Thứ Ba, 2 tháng 7, 2019
BÍ ẨN LỊCH SỬ 101
Khám Phá Hồ Gươm Những Điều Chưa Từng Tiết Lộ Khiến Dân Hà Nội Một Phen Rựng Tóc Gáy
Bí ẩn dưới hồ nước sâu nhất hành tinh: Sau 41 năm, giới khoa học chưa nguôi ám ảnh
Trang Ly |
Ở độ sâu hàng nghìn mét dưới đáy hồ Baikal, những bí ẩn tồn tại nơi đây vẫn luôn khiến giới khoa học bị ám ảnh.
Nằm nép mình trong vùng Siberia hoang dã là hồ Baikal rộng lớn. Vẻ đẹp tĩnh lặng hiếm thấy của Baikal được người ta ví như "Hòn Ngọc của nước Nga".
Với
điểm sâu nhất của hồ đạt 1.642m, Baikal là hồ nước ngọt sâu nhất thế
giới. Không những thế, do hình thành từ cách đây 25 triệu năm, Baikal
cũng là hồ nước cổ nhất trên hành tinh.
Vẻ đẹp nguyên sơ
hiếm thấy cùng những kỷ lục mà Baikal có được chỉ là "phần nổi" của câu
chuyện về "Hòn ngọc của nước Nga". Tương tự như độ sâu hơn 1.600m của
nó, Baikal cũng chứa đựng những câu chuyện kỳ lạ và khó hiểu trong suốt
chiều dài lịch sử.
Có
rất nhiều bí ẩn được người đời truyền tai nhau ở hồ Baikal, một trong
số đó là sự tồn tại bí ẩn của con quái vật khổng lồ trong hồ.
Người
bản địa Buryats sinh sống ven hồ kể lại rằng, họ đã từng chứng kiến một
con quái vật khổng lồ và gọi nó là Lusud-Khan hay Usan-Lobson Khan,
nghĩa là Rồng nước bọc thép. Những người thám hiểm Trung Quốc cũng đã
đến đây và kể lại rằng họ cũng nhìn thấy một sinh vật khổng lồ ẩn mình
trong làn nước xanh ngắt của Baikal và gọi nó với các tên là Thần hồ và
Cá rồng.
Bằng chứng cổ xưa về quái vật hồ Baikal được tìm
thấy trên các hình ảnh chạm khắc trên tấm đá lớn hồ Baikal. Theo đó,
tấm đá nằm làng Askiz có niên đại từ thế kỷ thứ 3 đến thế kỷ thứ 9 Trước
Công nguyên. Trên tấm đá khắc họa hình ảnh quái vật nước bí ẩn, có hình
dáng giống như con thằn lằn có lưỡi chẻ đôi, bộ móng vuốt sắc nhọn cùng
tấm áo giáp dọc theo lưng của nó.
Cũng giống như câu
chuyện về quái vật hồ Lochness của xứ Scotland, quái vật hồ Baikal của
nước Nga rộng lớn vẫn còn nhiều bí ẩn. Ở một vùng hồ rộng lớn có tổng
diện tích bề mặt lên đến 31.722 km2 và sâu hơn 1.600m thì việc chúng ta chưa có bằng chứng xác thực nhất cũng khó mà phủ định những gì mà làn nước kia che giấu.
Đến
thời hiện đại, Baikal lại có những tin đồn liên quan đến sự xuất hiện
của UFO (phương tiện bay được cho là của người ngoài hành tinh).
Nếu
như câu chuyện về quái vật hồ Baikal xuất hiện từ cách đây rất nhiều
năm thì những bí ẩn liên quan đến UFO lại xuất hiện trong thời hiện đại
với những câu chuyện kỳ lạ về vật thể bay khổng lồ được cho là phương
tiện di chuyển của người ngoài hành tinh.
UFO truy sát máy bay Liên Xô?
Có
rất nhiều báo cáo liên quan đến những ánh sáng lạ, UFO và người ngoài
hành tinh tại hồ Baikal. Điều thú vị là, những câu chuyện liên quan đến
UFO tại đây lại đến từ những tập tài liệu bí mật của Hải quân Liên Xô.
Đáng chú ý trong tập tài liệu đó là vụ tai nạn máy bay thương mại khó
hiểu xảy ra năm 1958.
Khi
đó, một máy bay chở khách của Liên Xô là Tupolev Tu-154 gặp nạn và lao
thẳng xuống mặt nước hồ đóng băng. Báo cáo cho hay, vụ tai nạn không hề
liên quan đến các vấn đề kỹ thuật hay do lỗi của phi công trưởng. Nguyên
nhân Tupolev Tu-154 gặp nạn là vì bị một UFO khổng lồ truy đuổi.
Lính Hải quân Liên Xô đụng độ sinh vật dáng người khổng lồ
Hơn
20 năm sau, Baikal lại xuất hiện một câu chuyện kỳ lạ liên quan đến
sinh vật kỳ lạ giống người ngoài hành tinh. Lần này, chính lính hải quân
Liên Xô thuật lại. Theo đó, vào năm 1982, khi đang lặn dưới hồ Baikal,
hải quân Liên Xô bất ngờ đụng độ một sinh vật hình người khổng lồ mặc
một bộ đồ ánh bạc dài đến 50m.
Thợ lặn Hải quân Liên Xo từng đụng độ với sinh vật dáng người khổng lồ dưới Baikal? Nguồn: Mysteriousuniverse
Báo cáo cho hay, 3 thợ lặn hải quân đã chết, 4 người khác bị thương khi cố gắng tiếp cận và đuổi theo sinh vật kỳ lạ.
Trước
công chúng, chính phủ Liên Xô thời đó phủ định tất cả những câu chuyện
liên quan đến UFO và người ngoài hành tinh và liên tục khẳng định rằng,
thứ mà người dân thấy có thể là một hiện tượng siêu nhiên mà con người
chưa thể giải thích rõ ràng. Họ tuyệt nhiên không đề cập đến UFO và sinh
vật kỳ lạ kia.
Luồng sáng bí ẩn dưới hồ Baikal
Trước
khi sự kiện lính Hải quân Liên Xô đụng độ sinh vật dáng người khổng lồ
dưới hồ Baikal xảy ra năm 1982, một sự kiện khác liên quan đến khoa học
cũng khiến nhiều người nghi ngờ sự tồn tại của người ngoài hành tinh.
Đó
là vào năm 1977, khi tàu lặn Paysis (thuộc dự án nghiên cứu khoa học
tại hồ Baikal của các nhà khoa học Liên Xô) chạm đến độ sâu 1.200m thì
bất ngờ gặp trục trặc kỹ thuật, hệ thống đèn của Paysis đột ngột tắt,
không gian xung quanh chìm trong bóng tối lạnh lẽo.
Đột
nhiên, một luồng ánh sáng cực mạnh chiếu thẳng vào con tàu lặn Paysis.
Hệ thống camera ghi hình của Paysis ghi nhận luồng sáng trắng chói mắt.
Sau vài giây, luồng sáng chợt mất, trả lại vùng nước đen đặc quánh.
Cho
đến nay, nguồn gốc bí ẩn luồng sáng dưới hồ Baikal chưa bao giờ được
giải thích một cách thỏa đáng vì thế, luồng sáng mạnh này vẫn còn là bí
mật ám ảnh giới khoa học đến tận ngày nay.
Đó có phải là
ánh sáng phát ra từ phi thuyền của người ngoài hành tinh? Tại sao hệ
thống đèn của tàu lặn phụt tắt? Những bí ẩn sâu 1.200m dưới hồ Baikal
năm 1977 vẫn còn bỏ ngỏ nhiều năm nay.
Nguồn: Mysteriousuniverse, NewYorkminutemag
theo Helino
Tấm bản đồ vượt thời gian và bí ẩn về nền văn minh cổ đại ở Nam Cực!
Hoa Hướng Dương |
Kể từ khi tấm bản đồ Piri được tìm thấy, rất nhiều tranh cãi và câu hỏi đã được đặt ra xoay quanh nó, phải chăng có một nền văn minh bí ẩn đã khám phá Nam Cực?
Châu Nam Cực
là lục địa nằm xa nhất về phía nam của Trái Đất với lớp băng có bề dày
trung bình là 1,9 km bao phủ tới 98% diện tích bề mặt (được bao bọc bởi
Nam Băng Dương), điều đó khiến cho nơi đây trở thành 1 trong những nơi
hẻo lánh, tách biệt với phần còn lại của thế giới.
Với diện tích 14 triệu km2,
châu Nam Cực là lục địa lớn thứ 5 về diện tích, gấp đôi diện tích của
nước Úc. Chính vì sự rộng lớn này, châu Nam Cực vẫn ẩn chứa rất nhiều bí
ẩn mà chúng ta chưa thể khai phá hết được.
Tất
cả những gì chúng ta biết về lục địa này chỉ mới khoảng 170 triệu năm
trước, khi nó là một phần của siêu lục địa có tên gọi là Gondwana (mà
sau này đã tách ra thành châu Nam Cực, Nam Mỹ, châu Phi, Madagascar, Ấn
Độ, bán đảo Arabia, Úc-New Guinea và New Zealand.
Trong
đó, châu Nam Cực được tách ra khỏi siêu lục địa vào 25 triệu năm trước,
các chuyên gia cho biết mặc dù siêu lục địa Gondwana có trung tâm nằm ở
vị trí của châu Nam Cực ngày nay nhưng khí hậu lại rất ôn hòa chứ vì
nhiệt độ khi đó cao hơn bây giờ rất nhiều.
Do
đó, châu Nam Cực cũng từng có hệ động thực vật vô cùng phát triển chứ
không hề lạnh lẽo, khắc nghiệt như hiện nay. Thậm chí, nơi đây từng có
những cánh rừng rậm với những dạng sống cổ đại phát triển mạnh mẽ.
Vậy điều đó có ý nghĩa gì?Giống như các lục địa khác tách ra từ siêu lục địa Gondwana như Nam Mỹ, châu Phi, Ấn Độ... phải chăng Nam Cực cũng từng có con người sinh sống?!
Đã có rất nhiều bản đồ cổ đại mô tả lại việc nhiều phần của Nam Cực từng không bị băng bao phủ, trong đó có một bản đồ rất nổi tiếng và cũng gây tranh cãi rất nhiều vào năm 1513, do đô đốc hải quân Ottoman của Thổ Nhĩ Kỳ có tên Piri Reis (1465/70 - 1553) vẽ trên da linh dương.
Bản đồ Piri được tái hiện 3D với công nghệ hiện đại. Nguồn: Tersine filmler
Phải
mất gần 500 năm sau người ta mới tìm thấy nó (năm 1929 bởi nhà thần học
người Đức, Gustav Adolf Deissmann (1866-1937)) và được nhà Đông phương
học Paul Kahle thẩm định đây chính là bản đồ Piri Reis.
Những
người khi đó đã vô cùng bất ngờ khi phát hiện một số khu vực vốn chưa
từng được con người khám phá, biết tới như vùng Queen Maud Land ở Bắc
Nam Cực tại thời điểm tấm bản đồ ra đời (vì con người lần đầu tiên đặt
chân lên Nam Cực không sớm hơn năm 1820).
Bí ẩn đó khiến người ta phải đặt ra câu hỏi: Tại
sao Piri Reis có thể vẽ lại chính xác bờ biển phía Bắc Nam Cực khi mà
lúc đó, con người còn chưa biết đến sự tồn tại của nơi này?
Đây
là tấm bản đồ được vẽ nên từ rất nhiều nguồn (10 nguồn Ả Rập, 4 bản đồ
xứ Anh điêng và 1 bản đồ của Columbus). Nhiều người cho rằng Piri Reis
đã sử dụng một nguồn bí ẩn từ một nền văn minh cổ đại để vẽ nên tấm bản
đồ này.
Tại
sao Piri Reis có thể vẽ lại chính xác bờ biển phía Bắc Nam Cực khi mà
lúc đó, con người còn chưa biết đến sự tồn tại của nơi này? Ảnh: Yacht
Türkiye
Ý tưởng này được tiến sĩ Charles Hapgood (1904–1982) của Đại học Harvard đề cập trong cuốn sách "Bản đồ Biển Kings cổ đại" (1966) khi ông được cơ trưởng Lorenzo W. Burroughs của lực lượng không quân Hoa Kỳ gửi 1 lá thư.
Trong
đó chỉ ra việc bản đồ Piri dường như đã mô tả chính xác đường bờ biển
Nam Cực trong tình trạng đóng băng và được Erich von Däniken đề cập lại
trong cuốn sách "Cỗ xe ngựa của các vị thần - Chariots of the Gods" xuất bản năm 1968.
Phải
chăng có một nền văn minh hàng hải thời tiền sử đã có ở bên bờ biển Nam
Cực mà chúng ta đã không thể biết tới sự tồn tại của nó vì đã bị lớp
băng dày bao phủ, che lấp dấu vết. Đó vẫn là một bí ẩn với các nhà khoa
học và gây tranh cãi cho tới ngày nay.
Hiện tấm bản đồ Piri Reis đang được cất giữ rất cẩn thận trong thư viện cung điện Topkapi ở Istanbul, Thổ Nhĩ Kỳ.
Bài viết được dịch từ các nguồn: AncientCode, Muslimheritage, Thevintagenews
theo Helino
Các nhà khoa học Nga đi tìm lục địa thần thoại cách đây hàng triệu năm
Cẩm Mai |
Một nhóm nhà khoa học Nga chỉ ra rằng phần còn lại của thềm lục địa Bắc Cực đã làm hình thành lục địa độc nhất trong lịch sử.
Nghiên cứu này khôi phục lại lịch sử của
lục địa. Các nhà khoa học thuộc Viện Địa chất Dầu khí Trofimuk và
chuyên gia thuộc Trung tâm Địa chất và Địa vật lý, chi nhánh Siberia của
Viện Hàn lâm Khoa học Nga đã đưa ra kết luận này sau khi phân tích các
mẫu đá quần đảo Bắc Cực: từ Franz Josef vùng phía bắc đến đảo Bắc Cực Siberia mới.
Kết quả phân tích cho phép các nhà khoa học nhìn lại lịch sử suốt mấy triệu năm qua.
Đối
với nhiều người, khái niệm về lục địa tương ứng với đất liền. Nhưng đối
với các nhà địa chất, thì lục địa bao gồm cả ranh giới ngầm dưới biển.
Các nhà khoa học giải thích rằng lục địa cổ tên là Arctida hình thành
cách đây khoảng 1 tỷ năm. Nó đã tách ra cách đây khoảng 750 triệu năm và
lại gắn liền vào nhau sau 500 triệu năm.
Bản đồ năm 1573 cho thấy lục địa Hyperborea.
Gần
đây, các chuyên gia đã phân tích mẫu đá, giúp họ biết lịch sử của lục
địa đã mất Arctida. Ngày nay. các mảng thạch quyển tạo nên thềm lục địa
được kết hợp vào nhau cách đây hơn 1 tỷ năm - khi chủ yếu các vi sinh
vật cư trú trên Trái Đất, không còn để lại dấu vết nào đến hiện tại.
Arctida
khi đó là một phần của siêu lục địa tên là Rodinia. Cách đây 750 triệu
năm, lục địa này bị chia cắt thành những mảnh vỡ tách nhau bằng đại
dương rộng lớn. Bắc Cực hình thành lần thứ 2 cách đây 250 triệu năm, khi
khủng long bắt đầu cư trú trên Trái Đất. Arctida trở thành một phần của
siêu lục địa khác tên là Pangea.
Sau đó, lục địa Pangea
bị hòa tan thành Bắc Băng Dương. Một phần lục địa Arctida thứ hai lan
đến khắp cực bắc, chủ yếu trở thành thềm Bắc Cực.
Các
nhà nghiên cứu đặt ra giả thuyết rằng: Hyperborea có phải là lục địa
huyền thoại - nơi một nền văn minh cổ đại cư trú không? Khu vực này nằm ở
vùng phía bắc, bắc Thrace. Theo thần thoại Hy Lạp, đó là nơi sinh sống
của một nền văn minh cổ đại tiên tiến, cư dân tuổi thọ cao và sống hạnh
phúc trọn vẹn.
Hyperborea
là nơi đất lành nằm ở Cực Bắc, có ánh sáng suốt 12 giờ mỗi ngày đến nửa
đêm. Tuy nhiên, theo nhà thơ Hy Lạp cổ điển Pindar, Hyperborea không
phải vị trí địa lý có thật,
Các chuyên gia cho rằng, lục
địa đó chỉ là huyền thoại.Nhà nghiên cứu Nikolai Matushkin thuộc chi
nhánh Siberia của Viện Khoa học Nga nói đến giả thuyết rằng Hyperborea -
vượt ra ngoài miền bắc Hy Lạp - nằm ở Arctida cổ đại.
"Chúng
ta đang nói đến một vị trí địa lý tồn tại cách đây hàng trăm tỷ năm, rõ
ràng là không hề có nền văn minh nào" - ông kết luận.
Nguồn bài và ảnh: Curiosmos
theo Helino
Bí ẩn những ngôi đền "vượt thời gian" ở Ấn Độ: Có cái giá trị tới 100 tỉ USD!
Hoa Hướng Dương |
Đây đều là những ngôi đền được xây dựng hàng trăm hay thậm chí cả ngàn năm trước nhưng lại yêu cầu kỹ thuật xây dựng hiện đại mới có thể làm được.
Được xây dựng hàng ngàn năm trước, tuy nhiên bạn sẽ phải kinh ngạc trước lối kiến trúc vượt thời đại của những ngôi đền
cổ dưới đây. Sự sắp xếp chính xác tới từng milimet những khối đá khổng
lồ, có khối nặng hơn 80 tấn vẫn là bí ẩn trong việc xây dựng chúng.
Ngôi đền Brihadeeswarar - tòa tháp chọc trời thách đố các nhà khoa học
Ngôi
đền có tên Brihadeeswarar là một ngôi đền vô cùng quan trọng của người
Ấn Độ, nó được vua Rja Rja Chola I xây dựng vào năm 1010, có độ cao lên
tới 66 m (là một trong các ngôi đền cao nhất thế giới).
Tọa
lạc trên một khu vực có diện tích 320.000 km2 ở Thanjavur, Ấn Độ, nó
cũng là ngôi đền bằng đá granite đầu tiên trên thế giới được hoàn thành
mà bí ẩn của nó vẫn đang thách thức các nhà khoa học hiện đại. Trong đó
câu đố lớn nhất mà vẫn chưa có lời giải là:
Làm
thế nào con người thời đó với trình độ khoa học của thế kỷ 11 lại có
thể di chuyển những khối đá nặng tới hơn 80 tấn (như khối Kumbam ở đỉnh)
từ khoảng cách 60 km và đặt chúng một cách chính xác hoàn hảo lên đỉnh
ngôi đền?
Ước tính có tới 130.000 tấn
đá granite đã được dùng để xây dựng toàn bộ đền thờ. Ngoài ra, bí ẩn về
việc các thợ điêu khắc làm thế nào để chạm khắc bức tượng thần bò Nandi
nặng 20 tấn chỉ trên một phiến đá duy nhất cũng chưa có lời giải.
Ngôi đền Konark Sun - đền thờ Mặt Trời
Ngôi
đền thờ thần Mặt Trời này được xây dựng theo phong cách truyền thống
của kiến trúc Kalinga vào thế kỷ 13 ở cửa sông Chandrabhaga, Konark,
Orissa, phía Đông Ấn Độ bởi vua Narasimhadeva I của triều đại Đông Ganga
khoảng năm 1250.
Toàn bộ cấu trúc
của nó mô phỏng một cỗ xe ngựa khổng lồ của thần Mặt Trời Surya với 12
cặp bánh xe bằng đá Khondalite khổng lồ có đường kính 3m và chạm trổ rất
tinh vi, công phu kéo bởi 7 cặp ngựa đá. Cổng đền hướng về phía Đông.
Ngoài
những hình ảnh về các nam thần, nữ thần, chiến binh, động vật, các loài
chim hay vũ công, đền thờ còn có những hình ảnh nhạy cảm về cặp cặp đôi
nam nữ đậm chất Tantrics thể hiện sự hòa hợp giữa tình dục và tôn giáo.
Hiện
nay, ngôi đền chỉ còn lại một phần tàn tích do bị tàn phá bởi thời
gian, cấu trúc chính để bái đường ban đầu thậm chí còn cao tới 70 m.
Trong
đó các nhà khoa học tin rằng ở đỉnh đền thờ còn có khối nam châm nặng
52 tấn giúp các bức tưởng có thể treo lơ lửng trong không khí nhưng đã
bị sụp đổ vào thế kỷ 17.
Năm 1984, nó đã được UNESCO công nhận là Di sản thế giới cũng như nằm trong Danh sách bảy kỳ quan tại Ấn Độ của tạp chí Times.
Đền thờ Padmanabhaswamy - ngôi đền giàu có nhất Ấn Độ và lời nguyền đáng sợ
Tọa
lạc ở Thiruvananthapuram, bang Kerala, được xây dựng vào thế kỷ 16, nó
từng thuộc sở hữu của vua Marthanda Varma vương triều cổ Travancore
trước khi phải chuyển giao quyền chủ quản cho chính quyền bang Kerala
năm 1949.
Đền thờ Sree
Padmanabhaswamy là nơi thờ vị thần bảo hộ Vishnu của đạo Hindu, nếu nhìn
từ xa bạn cũng có thể choáng ngợp trước lối kiến trúc độc đáo của nó,
nếu có nắng chiếu vào, toàn bộ đền thờ sẽ sáng lên như một khối vàng
khổng lồ.
Thực tế, nó cũng chính là
ngôi đền nắm giữ kỷ lục giàu có nhất thế giới vì chứa nhiều vàng, ki và
đá quý. Chẳng thế mà nó luôn thu hút những kẻ trộm kho báu đến đây. Kiến
trúc của đền thờ cũng vô cùng độc đáo với 6 đường hầm được đánh dấu từ A
đến F.
Muốn đi vào "khó báu", kẻ
trộm sẽ phải đi qua sáu cửa này với những bức tượng rắn bằng đá canh giữ
mà để mở chúng thì không phải là một điều dễ dàng, thậm chí dẫn đến
những tai họa cho kẻ đột nhập vì lời nguyền cổ xưa.
Năm
2001, các nhà khảo cổ học đã khai quật đường hầm A và chỉ tính riêng
kho báu ở nơi đây cũng đã khiến bất cứ ai cũng phải choáng ngợp:
Sợi
dây chuyền vàng dài đến 6 m, nặng khoảng 2,5 kg, hàng ngàn trang sức đá
quý, tượng thần khảm 1.000 viên kim cương, ngọc lục bảo, vương miện...
Báo Asia Times ước tính giá trị trong ngôi đền có thể hơn 100 tỉ USD nếu
khai quật hết các đường hầm.
Hiện
nay, những nhà chức trách phải giới nghiêm khu vực đền thờ với lực
lượng cảnh sát dày đặc nhằm giữ gìn an ninh trật tự vì sự hấp dẫn của
kho báu mà đền thờ này ẩn chứa.
Đền thờ Kailasa - ngôi đền được đục khắc chỉ từ một khối đá duy nhất!
Đền
Kailasa tại hang động Ellora ở núi Kailash, Maharashtra (Ấn Độ), toàn
bộ ngôi đền chỉ được xây dựng từ một khối đá (nguyên khối) duy nhất với
độ sâu 50m, rộng 33m và cao 30m. Ngôi đền cũng chính là 1 trong những
công trình kiến trúc nguyên khối lớn nhất thế giới.
Ngôi
đền được xây dựng từ hàng ngàn năm trước (thế kỷ 5- 10 SCN) bởi vua
Krishna I, thuộc triều đại Rashtrakuta (thế kỷ thứ 6 đến thế kỷ thứ 10)
cho thấy trình độ văn minh phát triển vượt bậc thời bấy giờ, đáng ngạc
nhiên.
Chính bí ẩn xây dựng ngôi đền
với những công cụ thủ công thời bấy giờ là câu đố lớn nhất đối với các
nhà khoa học. Không ái biết người ta đã xây dựng nên ngôi đền theo lối
kiến trúc Dravidian (kiến trúc chóp vuông với các chi tiết được chạm
khắc tỉ mỉ) như thế nào?
Nhất là việc
người thời đó tách đá tảng ra khỏi núi đá 30 m để làm cột trụ, ước tính
có tới 400.000 tấn đá được dùng để xây dựng trong suốt 20 năm. Ngôi
đền Kailasa được xây dựng để thờ thần Shiva của đạo Hindu – vị thần tối
cao tượng trưng cho sự tái tạo và hủy diệt.
Bài viết được dịch từ các nguồn: Ancient-code, India, Thekonark, Ancientexplorers
theo Helino
Kích cỡ rộng lớn của máy dò Super-K. Ảnh: Đại học Tokyo
Ẩn sâu 1000m dưới đất, cỗ máy săn loại hạt có thể xuyên qua lớp thép dày 100 năm ánh sáng
Nguyễn Hằng |
Cỗ máy ngầm có khả năng tìm kiếm neutrino, loại "hạt ma" có khả năng xuyên qua lớp thép dày bằng 100 năm ánh sáng mà không hề giảm tốc.
Nằm sâu 1000 mét dưới núi Ikeno ở Nhật Bản, khung cảnh lung linh hệt như trong mơ của Super-Kamiokande (hay Super-K) là đài quan sát hat máy dò neutrino hay còn được các nhà vật lý gọi là "hạt ma", thuộc một trong số các loại hạt cơ bản cấu thành nên vật chất.
Sở dĩ có tên gọi là "hạt ma" vì neutrino có thể xuyên qua không gian vũ trụ và vật chất rắn mà không cần tương tác với các vật chất thông thường.
Nghiên
cứu về hạt neutrino sẽ giúp các nhà khoa học có thể phát hiện được
những ngôi sao đang sắp chết và tìm hiểu nhiều hơn về vũ trụ.
Tuy nhiên, các hạt Netrino lại rất khó phát hiện, đến mức nhà vật lý thiên văn Neil deGrasse gọi vui chúng là "con mồi khó nắm bắt nhất trong vũ trụ".
Ông Neil deGrasse giải thích rằng do "cỗ máy" hay căn phòng phát hiện neutrino được đặt nằm sâu trong lòng đất để nhằm ngăn chặn các hạt khác xâm nhập vào.
"Vật
chất không phải là trở ngai đối với neutrino. Trên thực tế, hạt
neutrino có thể đi xuyên qua lớp thép dày bằng 100 năm ánh sáng mà không
hề bị giảm tốc độ", ông deGrasse cho biết thêm.
Yoshi Uchida, nhà nghiên cứu tại ĐH Hoàng gia London, cho biết: "Nếu
có một vụ nổ siêu tân binh, một ngôi sao sẽ sụp đổ vào trong và biến
thành hố đen. Nếu quá trình đó xảy ra trong thiên hà của chúng ta, thì
Super-K là một trong rất ít vật thể có thể quan sát hạt neutrino từ đó".
Trước
khi một ngôi sao bắt đầu sụp đổ, nó bắn ra hạt neutrino, do vậy,
Super-K đóng vai trò giống như một hệ thống cảnh báo sớm, giúp cho các
nhà nghiên cứu biết về thời điểm có thể quan sát thấy sự kiện thiên văn
độc đáo này.
Nhà nghiên cứu Uchida chia sẻ: "Kết
quả từ những phép tính chỉ ra rằng cứ sau khoảng 30 năm thì sẽ có một
vụ nổ siêu tân tinh xảy ra nằm trong phạm vi tầm quan sát của cỗ máy
Super-K. Nếu bỏ lỡ thì bạn sẽ phải chờ đợi trung bình khoảng vài thập kỷ
tới để nhìn thấy vụ nổ tiếp theo".
Bắn chùm hạt neutrino qua Nhật Bản
Không
chỉ thu giữ các hạt neutrino rơi xuống từ vũ trụ, Super-K còn đón nhận
chùm hạt neutrino bay ở khoảng cách 295km xuyên qua Trái Đất và được bắn
ra từ thí nghiệm T2K ở Tokai, Nhật Bản.
Super-K là đài quan sát có thể phát hiện và nhận biết được thay đổi của các hạt neutrino. Ảnh: ĐH Tokyo
Theo
các chuyên gia, việc nghiên cứu các hạt neutrino thay đổi hay dao động
khi chúng đi qua vật chất có thể cho chúng ta biết thêm về nguồn gốc của
vũ trụ, chẳng hạn như mối quan hệ giữa vật chất và phản vật chất.
Morgan Wascko, nhà nghiên cứu tại ĐH Hoàng gia London, chia sẻ: "Mô
hình vụ nổ Big Bang của chúng tôi dự đoán rằng vật chất cân bằng với
phản vật chất, nhưng hiện nay phần lớn phản vật chất đã biến mất theo
cách này hay cách khác".
Cách thức Super-K phát hiện neutrino
Nằm sâu bên dưới mặt đất 1.000 mét, Super-K to lớn như một tòa nhà 15 tầng và trông giống như bể chứa khổng lồ chứa tưới 50.000 tấn nước siêu tinh khiết.
Theo
Uchida, điều này xảy ra là vì khi di chuyển trong nước, hạt neutrino
thậm chí còn chuyển động nhanh hơn cả ánh sáng. Chúng sẽ tạo ra ánh sáng
giống như cách mà máy bay Concord sử dụng để tạo ra tiếng nổ siêu
thanh.
Nhà nghiên cứu Uchida giải thích: "Nếu
một máy bay di chuyển rất nhanh, nhanh hơn cả tốc độ âm thanh, thì nó
sẽ tạo ra sóng xung kích theo cách mà vật thể chậm hơn không làm được.
Tương tự khi một hạt di chuyển trong nước, nếu đi nhanh hơn cả tốc độ
ánh sáng trong nước thì nó cũng có thể tạo ra sóng xung kích ánh sáng".
Căn
phòng rộng lớn hay cỗ máy quy mô này được lắp 11.000 bóng màu vàng. Đây
là những thiết bị dò ánh sáng cực nhạy, được gọi là ống nhân quang, và
chúng có thể nhận biết các sóng xung kích này.
Wascko
mô tả thiết bị này giống như "phiên bản ngược của bóng đèn". Sau khi
được lắp đặt, chúng có thể phát hiện ra lượng ánh sáng cực nhỏ và chuyển
đối thành dòng điện để có thể quan sát.
Nước tinh khiết trong Super-K: Sạch hết mức có thể
Theo
các chuyên gia, để các sóng xung kích ánh sáng này chạm tới được các
máy cảm biến, nước tinh khiết cần phải sạch hết mức co thể. Cụ thể,
Super-K liên tục lọc và làm sạch nước trong đó, đến độ bắn tia UV để có
thể tiêu diệt bất kỳ vi khuẩn nào.
Uchida giải thích: "Nước
siêu tinh khiết sẵn sàng hòa tan mọi thứ được ngâm trong đó. Có đặc
tính của axit và chất kiềm, nó là thứ rất đáng sợ. Nếu bạn ngâm mình
trong nước tinh khiết ở Super-K, bạn sẽ bị tróc da một chút cho dù không
mong muốn".
Ngoài ra, chuyên
gia Wascko tiết lộ, khi Super-K cần bảo dưỡng, các nhà nghiên cứu sẽ cần
chèo thuyền cao su nhỏ để tiến hành lắp đặt và thay thế cảm biến. Trên
thực tế, công việc này không hề dễ dàng chút nào.
Việc
thay thế và lắp đặt các cảm biến không hề đơn giản, các chuyên gia phải
sử dụng một chiếc thuyền đặc biệt trong Super-K. Ảnh: ĐH Tokyo
Super-K 2.0: Xuất hiện cỗ máy dò neutrino vượt trội hơn
Cỗ
máy Super-K có thể rất lớn, nhưng Wascko cho biết rằng một máy dò
neutrino lớn hơn mang tên "Hyper-K" cũng đã được đề xuất xây dựng.
Nhà nghiên cứu Wascko cho biết thêm: "Chúng
tôi đang cố gắng để thử nghiệm Hyper-K được thông qua và cỗ máy sẽ bắt
đầu đi vào hoạt động vào khoảng năm 2026. Hyper-K sẽ lớn hơn gấp 20 lần
so với cỗ máy Super-K về thể tích và được trang bị tới 99.000 ống nhân
quang, vượt trội nhiều hơn so với con số 11.000 của Super-K".
Tham khảo nguồn: BI, Sciencealert
theo Helino
Ảnh minh họa
Ảnh mang tính minh họa.
Bí ẩn cung điện dát vàng của cháu nội Thành Cát Tư Hãn: Ngay bên dưới Tử Cấm Thành
Nguyễn Hằng |
Các nhà khảo cổ tìm thấy cung điện dát vàng xa hoa của Hốt Tất Liệt, cháu nội và là người kế thừa sự nghiệp chinh phạt xuất sắc của Thành Cát Tư Hãn.
Trước đó, trong nhiều thế kỷ qua, vị trí của cung điện xa hoa của Hốt Tất Liệt (cháu nội Thành Cát Tư Hãn)
dưới thời nhà Nguyên (1271-1368) tại thành phố Bắc Kinh vẫn còn là ẩn
số lớn đối với các sử gia vì manh mối và bằng chứng rất ít.
Tuy nhiên, theo tờ South China Morning Post,
các nhà nghiên cứu, chuyên gia khảo cổ học tại Viện Bảo tàng Cố Cung
tin rằng cung điện rộng lớn của nhà Nguyên (Nhà Nguyên do hoàng đế Hốt
Tất Liệt sáng lập ra vào năm 1271) nằm ngay dưới chân của Tử Cấm Thành (hay Cố Cung) - công trình nối tiếng bậc nhất ở Bắc Kinh được xây dựng từ năm 1406-1420.
Cụ
thể, các chuyên gia phát hiện thấy tàn tích của cung điện này nằm ở bên
dưới nền móng của Tử Cấm Thành, hoàng cung của hai triều đại nhà Minh
(1368-1644) và nhà Thanh (1636-1912).
Bắt
đầu tiến hành khai quật các cuộc khai quật tại trung tâm tổ hợp cung
điện Tử Cấm Thành vào năm 2014, các chuyên gia phát hiện một trong các
địa điểm khai quật có tới 4 tầng móng, trong đó tầng móng nhà Thanh ở
trên cùng, nhà Minh ở giữa và tầng móng của nhà Nguyên thì nằm ở cuối
cùng.
Theo kết quả công bố
vào tháng 6/2016, các nhà nghiên cứu cho biết, họ tìm thấy nền đất dày
khoảng 3 mét ở tầng dưới cùng của một khu vực khai quật nằm giữa hoàng
cung Tử Cấm Thành, có niên đại khoảng 700 năm.
Điều
này khiến các nhà nghiên cứu tin chắc rằng đây là tàn tích của cung
điện nhà Nguyên mà Hốt Tất Liệt sáng lập ra, vì triều đại này tồn tại
trong khoảng gần 100 năm.
Ngoài
ra, theo nhà nghiên cứu Wang Guangyao tại Viện Bảo tàng Cố Cung, những
dấu vết được phát hiện bên dưới cung điện Tử Cấm Thành cũng tương tự
như các bằng chứng tìm thấy ở tàn tích Zongdu, một trong 4 đô thành lớn
của nhà Nguyên.
"Từ góc
độ lịch sử, phát hiện này cho chúng ra bằng chứng rằng lịch sử kiến
trúc không bị gián đoạn từ triều Nguyên đến nhà Minh, nhà Thanh. Chúng
có thể cho chúng ta một hướng để khám phá trong tương lai", nhà nghiên cứu Wang Guangyao nhận định về việc phát hiện nền móng của cung điện nhà Nguyên.
Tuy nhiên, theo các nhà khảo cổ học, ngay cả khi phát hiện được vị trí tọa lạc của cung điện nhà Nguyên, nhưng công tác khai quật, tiến hành đào xới đất lại không được phép,
nên quá trình nghiên cứu và ghép nối những mảnh ghép để kết nối những
bằng chứng về công trình này có thể mất nhiều thời gian chờ đợi và thu
thập.
Các
chuyên gia khảo cổ hy vọng trong tương lai gần, phát hiện đặc biệt về
cung điện của Hốt Tất Liệt sẽ được sáng tỏ và có thể cho du khách tới Tử
Cấm Thành có cơ hội được chiêm ngưỡng.
Cung điện xa hoa, nhiều bức tường được dát vàng
Marco
Polo, nhà thám hiểm nổi tiêng phương Tây gốc Venezia (Ý), người từng có
cơ hội đặt chân tới Trung Quốc vào thế kỷ 13, cho biết, cung điện của
Hốt Tất Liệt là "cung điện to lớn nhất".
Ông Marco Polo từng viết trong tập du ký của mình rằng: "Cung điện được làm bằng gỗ, được kết nối nhờ 200 dây lụa và có thể dễ dàng tháo dỡ và vận chuyển khi hoàng đế vi hành".
Tờ South China Morning Post (SCMP) mô tả, những bức tường được "phủ bằng vàng và bạc, sảnh chính trong cung điện lớn tới mức có thể dễ dàng chứa được tới 6.000 người dùng yến tiệc".
Những
bằng chứng trên cho thấy, có thể cung điện của Hốt Tất Liệt rất rộng
lớn và vô cùng xa hoa. Nhiều chuyên gia cho rằng, cung điện này đã bị
những người thợ thời nhà Minh phá bỏ để xây dựng Tử Cấm Thành.
Hốt Tất Liệt (1215-1294)
là một trong những vị hoàng đế nổi tiếng nhất trong lịch sử Trung Hoa.
Ông là cháu nội của nhà quân sự tài ba Thành Cát Tư Hãn (người sáng lập
ra Đế quốc Mông Cổ), và được nhiều người coi là một người cai trị khôn
ngoan.
Mặc dù là người
sáng lập ra nhà Nguyên và giữ vai trò quan trọng trong lịch sử nhưng vị
trí và quy mô cung điện của Hốt Tất Liệt vẫn còn là một bí ẩn lớn mà các
nhà nghiên cứu đang tìm kiếm.
Tham khảo nguồn: SCMP, Ancientorigins
theo Helino
Cung thủ Mông Cổ: Đội quân khuynh đảo thế giới của Thành Cát Tư Hãn, có thể bắn xa 200m
Nguyễn Hằng |
Đại quân Mông Cổ thiện chiến của Thành Cát Tư Hãn từng làm khuynh đảo thế giới nhờ sở hữu kỹ thuật bắn cung đặc biệt trên lưng ngựa mà rất ít người có thể làm được.
Chiến thuật chiến đấu của đại quân Mông Cổ vốn phụ thuộc nhiều vào những con ngựa khỏe mạnh, nhanh nhẹn và có sức bền cao. Cùng với đàn ngựa chiến và kỹ thuật bắn cung thiện xạ, đế chế Mông Cổ ngày càng hùng mạnh dưới sự lãnh đạo của nhà quân sự tài ba Thành Cát Tư Hãn.
Họ
diễn tập trong các trận đánh từ nhỏ tới lớn để có thể phản ứng nhanh và
tìm ra quyết sách chống lại kẻ địch. Nhờ được đào tạo và rèn luyện
thường xuyên, giúp người Mông Cổ trở thành những cung thủ thiện xạ với
khả năng chiến đấu "đáng sợ".
Quân đội Mông Cổ chủ yếu sử dụng các cây cung được làm bằng nhiều nguyên liệu như gỗ, sừng, tre và gân động vật. Mỗi người lính thường được trang bị từ 2-3 cây cung và nhiều tên bắn.
Những mũi tên của quân Mông Cổ có thể dài tới 100cm, cũng được sáng chế rất sáng tạo, phù hợp với từng trận chiến mà họ phải đối mặt với kẻ thù như mũi tên xuyên giáp, mũi tên gắn lông chim ở đuôi để bay xa hơn,...
Khác với những đội quân khác, cung thủ Mông Cổ có thể bắn được nhiều mục tiêu cùng một lúc ngay trên lưng ngựa ở khoảng cách xa. Thậm chí, họ được rèn luyện để có thể bắn tên theo bất kỳ hướng nào, ngay cả sau lưng.
Cung tên của đội quân Mông Cổ có sức mạnh rất lớn, những mũi tên được bắn ra có thể xuyên qua tấm áo giáp của kẻ thù ở khoảng cách gần.
Khả năng bắn tên chính xác của binh lính Mông Cổ cũng rất ấn tượng. Họ có thể bắn chết kẻ địch đang cưỡi ngựa từ xa.
Vó
ngựa Mông Cổ uy mãnh cùng khả năng sử dụng cung tên tài tình đã giúp
đội quân của Thành Cát Tư Hãn chinh phục tới một nửa thế giới, từ Trung
Quốc tới Hungary, Ấn Độ tới nước Nga rộng lớn. Đây thực sự là một chiến tích phi thường mà hiếm có đế chế nào làm được trong lịch sử.
Mông
Cổ xuất phát điểm chỉ là một nước nhỏ khi xét về quy mô dân số. Nhưng
cách đây 800 năm, đội quân kỵ binh giỏi cưỡi ngựa, bắn cung của họ đã
từng làm "rung chuyển" thế giới.
Cung thủ Mông Cổ: Bậc thầy chiến đấu với kỹ thuật bắn tên thiện xạ
Cung
thủ là một phần quan trọng trong đội quân của Thành Cát Tư Hãn. Người
Mông Cổ có thể săn bắn ngay sau khi họ có thể cầm được cây cung. Cũng
giống như cưỡi ngựa, những binh lính Mông Cổ thường xuyên rèn luyện khả
năng bắn cung, với bia bắn cách xa tới 200m.
Khả năng sử dụng cung tên "bậc thầy", giúp đại quân Mông Cổ đánh bại được nhiều đội quân hùng mạnh trên thế giới. Ảnh: Internet
Quân đội Mông Cổ chủ yếu sử dụng các cây cung được làm bằng nhiều nguyên liệu như gỗ, sừng, tre và gân động vật. Mỗi người lính thường được trang bị từ 2-3 cây cung và nhiều tên bắn.
Những mũi tên của quân Mông Cổ có thể dài tới 100cm, cũng được sáng chế rất sáng tạo, phù hợp với từng trận chiến mà họ phải đối mặt với kẻ thù như mũi tên xuyên giáp, mũi tên gắn lông chim ở đuôi để bay xa hơn,...
Khác với những đội quân khác, cung thủ Mông Cổ có thể bắn được nhiều mục tiêu cùng một lúc ngay trên lưng ngựa ở khoảng cách xa. Thậm chí, họ được rèn luyện để có thể bắn tên theo bất kỳ hướng nào, ngay cả sau lưng.
Cung tên của đội quân Mông Cổ có sức mạnh rất lớn, những mũi tên được bắn ra có thể xuyên qua tấm áo giáp của kẻ thù ở khoảng cách gần.
Khả năng bắn tên chính xác của binh lính Mông Cổ cũng rất ấn tượng. Họ có thể bắn chết kẻ địch đang cưỡi ngựa từ xa.
Bên
cạnh đó, đội quân Mông Cổ cũng sử dụng nhiều loại vũ khí khác nhau như
kiếm lưỡi cong, chùy, búa và dao găm giúp họ dễ dàng xử lý khi chiến đấu
trên ngựa và trên bộ.
Tôn kính ngựa và chiến thuật chiến đấu đặc biệt của đội quân Thành Cát Tư Hãn
Đội
quân Mông Cổ rất tôn kính ngựa và chăm sóc cho chúng. Thông thường, mỗi
người lính đều có từ 4-6 con ngựa. Đặc biệt, họ sẽ luân chuyển việc
cưỡi từng con ngựa trong khi tham gia chiến đấu, để đảm bảo không có một
con ngựa nào bị cạn kiệt sức lực.
Điều này góp phần tăng khả năng linh hoạt cho quân đội Mông Cổ. Họ có thể đi được rất xa, khoảng gần 100 đến 160 km/ ngày.
Giống
ngựa của người Mông Cổ tuy nhỏ nhưng nhanh nhẹn, chúng có thể sinh tồn
được ngay ở ở trong những môi trường thưa thớt cỏ nhất. Ngựa Mông Cổ có
độ bền tuyệt vời và có thể chạy một quãng đường dài mà không bị đuối
sức.
Những con ngựa này cũng được mặc giáp, hay che chắn bằng những lớp kim loại ở các vị trí trọng yếu khi tham chiến.
Tướng lĩnh Mông Cổ và con ngựa được trang bị đầy đủ giáp sắt và vũ khí chiến đấu. Ảnh: TheConversation
Chiến thuật chiến đấu của đội quân thiện chiến này bắt nguồn từ lối sống du mục của người Mông Cổ.
Những
binh lính Mông Cổ đã trải qua cuộc sống trên lưng ngựa, chăn thả gia
súc và săn bắn để sinh tồn trên các thảo nguyên rộng lớn. Chính vì vậy,
những kỹ năng này dễ dàng được họ vận dụng sang các trận chiến.
Theo
đó, quân đội Mông Cổ được huấn luyện hàng ngày trong các cuộc đua ngựa,
bắn cung, chiến đấu tay đôi trong các trận chiến và các cuộc tập trận
từ quy mô nhỏ tới lớn.
Do đó, những binh lính của Mông Cổ có thể dễ dàng bắn cung ngay trên lưng ngựa với khả năng chính xác rất cao.
Các
tướng lĩnh của đội quân Mông Cổ cũng thường xuyên cố gắng rèn luyện khả
năng dự đoán mọi động thái của quân địch, và sau đó huấn luyện cho các
binh lính của họ nhằm đưa ra những chiến thuật thông minh nhất để đáp
trả.
Tất
cả chiến binh Mông Cổ và những con ngựa của họ đều được huấn luyện liên
tục, khiến họ trở thành một lực lượng chiến đấu có kỷ luật tốt nhất
trên thế giới.
Trái
lại, quân đội ở các nước châu Âu lúc bấy giờ chỉ có một vài chiến binh,
hiệp sĩ, quân nhân được huấn luyện bài bản. Trong khi đó, số người phải
đi lính như nông dân, thợ rèn thì chỉ nhận được một hoặc hai ngày rèn
luyện chiến đấu.
Điều
này cho thấy sự khác biệt và đó cũng là bí mật giúp đội quân của Thành
Cát Tư Hãn hùng mạnh, trở thành nỗi ám ảnh của nhiều quốc gia Âu-Á cách
đây 800 năm.
Lối
đánh của đội quân Mông Cổ nổi tiếng vì sử dụng những "mưu mẹo" trong
trận chiến. Bên cạnh kỷ luật nghiêm ngặt, giao liên, tình báo và khả
năng liên kết chặt chẽ khi tham chiến, người Mông Cổ liên tục học hỏi
và đặt ra một số chiến thuật chiến đấu sáng tạo nhất để sử dụng.
Không chỉ cưỡi ngựa, bắn cung giỏi, đội quân Mông Cổ của Thành Cát Tư Hãn còn rất giỏi chiến thuật trong chiến đấu. Ảnh minh họa
Họ
thường đánh nhanh thắng nhanh và bất ngờ giả thua rồi tiến hành đột
ngột tấn công. Ngoài ra, chiến thuật mà đội quân của Thành Cát Tư Hãn
hay sử dụng đó là chia nhỏ đội hình, vờ rút lui, tấn công du kích nhằm
khiến quân địch có cảm giác choáng ngập.
Việc
tấn công hai bên sườn, bao vây và bắn một loạt "cơn mưa cung tên" của
quân Mông Cổ cũng khiến quân địch mất tinh thần, rối loạn.
Khả
năng cưỡi ngựa điêu luyện, sử dụng cung tên thiện xạ cùng với việc có
những người chỉ huy tài ba như Thành Cát Tư Hãn với khả năng đề ra những
chiến thuật quân sự độc đáo, tổ chức và thích ứng với từng trận chiến,
đã giúp đại quân Mông Cổ trở nên "bất khả chiến bại".
Ấn
tượng với khả năng cưỡi ngựa, sử dụng cung tên chiến đấu mà không hề sợ
hãi, một số nhà văn quân sự thậm chí còn ví đội quân Mông Cổ của Thành
Cát Tư Hãn như là "tên lửa đạn đạo liên lục địa của thế kỷ 13".
Thành Cát Tư Hãn (1162-1227) là người sáng lập ra Đế chế Mông Cổ sau khi hợp nhất các bộ lạc ở vùng đông bắc châu Á năm 1206.
Vị
Khả hãn Mông Cổ này được coi là một trong những nhà lãnh đạo, nhà quân
sự lỗi lạc và có vai trò rất quan trọng trong lịch sử thế giới.
Ông
luôn được người Mông Cổ dành cho sự tôn trọng cao nhất. Lãnh thổ Mông
Cổ dưới thời Thành Cát Tư Hãn trị vì trải rộng từ Á sang Âu, bao gồm
nhiều khu vực như Trung Quốc, Hàn Quốc, Nga, Hungary, Đông Âu,...
Tham khảo nguồn: Historyonthenet, Warriorsandlegends
theo Helino
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét