Thứ Năm, 27 tháng 1, 2022

TT&HĐ V - 49/b

 
Nikola Tesla - Nhà Phát Minh Thiên Tài Của Nhân Loại

PHẦN V:     THỐNG NHẤT 
"Khoa học là một sức mạnh trí tuệ lớn nhất, nó dốc hết sức vào việc phá vỡ xiềng xích thần bí đang cầm cố chúng ta."
Gorky 
 
"Mỗi một thành tựu lớn của nhà khoa học chính là xuất phát từ những ảo tưởng táo bạo". 
JohnDewey
"Chân lý chỉ có một, nó không nằm trong tôn giáo, mà nằm trong khoa học."
Leonardo da Vinci
 
"Cái khó hiểu nhất chính là hiểu được thế giới" 
Albert Einstein
 "Có hai cách để sống trên đời: một là xem như không có phép lạ nào cả, hai là xem tất cả đều là phép lạ".
Albert Einstein
      
“Chính qua cuộc đấu tranh nhằm thống nhất một cách hợp lý cái đa dạng mà đã đạt được những thành công lớn nhất, dù rằng chính ý đồ đó có thể gây ra những nguy cơ lớn nhất để trở thành con mồi của ảo vọng”.
Albert Einstein


“Người nhìn thấy cái đa dạng mà không thấy cái đồng nhất thì cứ trôi lăn trong cõi chết”.

Upanishad       


CHƯƠNG X (XXXXIX): LỜI "LẢM NHẢM" SAU CÙNG
 
“Điều gì đã thổi sức sống vào các phương trình và làm cho chúng có thể mô tả Vũ Trụ?”
Stephen Hawking

“Không có thiên tài nào mà không pha lẫn sự điên rồ trong đó”
Arixtốt

“Thiên tài khác ngu ngốc ở chỗ thiên tài có giới hạn”
A. Anhxtanh

“Nếu thực tại không tương đồng với lý thuyết, hãy thay đổi thực tại”
A. Anhxtanh

“Có thật nhiều thứ để tìm hiểu, nhưng cũng thật ít thứ đã được tìm hiểu thấu đáo”
Robert A. Heinlein

“Từ Vũ Trụ, tôi không còn nhìn thấy biên giới các quốc gia! Trái đất xanh một màu xanh vĩnh cửu”. Gagarin

“...Đặt cược cho một vũ trụ duy nhất và sự tồn tại của một nguyên lý sáng tạo chịu trách nhiệm cho việc điều chỉnh Vũ Trụ một cách vô cùng chính xác... Nguyên lý này không đại diện bởi một vị Chúa rậm râu; đó là một nguyên lý phiếm thần biểu hiện qua các định luật của tự nhiên.”
Trịnh Xuân Thuận

“Chắc chắn rằng, tựa như tình cảm tôn giáo, niềm tin rằng thế giới là lý tính, hay ít nhất là có thể hiểu được, chính là cơ sở của mọi công trình khoa học. Niềm tin này tạo nên quan niệm của tôi về Chúa. Đó là quan niệm của Spinoza”. 
Albert Einstein

"Có một thứ chúng ta thấy ngay từ khi chào đời và hầu như thường xuyên trong cuộc đời, nhưng chúng ta vẫn tưởng là chưa từng thấy, đó là không gian. Có một thứ chúng ta tưởng thực sự tồn tại như dòng trôi cuốn chúng ta đi nhưng không biết trôi về đâu, đó là thời gian. Ngày nay, chưa ai nhận thức được hoặc nhận thức vẫn sai lầm về chúng. Chỉ khi nào loài người nhận thức chính xác và cặn kẽ hai thứ thiết yếu ấy, thì nhiệm vụ khoa học của loài người mới có cơ may hoàn thành".
TC
 
"Sau nhiều năm nghiền ngẫm, ở chặng cuối cuộc đời tôi mới ngộ ra: Vũ Trụ không hỗn độn như chúng ta tưởng mà là một khối gắn kết thống nhất vĩ đại, không phải vì phục tùng ý Chúa (làm gì có Chúa!) mà vì chính bản thân nó: Tồn Tại. Vạn vật trong lòng nó luôn vận động để tránh Hư Vô, nghĩa là vận động cho nó và vì nó, luôn tự giác răm rắp tuân theo một nguyên lý chung nhất và duy nhất: nguyên lý Tự Nhiên". 
 NTT

""Của dân,do dân và vì dân" là nguyên tắc cơ bản của mọi nhà nước trong việc duy trì và bảo toàn xã hội chứ không phải sở hữu riêng của NNVN". 
NTT





(Tiếp theo)


Đến đây, dựa trên tiêu chuẩn nói chung đã được định ước bởi thành kiến xã hội (ý kiến của số đông) chúng ta có thể phân những biểu hiện của tư duy về mặt trí tuệ thành hai loại cơ bản có tính tương phản nhau là “khôn” và “ngu” đối với trường hợp hoạt động tư duy ở mức độ bình thường (nghĩa là trong phạm vi nhận thức xã hội đương thời nói chung còn có thể hiểu được). Trong trường hợp hoạt động tư duy đạt đến tình trạng bị kích thích lên cao độ đến mức tột độ, làm xuất hiện những ý tưởng thực sự mới lạ, khó ngờ tới, vượt khỏi phạm vi nhận thức nói chung của xã hội đương thời, thì cặp tương phản lưỡng nghi khôn - ngu sẽ chuyển biến thành cặp lưỡng nghi thiên tài - rồ dại. Tình trạng hoạt động tư duy ở mức độ nào cũng xuất hiện những ý tưởng sáng tạo (vì sáng tạo là một yêu cầu có tính thường xuyên đối với tư duy nhận thức trên bước đường mưu sinh, đảm bảo và tăng cường khả năng sống còn của mỗi con người nói riêng và của cả loài người nói chung). Một cách tương đối, nếu gọi sự sáng tạo xuất hiện trong quá trình tư duy ở trạng thái bình thường là “sáng tạo tự nhiên” thì có thể gọi sự sáng tạo xuất hiện trong quá trình tư duy ở trạng thái bị kích thích, ức chế cao độ là “sáng tạo cưỡng bức”. Nếu sáng tạo tự nhiên được cho là kết quả của tư duy lôgíc, được định kiến khoa học đương thời nhanh chóng và dễ dàng thừa nhận, thì sáng tạo cưỡng bức là kết quả của tư duy bất chấp lôgíc, mâu thuẫn với định kiến khoa học đương thời, vì thế mà nếu có xác đáng thì cũng thường rất khó được thừa nhận cũng như rất lâu mới được thừa nhận. Lịch sử nhận thức Tự Nhiên Tồn Tại của nhân loại cho thấy sáng tạo tự nhiên đóng vai trò chủ yếu trong việc duy trì sự tiến bộ không ngừng và đều đặn của khoa học, còn sáng tạo cưỡng bức chủ yếu đóng vai trò tạo bước ngoặt, tác động có tính cách mạng, làm cho sự tiến bộ khoa học phát triển một cách đột biến và bùng phát sau đó.
Với quan niệm đó, phải chăng sáng tạo cưỡng bức là sáng tạo của những bậc thiên tài? Không phải! Phải cho rằng chỉ có một phần (dù có thể là phần nhiều hơn) sáng tạo cưỡng bức là của thiên tài, phần còn lại chính là của… ngu ngốc (hay rồ dại). Sự sáng tạo do rồ dại đôi khi có giá trị hơn hẳn sự sáng tạo do thiên tài!
Trả lời như thế nghe thật… “sốc”. Nhưng hãy bình tĩnh mà ngẫm nghĩ lại. Đến nay, rất nhiều người vẫn cho rằng thiên tài xuất hiện là một ngẫu nhiên, thiên tài của một người là may mắn, tự nhiên mà có. Nghĩ như vậy là phạm vào nguyên lý nhân - quả, một trong những nguyên lý phổ quát nhất của Tự Nhiên: mọi tồn tại đều là kết quả của sự tạo thành. Do đó, thiên tài cũng không thể ngoại lệ, phải có nguyên nhân làm xuất hiện nó. Theo chúng ta quan niệm thì thiên tài được hun đúc nên bởi nhiều yếu tố, chủ yếu là thành quả của quá trình nung nấu về mặt trí tuệ trong hoạt động tư duy và tương tác thần kinh có qui mô xã hội (mà khoa học ngày nay chưa nhận diện được về mặt bản chất nên đã phải qui cho cái gọi là “tâm linh” đầy màu sắc huyền bí). Và rồ dại chủ yếu cũng là kết quả của một bùng phát về tư duy, một cuộc giải thoát của tự do khỏi xiềng xich ràng buộc của khối nhận thức cũ. Rốt cuộc, có thể phân định sự sáng tạo cưỡng bức thành hai loại: sáng tạo thiên tài và sáng tạo rồ dại. Sự phân định thiên tài - rồ dại hoàn toàn dựa vào qui ước. Qui ước ấy, vì cũng được thiết lập trên cơ sở nhận thức hiện thực khách quan nên cũng hàm chứa tính khách quan, nhưng bản thân nhận thức là chủ quan, bị khống chế bởi một lý trí chủ quan duy ý chí luôn túc trực trong tiềm thức nên đồng thời sự phân định ấy cũng bị bao trùm bởi tính chủ quan. Khi nói một trí tuệ thiên tài thì không phải lúc nào và trên bất cứ lĩnh vực nào cũng tỏ ra thiên tài. Một con người được đánh giá thiên tài không có nghĩa là thiên tài về mọi mặt mà thường vẫn có những mặt, những lúc tỏ ra tầm thường như mọi người khác trong xã hội, thậm chí còn bị cho là có những hành vi hoàn toàn ngu ngốc. Mặt khác, một người bị đánh giá là ngu ngốc, rồ dại lại nhiều khi không hề ngu ngốc, rồ dại mà chính sự đánh giá đã mê lầm do bị khống chế bởi chủ quan bảo thủ, nghĩa là bởi niềm tin đầy ý chí (lý trí hòa lẫn với mù quáng!), có phần cực đoan vào tính đúng đắn của lý trí mình.
Bảo thủ, hay nhiều người còn gọi là “sức ỳ tâm lý” gần như (hay đúng là?) một đặc tính của bộ não trong tư duy nhận thức. Nhờ bảo thủ mà tư duy nhận thức có lý trí. Nhờ có lý trí phát triển mà nhận thức tự nhiên ngày một tiến bộ. Nhưng bảo thủ cũng đồng thời làm xuất hiện sự chủ quan duy ý chí, khuynh đảo lý trí để rồi ý chí, đến lượt nó, ít nhiều gây ra sự cản trở, kìm hãm quá trình phát triển của nhận thức về thực tại khách quan. Khi đã nhận thức được tính “lá mặt lá trái” ấy của bảo thủ thì có thể khắc phục đến mức tối đa sự lũng đoạn của chủ quan đối với nó để hạn chế tối đa sự tác động tiêu cực của nó đến quá trình nhận thức. Tuy nhiên, không thể “giũ sạch” được “sức ỳ tâm lý”, cái làm nên sự bảo thủ ra khỏi tư duy lý tính vướng víu chủ quan (ý chí) được.Thí dụ Cơ học Niutơn, một thời được coi là nền tảng chân lý trong vật lý học. Không ai được quyền mà phản bác nó nhưng dựa vào nó, loài người đã không giải thích được vì sao sự tổng hợp vận tốc không thể lớn hơn c (vận tốc cực đại Vũ Trụ) mà phải đợi thuyết tương đối (hẹp) của Anhxtanh (cho đến ngày nay, một số biểu hiện chứng tỏ Anhxtanh cũng sai nốt!). Hay học thuyết Mác-Lênin về Chủ nghĩa cộng sản, đã từng được một bộ phận lớn dân chúng coi là "mặt trời chân lý" soi đường cho loài người tiến bước trong thế kỷ XX, rất nhiều người đã hiến dâng trọn đời cho nó, đặt trọn niềm tin vào nó. Nhưng thử hỏi, đến nay nó còn là chân lý không? Niềm tin "sắt đá" nhiều khi lại là biểu hiện của sự thủ cựu, bảo thủ...chúa!
Chúng ta đều biết, quá trình nhận thức thực tại khách quan của loài người nói riêng hay của một loài nào đó biết tư duy nói chung, là quá trình tìm hiểu từ gần đến xa, từ hẹp đến rộng, từ nông cạn đến sâu sắc, từ trực giác đến suy tưởng. Điều đó cho thấy sự hình thành nên nhận thức mới bao giờ cũng bắt đầu trên cơ sở nhận thức cũ - những nhận thức của quá khứ đã được thừa nhận là chân lý, được đúc kết lại thành kiến thức, thành khoa học của loài người đương thời. Có thể nói, “ôn cố tri tân” (ôn lại kiến thức cũ để tìm hiểu cái mới) là con đường duy nhất, là độc đạo của sự phát triển nhận thức đến ngày một sâu rộng. Chính vì vậy mà khi một nhận thức mới ra đời và được thừa nhận đúng đắn thì đó là thành quả đồng thời của sự kế thừa và sáng tạo. Hiển nhiên rằng, không có quá khứ thì không có tương lai, không có cũ thì không có mới, do đó mà muốn sáng tạo khoa học thì trước hết phải kế thừa kiến thức, và sáng tạo mới chỉ có thể xảy ra trên cơ sở đã kế thừa kiến thức ấy, đã "thuộc làu" kiến thức ấy. Nhưng chính sự kế thừa cũng đồng thời làm cho sự chủ quan bảo thủ trở thành một thế lực gây cản trở mạnh mẽ đến sáng tạo, nhất là đối với những sáng tạo có tính đột phá: Vì sao vậy? Vì khi một khám phá khoa học đã trở thành kiến thức nhân loại của một thời đại thì nó cũng hàm chứa một sự bảo thủ, một niềm tin khoa học mù quáng (tín ngưỡng khoa học) của thời đại đó.
Tóm lại, kiến thức khoa học đương thời là thành quả đã được đúc kết lại một cách cô đọng và có hệ thống những nhận thức của quá khứ về thực tại khách quan, được thừa nhận là đúng đắn, là chân lý. Khi nghiên cứu khoa học trở thành con đường chủ yếu đi nhận thức thực tại khách quan, thì bước đi đầu tiên của nó là phải tiếp thu, nắm vững kiến thức khoa học đương thời, lấy đó làm nền tảng cũng như làm phương tiện để bước tiếp những bước mới trong việc tìm hiểu khám phá những điều bí ẩn mà quá khứ chưa giải quyết được và cả những điều bí ẩn mới phát sinh. Vì nhận thức của quá khứ về thực tại khách quan còn thiển cận và nông cạn nên tất yếu nghiên cứu khoa học sẽ đến lúc vấp phải những bí ẩn cực kỳ nan giải làm dấy lên một nỗ lực chung trong giới khoa học để cố gắng tìm lời đáp. Kiến thức khoa học đương thời là tinh hoa nhận thức của loài người trong quá khứ và vì trước nhiều thử thách nó đã tỏ ra xác đáng nên cũng trở thành nhận thức chung vì được thừa nhận là duy nhất đúng của khoa học về tự nhiên. Khi kiến thức khoa học đương thời đã được tiếp thu trọn vẹn đến mức thấm nhuần thì nó cũng trở thành như một thứ “trực giác khoa học” đối với một nhà nghiên cứu khoa học, đến nỗi nhà khoa học hầu như không thể quan niệm được lại có thể có một nhận thức thứ hai nào đó khác với nhận thức do kiến thức khoa học đương thời đã chỉ ra, mà vẫn đúng đắn. Nghĩa là lúc này, kiến thức khoa học đương thời đã trở thành một chân lý hiển nhiên đối với nhà khoa học và đồng thời trong tâm trí nhà khoa học cũng bị ngự trị bởi cái gọi là “đức tin khoa học” có tính mù quáng vào kiến thức ấy. Chính cái đức tin có tính vô điều kiện (nhưng thực ra là có điều kiện!) và mù quáng (nhưng cứ tưởng là sáng suốt!) đó đã tạo ra sự bảo thủ của nhà khoa học trong công việc nghiên cứu khoa học của mình. Đến đây, chúng ta đã dễ dàng hiểu được vì sao mà trong lịch sử nghiên cứu khoa học, khi phải nỗ lực khám phá những bí ẩn nan giải còn tồn đọng từ thời quá khứ hay mới phát sinh, các nhà khoa học thường vẫn tìm hướng giải quyết trong phạm vi phù hợp với kiến thức đương thời, hoặc nếu bất đắc dĩ phải đặt những giả thuyết, ý tưởng mới có tính mở rộng kiến thức cũ để tạo điều kiện giải thích rốt ráo hiện tượng thì những thứ ấy cũng phải được quan niệm trên tinh thần cơ bản của kiến thức cũ và đặc biệt là phải đảm bảo không được mâu thuẫn với kiến thức cũ. Phải cho rằng quá trình nghiên cứu khoa học theo hướng này cũng không thiếu những ý tưởng và phát kiến sáng tạo. Nhưng những sáng tạo đó thuộc loại mà chúng ta tạm gọi là những hệ quả rút ra được từ kiến thức khoa học đương thời và có tác dụng bổ sung, làm cho kiến thức ấy trở nên hoàn thiện hơn ở mức độ nhận thức đã định hình của nó.
Thế nhưng, có những bí ẩn lớn lao và hóc búa đến nỗi cho dù các nhà khoa học đã cố gắng hết mức, đã áp dụng mọi phương cách có thể trong phạm vi kiến thức khoa học đương thời, vẫn không thể nào giải quyết được. Tình hình ấy tất yếu đặt ra đòi hỏi khách quan là phải có một bước đi giải tỏa, mang tính đột phá trong nghiên cứu khoa học. Tuy nhiên, để có được bước đi ấy không phải là chuyện dễ dàng, một sớm một chiều. Chính cái niềm tin khoa học đã biến tướng thành đức tin khoa học - một thứ tín ngưỡng giáo điều, vào kiến thức khoa học đương thời được cho là chân lý bất di bất dịch về thực tại khách quan (mà thực ra chỉ là về hiện thực khách quan có phạm vi bị hạn định trong tầm năng lực quan sát và nhận thức chủ quan của quá khứ); đã trở thành một thế lực mạnh mẽ ngăn cản sự triển khai của bước đi đột phá ấy. Cũng chính vì vậy mà trong buổi đầu dò dẫm tìm cách đột phá những bí ẩn làm ách tắc sự phát triển của nhận thức khoa học, những ý tưởng hay suy lý nào tỏ ra “xa lạ” với “thánh đường” kiến thức khoa học đương thời, với “trực giác khoa học” của thời đại đều bị coi là vô lý, thậm chí là ngớ ngẩn, rồ dại và không thể chấp nhận được.
Khi những ý tưởng và suy lý thực sự hàm chứa chân lý và có tính cách mạng nhưng vì quá mới lạ nên bảo thủ khoa học không thể tiếp thu được và do đó cũng làm cho chúng nhanh chóng bị thui chột trong trứng nước, thì đồng thời cũng tồn tại hiện tượng lẩn quẩn, hoang mang mất phương hướng trong nghiên cứu khoa học. Tình hình bế tắc đó gây nên nỗi bức xúc ngày một căng thẳng, nung nấu sự nỗ lực tìm tòi nghiên cứu sâu rộng hơn nữa trong khoa học và trở thành một động lực chính yếu làm xuất lộ thiên tài tại một thời điểm gọi là chín muồi nào đó trong tương lai, đóng vai trò như một thiên sứ đứng ra giải quyết rốt ráo bí ẩn khoa học của thời đại, đồng thời tạo điều kiện hình thành một kiến thức khoa học mới trên nền tảng quan niệm mới về Tự Nhiên đích đáng hơn kiến thức khoa học cũng như quan niệm cũ, nghĩa là mở ra một hiện thực khách quan sâu rộng hơn cho quan sát và nhận thức mà hiện thực khách quan bị hạn chế bởi trình độ quan sát và nhận thức của quá khứ chỉ còn là bộ phận của nó.
Ở một mức độ nhìn nhận nào đó, có thể cho rằng sự xuất hiện thiên tài khoa học tại thời điểm đã định để giải tỏa bế tắc khoa học của thời đại là ngẫu nhiên và đột phá kiểu “đùng một cái”. Nhưng nếu xem xét kỹ thì đó là hiện tượng có tính tất yếu, là kết quả của một quá trình kế thừa, trăn trở, hun đúc, trong hoạt động khoa học của tập thể con người nói chung đồng thời với của cá nhân con người nói riêng, bằng con đường trực tiếp dạy và học cũng  như bằng con đường gián tiếp tâm linh (ở đây, tâm linh được hiểu là những hiện tượng con người chưa hiểu được, có tính thần thánh nhưng không phải do thần thánh vì làm gì có thần thánh!).
Khi khoa học lâm vào khủng hoảng trầm trọng vì bế tắc không giải quyết được bí ẩn thời đại trên cơ sở phải tuân thủ những quan niệm của kiến thức khoa học đương thời, thì niềm tin tuyệt đối vào kiến thức ấy cũng bắt đầu lung lay. Một số nhà khoa học đã tìm lại những ý tưởng và suy lý đã từng bị bảo thủ khoa học loại bỏ trước đây nhưng bắt đầu hé lộ những nét hợp lý để nhìn nhận, xem xét lại. Chúng ta cho rằng thiên tài hơn người thường ở chỗ nhạy bén thấy được cái cốt lõi, tinh túy hợp lý trong cái vẻ bề ngoài phi lý, không hợp lôgic của những ý tưởng, suy lý đi tiên phong và hơn nữa, thấy được mối liên hệ qua lại ẩn chứa điều lớn lao mà những người khác không thấy được hoặc thấy như là những thể hiện có tính tình cờ, ngẫu nhiên, hình thức, kỳ quặc. Từ đó mà thiên tài cũng rút tỉa ra được những tinh túy từ những ý tưởng bị quan niệm chính thống liệt vào hàng lầm lạc, ngớ ngẩn, hoang tưởng và thậm chí là hoàn toàn điên rồ, để làm cơ sở ban đầu xây dựng nên một lý thuyết mới hoàn chỉnh, tổng quát hơn lý thuyết cũ (thường là nhận lý thuyết cũ là bộ phận, là trường hợp riêng của nó), và do đó cũng xác đáng hơn lý thuyết cũ.
Khi lý thuyết mới của thiên tài (hoặc rồ dại!) được thừa nhận rộng rãi một cách “không thể chối cãi được” nữa, thì cũng là lúc lý thuyết cũ phải nhường vai trò chính thống cho lý thuyết mới, nghĩa là lý thuyết mới trở thành quan niệm cơ sở của thời đại để từ đó loài người tiếp tục nhận thức trên bước đường tìm hiểu Tự Nhiên Tồn Tại của mình. Đến lúc này, những ý tưởng góp phần làm nên lý thuyết mới mà trước đó bị cho là ngu ngốc, điên rồ mới được nhìn nhận lại và được tôn vinh hết lời nào là có tính đột phá, đi tiên phong, vượt tầm thời đại, tiên tri, nào là mang nét kỳ diệu, xuất chúng, thiên tài…Trong giai đoạn chuyển hóa cuối cùng ấy, từ gã điên rồ biến thành đấng thiên tài chỉ còn vài bước chân!
Rõ ràng, nếu không có những ý tưởng khoa học (cả đúng lẫn sai) xuất hiện trước và bị đương thời đánh giá là ngu ngốc, điên rồ thì cũng không thể có lý thuyết mới của thiên tài, xuất hiện sau.
Đến đây, chúng ta mới thấy một điều thú vị: trong nghiên cứu khoa học, nhiều khi khó lòng phân biệt được một cách đúng đắn đâu là ngu ngốc, điên rồ, đâu là thiên tài, xuất chúng. Một người bị chê là điên rồ chưa chắc đã điên rồ mà chính những người đánh giá lại là ngu muội. Có thể, một người hôm nay là điên rồ thì ngày mai vụt thành thiên tài và ngược lại, cũng có thể một người hôm nay được tung hô là thiên tài thì ngày mai lại hóa ra ngu ngốc. Hỏi vui rằng, những lý thuyết vang bóng một thời như thuyết địa tâm, thuyết phlôgistôn, thuyết nguyên tử cổ đại… là thành quả mang dấu ấn của thiên tài hay ấu trĩ? Đây là câu hỏi thuộc “siêu phàm” nên câu trả lời cũng phải “siêu phàm”: Vừa thiên tài vừa ấu trĩ, là cả hai mà cũng không phải cả hai!
Trong kho tàng chuyện tiếu lâm có chuyện này: có một anh chàng áo quần bảnh bao, giày mới láng coóng đi dự tiệc. Giữa đường gặp một vũng lầy lớn không thể nhảy qua được. Xung quanh cũng không có một cái gì khả dĩ làm phương tiện để đi qua vũng lầy đó mà không bị ướt và vấy bẩn. Trong cơn bĩ cực một ý tưởng lóe trong đầu chàng ta: dùng tay mình túm tóc mình, tự nhấc mình lên đặt sang bên kia vũng lầy.
Đó là ý tưởng biểu hiện thiên tài hay điên rồ? Nếu hỏi một ngàn người, thậm chí một triệu người, thì ngay tắp lự, mọi người đều cho là điên rồ bởi vì nó phản khoa học. Nhưng phản khoa học ở chỗ nào? Đó là câu hỏi làm cho không ít người phải lúng túng.

(Còn tiếp)
-------------------------------------------------------------------------



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét