Thứ Sáu, 18 tháng 1, 2013

THƠ VỀ ĐĨ ĐIẾM

 1- MẠT HẠNG

            Con ơi nhớ lấy câu này
           Cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan.

                                                      Ca dao


Mãi lộ hầu nịnh các quan
Tiệc xong nổi hứng trong quần thèm sương
Gặp cô gái điếm đứng đường
Hỏi dò giá cả, phòng, giường ra sao
Ỡm ờ hét giá làm cao
Bĩu môi chê ỏng chê eo hoa tàn
Rớt tòm bèo bọt giá sàn
Vẫn đòi dìm xuống giá còn như không...

Lạ thay, mạt hạng cũng khùng:
"Mi là cục cứt chứ ông, ngài gì!
Điếm đàng thơm vạn lần mi.
Cút đi!"


Ghép ảnh động sao biển mặt thộn nào

2- LỜI ĐĨ

Em là đĩ rạc anh ơi
Nhào vô, bỏ chút tiền chơi thả giàn
Cho dù là lính hay quan
Cũng đồng một giá tầm phàm mà thôi!

Em đây, gái đẹp anh ơi
Giá lên một tý nhưng xơi đáng tiền
Cao nhân, chính khách cũng thèm
Xực xong, liếm mép, còn lền mỡ môi!

Em hiên ngang giữa loài người
Ngàn năm dè bỉu, ngàn đời cưu mang
Cấm thì cấm khắp thế gian
Ngoạm thì ngoạm hết mà làm như không!...

Tếu thay cái lũ anh hùng!!!


 



3- BUỒN CẢNH, NHỚ NGƯỜI

Chiều nay uống rượu với mưa
Ba bề gió tạt ướt tê sũng lòng
Bên đường dào dạt, mịt mùng
Quán như trôi giữa bão bùng đại dương

Thấy người con gái mà thương
Tóc tai bê bết, phấn hương nhạt nhòa
Cảnh buồn nhói nhớ chuyện xưa
Một chiều giông tố bên bờ sông sâu...

Nguyệt ơi, giờ đã về đâu
Chồng chưa hay vẫn dãi dầu lầu xanh
Ở quê hay ở thị thành
Tấm thân thương tổn đã lành lặn chưa?!...

Emma Watson


4- ĐÊM NẮNG

Ánh chớp lóa lên, từ đâu chắc rất gần
Bầu trời đêm ngầu lên sắc đỏ
Sà xuống thấp, nóng hầm thành phố
Hàng cây nín thở ngước lên...

Em đứng riêng mình
Cười tình chờ gió
Lờ nhờ ánh đèn, lặng thinh xó phố
Bên dòng đời đang vội vã trú mưa

Ánh chớp rất gần nhưng tiếng sấm còn xa
Đêm nay mưa không mà trời sầu đỏ?
Thiên hạ đã về sao em nán đó
Nhễ nhại chào mời,
                             ơi gái lều xanh?

Khuya lắc khuya lơ, giấc ngủ ru quanh
Khách làng chơi chẳng còn ai lai vãng
Về đi em, thức chi cùng đêm nắng
Phấn son tàn, héo úa cả ngày mai!

Tiếng sấm gầm, trầm đục, rền dài
Mây đã nực nồng quyện đầy mưa gió
Ào ạt mau đi cho phố phường gột rửa
Cuốn em trôi về cửa bể đó...
                                         trong xanh!

Cho em có con với trái tim lành
Có sáng xa khơi nhớ thương, trông ngóng
Có chiều thuyền về tưng bừng gió lộng
Cho dù còn nghèo, bữa cháo bữa cơm
Nhưng không còn phải nhễ nhại phấn son,
Những đêm chang chang,
                                          mòn mỏi,
                                                      tủi hờn...

***

Chớp bể chói lòa,
                    sấm rầm vang,
                                       rung chuyển.
Xối xả mưa nguồn,
                    gió gào lên
                                       ước nguyện!...


                                           Trần Hạnh Thu


Sấm chớp


                     



Xem tiếp...

MỘNG DU

Cầu vồng trong đêm mưa 

Khuya, dò ra bến sông Ngân
Ngắm cầu Ô Thước, nghe đàn chàng Ngưu
Mùa này đã độ mưa Ngâu
Ơi nàng Chức Nữ ở đâu chưa về?!

Cho nhân gian nhớ hội thề
Hỏi nhau ngờ ngợ ngóng về phù vân.
Thanh sâu tĩnh mịch hồng trần
Trăng sao ăm ắp, mông mênh ơ thờ...


                                            Trần Hạnh Thu

Màn Đêm 004
Xem tiếp...

Thứ Hai, 14 tháng 1, 2013

TÔI KHÓC THƯƠNG ÔNG

                       (Kinh tặng hương hồn ông Yasser Arafat)

Tôi khóc thương ông
Ôi, ông già bất khuất!
Đã dần dần lịm tắt
Vầng hào quang của lịch sử Trung Đông
Bộ quân phục xanh, chiếc khăn choàng đầu
Vĩnh viễn từ nay bước vào huyền thoại!

Tôi khóc thương ông
Ôi, ông già Yasser Arafat
Giữa đại bác, xe tăng, bầy đàn chiếm đóng
Khát vọng sục sôi, nhẫn nại hành quân
Và dân tộc Palestin
Đã theo ông về đến Ramallah,
Mảnh đất Niềm Tin
                     của cuộc trường chinh
                                       đi đòi Tổ Quốc!

                          ***

Tôi khóc thương ông
Và khóc cho những linh hồn vô tội Trung Đông
Mênh mông thống khổ
Bom gầm, đạn nổ
Máu chảy, đầu rơi
Hận thù chồng chất ngút trời
Tràn lan khủng bố...

Tôi khóc thương ông mà lòng tôi phẫn nộ
Ngàn trùng có thấu trời cao?
Bạo lực sinh ra từ đâu?
Tại dị biệt trong niềm tin tôn giáo
Tại ích kỷ, cực đoan trong tình yêu sắc tộc
Hay tại Loài Người chưa tiến hóa đủ khôn?
Đâu là nguồn cơn?
Ôi, Liên Hiệp Quốc!
Bi hài thay ông trọng tài lệ thuộc
Mặc cho lũ máy bay, tàu chiến, xe tăng
Hùa nhau chà đạp khắp thế gian
Cưỡi cổ tài nguyên
Đè đầu lãnh thổ
Dồn phẫn uất thành mù lòa ôm bom khủng bố!

Ôi, buồn lắm, Ixraen!
Nỗi đau thuở nào cả dân tộc lưu vong
Sao không động lòng trước Palestin mất nước
Để nhường nhịn nhau, cùng bắt tay hòa ước
Sống yên bình, hai dân tộc anh em?!

                      ***

Tôi khóc thương ông
Lặng lẽ ra đi, u uất, bi hùng
Bỏ dở chính trường, lòng không mãn nguyện!...

Nhưng cuộc đời ông đã thành bất diệt
Hồn ông sẽ cười khi Tổ Quốc ghi công
Ông sẽ thấy ông trong một sáng mai hồng
Mặc quân phục xanh, đầu đội khăn dân tộc
Khẩu súng lục của bốn mươi năm kiên trì đấu tranh giải phóng
Đã hóa thành tuyệt bút thơ ca
Và cành ôliu,
                  trên tay ông,
                                không rơi xuống bao giờ!


                                                                  Trần Hạnh Thu
Xem tiếp...

Thứ Bảy, 12 tháng 1, 2013

THỰC TẠI ẢO

                                       (Tặng mạng Internet)


Ôi! Con đường của những gã đam mê
Đã dẫn dụ ta lạc vào huyền ảo
Chốn mông lung, ngút ngàn thêu dệt
Muôn phương chiều giăng mắc cửi đi về

Con đường nhẹ tênh, vô lối vô lề
Thỏa sức lang thang ngọn nguồn lịch sử
Đây đó Không Gian hiển hiện ngay trước mặt
Dằng dặc Thời Gian chớp nháy lọt bàn tay

Lẻ bóng giữa bầu hừng hực đắm say
Tưng bừng lạ quen rủ reng hội họp
Ngôn luận xô bồ ngược xuôi tấp nập
Dân chủ búa xua, nườm nượp ý đồ

Ôi! Con đường của những gã đam mê
Đã ru hồn ta mộng du trong thực tại
Vui thú biết bao gặp đại đồng nhân ái
Quên béng nỗi đời khốn đốn ở Trần Gian!...


                                             Trần Hạnh Thu
Xem tiếp...

Thứ Năm, 10 tháng 1, 2013

NHỚ BẠN

Mấy chiều nay thui thủi rượu một mình
Ngồi một bề lặng thinh nhìn ra ngõ
Cứ thắc thỏm bồn chồn khi chó sủa
Hoang tưởng bạn xưa trở lại thăm ta!

Tại vì đâu, ai gây nỗi bất hòa?
Sao bạn nghi ngờ ta là vô sỉ?
Thân trượng phu đâu hèn như bạn nghĩ
Ôi mắt ai nhìn chưa vượt tầm lòa!

Không một lời chào, bằng hữu bỏ đi xa
Chẳng được phân trần, thôi thì đành ly biệt
Bạn quên nhé, vương chi cho khổ giận
Ta biết mình lận đận kiếp bê tha!

Từ nay ta bạn với ta
Rượu là tri kỷ, ly là thủy chung
Hồn linh trò chuyện xác phàm
Buồn vui cũng phỉ trăm năm giang hồ!


                                                  Trần Hạnh Thu
Xem tiếp...

Thứ Tư, 9 tháng 1, 2013

VÔ ĐỀ

Chỉ Một thôi, có lẽ chỉ Một thôi
Một hướng soi đến cội nguồn chân lý
Chẳng hữu, chẳng vô, chẳng vi, chẳng vĩ
Chỉ Một thôi!

Một tỏ bóng Không nên Một là Mười
Mười Mươi tỏa hương nên là Muôn Một
Muôn Một quyện thành Trái Ngọt
Nên lại là Một thôi?

Bao triết thuyết ru mê những kiếp đời
Bao nẻo đời cuồng si theo triết thuyết
Con đường nào hỡi Tột Cùng Minh Triết
Giữa hoang mang mờ mịt khói Vô Minh?!

Một là điểm Trường Sinh
Tóe bừng muôn Tinh Tú
Xoay vần thành Vũ Trụ
Một Thường Hằng Khả Tri?!

Nếu thế, Một là...chi?
Và có nghĩa là...gì?


                                                       Trần Hạnh Thu
Xem tiếp...

Thứ Ba, 8 tháng 1, 2013

ÁM ẢNH

Đừng mơ về thành phố đó em ơi
Ồn ào lắm, nhịp đời quay nhanh lắm
Đường xá bon chen, đỏ đen dễ lạc
Cơn khát thèm làm đanh đá hồng nhan!

Đó là nơi lộn ngược thau, vàng
Quảng cáo tươi cười, rủ rê, dụ gọi
Cho em thấy toàn tưng bừng lễ hội
Đêm giăng giăng sặc sỡ vạn sắc màu
Những lầu son, gác tía vút thành cao
Châu báu, lụa là, người xe hào nhoáng

Em đâu thấy những mưu mô gớm ghiếc
Triệt hạ nhau cố giành giật giàu sang
Trả giá kỳ kèo cả nhân phẩm, linh hồn
Tham vô độ, chẳng còn lòng trắc ẩn
Thay mộng ước bằng thèm thuồng, tham muốn
Hát tình ca bằng nhảy nhót thét gào!

Đừng mơ về thành phố đó em ơi!
Chỉ lòe loẹt giả mạo màu tươi thắm
Ngột ngạt lắm nên đời ngắn lắm
Hầm hập ngày đêm bầu không khí phô trương
Thú tiêu dùng ngấu nghiến hết yêu thương
Sống vật vã, suốt cả đời gấp gáp
Chạy làm, chạy ăn, chạy tiền, chạy tiệc
Cắm cổ cắm đầu đến kiệt sức ganh đua
Trong vòng xoay của danh lợi hơn thua
Chẳng còn chỗ cho tâm hồn thanh thản
Chẳng bến dừng cho khát thèm thỏa mãn
Cầu đảo quay cuồng dễ hóa xác chanh chua
Gầm gừ canh, đếm mãi đống dư thừa
Hoặc cay cú chực chờ bên vô vọng!...

Em có cả một quê hương thoáng lộng
Dị thảo kỳ hoa, tuyệt sắc nước hương trời
Mơ chi về thành phố đó, em ơi!


                                                   Trần Hạnh Thu
Xem tiếp...

NỖI CHIỀU

Ta như mặt ruộng nhớ cày
Trời mưa nước lụt ngập lầy lệ đau
Chứa chan đành với cỏ lau
Loang loang váng đục một màu điêu linh

Tuổi thơ ngơ ngác khóc tình
Về già lạc lõng khóc mình cô đơn
Nói khôn, người bảo mất hồn
Lặng thinh uống rượu, thành ông bợm già
Hừng hực mà chê thây ma
Tưng bừng nhân ái lại ra cù lần!

Ước gì hóa cảnh non hòn
Bon sai mấy nhánh, vài hồn tiều phu
Một làn nước lách khe rêu
Róc ra róc rách nỗi chiều buồn tênh...


                                         Trần Hạnh Thu
Xem tiếp...

THƠ NÔM NGUYỄN KHUYẾN

(THT sưu tầm và lựa chọn)


1- VỀ HAY Ở

Văng vẳng tai nghe tiếng chích chòe
Lặng đi kẻo động khách lòng quê
Nước non có tớ càng vui vẻ
Hoa nguyệt nào ai đã đắm mê?
Quyên đã gọi hè quang quác quác
Gà rừng gáy sáng tẻ tè te
Lại còn giục giã về hay ở?
Đôi gót phong trần vẫn khỏe khoe


2-  TỰ TRÀO

Cũng chẳng giàu mà cũng chẳng sang
Chẳng gầy, chẳng béo chỉ làng nhàng
Cờ đương dở cuộc không còn nước
Bạc chửa thâu canh đã chạy làng

Mở miệng nói ra gàn bát sách
Mềm môi chén mãi tít cung thang
Nghĩ mình lại gớm cho mình nhỉ
Thế cũng bia xanh, cũng bảng vàng


3- TỰ THUẬT

Tháng ngày thấm thoát tựa chim bay
Ông ngẫm mình ông, nghĩ cũng hay
Tóc bạc bao giờ không biết nhỉ?
Răng long ngày trước hãy còn đây
Câu thơ được chửa, thưa rằng được
Chén rượu say rồi, nói chửa say
Kẻ ở trên đời lo lắng cả
Nghĩ ra ông sợ cái ông này


4- VỊNH TIẾN SĨ GIẤY*

                        I
Rõ chú hoa man** khéo vẽ trò
Bỡn ông mà lại dứ thằng cu
Mày râu mặt đó chừng bao tuổi
Giấy má nhà bay đáng mấy xu?
Bán tiếng mua danh thây lũ trẻ
Bảng vàng bia đá vẫn nghìn thu
Hỏi ai muốn ước cho con cháu
Nghĩ lại đời xưa mấy kiếp tu


                          II
Cũng cờ, cũng biển, cũng cân đai
Cũng gọi ông nghè có kém ai
Mảnh giấy làm nên thân giáp bảng
Nét son điểm rõ mặt văn khôi
Tấm thân xiêm áo sao mà nhẹ?
Cái giá khoa danh thế mới hời!
Ghế tréo, lọng xanh ngồi bảnh chọe
Nghĩ rằng đồ thật hóa đồ chơi!***


Chú thích: *Ngày trước, cứ vào dịp tết Trung Thu, người ta
                   thường làm mô hình người bằng giấy cho trẻ con
                   chơi. Mô hình đó thường là một ông tiến sĩ vinh
                   hiển. Mục đích nhằm làm cho trẻ con có ý thức
                  yêu văn chương, trọng khoa cử và lấy đó làm con
                  đường lập thân.
                **Người thợ làm hàng mã.
             ***Ngày nay "tiến sĩ giấy" đã hóa thành "đồ thật".Cuộc
                  lập thân từ "chơi" thành "thật" cũng nhẹ nhàng: kiếm
                  đủ tiền ra "chợ" mua một tờ "giấy tiến sĩ" là xong!


5- CHƠI NÚI NON NƯỚC

Chom chỏm trên sông đá một hòn
Nước trôi sóng vỗ biết bao mòn
Phơ đầu đã tự đời Bàn Cổ
Bia miệng còn đeo tiếng trẻ con
Rừng cúc tiền triều trơ mốc thếch
Hòn câu Thái Phó* tảng rêu tròn
Trải bao trăng gió xuân già giặn
Trời dẫu già nhưng núi vẫn non


Chú thích: *Thời xưa đó là chức quan vào hàng tam công (nhất
                    phẩm triều đình). Ở đây chỉ Trương Hán Siêu, người
                    đã viết bài thơ ngũ ngôn "Dục Thúy Sơn" trên núi
                    Non Nước.


6- THU VỊNH (Vịnh mùa thu)

Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao
Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu
Nước biếc trông như tầng khói phủ
Song thưa để mặc bóng trăng vào
Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái
Một tiếng trên không bỗng nước ào
Nhân hứng cũng vừa toan cất bút
Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào*


Chú thích: *Đào Tiềm làm quan ở Bành Trạch (tên cũ của một huyện
                     thuộc tỉnh Giang Tây, Trung Quốc), khi treo ấn từ quan
                     về ở ẩn có làm bài thơ "Quy khứ lai từ"


7- THU ĐIẾU(Câu cá mùa thu)

Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo
Tựa gối, buông cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo


8- THU ẨM(Uống rượu mùa thu)

Năm gian nhà cỏ thấp le te
Ngõ tối đêm sâu đóm lập lòe
Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt
Làn ao lóng lánh bóng trăng loe
Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt
Mắt lão không vầy cũng đỏ hoe
Rượu tiếng rằng hay, hay chả mấy
Độ năm ba chén đã say nhè.


9- HỎI THĂM QUAN TUẦN BỊ CƯỚP*

Tôi nghe kẻ cướp nó lèn ông
Nó lại lôi ông đến giữa đồng
Lấy của đánh người quân tệ nhỉ!
Xương già da cóc có đau không?
Bây giờ trót đã sầy da trán
Ngày trước chưa từng mất mảy lông
Thôi cũng đừng nên ky cóp nữa
Kẻo mang tiếng dại với phường ngông!


Chú thích: *Quan tuần phủ tên Đích là bạn học của NK, có
                     tính chắt bóp, keo kiệt, sau khi hưu quan về nhà
                     thì bị cướp. Nhân đó nhà thơ làm bài này gửi bạn
                     Điều thú vị là ông Đích đã họa lại:
                               Ông thăm tôi, tôi cũng giã ơn ông
                               Nó có lôi tôi đến giữa đồng
                               Cũng tưởng vun thu phòng lúc thiếu
                               Nào ngờ ky cóp lại như không
                               Gớm cho những kẻ đen tai mắt
                               Chẳng nể ông già bạc tóc lông
                               Ông hỏi thăm tôi, tôi biết vậy
                               Thương ông tuổi tác, cháu thời ngông


10- TẶNG ĐỐC HỌC HÀ NAM

Ai rằng ông dại với ông điên
Ông dại sao ông biết lấy tiền?
Cậy cái bảng vàng treo nhị giáp*
Khoét thằng mặt trắng** lấy tam nguyên***
Dấu nhà vừa thoát sừng trâu đỏ
Phép nước xin chừa móng lợn đen****
Chỉ cốt túi mình cho nặng chặt
Trăm năm mặc kệ tiếng chê khen.


Chú thích: *Nhị giáp tiến sĩ, một học hàm cao thời trước
                    **Chỉ người học trò, rút ra từ câu:"Bạch diện
                       thư sinh"
                     ***Ba đồng bạc(giá trị tiền tệ bằng một tạ gạo),
                        còn có nghĩa đỗ đầu ba khoa
                      ****Đỏ, đen: màu giầy của quan ta, quan tây.
                          Ý nói: thoát được quan ta đá (trừng phạt), nhưng
                           không thoát được quan tây


11- HOÀI CỔ

Nghĩ chuyện đời xưa cũng nực cười
Sự đời đến thế, thế thời thôi!
Rừng xanh núi đỏ hơn ngàn dặm
Nước độc ma thiêng mấy vạn người
Khoét rỗng ruột gan trời đất cả
Phá tung phên giậu hạ-di* rồi
Thôi thôi đến thế thời thôi nhỉ
Mây trắng về đâu nước chảy xuôi.


Chú thích: *Hạ là đất trung châu, di là nơi bờ cõi, ẩn ý chỉ toàn bộ
                   đất nước. Qua bài này, tác giả lên án cuộc khai thác tài
                    nguyên thiên nhiên tham tàn và sự bóc lột dân chúng
                    một cách ác độc của Thực dân Pháp đối với đất nước
                    và dân tộc ta. Xét riêng về mặt thuần túy tàn phá thiên nhiên thì
                     cho đến nay, bài thơ vẫn còn nóng hổi tính thời sự!


12- ĐẠI LÃO

Năm nay tớ đã bảy mươi tư
Rằng lão, rằng quan tớ cũng ừ
Lúc hứng, uống thêm dăm chén rượu
Khi buồn ngâm láo một câu thơ
Bạn già lớp trước nay còn mấy?
Chuyện cũ mười phần chín chẳng như*
Cũng muốn sống thêm dăm tuổi nữa
Thử xem trời mãi thế này ư?


Chú thích: *Ý nói, cuộc đời mười phần, không vừa ý đến chín phần.
             




Xem tiếp...

THƠ HỒ CHÍ MINH

                                   Trần Hạnh Thu


   Lúc chào đời, Hồ Chí Minh được đặt tên là Nguyễn Sinh Cung, lớn lên, thời đi học ở Huế, mang tên Nguyễn Tất Thành. Theo nhà văn Sơn Tùng, vào độ năm tuổi thì Cung theo gia đình (gồm cha là Nguyễn Sinh Sắc, mẹ là Hoàng Thị Loan, anh là Nguyễn Sinh Khiêm) vào Huế- kinh đô của Việt Nam thời đó. Trong khi qua Đèo Ngang, Cung có đọc cho cha và anh nghe hai bài thơ sau:
1. Núi cõng con đường mòn
    Cha thì cõng theo con
    Núi nằm ỳ một chỗ
    Cha đi cúi lom khom
    Đường bám lỳ lưng núi
    Con tập chạy lon ton
    Cha siêng hơn hòn núi
    Con đường lười hơn con.

2. Biển là ao lớn
    Thuyền là con bò
    Bò ăn gió no
    Lội trên mặt nước
    Em nhìn thấy trước
    Anh trông thấy sau
    Ta lớn mau mau
     Vượt qua ao lớn.

  Cũng theo nhà văn Sơn Tùng, quê ngoại của HCM ở Hà Tĩnh, gần cạnh quê của Quận công Hoàng Cao Khải (làng Đông Thái, huyện Đức Thọ). Một lần, Nguyễn Tất Thành được về thăm quê ngoại. Cũng trong dịp ấy, HCK có mời các quan sở tại đầu tỉnh và cả các quan huyện đến dự lễ ăn mừng khánh thành cái dinh thự bề thế vừa xây xong tại quê nhà của mình. Trong lúc bữa tiệc diễn ra thì có một lũ trẻ (gồm: Phạm Gia Cẩn, Lê Thước, Nguyễn Sinh Khiêm và NTT) túm tụm bên ngoài tường bao dinh thự nhòm lén vào, và thấy: trên cái sân rất rộng có một cái bể cảnh rất lớn chưa có nước, trong đó có một hòn non bộ lớn, một cây si khoảng trăm tuổi và tượng ba ông lão nhỏ, còn các quan thì ngồi bên cạnh bể cảnh uống rượu tây và đang bình thơ văn. Bỗng nhiên trong đám học trò nhòm lén thốt to một câu :"Các quan làm thơ dở quá!". Nghe thế, Hoàng Trọng Phu (con của HCK) đi ra quát lũ trẻ. Tiếp đó, HCK cũng ra nhưng chỉ nói:
   - Đứa nào khi nãy chê thơ của các quan thì bây giờ đọc một bài thơ cho các quan nghe, ông thưởng
   NTT thưa:
   -Thưa cụ, con đọc bài thơ này, nếu có sai thì đừng phạt con?
   -Đọc đi, ông không phạt!
   Và NTT đọc:
   - Kìa ba ông lão bé con con
     Biết có tình gì với nước non
     Trương mắt làm chi, ngồi mãi đó?
     Hỏi xem non nước mất hay còn

         ***

    Lạm bàn: Nếu quả thực đúng như lời Sơn Tùng kể thì phải cho rằng trước khi xuất bôn tìm đường cứu nước để rồi trở thành anh hùng dân tộc, HCM đã là một thần đồng thơ.

          ***

    Bài thơ mà NTT đọc ở dinh thự của HCK có hơi hướng gợi nhớ đến bài thơ "Ông phỗng đá" đã xuất hiện trước đó của Tam Nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến.
    Trước hết, kể sơ về HCK. HCK sinh năm 1850, chết năm 1933. Sau khi đỗ cử nhân ân khoa (năm 1868), ra làm quan, cúc cung tận tụy phục vụ Triều đình Huế, hợp tác đắc lực với Thực dân Pháp trong cuộc xâm lược và bình định Bắc Kỳ của chúng, nhất là đã tham gia đàn áp khốc liệt cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy. Nhờ thế, HCK được ban cho ấp Thái Hà (nay thuộc phường Trung Liệt, quận Đống Đa, Hà Nội; năm 1962 được Bộ Văn Hóa nước Việt Nam DCCH xác nhận là di tích quốc gia với đánh giá :"Đây là chứng tích duy nhất của nước ta về một quần thể các công trình lăng tẩm dinh thự của một phó vương..."), và năm 1890 được phong tước Duyên Mậu Quận Công (đây là một biệt lệ vì theo qui định của Triều Nguyễn, quan lại chỉ được phong Quận Công khi đã mất)
      Nguyễn Khuyến (1835-1909) là nhà thơ lớn của dân tộc. Ông sinh ở quê mẹ(Nam Định) nhưng lớn lên và sống chủ yếu ở quê cha (làng Yên Đổ, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam). Năm Giáp Tý (1864), NK thi hương, đậu Giải Nguyên. Năm sau ông thi hội, không đậu. NămTân Mùi (1871), NK thi hội lần thứ hai, đậu Hội Nguyên, rồi vào thi đình, đậu tiếp Đình Nguyên. Lúc ban cờ biểu cho ông, vua Tự Đức tự tay đề hai chữ "Tam Nguyên", cho nên người ta mới gọi ông là Tam Nguyên Yên Đổ. Sau khi đỗ đạt, NK có ra làm quan một thời gian ngắn nhưng quan lộ của ông luôn gặp trắc trở. Cuối năm 1883, Thực dân Pháp kéo quân lên đánh chiếm Sơn Tây. Tổng đốc Sơn Tây lúc ấy là Nguyễn Đình Nhuận chống đỡ không nổi đã phải rút sang Hưng Hóa hợp sức với Nguyễn Quang Bích lập căn cứ kháng chiến. Trong tình hình đó, Triều đình Huế cử NK làm quyền Tổng đốc Sơn Tây, nhưng ông lấy cớ đau mắt nặng không đi nhậm chức và xin cáo quan luôn.
       Vào những năm cuối thập kỷ 80 của thế kỷ XIX, hưởng ứng chiếu Cần Vương của vua Hàm Nghi, phong trào kháng chiến chống quân xâm lược Pháp của nhân dân Bắc Kỳ bột khởi khắp nơi. Nhiều sĩ phu yêu nước tình nguyện tham gia cuộc kháng chiến đó, nhận trọng trách lãnh đạo khởi nghĩa. Một số khác, trong đó có NK, dù không trực tiếp chiến đấu thì cũng gián tiếp bằng cách này hay cách khác hô hào, ủng hộ, động viên phong trào kháng chiến hoặc chí ít là tỏ thái độ bất hợp tác với kẻ xâm lược và một triều đình đã lộ rõ sự bán nước. Trước tình hình đó, để đối phó, Thực dân Pháp một mặt tăng cường tấn công bằng quân sự, cố tiêu diệt các căn cứ, các đội quân khởi nghĩa, mặt khác, hợp tác chặt chẽ với bộ phận quan lại triều đình đã rắp tâm theo chúng, ra sức tìm cách mua chuộc,lôi kéo, gây chia rẽ hàng ngũ sĩ phu có tên tuổi.
       Trong hoàn cảnh như thế, khi HCK (có thể chỉ đơn thuần là do mến mộ tài năng, mà cũng có thể có cả ý đồ quản chế) mở lời mời NK làm "gia sư" tại ấp Thái Hà, ông đã miễn cưỡng nhận lời. Tương truyền có một lần, sau khi dạy học xong, NK dạo chơi trong ấp, thấy tượng đá ông phỗng bên hòn non bộ ở sân vườn bèn tức cảnh sinh tình mà làm bài thơ "Ông phỗng đá". Nội dung bài thơ như sau:
       Ông đứng làm chi đó hỡi ông?
        Trơ trơ như đá, vững như đồng
        Đêm ngày gìn giữ cho ai đó?
        Non nước đầy vơi có biết không?

              ***

       Trên bước đường hoạt động cách mạng của mình, có lần HCM bị quân Tàu Tưởng bắt cầm tù khoảng một năm. Trong thời gian đó, ông có sáng tác nhiều bài thơ chữ hán, hợp lại thành tập "Nhật ký trong tù". Sau đây là một số bài trong đó:


MỞ ĐẦU TẬP NHẬT KÝ

Ngâm thơ ta vốn không ham
Nhưng vì trong ngục biết làm chi đây
Ngày dài ngâm ngợi cho khuây
Vừa ngâm vừa đợi đến ngày tự do

                                        Nam Trân dịch


               BUỔI TRƯA

Trong tù khoan khoái giấc ban trưa
Một giấc miên man suốt mấy giờ
Mơ thấy cưỡi rồng lên thượng giới
Tỉnh ra trong ngục vẫn nằm trơ

                                     Nam Trân dịch


           LỜI HỎI

Hai cực trong xã hội
Quan tòa và phạm nhân
Quan rằng: anh có tội
Phạm thưa: tôi lương dân
Quan rằng: anh nói dối
Phạm thưa: thực trăm phần
Quan tòa tính vốn thiện
Làm ra vẻ dữ dằn
Muốn khép người vào tội
Lại giả bộ ân cần
Ở giữa hai cực đó
Công lý đứng làm thần

                            Huệ Chi dịch


                  CHIỀU HÔM

Cơm xong, bóng đã uống trầm trầm
Vang tiếng đàn ca, rộn tiếng ngâm
Nhà ngục Tĩnh Tây mờ mịt tối
Bỗng thành nhạc quán viện hàn lâm

                                       Nam Trân dịch


NGƯỜI BẠN TÙ THỔI SÁO

Bỗng nghe trong ngục sáo vi vu
Khúc nhạc tình quê chuyển điệu sầu
Muôn dặm quan hà, khôn xiết nỗi
Lên lầu ai đó ngóng trông nhau

                                        Nam Trân dịch


                 CÁI CÙM

                         I
Dữ tựa hung thần miệng chực nhai
Đêm đêm há hốc nuốt chân người
Mọi người bị nuốt chân bên phải
Co duỗi còn chân bên trái thôi

                        II
Nghĩ việc trên đời kỳ lạ thật
Cùm chân sau trước cũng tranh nhau
Được cùm chân mới yên bề ngủ
Không được cùm chân biết ngủ đâu?

                                        Nam Trân dịch


             HỌC ĐÁNH CỜ

                            I
Tù túng đem cờ học đánh chơi
Thiên binh vạn mã đuổi nhau hoài
Tấn công, thoái thủ nên thần tốc
Chân lẹ, tài cao ắt thắng người

                            II
Phải nhìn cho rộng, suy cho kỹ
Kiên quyết, không ngừng thế tiến công
Lạc nước, hai xe đành bỏ phí
Gặp thời, một tốt cũng thành công

                            III
Vốn trước hai bên ngang thế lực
Mà sau thắng lợi một bên giành
Tấn công, phòng thủ không sơ hở
Đại tướng anh hùng mới xưng danh

                     Văn Trực-Văn Phụng dịch


                 NGẮM TRĂNG

Trong tù không rượu cũng không hoa
Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ
Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ

                                       Nam Trân dịch


                 TRUNG THU

                          I
Trung thu vành vạnh mảnh gương thu
Sáng khắp nhân gian bạc một màu
Sum họp nhà ai ăn tết đó
Chẳng quên trong ngục kẻ âu sầu

                          II
Trung thu ta cũng tết trong tù
Trăng gió đêm thu gợn vẻ sầu
Chẳng được tự do mà thưởng nguyệt
Lòng theo vời vợi mảnh trăng thu

                                     Nam Trân dịch


               ĐI ĐƯỜNG

Đi đường mới biết gian lao
Núi cao rồi lại núi cao chập chùng
Núi cao lên đến tận cùng
Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non

                                            Nam Trân dịch


                GIẢI ĐI SỚM

                          I
Gà gáy một canh đêm chửa tan
Chòm sao nâng nguyệt vượt lên ngàn
Người đi cất bước trên đường thẳm
Rát mặt, đêm thu, trận gió hàn

                           II
Phương đông màu trắng chuyển sang hồng
Bóng tối đêm tàn, sớm sạch không
Hơi ấm bao la trùm vũ trụ
Người đi, thi hứng bỗng thêm nồng

                                         Nam Trân dịch


                      ĐÊM LẠNH

Đêm thu không đệm cũng không chăn
Gối quắp, lưng còng, ngủ chẳng an
Khóm chuối, trăng soi càng thấy lạnh
Nhòm song, Bắc Đẩu đã nằm ngang

                                     Nam Trân dịch


RỤNG MẤT MỘT CHIẾC RĂNG

Cứng rắn như anh chẳng kém ai
Chẳng như lão lưỡi dẻo và dai
Ngọt bùi cay đắng từng chia sẻ
Nay kẻ chân mây, kẻ cuối trời

                        Trần Đắc Thọ dịch


          TRÊN ĐƯỜNG

Mặc dù bị trói chân tay
Chim ca rộn núi, hương bay ngát rừng
Vui say, ai cấm ta đừng
Đường xa, âu cũng bớt chừng quạnh hiu

                                         Nam Trân dịch


                   PHA TRÒ

Ăn cơm nhà nước, ở nhà công
Lính tráng thay phiên đến hộ tòng
Non nước dạo chơi tùy sở thích
Làm trai như thế cũng hào hùng!

           Văn Trực-Văn Phụng dịch


CẢNH BINH KHIÊNG LỢN CÙNG ĐI

I
Khiêng lợn, lính cùng đi một lối
Ta thì người dắt, lợn người khiêng
Con người coi rẻ hơn con lợn
Chỉ tại người không có chủ quyền

II
Trên đời ngàn vạn điều cay đắng
Cay đắng chi bằng mất tự do!
Mỗi việc mỗi lời không tự chủ
Để cho người dắt tựa trâu bò

                             Nam Trân dịch


         CỘT CÂY SỐ

Chẳng cao cũng chẳng xa
Không đế cũng không vương
Một phiến đá nho nhỏ
Đứng sừng sững bên đường
Người nhờ anh chỉ lối
Đi đúng hướng đúng phương
Anh chỉ cho người biết
Nào dặm ngắn, dặm trường
Mọi người nhớ anh mãi
Công anh chẳng phải thường

           Văn Trực-Văn Phụng dịch


MỚI RA TÙ TẬP LEO NÚI

Núi ấp ôm mây, mây ấp núi
Lòng sông gương sáng, bụi không mờ
Bồi hồi dạo bước Tây Phong Lĩnh
Trông lại trời Nam, nhớ bạn xưa

                                Nam Trân dịch


Xem tiếp...

Thứ Bảy, 5 tháng 1, 2013

HƯU TRÍ

Quạnh hiu ngồi ngó lại đời
Phí phà điếu thuốc, khóc cười ngả nghiêng
Đêm khuya một bóng dưới đèn
Thả hồn vui thú ưu phiền ngày qua...


                                          Trần Hạnh Thu
Xem tiếp...

THÌ RA...

Người đi đây đó phởn mày râu
Kẻ ngồi bó gối, hứng dãi dầu
Thì ra mưa nắng còn thiên vị
Thương người, ghét kẻ, mặc đâu đâu...

Mới hay Trời-Đất sao mà bạc
Chọn nhân tình mà tạc khổ đau!...


                                         Trần Hạnh Thu
Xem tiếp...

LÝ SỰ

Tự Nhiên là cái Có
Có Có thì có Không
Có-Không nên Thái-Cực
Thái-Cực hóa vô cùng!

Vũ Trụ là Không Gian
Không Gian định Thời Gian
Không-Thời bừng dậy sóng
Thành Lễ-Hội tưng bừng

Người xuống đò bến Có
Chèo chống về bến Không
Lênh đênh qua Cõi-Tạm
Giữa ly biệt trùng phùng...


                      Trần Hạnh Thu

Xem tiếp...

BỢM HƠN TRỜI

                               "Trời kêu ai nấy dạ"


- Một mai Trời réo ta đi
Ta vẫn ở lại tì tì chơi Xuân
Máu me, bí tỉ phong trần
Nghêu ngao giả điếc, giả quên đường về!

Trời nghe bật tiếng cười khì:
- Hoãn cho mày cuộc phân ly xác hồn
Thỏa thuê bù khú đi con
Bợm gì quá thể, bợm hơn cả Trời!


                                     Trần Hạnh Thu
Xem tiếp...

Nghĩ ngợi bất chợt:

          TẬN HƯỞNG

Cho dù có cuộc luân hồi
Kiếp không nhớ kiếp cũng coi như thừa
Ai ơi sống thật say sưa
Tận tình hưởng trọn nắng mưa kiếp này!


           TIẾC

Thời trẻ trung thoăn thoắt về phía trước
Ưỡn ngực cười hoàng hôn tít xa xôi
Tuổi luống chiều ngắm đất-trời luyến tiếc
Ngoái nhớ bình minh ước bước được...thụt lùi(!?)


        TẠI NGƯỜI

Trái Đất xưa sung mãn
Trong lành, sáng biếc ngời
Nay đục ngầu, suy kiệt
La liệt cảnh đãi bôi.

Tại Người tham quá thôi!


                                                   Trần Hạnh Thu


Xem tiếp...

Thứ Năm, 3 tháng 1, 2013

THƠ NGUYỄN BỈNH KHIÊM(1491-1585)

1- VUI CẢNH NHÀN

Lọ là thành thị, lọ lâm toàn
Được thú thì hơn, miễn phận nhàn
Vụng, bất tài nên kém bạn
Già, vô sự ấy là tiên
Đồ-Thư một quyển nhà làm của
Phong-Nguyệt năm hồ khách nổi thuyền
Dù nhẫn chê khen, dù miệng thế
Cơ mầu tạo-hóa mặc tự-nhiên.


2- CẢNH NHÀN LÚC TUỔI GIÀ

Tóc đã thưa, răng đã mòn
Việc nhà đã phó mặc dâu con
Bàn cờ, cuộc rượu, vầy hoa cúc
Bó củi, cần câu, chốn nước non
Nhàn được thú vui hay bao nả
Bữa nhiều muối bể chứa tươi ngon
Chín mươi thời kể xuân đã muộn
Xuân ấy qua, thì xuân khác còn


3- NHÂN TÌNH THẾ THÁI

Thế gian biến cải vũng nên đồi
Mặn, nhạt, chua cay, lẫn ngọt bùi
Còn bạc, còn tiền, còn đệ tử
Hết cơm, hết rượu, hết ông tôi
Xưa nay đều trọng người trung thực
Ai nấy nào ưa kẻ đãi bôi
Ở thế, mới hay người bạc ác
Giàu thì tìm đến, khó tìm lui.


4- DĨ HÒA VI QUÍ

Ở thế, đừng tranh tiếng trượng phu
Làm chi cho có sự đôi co
Đây cậy đây khôn, đây chẳng nhịn
Đấy rằng đấy phải, đấy không thua
Duật nọ hãy còn đua đến bạng*
Lươn kia hầu dễ kém chi cò
Chữ rằng:"Nhân dĩ hòa vi quí"
Vô sự thì hơn, kẻo phải lo



Chú thích: *Duật là con dẽ giun; bạng là con trai. Chuyện chép trong
             "Chiến quốc sách": Một con trai đang há miệng phơi mình; con
              dẽ mổ vào thịt con trai; trai liền ngậm miệng cặp chặt lấy mỏ
              con dẽ. Hai con cứ thế găng nhau; bỗng có người đánh cá trông
               thấy, liền bắt cả hai con. Từ chuyện đó mà có câu"Bạng duật
               tương trì, ngư ông đắc lợi"


Xem tiếp...

RU CON

Bao giờ cho đến tháng ba
Ếch cắn cổ rắn tha ra ngoài đồng
Hùm nằm cho lợn liếm lông
Một chục quả hồng nuốt lão tám mươi
Nắm xôi nuốt trẻ lên mười
Con gà, be rượu nuốt người lao đao
Lươn nằm trong trúm* bò vào
Một đàn cào cào đuổi bắt cá rô
Lúa mạ nhảy lên ăn bò
Cỏ năn, cỏ lác rình mò bắt trâu
Gà con đuổi bắt diều hâu
Chim ri đuổi đánh vỡ đầu bồ nông.

                                             Ca dao


Chú thích:* Là một thứ đó để bắt lươn


     
                                     
Xem tiếp...

BANTROI

                            (Tặng "đám" bantroik6)

Bantroi,
Hồi nhỏ là thiếu sinh quân
Tinh nghịch, hồn nhiên
Tuổi học trò bán trời không văn tự

Quên sao được,
Những đêm đi trộm dưa, trộm cam
Phá phách mùa màng Quế Lâm-Trung Quốc
Nông dân kiện thưa, nhà trường báo động
Đột xuất tập hợp, điểm danh
Thầy giáo ngửi tay từng đứa học sinh...
Nghĩ lại, bật cười, thương nhớ quá!

Bantroi ơi!
Hồi đó chúng mình biết đâu mà thấu tỏ
Cái cùng cực nhọc nhằn của dân lành Hoa Hạ
Nỗi quằn quại khổ đau của trí thức Hán Trung
Trong mê cung nhà nhà luyện thép, luyện gang
Người người điên cuồng triệt tiêu chim sẻ
Đại nhảy vọt từ tay trắng chân trần dồn nên Công xã
Đại cách mạng văn hóa bằng thổi phồng tuổi trẻ thành tiểu tướng Hồng vệ binh
Đùng đùng, chia phe tạo phản thư hùng
Giá họa vu oan, tràn lan hỗn xược
Đấu tố hết, dù già cả, hiền tài cũng mặc!...

Bantroi,
Bây giờ đã là những lão niên
Gặp nhau vẫn bỗ bã, hồn nhiên
Như thời xa xưa ấy
Chỉ không bán trời dù có cho văn tự
Vì đã qua từng trải, từng chiêm.

Bantroi,
Lên ông lên bà, vẫn là thiếu sinh quân
Con em của cha anh một thời cứu nước
Đã từng "Sinh ra trong khói lửa..."
Nên mãi trung thành với Tổ Quốc Việt Nam này!

Hãy vững tin tương lai
Minh bạch, sáng ngời Công lý
Dân chủ đồng lòng tin yêu chính phủ
Ngôn luận tự do trong nhất quán dựng xây!

Bantroi ơi,
Giàu mấy vẫn không bán- trời
Nghèo mấy vẫn là bạn-trỗi
Dọa giết cũng không phản bội
Thế nhé, hỡi...mày-tao!!!


                                            Trần Hạnh Thu            

                                                                                                        


Xem tiếp...

Thứ Ba, 1 tháng 1, 2013

BỆNH TƯỞNG

Anh nghĩ mình có số đào hoa
Vì mỗi độ em qua
Cứ nhìn anh đắm đuối
Trong lặng lẽ, mắt em buồn vời vợi
Có ý trách thầm người lãnh đạm tình em...

Sao không bày tỏ làm duyên
Để trễ muộn, anh theo cô gái khác
Em rồi tủi thân, một mình đứng khóc
Lỡ cả tuổi xuân thì?!

                         ***

Thế rồi anh khoái chí đi khoe
Rằng được một nàng trinh nữ si mê...

Chúng bạn nghe, cười sằng sặc:
"Mày có điên không?...Đó là Thần Nhan Sắc
Những đêm thanh ngần, múa điệu vũ thoát y
Mắt tình đẩy đưa những ánh thôi miên
Ru ngủ linh hồn vào hôn mê tưởng nhớ!...

Anh tỉnh ngộ, nhoẻn cười che xấu hổ
Ôi thói đời hơm hĩnh, kiêu căng!
Thôi, cho anh ngàn lần xin lỗi
Đừng giận người dưng em nhé, hỡi...Trăng!


                                        Trẩn Hạnh Thu
Xem tiếp...

CHUYỆN TẾU ĐỜI NAY

Vào quán nhậu già khú cũng thành anh
Dù móm mém, tóc râu bạc trắng
Miễn uống được và cười cợt được
Đừng chống gậy theo, lộ vẻ hom hem!

Đã nhậu rồi thì cháu cũng là em
Móc tiền cúng ra say mèm nàng tiếp thị
Chú em, cháu anh, lộn lèo, bạc ký
Chủ quán toét toe:"Bất chiến tự nhiên thành"!

Vào quán nhậu, ông cũng hóa thành thằng
Hơn thần dược trường sinh bất lão
Từng trải mấy cũng í è, khờ khạo
Hổ tướng xụi lơ,nhõng nhẽo trẻ còn non!

Muốn trẻ mãi, ù lì ngồi uống mãi
Rớt mùng tơi, em út thảy ra lùm
Chập chững về, bi bô mồm dớt dãi
Hạch mụ bà chạy nợ quái chiều hôm!


                                         Trần Hạnh Thu
Xem tiếp...

KIẾP ĐỜI HỀ

Anh tung hứng, bấp bênh lưng thú
Nhảy lò cò theo mãi bước em đi
Vai thổn thức làm bật cười thiên hạ
Lộn tùng phèo, nào có xá gì.

Em giở trò mải mê lả lướt
Anh mũi cà chua, ngỏng cổ tái tê
Hồn lịm dần trong vũng lầy hoang tưởng...

Đời muôn sau khảo cổ được thằng hề.

Họ bươi nó ra, moi móc mọi bề
Cãi lộn ồn ào vì sao nó chết
Mà trái tim vẫn tấy sưng nhiệt huyết
Tay viết còn hí hoáy, rợn xương khô.

Rồi người ta quàng trang phục cổ xưa
Ép nó ngồi bơ vơ trong triển lãm
Và quyết định gắn một dòng tội phạm:
"Bị đọa đày vì diễu cợt Thiên Nhiên"!


                                      Trần Hạnh Thu


Xem tiếp...

ÁNH MẮT VÔ TÌNH

Không biết bây giờ người ở đâu?

Ánh mắt ngày xưa cứ gợi sầu
Một thoáng vô tình mà thương nhớ
Đau đáu một đời khắp bể dâu...


                               Trần Hạnh Thu
Xem tiếp...

NGHĨA VỤ

Ừ nhỉ! Áo cơm tém đủ dùng
Ngày về, của nả chỉ là không
Chán ngắt vuốt ve từng chủ, khách
Sao còn nấn ná giữa chợ đông?

Những muốn về vui với xó phòng
Một bàn, một ghế, sách mấy chồng
Âu yếm nàng thơ trong khói thuốc
Suy tư, chiêm nghiệm khắp hoang cùng.

Những muốn bay theo ước mộng lòng
Dạ còn nặng trĩu nợ tình chung
Vợ con, chúng bạn còn tin cậy
Trượng phu nào nỡ lại dửng dưng?!

Thôi đành ở lại kiếp đời thường
Tròn vai kẽo kẹt gánh cương cường
Kẻo rồi mang tiếng trai trốn nợ
Bia miệng ngàn năm, hổ từ đường!


                             Trần Hạnh Thu

Xem tiếp...

CÂY SI

(Kính tặng hương hồn Trịnh Công Sơn)



Rung dây đàn làm khánh  
Nghiêng bình rượu làm ly              
Vun tình say thành núi
Kết cho đời cây si!                         

U buồn như tháp cổ                          
Rêu phong phủ xanh rì  
Tỏa hồn vào mưa gió
Hoang vu nhớ xuân thì  

Cuồn cuộn thân thác đổ
Trút cành lá xum xuê
Tưới rễ lên sỏi đá
Ôm hôn cõi đi về!


                     Trần Hạnh Thu
                                                                                










Xem tiếp...