lần thua rồi chết, bởi không may gặp phải Trần Bá Tiên là kẻ giỏi dùng binh vậy.
Theo sử gia Ngô Sĩ Liên:
Tiền Lý Nam Đế dấy binh trừ bạo, đáng là thuận đạo trời, thế mà cuối cùng đến nỗi bại vong, là vì trời chưa muốn cho nước ta được bình trị chăng? Than ôi! Không chỉ vì gặp phải Bá Tiên là kẻ giỏi dùng binh, mà còn gặp lúc nước sông đột ngột dâng lên trợ thế cho giặc, há chẳng phải cũng do trời hay sao?
Khâm định Việt sử thông giám cương mục nhận xét:
Nam Đế nhà Lý dù không địch nổi quân Lương, việc lớn tuy không thành nhưng đã biết nhân thời cơ mà vùng dậy, tự làm chủ nước mình, đủ để tạo thanh thế và mở đường cho nhà Đinh, nhà Lý sau này. Việc làm của Lý Nam Đế há chẳng phải là hay lắm đó sao!
Trang này được sửa đổi lần cuối lúc 08:18, ngày 22 tháng 6 năm 2014.
20 năm đi tìm quê hương của Vua Lý Nam Đế
Cập nhật ngày: 13/04/2013 16:38
Trong lịch sử lâu dài, gian khổ, song cũng đầy vinh quang của nước ta. Quê hương những vị anh hùng của dân tộc qua các thời kỳ, đều được sử sách ghi lại đầy đủ. Riêng vị vua đầu tiên của nước ta - Lý Nam Đế (Lý Bí) người đã lập ra nước Vạn Xuân cách đây 15 thế kỷ cho đến gần đây vẫn chưa xác định được quê hương của Người ở đâu. Đó là điều khiến nhà giáo Nguyễn Hữu Khánh băn khoăn, trăn trở suốt trên 30 năm dạy học của ông. Vốn là thầy giáo dạy lịch sử, mỗi khi lên lớp, nhắc đến Lý Nam Đế, điều băn khoăn ấy lại làm ông day dứt. Ông luôn tự hỏi: Quê hương của Lý Nam Đế ở đâu?
Nghỉ hưu năm 1989, điều băn khoăn ấy càng thôi thúc ông. Ông bắt đầu con đường đi tìm quê hương của Lý Nam Đế. Bước đi đầu tiên của ông là “mò mẫm” trong các sách lịch sử cổ thời Lý, thời Trần, thời Lê… Kể cả sách cổ của Trung Quốc dịch sang tiếng Việt.

Qua nhiều lần khảo sát, tìm hiểu ông thấy trên mảnh đất Phổ Yên có nhiều di tích, địa danh, nhiều sử liệu truyền ngôn liên quan đến Lý Bí như: chùa Hương Ấp (Cổ Pháp, Tiên Phong), tương truyền là nơi xa xưa “chú Tiểu” Lý Bí sinh sống học tập, Đền Mục thờ Lý Nam Đế, thôn Thái Bình (xã Đồng Tiến) có ngôi đình thờ Lý Thành Hoàng, cánh đồng Tráng nơi Lý Nam Đế chiêu mộ thanh niên trai tráng để tuyển quân chuẩn bị cho khởi nghĩa, gò Đống, gò Nghiên, “bãi Quần Ngựa” là nơi Lý Nam Đế luyện binh, đồi Cao Vương (Khao Vương) tương truyền là nơi Lý Nam Đế khao quân khi đánh giặc trở về…

Từ những cứ liệu đó, ông cho rằng: Quê hương của Lý Nam Đế thuộc làng Thái Bình, Châu Dã Năng, thuộc xứ Kinh Bắc ngày xưa là đúng. Nhưng để biết được làng Thái Bình, châu Dã Năng cách đây 15 thế kỷ, thuộc địa danh nào ngày nay, một câu trả lời không hề dễ, không khác gì mò kim đáy biển.

Khi đọc đến một tài liệu nói con sông Công chảy qua huyện Phổ Yên ngày nay là sông Dã ngày xưa ông đã liên tưởng đến châu Dã Năng. Tìm hiểu rộng ra ông thấy trên mảnh đất Phổ Yên và một số địa phương giáp Phổ Yên có nhiều địa danh mang tên Dã và tên Năng như: Dã Thù, Dã Phú, Dã Trung (thuộc xã Tiên Phong), ở xã Phúc Thuận có Trung Năng Thượng, Trung Năng Hạ, Tổng Thượng Dã nay thuộc xã Thuận Thành.Huyện Phú Bình có Bắc Năng. Tổng Hạ Dã (nay là thôn Hạ Dã, xã Hồng Kỳ, Sóc Sơn , Hà Nội)… Từ những căn cứ trên ông nhận định: Phổ Yên ngày nay và một số địa danh giáp huyện Phổ Yên nói trên thuộc Châu Dã Năng ngày xưa. Về làng Thái Bình: qua nghiên cứu ông biết chữ Hương là chữ Làng .Trước năm 1954, Phổ Yên có nhiều ấp có chữ “Bình”: ấp Thái Bình, ấp An Bình, ấp Thanh Bình (xã Đồng Tiến), Bình Tiến (xã Tiên Phong)… Sau 1954 các ấp mới đổi tên là thôn.

Từ những kết quả nghiên cứu trên, ông cho rằng: những địa danh trên có làng Thái Bình ngày xưa. Cùng thời gian nghiên cứu với ông, một số nhà sử học thuộc Viện Sử học và Hội Lịch sử Việt Nam cũng cho rằng: Làng Thái Bình thuộc Châu Dã Năng ngày xưa là quê hương của Lý Nam Đế. Điều đó càng động viên ông tiếp tục trên con đường vô cùng gian khó của mình.

Để có những căn cứ kết luận, ông phải mất rất nhiều thời gian đi sưu tầm chỉ bằng chiếc xe đạp cũ đã dùng mấy chục năm. Con đường ông đi nếu cộng lại dài hàng nghìn cây số. Cứ nghe ở đâu có thông tin liên quan đến Lý Bí là ông lại đến, mặc trời nắng, mưa, giá rét để đến tìm hiểu các vùng đó.

Bài báo đầu tiên ông nghiên cứu về quê hương Lý Nam Đế là “Tìm hiểu thêm về Châu Dã Năng và ấp Thái Bình thời Lý Bí” được ông công bố trên tạp chí Nghiên cứu của Viện Sử học (số VI-1997). Tiếp sau đó ông cho công bố các bài: “Ấp Thái Bình thời Lý Bí trên đất Phổ Yên”; “Lý Bí và ấp Thái Bình, chùa Hương Ấp”…Cho đến năm 2012 ông đã công bố 8 bài nghiên cứu về quê hương Lý Bí. Các bài viết đều có những cứ liệu cụ thể, chứng minh quê hương của Lý Bí thuộc đất  Phổ Yên ngày nay. Khi ông công bố những bài viết, có nhiều ý kiến đồng thuận với ông, nhưng cũng có những ý kiến phản bác. Ông gửi một số bài viết cho những giáo sư, nhà nghiên cứu thuộc Viện Sử học, Hội Lịch sử Việt Nam và đã nhận được sự ủng hộ tích cực. Một số nhà nghiên cứu lịch sử đã về trực tiếp nghiên cứu các di tích liên quan đến Lý Bí trên đất Phổ Yên đều thống nhất ý kiến của ông.

Đầu năm 2012, Ban Thường vụ Huyện ủy Phổ Yên đã thành lập Ban Chỉ đạo, tổ công tác nghiên cứu, tìm hiểu, làm rõ thân thế sự nghiệp của Vua Lý Nam Đế trên đất Phổ Yên. Được sự cộng tác, phối hợp giúp đỡ của Hội khoa học Lịch sử Việt Nam, Viện Sử học cùng Thường vụ Huyện ủy và đại diện một số cơ quan chức năng của Huyện đã tiến hành một số lần điền dã về những địa phương Hà Tây, Phú Thọ, Hưng Yên, Thái Bình…nhằm xác minh thu thập tài liệu liên quan đến quê hương của Lý Nam Đế.

Tháng 10/2012, tại Hà Nội UBND tỉnh Thái Nguyên, Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, UBND huyện Phổ Yên đã tổ chức Hội thảo “Một số vấn đề về Vương triều tiền Lý và quê hương của Vua Lý Nam Đế”. Trong Hội thảo này, những tham luận về quê hương của Lý Nam Đế đều nhận định thôn Cổ Pháp, xã Tiên Phong, huyện Phổ Yên ngày nay là  quê hương của Vua Lý Nam Đế.



  • Phan Thức (Phổ Yên)
  • ( http://baothainguyen.org.vn)

    Không có nhận xét nào:

    Đăng nhận xét