Tháng Giêng năm 2016 đánh dấu ngày kỷ niệm một sự kiện lớn trong lịch sử hải quân Anh mà ít người biết đến.
Vào ngày 24
và 29 tháng 1/1945, máy bay Anh đã thực hiện 2 cuộc tấn công táo bạo
giữa ban ngày vào các nhà máy lọc dầu của Nhật Bản ở Palembang, Sumatra.
Với hơn 100 máy bay xuất kích từ hàng không mẫu hạm và 200 phi hành
đoàn, đây là chiến dịch không vận riêng lẻ lớn nhất của hải quân Hoàng
gia Anh trong Thế chiến thứ 2.
Anh tổn thất 41 máy bay Anh trong 378 phi vụ. 30 phi công Anh thiệt mạng, trong số này có 10 phi công bị lính Nhật hành quyết.
Vụ tấn công trực diện do quân Đồng minh
tiến hành nhằm vào một trong các vị trí chiến lược nhất bên trong lãnh
thổ do Nhật Bản kiểm soát khi ấy cho thấy phe Đồng minh điều chỉnh chiến
lược theo hướng đẩy nhanh nhịp độ cuộc chiến trong bối cảnh cuộc chiến
tranh chống phát xít Nhật Bản đang bước sang một ngã rẽ mới.
Khơi mào đòn cảm tử
Tuy nhiên cuộc tấn công của Anh đã “chọc
vào ổ kiến lửa”. Phía Nhật đã đáp trả, bằng loạt tấn công cảm tử bằng
máy bay nhằm vào chiến hạm Anh lần đầu tiên.
Một sĩ quan Anh sau đó thừa nhận: “Với tư
cách là một vũ khí khủng bố, chiêu kamikaze này thực sự gây ra những trở
ngại nhất định... Cho dù bạn ở đâu, những phi công cảm tử này chỉ chăm chăm lao vào bạn.”
Thủ tướng Anh Winston Churchill đã hối thúc các chỉ huy “đào sâu suy nghĩ để tìm ra giải pháp cho mối nguy hiểm lớn này”.
Những người dám liều mình như thế này là ai và tại sao Nhật Bản dùng đến các biện pháp cực đoan như vậy?
Hồi tháng 10/1944 quân Mỹ bắt đầu cuộc chiến giành giật lại Philippines mà Nhật Bản đã chiếm đóng từ 2 năm trước đó.
Nhật Bản
biết lực lượng không quân của mình không phải là đối thủ của không quân
phe Đồng mình. Họ đã nhanh chóng chịu tổn thất về phi công và máy bay.
Trước tình cảnh này, Nhật Bản quyết định gắn những quả bom nặng hơn 2 tạ
vào máy bay của họ rồi lao thẳng những chiếc phi cơ này vào mục tiêu
nhằm gây ra thiệt hại lớn hơn so với các cuộc tấn công thông thường.
Trong một cuộc tấn công liều chết, cơ may
đánh trúng một chiến hạm tăng lên thêm 15-20%. Ban lãnh đạo Nhật Bản
tính toán rằng, nếu người Mỹ bị đổ máu đến một ngưỡng nào đó thì Tổng
thống Mỹ Roosevelt sẽ phải chịu nhượng bộ trước áp lực của công chúng,
sẽ không còn bụng dạ nào để mở một cuộc xâm lược tổng lực nhằm vào Nhật
Bản. Khi ấy hai bên có thể đi tới đàm phán hòa bình.
Khái niệm “Thần Phong” bắt nguồn từ một
trận cuồng phong đã cứu Nhật Bản thoát khỏi họa xâm lược của hạm đội
Mông Cổ vào năm 1281.
Đòn Thần Phong giết 100 quân Mỹ
Lúc 7h25 vào ngày 25/10/1944, Yukio Seki –
một học viên tốt nghiệp học viện hải quân Nhật, đồng thời là con trai
của một người buôn đồ cổ, nâng cốc chúc mừng Nhật hoàng Hirohito, rồi
trèo lên máy bay của mình và chuẩn bị “làm nên lịch sử”. Seki lúc đó 23
tuổi, lớn lên ở vùng nông thôn Nhật Bản.
Anh ta đặc biệt ham mê vẽ và đã đem lòng
yêu rồi kết hôn với người con gái của một gia đình sống gần trường bay
mà anh ta theo học. Nhưng hạnh phúc của đôi uyên ương chẳng tày gang.
Seki sau đó xung phong tham gia cuộc tấn công kamikaze.
Seki nói
với cha mẹ mình: “Con sẽ dùng cả chiếc máy bay con lái để lao trực diện
vào tàu sân bay của địch, nhằm đáp lại lòng tốt của Thiên hoàng”.
Khoảng 3 tiếng đồng hồ rưỡi sau khi cất
cánh từ một sân bay ở Philippines, Seki lao nguyên chiếc phi cơ
Mitsubishi Zero vào boong của tàu chiến Mỹ USS St Lo. Quả cầu lửa lớn từ
vụ va chạm mạnh này xuyên thủng khu vực boong và nhà chứa máy bay trên
hàng không mẫu hạm Mỹ, giết chết hơn 100 quân nhân Mỹ.
Seki đã “làm nên lịch sử” và được người
Nhật coi là anh hùng. Người Nhật nhanh chóng hình thành các “đơn vị tấn
công đặc biệt” dựa trên một lực lượng tình nguyện viên đông đảo sẵn sàng
hy sinh mạng sống của họ. Nhiều người trong số họ muốn chết vì một cái
gì đó tốt đẹp hơn, nhưng cũng có nhiều người hành động đơn thuần vì thể
diện.
Hàng trăm phi công non trẻ được nhanh
chóng đào tạo cho các phi vụ kamikaze. Đa số những người này ở độ tuổi
18-24. Người trẻ nhất mới chỉ 17 tuổi. Vào đêm trước khi thực thi nhiệm
vụ, một số phi công nghe nhạc hoặc biên những lá thư cuối cùng gửi cho
gia đình.
Các bức ảnh ghi lại khuôn mặt đang mỉm
cười của họ dù cho họ sắp đối mặt với cái chết gần như cầm chắc trong
tay. Tại sân bay, các nhóm nữ sinh vẫy các bông hoa anh đào tiễn biệt
những chiếc phi cơ cất cánh.
Chiến thuật kamikaze rất đa dạng. Một số
phi công khéo léo ẩn nấp trong mây để tránh các tiêm kích cơ bảo vệ của
phe Đồng minh. Họ cũng sử dụng mồi nhử để đánh lạc hướng các máy bay
tiêm kích đối phương trong khi các máy bay Nhật khác chia thành các nhóm
nhỏ trước khi bổ nhào tấn công tàu địch.
Một khi một chiếc phi cơ Thần Phong va đập
mạnh với boong tàu, các thủy thủ phe Đồng minh sẽ phải đối mặt với cái
chết hoặc thương tích kinh hoàng khi mà hàng ngàn tấn nhiên liệu ở nhà
chứa máy bay trên tàu bắt lửa. Và chẳng bao lâu sau người Anh được “nếm
mùi” đòn hiểm này của người Nhật.
Trận chiến Anh-Nhật
Vào tháng 3/1945, Hạm đội Thái Bình Dương của Anh – hạm đội lớn nhất của Hải quân Hoàng gia Anh trong Thế chiến thứ 2, đi gần 6.500km đường biển về phía bắc từ căn cứ ở Sydney để hội quân với Hạm đội 5 của Mỹ.
Đội hình
này được dẫn đầu bởi 4 tàu sân bay, với hơn 250 máy bay và 10.000 thủy
thủ và phi công. Người Mỹ chuẩn bị xâm chiếm đảo Okinawa ở Thái Bình
Dương, từ đó họ có thể đánh chiếm Nhật Bản, chỉ cách hơn 560km về phía
bắc.
Người Nhật nghênh chiến một cách dữ dội.
Các phi công của Hạm đội Thái Bình Dương của Anh được trao nhiệm vụ săn
các phi cơ Thần Phong.
Vào ngày 1/4, radar của Hạm đội Anh đóng
cách 322km về phía đông nam phát hiện một đội hình khoảng 20 máy bay
địch đang lao nhanh tới.
Máy bay của hải quân Anh được lệnh lao lên
đánh chặn. Các máy bay khác từ các tàu sân bay cũng cất cánh để củng cố
thế trận phòng thủ.
Một chiếc phi cơ Zero Nhật Bản đột phá qua
lưới lửa cao xạ của hạm đội. Chiếc Zero này bị một chiếc phi cơ Seafire
của Anh theo sát. Chiếc Seafire này do viên phi công Dickie Reynolds 22
tuổi quê ở Cambridge (Anh) điều khiển. Dickie Reynolds có kỹ thuật tốt
trong việc bắn hạ máy bay đối phương.
Nhưng trước khi Reynolds ra đòn hạ gục đối
phương, chiếc Zero đã kịp nghiêng cánh và lao thẳng xuống boong chiếc
tàu sân bay Indefatigable, tạo ra một quả cầu lửa khổng lồ khiến 3 sĩ
quan chết ngay tại chỗ.
Bất chấp việc chiếc tàu bị tổn hại nặng, gần một tiếng đồng hồ sau đó, các máy bay vẫn cất và hạ cánh trên chiếc tàu này.
Không như các tàu sân bay Mỹ có boong bay
bằng gỗ, tàu Anh có các boong bay với lớp thép dày hơn 10cm. Một sĩ quan
liên lạc Mỹ đánh giá: “Khi một phi cơ Thần Phong đánh trúng một tàu sân
bay Mỹ, thì kiểu gì tàu này cũng mất 6 tháng sửa chữa ở Trân Châu
cảng.”
Vào ngày 4/5, các phi cơ kamikaze tiếp tục
tấn công, đánh trúng tàu sân bay Formidable của Anh. Một thủy thủ khác,
đến từ Portsmouth, từng nếm trải các cuộc không kích của Đức, nhớ lại:
“Đó là lần đầu tiên cả một chiếc máy bay lao thẳng vào tôi”.
Theo Express UK
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét