Sơ lược Các Niên Đại trong Lịch Sử Ấn Độ: 1. Cổ Ấn: (4000 – 1500 trước Tây lịch) 2. Thời Kỳ Cổ Bà La Môn (1500 trước Tây lịch – 1000 sau Tây lịch) 2.1 Thời Kỳ Lịch sử Tối Tăm Vệ Đà (1500 – 500 trước Tây lịch) Thời Kỳ Đô Hộ của người Ấn-Âu – Rig Vệ Đà (1500 – 1200 trước Tây lịch) Sự Hũy Diệt của Nền Văn Hóa Cổ Ấn Semito-Dravidian Sự Diệt Chủng của các dân tộc Sudra-Blacks Thời Sanskrit và Thời Hũy Hoại Sự phát triển Hệ Thống Đẳng Cấp Kỳ Thị Chủng Tộc Những cuộc chinh phục Vệ Đà về sau của dân Ấn-Âu (1200 – 1000 trước Tây lịch) Những cuộc chiến tranh diệt chủng Mahabharatan (1000 – 700 trước Tây lịch) Cuộc chinh phục Miền Nam Dravidian của dân Ấn-Âu Ramaite (700 – 500 trước Tây lịch) Sự Hũy Diệt của nền Văn minh Dravidian Sự Ấn-Âu Hóa và Bắt Đầu của sự Diệt Chủng hay Đẳng Cấp ở Nam Ấn Độ 2.2 Cổ Puranic hay Thời Đại Cổ Bà La Môn (500 trước Tây lịch – 1000 sau Tây lịch) 2.3 Thời đại Bất Chính Thống Heterodox 2.3.1 Sự phát sinh chủ nghĩa Phân Bang và Bất Chính Thống, hay Janapadas (Quốc gia) và Arhats (Sự Giải Thoát) 2.3.2 Những Vương quốc Scytho Cổ Hy Lạp 2.4 Sự Hồi phục Vệ Đà – Sự Phục hồi của nền Văn hóa Vaishnava của Chính Thống giáo Ấn-Âu Tân-Vệ Đà Sự Hủy diệt của những Vương quốc Scytho Cổ Hy Lạp Sự Diệt chủng của những dân tộc Scythians Sự Đàn áp và Nô lệ hóa các Đẳng Cấp thấy hèn Sự chống đối của những tôn giáo Bất Chính Thống Chiến tranh Tôn giáo 3. Thời Đại Hindustani ciliate của Delhi (1000 – 1857) 4. Thời đại Hậu Delhi (1857 – về sau) 4.1 Những cuộc Đô hộ Dã man 4.2 Nền Thuộc địa Âu châu và sự Chia phân Nền Vương quốc phụ thuộc Bồ đào Nha Vương quốc Anh Những Tiểu vương quốc 4.3 Thời kỳ Hậu-Thuộc Địa Epoch (1947 – về sau) Cộng Hòa Ấn Độ – Sự Hội nhập của 500 tiểu bang. Những cuộc chiến tranh Ấn – Hồi (Pakistan)
Vệ Đà
nghĩa là kiến thức. “Từ” nầy thuộc tiếng Sanskrit và suy từ động từ gốc
“vid”, nghĩa là “biết”. Nguyên thủy các kinh Vệ Đà được kết hợp bằng
tiếng Sanskrit. Có hai loại Sanskrit, vaidika và laukika. Tiếng Sanskrit
trong Vệ đà được gọi là vaidika và phức tạp hơn về cả hai, văn phạm
cũng như cách dùng, nhất là với một số từ tìm thấy trong các kinh Vệ Đà.
Tiếng Sanskrit được biết nhiều trên thế giới và phổ thông được gọi là
laukika. Đó là ngôn ngữ của các sắc dân puranas và itihasas. Các kinh Vệ
Đà không cho biết nhiều về nguồn gốc hay mục đích của chính chúng, và
có thể nói, không mấy được quan tâm bởi các trường phái Tây phương, họ
cho chúng là những tín điều và thần học bán khai. Phần kinh điển Vệ Đà
được ca tụng và biết đến nhiều nhất không nghi ngờ gì là Rg-Vệ Đà. Từ rg
là do động từ gốc rc, nghĩa là “cầu nguyện”. Cũng từ động từ gốc nầy,
dẫn ra danh tự cái rc, có nghĩa là “Câu nguyện” hay “ngâm vịnh”, đặc
biệt là câu ngâm vịnh dâng hiến trong lời cầu nguyện của thánh thần. Vậy
ta có thể hiểu nghĩa trực tiếp của Rg-Vệ Đà là“Kiến thức của sự dâng nguyện” hay, như thường được định nghĩa trong từ điển, “Vệ Đà của sự nguyện cầu”. Rg-Vệ Đà, hầu như
được xem là nền văn hóa (literature) cổ kính nhất của thế giới, gồm 1017
bài thơ vịnh (hymns). Nếu kể luôn thơ vịnh Valaakhilya tổng cọng sẽ là
1028. Thơ vịnh được sắp đặt thành 8 Astakas hay 10 Mandalas. Mandalas
thứ 2 đến thứ 8 chứa những nhóm thơ vịnh, mỗi nhóm được ghép với một tác
giả hay một phần tử đặc biệt trong gia đình Rsi. Mandaias thứ 9 gồm thơ
vịnh được xướng ca ở các buổi lễ soma. Mandalas thứ 1 và thứ 10 có hình
thái ngôn ngữ khá khác biệt và được coi như sáng tác bởi một nhóm lớn
tác giả khác nhau. Chúng ta sẽ bàn về vấn đề niên kỷ của các kinh Vệ đà
trong một chương sau. Để hiểu rõ Vệ Đà là
gì, nguồn gốc và mục đích của chúng ra sao, tốt nhất chúng ta hãy thử
nghiên cứu một số lời kinh tiêu biểu trích trực tiếp trong văn hóa Vệ Đà
để minh tường giải thích những vấn đề nầy. Trong những trường phái
triết học Tây phương, người ta có khuynh hướng không quan tâm đến chính
những câu kinh xác định sở quyền mà kinh Vệ Đà đã tự minh định, mà trái
lại hay đi tìm tác giả đã sáng tác kinh Vệ Đà, thời kỳ, nơi chốn, và mục
đích. Trong Brhad-aranyaka Upanishad 4.5.11 có nói rằng, “Bốn
Vệ Đà – tên gọi Rg-Veda, Yajur-Veda, Sama-Veda, và Atharva-Veda – là
tất cả diệu nghĩa thoát ra từ hơi thở của một nhân vật vĩ đại đứng đầu
các thần.” Trong Bhagavata Purana, có nói,“Những Vệ Đà trực tiếp là ngôi tối cao của các thần, Narayana, và tự sinh.” (Bh.P. 6.1.40). Cũng kinh nầy giải thích mục đích của Vệ Đà, “Cái được mô tả trong Vệ đà là liên thể của dharma, những nguyên tắc tôn giáo, và là ngược với những gì không phải là tôn giáo.” Bây
giờ có thể phản bát rằng những điều nầy chỉ đơn thuần là những lời
trích từ Upanishads và Puranas, không đúng hẳn phải là thành phần của Vệ
Đà, đặt biệt là Rg-Vệ Đà. Tuy nhiên, theo tập
quán, Upanishads được chấp nhận là thuộc vào Vệ Đà; và thật ra, chúng
được dùng để giải thích kinh Vệ Đà. Mỗi Vệ đà có một bộ phận Upanishads
kết hợp với nó. Mô tả kết cấu và tổ chức của văn hóa Vệ Đà sẽ được trình
bày ở phần cuối bài nầy. Puranas được gọi theo phong tục là “Vệ Đà thứ Năm”
và chính điều nầy cũng được thành lập bởi những nhân vật thẩm quyền
trong văn hóa Vệ Đà. Chúng ta hãy thử chứng minh bằng những trich dẫn về
nguồn gốc và mục đích của Vệ Đà, được nêu lên ngay trong kinh điển
Puranas và Vệ Đà. Điều nầy có lẽ cho chúng ta niềm tín cẩn lớn lao hơn,
và nhiều thẩm quyền hơn, là cách biện giải mơ hồ của các môn phái triết
học hiện đại, bởi vì chúng sẽ gần gủi hơn với chính văn hóa Vệ Đà nguyên
thủy, không chỉ dẫn chứng bằng ngày tháng và nơi chốn, mà còn căn cứ
trên những nguyên tắc tâm hành của chính những tác giả và người sáng
lập. Trong phần dưới đây,
chúng ta sẽ trích dẫn một số câu quan trọng trong chương thứ 11 của
kinh Bhagavata Purana. Đây là một đoạn của bộ kinh nổi tiếng
Uddhava-Gita và sẽ cung cấp cho ta lời giải thích rất hấp dẫn và chính
xác về dòng chính Vệ Đà (Bh.P. 11.21.35-42): “Kinh Vệ Đà, được
chia là ba bộ môn, thuyết về sự sống huyền diệu như là linh hồn cao
khiết. Tuy nhiên đạo đức và sự huyền diệu của Vệ Đà đề cập qua những từ
ngữ chuyên biệt, và ta [Krishma] cũng được thỏa mãn bởi những cách mô tả
kín đáo nầy. Âm vận cao khiết của Vệ Đà rất khó hiểu và được diễn tả
trên những trình độ khác nhau trong prana, ý nghĩa, và trí tuệ. Âm vận
Vệ Đà nầy không có giới hạn, rất sâu đậm, và không thể hiểu nổi, y hệt
như biển cả. Vì “Cá tính” không giới hạn, không thay đổi, và quyền năng
của Chúa tối cao hiện diện trong mọi sinh vật, ta tự ý lập thành sự rung
chuyển âm vận Vệ Đà dưới hình thức omkara trong mọi thể sống. Vì vậy nó
phải được nhìn một cách tài tình, như một sợi đơn trong xơ của ngó sen.
Giống như là một con nhện nhả tơ từ trái tim ra ngả miệng của nó, Cá
thể tuyệt vời của Chúa tối cao tự diễn tả chính Ngài như là bầu không
khí sơ khai phản ánh sống động, gồm tất cả nghĩa lý Vệ Đà cao cả và tràn
đầy phúc ấm bình an. Như vậy Chúa, từ không gian e-te của trái tim ngài
sáng tạo ra âm vận Vệ Đà hùng mạnh và không giới hạn, qua sự trợ lực
của trí tuệ Ngài, làm phát sinh ra những âm thanh muôn màu sắc như những
sparsas. Âm thanh Vệ Đà vang dội ra ngàn hướng, tạo ra nhiều chữ khác
nhau bùng phát từ một âm vận đơn thuần, “om”: những phụ âm nguyên âm, âm
gió, và bán nguyên âm. Vệ Đà từ đó phát triển ra tập hợp mớ động từ
phong phú, được diễn tả qua nhiều hình thái, mỗi hình thái lại có thêm 4
vần nhiều hơn vần trước nó. Tuyệt diệu hơn nữa là Chúa lại lôi kéo mọi
hình thức âm vận Vệ Đà trong sự diễn tả của Ngài về cho chính Ngài.
Những hình thái Vệ Đà là Gayatri, Usnik, Anustup, Brhati, Pankti,
Tristup, Jagati, Aticchanda, Atyasti, Atijagati và Ativirat. Trong toàn
thế giới, chỉ có mình Ta, không có ai khác, thật sự hiểu được mục đính
của kiến thức Vệ Đà. Vì vậy người ta không biết thưc sự Vệ Đà diễn tả
cái gì trong sự kết hợp hiến nguyện với thần karma-kanda, hay thực sự
mục tiêu nào đã được nêu lên trong những phương thức thờ phượng tìm thấy
trong kinh upasana-kanda, hay điều gì đã được bàn thảo một cách cặn kẻ
trong quá nhiều nguyên lý khác nhau, trong chương jnana-kanda của kinh
Vệ Đà.” Ghi chú: Theo kiến thức Vệ Đà, âm thanh Vệ Đà được chia là bốn phần chỉ được liễu đạt bởi các giáo sĩ Ấn giáo “thông thái” nhất
mà thôi. Lý do là vì ba trong bốn phần nầy đã được tìm ẩn ở chính bên
trong mọi sinh vật và chỉ có phần thứ tư là được thể hiện tự bên ngoài,
như kinh đã nói. Chính phần âm vận Vệ Đà thứ tư nầy, được gọi là
vaikhari, rất khó hiểu cho người bình thường. Ông Srila Visvanatha
Cakravathi Thakura giải thích những phần nầy như sau: Phần âm vận prana
Vệ Đà, gọi là pana, nằm trong kinh adharacakra; phần tinh thần, được
biết dưới pasyanti, nằm ở vùng rốn, trên manipuraka-cakra; phần thông
minh, được biết dưới tên madhyama, nằm ở vùng trái tim, trong khu
anahata-cakra. Sau hết, phần thể hiện cảm giác âm vận Vệ Đà được gọi là
vaikhari. Phần âm vận Vệ Đà nầy là ananta-para, vì nó thu gồm toàn bộ
năng lượng của vũ trụ và bao quát hơn cả vũ trụ nữa và vì vậy không thể
chia cắt bởi thời gian hay không gian. Trong sách “Gods, Sages, and Kíng”, David Frawley giải thích vị trí của vần thiêng liêng “om” trong kinh văn Vệ Đà. Ông viết: “Trong
khi chúng ta không thấy vần “om” được nói đến một cách đặc biiệt trong
kinh Vệ Đà, thì trong suốt cuốn kinh nầy, người ta luôn luôn nhấn mạnh
đến chữ hay lời ca linh thiêng, mantras, như là sự toàn năng của các
Thần dạt dào đó đây. “Từ” thiêng liêng nầy rõ ràng là âm vận của tiếng
“om”. Hãy nhìn xem qua những chương sau, sách đã diễn giải chữ nầy như
thế nào.” Kinh Upanishads: Ai là nguồn gốc
những lời ca vịnh, thể hiện dưới mọi hình thức; người đã được sinh ra từ
những lời ca vịnh bất tử; có phải chăng chính Indra đã sinh ra ta với
trí thông minh. (Taittiriya Up. 1.3.1) “Âm vận vang dội của
những lời ca vịnh chính là “om”. Nó được minh định trong Indra, thần
trước hết các thần Vệ Đà. Indra trong Rig Vệ Đà chinh phục năng lượng
bóng tối với ngôn ngữ thần thánh của Brahman. “Om” cũng gọi là Brahman.
Một câu thơ nổi tiếng của Vamaadeva trong Rg-Vệ Đà mô tả âm vận những
lời ca vịnh như sau: “Bốn là số sừng
của ngài, ba là số chân của ngài, hai là số đầu của ngài, và bảy là số
tay của ngài. Ba tiếng gầm vang dội, Chúa toàn năng đã đi vào sự bất
diệt.”(IV.58.2, Mahanarayana Up. Ĩ.1, Bh.P. 8.16.31) “Điều nầy được nói
ra bởi nhiều chứng luận khác nhau như Sayana, như là một giải thích của
“om”. “Om” trong Upanishads được nói có bốn phần (bốn phần tư), tương
ứng với bốn tình trạng thể lý đang đi bộ, nằm chiêm bao, ngủ say, và hoàn toàn tỉnh tâm.
Những hình thức toán học khác của ca vịnh và dâng hiến trong Rg-Vệ Đà
là những mức độ rung động khác nhau của “om”. Bảy “seers” là bảy hình
thái năng lượng của “om”. Mặt trời là ánh sáng của “om”. Sama-Vệ Đà là
bài ca của mặt trời, tức là “om”. Những hình thái Dirghatamas trong Rg-Vệ Đà Âm vận dâng hiến của
ca vịnh trong môi trường e-te tối thượng, trong đó mọi thần an ngự,
người ta không biết có thể làm được gì với Vệ đà? (I.164.39) “Vần đâng hiến mà Vệ Đà ngự bên trong chính là “Om”. Tới đây David
Frawley kết luận. Nói đến một điều gì đó trong Vệ đà thì thật đơn giản.
Ít có ai thông thạo Sanskrit đủ để biện giải nhiều hơn nữa. Nhưng, để có
một sự quân bình, hãy căn cứ vào những trích luận mà Frawley đã dựa
vào, để xem chúng xuất hiện trong những kinh luận nào và những nhà luận
giải Ấn Độ thuở trước đã bàn như thế nào. Chúng ta sẽ dùng ấn bản
Ramakrsna Matha của Mahanarayanopanisad, xuất bản ở Madras năm 1957.
Svami Vimalananda dịch thuật và chú giải. Ông đã theo sát những điều
biện giải của Sayana, nhưng ông cũng đã bao gồm cả những lời diễn dịch
của Bhattabhaskara mà thường khi rất khác biệt. Sayana là một nhà luận
giải tiên thiên, vào thời 1350-1387. Ông ta đã bình luận trên hầu hết
các chương của Vệ Đà. Trong ấn bản, các
câu thơ được viết dưới dạng 12.10, và được coi như rất giống với Rg-Vệ
Đà IV.58.3. Trong Sanskrit, viết như sau: “catvari srnga trayo asya pada dvesirse sapta hastaso asya
”tridha baddho vrsabho roraviti maho devo martyan avivesa” “Âm vận “om” được
ghi nhận như một thần Bò Mộng (Bull) có bốn sừng, ba chân, và hai đầu.
Ngài có bảy tay. Thần Bò được kết nối bằng ba quy tắc, dũng mãnh tuyên
cáo Ngôi tối thượng. Thần tự soi sáng nhập thể vào mọi sinh vật ở khắp
mọi nơi.” Đoạn phiên dịch nầy
rất giống với đoạn đã được đề cập ở trên. Nhưng trong lời bình luận,
Svami Vimalananda cũng đã đưa ra hai cách giảng giải có thể chấp nhận.
Chúng ta sẽ trích lại một phần bình luận của ông ở phần sau. “Đây là những bài
thơ thiêng liêng được rất nhiều người biết của Rg-Vệ Đà IV.58.3, đã được
diễn dịch qua rất nhiều tác phẩm. Patanjali, trong Great Commentary on
Panini, giải thích nó như là biểu trưng cho những hình thái thuyết giảng
linh động khác nhau; Bhattabhaskara xem nó như một hình thái nguyện cầu
trong sự dâng hiến; và Sayana diễn giải ở đây như âm vận “om” đã từng
được đồng hóa như một con bò mộng. “Từ” vrsabha có nghĩa quy ước là bò
và theo ngữ nguyên có nghĩa là nhiều mưa. Cầu nguyện với thần Pranava
được cho là sẽ được bang bố một trí tuệ sung mãn. Thần vrsabha hay
Pranava có bốn sừng như đã đề cập trong đoạn trước. “Om” chính là “Chân
lý” được nó phô diễn, và “Chân lý” sẽ được tìm thấy qua ba chân, tức là
ba “bước”, theo danh từ, là tình trạng đi, ngủ, và chiêm bao của linh
hồn cá nhân, và cũng là của vũ trụ; linh hồn được hiển hiện tràn đầy
trong vũ trụ là lý do bất biến. Hai thể cao và thấp của Prakrti, được
dạy trong kinh Gita, chương VII, được xem như hai cái đầu của ngài. Đặc
biệt bảy thế giới được xem là (bảy) tay của ngài. Là nguyên do của mọi
sự hiện hữu, thần vrsabha nầy có liên hệ tới hình thái tam-thể của mọi
sự vật và vũ trụ. Thần vrsabha hay con bò mộng rống lớn; và ở đây thần
Pranava mạnh mẽ khẳn định Chân lý tuyệt đối. Sự tuyên bố ở đây còn ngầm ý
sự hiện diện của Paramatman trong mọi tạo vật. Ngài chống giữ chúng.
Theo Bhattabhaskara bốn sừng là bốn thần phụng hiến, Adhvaryu, Hotr,
Brahman, và Udgatr; ba chân là Garhapgtya, Ahavanija, và
Anvaahryapacana, những cái đầu là sự chỉ đạo của thần phụng hiến và vợ
của ông ta, Prayanija và Udayanija. David Frawley viết, “Những
cơ sở văn tự cổ nhất mà chúng tôi có từ thế giới cổ Hy Lạp là những tác
phẩm của Homer (700 trước Tây lịch). Từ Trung Đông, những cuốn sách cổ
nhất là các sách “Kinh thánh Hebriew”. Trong khi đó nhiều phần của “Kinh
cựu ước” còn cổ xa hơn nhiều, và nói chung, phần nhiều đã được viết lại
sau 500 trước Tây lịch. Sách Gathas của Zoroaster cũng rất cổ, được ghi
nhận từ trước khi thành lập nền Đế quốc Persian (525 trước Tây lịch),
nhưng chắc chắn là sau Vệ đà. Các kinh Vệ Đà đã bị phân tán từ khi phần
lớn bị phá hũy trong các cuộc xâm lăng Persia của người Hy Lạp và Hồi
giáo. Từ Trung quốc, sách cổ nhất là I-Ching, mặc dầu chỉ có những phần
cốt lỏi của các sách nầy được ghi vàu những năm 1000 trước Tây lịch, hay
trước hơn nữa. Trong khi “The Egyptian Book of the Dead”, được coi như
còn cổ hơn nhiều so với những sách kể trên (cho đến 3000 trước Tây
lịch), thì không còn một dấu chỉ sống động hay tài liệu dẫn chứng nào
tồn tại cho chúng ta.” “Văn hóa Vệ Đà
cung cấp cho chúng ta nhiều những kinh luận, lời giảng có nguồn gốc cổ
xưa còn hơn tất cả những gì chúng ta có thể tìm thấy từ tất cả các nền
văn hóa nào khác trên hoàn vũ. Ngay cả những người bảo thủ nhất cũng ước
lượng tuổi của bốn Vệ Đà ít nhất cũng là vào khoảng 1500-1000 trước Tây
lịch, còn có thể trước xa hơn nữa, và quan niệm nầy tồn tại lâu dài
trong văn học sử cho đến nay. Nhiều kinh Brahmanas và kinh cổ Upanishad
có trước thời Phật Thích Ca. Sự ghi nhận như vậy rất đáng được đặc biệt
quan tâm trong một xứ sở nhiệt đới như Ấn Độ, là nơi mà mọi thứ tài liệu
bằng văn tự đều có thể bị thoái mục dễ dàng. Ấn Độ còn phải sống còn
qua nhiêu cuộc xâm lăng – mà một số, như những cuộc tấn công của Hồi
giáo, có tính tuyệt đối hung bạo và diệt chủng – nhưng nó đã chứng tỏ
khả năng bảo tồn nhiều chứng liệu cổ sử. Ngay cả trong thời đại nầy,
Brahmins diễn thuật lại Vệ Đà, qau những vũ trụ quan được tin là cổ điển
và có tính truyền thống nhất, hầu như rất giống với các tập quán xã hội
địa phương 3,000 năm trước, hay còn xa hơn thế nữa. Điều nầy chứng minh
một sự suy tôn độc nhất vô nhị cho những điều dạy dỗ và phong tục, ít
ra rất đáng giá để được ghi nhận.” Trong thời buổi tân
tiến nầy, nền văn minh Vệ Đà đã từng được nghiên cứu và dịch giải bởi
nhiều học giả Tây phương, như Mueller, Wilson, Keith, Griffith, và
Bergaine. Họ không có cái nhìn thật sâu sắc vào bên trong những tác phẩm
của nền văn hóa Vệ Đà, mà thường chỉ bị quyến rủ bởi những động lực
giải đáp những thắc mắc mang tính chấp trước. Vào thế kỷ thứ 19, chính
phủ Anh quốc đã chính thức công bố một chính sách phải tìm mọi biện pháp
để chứng tỏ rằng văn minh Tây Âu, căn cứ trên phong tục Ai Cập, và xa
hơn nữa đã được kích động bởi tâm thuật tín điều Ky-tô, phải là cao hơn
nền văn minh Vệ Đà. Cuốn Tự Điển Sanskrit của Monier Williams được viết
với mục đích chủ yếu sau đây: Để phỉ báng và tận diệt hững kinh văn bằng
Sanskrit cổ và thay thế chúng bằng những tác phẩm Sanskrit của nền văn
hóa Ky-tô. Điều nầy thật khó có thể được gọi là “quý phái” (noble) và dĩ
nhiên không thể là một nguyên tắc khoa học. Về vấn đề nầy, David viết, “Tác
phẩm thơ ca vịnh vĩ đại Ấn Độ, Mahabharata, chẳng hạn, diễn tả cuộc
chiến tranh, lôi kéo toàn bộ vùng bắc và trung Ấn, xảy ra vào khoảng
thời gian trước Phật Thích Ca. Mọi vua trên toàn lãnh thổ lúc đó đã được
kể là đều bị lôi cuốn vào cuộc chiến. Sự kiện nầy đã bị chúng ta (người
Tây phương) biến đổi thành một cuộc xung đột địa phương nho nhỏ giữa
các hoàng tử thứ cấp ở vùng tây bắc Ấn Độ, mà sau đó đã được các nhà thơ
phóng đại. Chúng ta đã mặc nhiên giả dụ một sự phóng đại, nếu không
phải là sự lừa dối, của người xưa, hơn là đáng lẽ phải ngợi khen họ về
những gì họ thật sự đã nói, khi sự thể đã đi ngược lại với những gì
chúng ta đã gán cho họ. . Những vấn đề hiểu biết về Vệ Đà còn khó khăn
hơn nữa, vì rất nhiều ý tưởng như vậy đã từng được mặc nhiên xem như
những dữ kiện, mặc dù chúng hoàn toàn ngụy biện và không chứng minh được
qua các văn sử liệu. Một ý tưởng tân thời cho rằng các dân tộc Vệ Đà
chỉ là những sắc tộc (thiểu số – Ấn-Âu). Họ được coi là đã từng xăm lăng
Ấn Độ trong thiên niên kỷ thứ hai trước Tây lịch, như là giống dân du
mục tiền sử từ vùng Trung Á”. Rig-Vệ Đà xem như đã
được viết ở miền Pujnab vùng tây bắc Ấn Độ, từ thời khởi đầu của cuộc
xâm lăng. Đây là những ý tưởng dùng để giải thích các kinh điển cổ.
Những kinh điển nầy không được tìm thấy ở đây. Mà trong thực tế, cần
phải biến đổi nghĩa ngữ và thay đổi cả khuynh hướng luận giải thì mới có
thể làm cho chúng có nhiều ý nghĩa. Tuy nhiên, hầu như ngày nay không
có ai đọc Vệ Đà dưới dạng Sanskrit nguyên thủy. Chúng ta thường đọc các
bản diễn giải và lẽ đương nhiên chúng chỉ chứng tỏ những sự diễn giải.
Nếu chúng ta tìm ra những chứng liệu có tính vũ trụ quan của những thời
trước (trước 2000 trước Tây lịch) trong Vệ Đà, chúng ta không thể nói
rằng những điều nầy còn quá sớm để thành sự thật. Dù sao, đây không phải
là một học thuật, mà chỉ là những suy diễn.” Tới đây tôi xin sơ
lược trình bày một số chứng cớ để chứng minh ngày sinh của Vệ Đà còn sớm
hơn tất cả những gì mà các học giả Tây phương và ngay cả một số học giả
Ấn Độ đã nói. Rg-Vệ Đà chứa đựng nhiều chứng cớ có tính vũ trụ quan đặt
cơ sở trên những kiến thức về những hiện tượng xoay vần của các thiên
thể. Văn minh Vệ Đà được mô tả suốt trong kinh Rg-Vệ Đà đã xử dụng (cách
tính) thời gian theo thiên thể. Chẳng hạn như, thời điểm xuân phân và
đông chí được mô tả như đã xảy ra hay đang xảy ra hiện tượng lạ trong
quần thể mặt trời, gọi là naksatras. Từ cơ sở nầy, người ta có thể đơn
giản tính ra thật đúng những ngày tháng của xuân phân và đông chí, được
mô tả trong kinh điển, thích hợp với lịch hiện hành của chúng ta. Bằng cách nầy, chúng ta có thể dẫn ra bản sau đây:
Độ
Sao
Hiện tượng
Ngày
07o 00′
Pisces
Uttarabhadra
c. 1991 AD
00o 00′
Aries
Asvini
c. 400 AD, Thời đại Puranic
23o 20′
Aries
Bharani
c. 1280 BC, Thời Vedanga Jyotisa
06o 40′
Taurus
Krttika
c. 2250 BC, Thời đại Late Vedic
00o 00′
Gemini
Mrgasira
c. 4000 BC, Thời đại Middle Vedic
26o 20′
Gemini
Punarvasu
c. 6000 BC, Thời đại Early Vedic
05o 00′
Cancer
Pusya
c. 6500 BC, Thời đại Early Vedic
Ngày tháng trong bản
trên có thể được chứng minh bằng rất nhiều trích dẫn ngay trong Vệ Đà, e
rằng sẽ có quá nhiều để kể ra đây. Cần thêm chi tiếc, xin xem David
Frawley ở chương Vedic Astronomy. Ông viết, “Trong khi những chứng
minh trước về Krttikas (xuân phân Taurus) không mấy sáng tỏ, thì dẫn
chứng nầy hoàn toàn xãc định. Ngôn ngữ của nó cũng minh tường như chính
hiện tượng đã được diễn tả, “Giờ đây là thời xuân phân tiền Taurus.” Nó
đã chứng minh rằng dầu dân Vệ Đà là ai và dầu họ sống ở bất cứ nơi đâu,
văn hóa của họ lúc đó vẫn ở vào thời kỳ 2000 trước Tây lịch. Với dẫn
chứng chân thực nầy, những chứng tích khác đều trở thành không thể bỏ
qua. . Với những chứng tích có tính vũ trụ quan trong toàn bộ các kinh
văn Vệ Đà, làm sao chúng ta có thể chối từ? Nếu Rg-Vệ Đà đã dùng đúng từ
ngữ dùng trong thiên văn học ngày nay, chúng ta không còn có thể nói
rằng chúng sai lầm hay đã dẫn luận cho những điều gì khác hơn vì chúng
không thích hợp với lý thuyết của chúng ta. Lý thuyết của chúng ta có
thể sai, những các ngôi sao thì không thể. Một dẫn chứng tuyệt
vời khác có thể kể là về ngày tháng của Kali-yuga. Kali-yuga, theo những
chứng tích về Punanic cũng như những dẫn chứng từ Jyutisa-sastras, bắt
đầu vào ngày 18 tháng 2, năm 3102 trước Tây lịch. Kinh sastras khai thị
rằng đã xảy diễn sự xếp thẳng hàng các tinh tú của bảy hành tinh.” Tiến sĩ Richard Thomson, trong sách Vedic Cosmography and Astronomy,
đã chỉ dẫn làm thế nào để kiểm chứng hiện tượng xếp hàng nầy bằng cách
làm vài phép tính trên những chương trình máy tính hiện đại. Cách nhìn
rất chung chung của các trường phái Tây phương cho rằng ngày nầy, định
cho sự bắt đầu của Kali-yuga, là giả tưởng. Thật vậy, những trường phái
nầy luôn giữ chắc một quan điểm rằng chính cuộc chiến đấu của Kuruksetra
cũng là giả tưởng. Chúng ta không có đủ chỗ để giới thiệu lại ở đây một
cách chi tiết hơn tất cả công trình nghiên cứu sáng giá của Tiến sĩ
Thomson. Sách của ông sẽ được liệt kê trong phần tham khảo ở cuối bài
nầy. Bộ Sury-a-siddhanta, có lẽ là một trong những công trình nổi tiếng
nhất trong ngành thiên văn học Ấn Độ, chứa tràn đầy dữ kiện thiên văn
chính xác và kỳ lạ. Công trình nầy cho chúng ta hình ảnh những chu kỳ
tinh tú trong quỷ đạo quay bằng divya-yuga. Một divya-yuga bằng
4,320,000 năm mặt trời. Một ngàn chu kỳ divya-yugas như vậy tương đương
với một ngày của Brahma, gọi là kalpa. Ở cuối mỗi kalpa, sẽ có một đợt
hũy diệt từng phần. Chúng ta đưa ý tưởng nầy vào đây để dẫn chứng cái
khung hình thời gian rất dài được chấp nhận cho những hiện tượng vũ trụ
chu kỳ trong Punamas và trong những văn sử Vệ Đà khác. “Sách
Surya-siddhanta nói về chính nó, và cho biết rằng những điều nầy đã được
tiên tri, thần mặt trời, Surya, nói cho Maya Danava vào cuối thời kỳ
Satya-yuga vừa qua. Đúng là một khoảng thời gian quá dài, nhưng cũng đã
có nhiều công bố rất ngoạn mục trong sách, cho nhúng ta nhiều suy tư.
Chẳng hạn như sự diễn tả những chùm sao, mà những dử kiện thiên văn về
vị trí hình như đã có vẻ sai lạc. Tuy nhiên, nếu dùng máy vi tính với
những chương trình hiện đại, vị trí tìm thấy chỉ sai lạc vào khoảng
50,000 năm. Với những phương tiện thô sơ thời đó, và trong cái khung
thời gian vĩ đại như vậy, sai số nầy quả đã có thể hiểu được“. “Một sự kiện nữa
có liên quan đến cái khung thời gian Puranic và bốn chu kỳ yugas của nó.
Một câu trong Rg-Vệ Đà, “Bốn là sừng của ngài, ba là chân của ngài, hai
là đầu của ngài, và bảy là tay của ngài.” (IV58.3), có thể được diễn
giải tượng hình như là 4, 3, 2, và 7 con số không ở sau. Đó chính là
thời gian của một kalpa, hay một ngàn lần của khối lượng bốn yugas, hay
4,320,000,000 năm.” Vài
tín điều huyền hoặc của Vệ Đà về địa dư, thiên nhiên, mà người ta nghi
ngờ đã chịu ảnh hưởng của quan niệm sáng thế phương Tây: 1- Con rắn/rùa chống đỡ trái đất Kinh văn Ấn-Âu luôn
luôn, lặp đi lặp lại, xác nhận rằng quả đất được chống đỡ bởi một con
rắn. Có 7 quả đất, quả nầy chồng lên trên quả kia, và quả trên hết chia
ra 7 miền [al-B.i.228]. Có một con rắn, tên là Seshakhay, ở dưới quả đất
thấp nhất. Nó có 1,000 cái đầu, vì vậy nó không cảm thấy đau đớn khi
chống đở những quả đất chồng chất lên nhau ở bên trên [al-B.i.237].
Những kinh văn khác xác nhận trái đất được chống đỡ bởi một con rùa
khổng lồ. Còn những kinh văn khác nữa thì cho rằng con rùa nầy, đến lược
nó, nằm trên một con rắn vĩ đại [Kovoor 158]. Một số kinh văn khác nữa
thì nói rằng trái đất được chống giữ bởi bốn cái trụ, giữ chặc bởi một
con voi, ngồi trên một con rùa lớn [Panda 69]. Theo kinh Balaphadra,
trái đất lơ lũng trên nước, phần thấp chìm trong nước và phần ở trên mặt
nước thì tròn giống như cái lưng con rùa [al-B.i.273]. Một điều rất
đáng ngạc nhiên là những kinh văn nầy đã được viết vào thời những thế kỷ
đầu sau Tây lịch, khi mà những giới chức lớn của Hy Lạp đã đến Ấn Độ
nhiều thế kỷ trước công nguyên, mà vẫn không hề thấy có để lại một dấu
chỉ nào của “sự khai hóa”, nếu có, do ảnh hưởng nầy. Nhiều kinh văn Hy
Lạp rõ ràng đã được chép lại bằng Sanskrit, nhưng không tìm thấy có được
một nội dung cải cách tiến bộ nào. Về phương diện địa dư, Ấn Độ triền
miên chìm đắm trong những Thời Kỳ Lịch Sử Đen Tối Vệ Đà cho đến thế kỷ
thứ 10 và trong suốt thời kỳ thâm nhập của Hồi giáo. 2- Núi Meru 100,000 lần cao hơn núi Everest Kinh điển Arya viết
trong một thời kỳ khác về sau nầy (thế kỷ thứ năm) vẫn còn giữ chặc một
“đức tin” về núi Meru giả tưởng trong Vệ Đà. Nó được xem như một trăm
ngàn lần cao hơn núi Everest! Kinh Matsya Purana nói về núi nầy như sau, ”Nó (núi Meru)
làm bằng vàng và sáng ánh như lửa. Màu sườn núi phía đông thì trắng như
màu của những thần Brahmans, sườn phía bắc thì đỏ như màu thần
Kshatrivas, phía nam thì vàng như Vaishvas, phía tây thì đen như màu của
Sudras. Nó cao 86,000 “yojanas”, và 16,000 “yojanas” nằm bên trong trái
đất. Mỗi một “sid”, trong bốn “sids”, bằng 34,000 “yojanas”. . Có nhiều
căn nhà bằng vàng đẹp đẻ dành cho những thần ngự, như thần Devas, các
xướng ca của thần Gandharyas và nữ tỳ thị dục của thần Apsaras. Còn có
các thần Asuas, Daitysa, và Rakshasas cũng ở trong đó.” – [Matsya Pur. – al-B.i.247] Một cách tổng quát, 1
yojana = 8 miles = 32000 yards và 1 kroh = 1/2 yojana [al-B i.167]. Như
vậy núi Meru phải cao 8×86,000 = 704,000 miles, nhiều lần hơn đường
kính trái đất. Núi Everest, để so sánh, chỉ cao 29,000 ft., hay dưới 6
miles. Vậy núi Meru cao 100,000 lần hơn núi Everest! Kinh Kurma Purana nói như sau về vấn đề nầy, “Trái đất gồm bảy
lục địa, kể luôn biển cả, trải dài suốt 500,000,000 yojanas. Thánh địa
Jambudvipa nằm ở trung tâm các lục địa; núi Meru được cho biết nằm ở
giữa, sáng như vàng. Chiều cao của nó là 84,000 yojanas, và nó nằm sâu
16,000 yojanas ở dưới mặt đất; Bề ngang trên đỉnh là 32,000 yojanas, và
đường kính ở dưới chân là 16,000 yojanas.” – [Kurma Purana – Classical, trg. 52] Núi Meru có một độ cao không tưởng, đó là nguồn của những con sông thực tế của Ấn Độ, như sông Sita: “Ganga, con sông thiên đàng chảy từ chân núi Meru, tràn qua quỷ đạo mặt trăng, rồi rơi xuống vùng chung quanh thành phố Brahma.” Sơ lược về Ngôn Ngữ Ấn Độ: Bài nghiên cứu dựa theo những tài liệu lịch sử đáng tin cậy, nhất là những tác phẩm của TS Tagore, giải Noble văn học. Lục địa Ấn Độ bao
gồm một số lớn những cộng đồng có nhiều ngôn ngữ khác nhau. Người Ấn nói
nhiều thứ tiếng và các loại tiếng lóng mà hầu hết có thể xem như được
cô đọng trong 15 ngôn ngữ chính. Vài ngôn ngữ Ấn có lịch sử văn hóa lâu đời – Văn hóa Sanskrit kéo dài hơn 5,000 năm,
Tamil 3,000 năm. Ấn Độ cũng có vài ngôn ngữ không có chữ viết. Có tất
cả 18 ngôn ngữ được chính thức chấp nhận ở Ấn Độ (Konkani, Manipuri, và
Nepali cũng đã được thêm vào danh sách, vào năm 1992), và mỗi ngôn ngữ
đó đã có một lịch sử văn hóa sinh động và phong phú. Mặc dầu có nhiều
phần khác biệt, tất cả đã tiêu biểu cho một nền văn hóa thống nhất, có ý
nghĩa của một nền văn minh Ấn Độ vĩ đại. Đây là một sự tiến hóa trong
một lãnh thổ của nhiều loại ngôn ngữ. Số lượng người nói chung một thứ
tiếng trong các ngôn ngữ đó cũng khác nhau rất xa. Ví dụ, có hơn 250
triệu người nói tiếng Hindi, nhưng tương đối rất ít người nói tiếng
Andamanese. Mặc dầu vài loại
ngôn ngữ bị coi là có tính “bộ lạc”, hay “không nguyên thủy”, những cộng
đồng nầy lại lớn hơn các cộng đồng nói các thứ tiếng thái Âu. Ví dụ,
Bhili và Santali, cả hai đều là ngôn ngữ bộ lạc, nhưng số người nói lại
lên đến 4 triệu mỗi ngôn ngữ. Gondi được khoảng 2 triệu người dùng. Các
trường học ở Ấn Độ dạy tất cả 58 ngôn ngữ khác nhau. Các loại báo chí
toàn quốc dùng 87 thứ tiếng, các đài truyền thanh dùng 71 thứ tiếng, và
phim ảnh dùng 15 thứ. Ngôn ngữ Ấn Độ thuộc
vào 4 họ chính: Indo-European, Dravidian, Mon-Khmer, và Sino-Tibetan.
Indo-European và Dravidian được dùng bởi một đa số lớn lao dân chúng Ấn
Độ. Bốn họ ngôn ngữ trên được phân chia đại lược theo địa dư. Nhóm tiếng
Indo-European được phổ biến ở miền bắc và những khu trung thổ Ấn Độ. Những ngôn ngữ dùng ở
miền nam hầu như là nhóm Dravidian. Vài nhóm sắc tộc ởAssam và những
phần khác ở miền đông Ấn nói những thứ tiếng trong nhóm Mon-Khmer. Dân ở
vùng miền bắc Hy-Mã-Lạp-Sơn và gần biên giới Burmese nói các thứ tíếng
Sino-Tibetan. Người nói 54 ngôn
ngữ khác nhau trong nhóm Indo-European chím ba phần tư dân số Ấn Độ. Hai
mươi ngôn ngữ Dravidian được dùng bởi hầu như một phần tư dân số còn
lại. Người nói 20 loại tiếng Mon-Khmer và 98 tiếng Sino-Tibetan toàn bộ
chỉ chiếm khoảng 2% dân số mà thôi. Văn minh Cổ Vệ Đà: Văn hóa Ấn Độ
bắt đầu bằng các loại kinh Vệ Đà (Kinh Vệ đà dùng chữ Sanskrit, có nghĩa
là “trí tuệ”). Kinh Vệ Đà là một hệ thống những bài viết tế lễ dùng
trong những lễ cũng tế tôn giáo và được tác chế bằng tiếng Sanskrit
(Sanskrit Vệ Đà). Ngay cả trong thời hiện đại nầy, kinh Vệ Đà vẫn được
coi là nền tản của Ấn Độ giáo. Các tài liệu viết
thành chữ cổ xưa nhất của các kinh Vệ Đà là hệ thống Rig-Vệ Đà, xuất
hiện từ thế kỷ thứ 13 trước công nguyên (1,300’s B.C.). Những tài liệu
nầy hầu hết là những bài thơ thần thoại ca ngợi những vị thần Tiền Vệ Đà
– Thần Chiến Tranh Indra, thần Lửa Agni, thần Mặt Trời Surya, và thần
Gìn Giữ Thiên Đường và Trái Đất Varuna. Những sách Vệ Đà sau
đó là Yajur Veda (chuyên dùng trong tế lễ), Sama Vệ Đà (thơ từ hệ thống
Rig Vệ Đà, được biến cải thành những bài ca cầu nguyên bi tráng) và
Atharva Vệ Đà (những câu thơ ca ngợi sự bình an và thịnh vượng, và cuộc
sống thường ngày của xã hội loài người). Nhiều ca dao tục ngữ
phô diễn kinh nghĩa Vệ Đà được viết vào những thời kỳ trước kỷ nguyên.
Trước hết là Brahmanas (Những giảng giải về giáo luật) và Aranyakas
(Những kinh luận), giải thích vai trò và mục đích của tế lễ và sự liên
hệ giữa con người và vũ trụ. Một nhóm ngôn ngữ
sau nữa là Upanishads (Những bài giảng về tâm linh), viết dưới dạng thơ
ca, tiếp tục tán thán cuộc sống tự nhiên. Upanishads là những hình thức
tư tưởng cổ điển vĩ đại của triết lý và tâm linh. Rig Vệ Đà: Là
hình thức cổ điển nhất của nền văn minh Vệ Đà, nó giữ vai trò quan
trọng nhất, vì chính nó là những tài liệu văn hóa giá trị của Ấn Độ cổ
xưa. Có tất cả 10 sách hay mạn-đà-la chứa đựng 1,028 bài thơ của những
thế hệ nối tiếp của Rishis (những người thông thái). Người ta tin rằng
trong thời Tiền Vệ Đà, nhiều bài thơ bằng ngôn ngữ Rig Vệ Đà được nhớ
thuộc lòng, và truyền khẩu từ đời nầy qua đời khác trước khi được ghi
khắc lại dưới hình thức chữ viết một thời kỳ khá lâu sau. Có rất nhiều
loại linh bùa, như Gayatri, đã được khắc ngay trong nhà của người theo
Ấn Độ giáo. Họ nói rằng chúng tượng trưng cho tiếng nói của các Thần.
Nhiều bài thơ được viết dưới dạng những lời cầu nguyện các Vị Thần thiên
nhiên khác nhau. Hệ thống Rig Vệ Đà cho chúng ta nhiều hiểu biết không
những về tôn giáo cổ Vệ Đà và các Vị Thần của họ, mà còn về hoàn cảnh
xã hội của những ngày xa xưa đó nữa. Nó cho biết một dân tộc được an cư,
một xã hội trật tự, và một nền văn minh phát triển phong phú thờI Tiền
Vệ Đà. Sam Vệ Đà: Chuyên
chứa những câu thơ trích từ Rig Vệ Đà, liên hệ đến các tế lễ Soma.
Những bài thơ nầy được phổ nhạc. Sam Vệ Đà có những bài thơ chỉ có ý
nghĩa cho các thầy giảng khi hát lên trong lễ phụng sự Thần Yajnas. Nó
gợi cho chúng ta rất nhiều cảm tính về nhạc cổ của người Ấn Thái Âu. Yajur Vệ Đà: Chứa
những câu ca vịnh về việc dâng hiến. Nghiên cứu Vệ Đà nầy cho ta biết
được người Aryans tạo lập kiến thức về việc phụng hiến trong thời kỳ
nầy. Nó đã làm thay đổi sâu đậm những điều kiện xã hội và tôn giáo đã
đến với dân chúng trong thời kỳ Rg-Vệ Đà. Yajur Vệ Đà chia làm hai phần –
phần trắng và phần đen. Phần trắng gồm những câu thơ vịnh, và phần đen
chứa những lời răn. Atharva Vệ đà: Chứa
đựng những câu thần chú (mantras) về ba đề tài – gnana (kiến thức),
Karma (hành – deeds), và Upasana (niệm chú – invocation). Nhu cầu hiểu
biết về lịch sử phát triển ở Ấn Độ thiết tưởng cũng rất quan trọng.
Những hình thức xướng tụng thần chú đa dạng rất phổ thông trong quần
chúng. Vệ Đà nầy ảnh hưởng mạnh mẽ niềm tin trong dân chúng. Một số câu
thần chú có nghĩa là đem lại được thành công trong đời sống, trong khi
những câu khác có thần lực đánh đuổi trừ ma quỷ, trách nhiệm cho bệnh
hoạn và khổ đau. Người ta tin rằng Vệ Đà nầy đã được viết lại sau nầy
mặc dầu còn chứa đựng một số dử kiện không phải có nguồn gốc Ấn-Âu
(Aryan). Hình như nó đã được viết vào buổi giao thời giữa hai nền văn
hóa Cổ Ấn Độ và Ấn-Âu.
Theo Bách khoa Wikipedia:
Kinh điển Vệ Đà được
xem như là biểu trưng cho một hệ thống văn hóa tôn giáo cổ điển Ấn-Âu
(Indo-Aryan), đã được hội nhập với nền Văn minh Vệ Đà và được tín đồ Ấn
Độ giáo xem như sự thể hiện tri kiến. Nhiều tín đồ Ấn giáo tin rằng Vệ
Đà đã không phải được viết bởi bất cứ ai (kể cả “Chúa”), mà đã vĩnh cửu
hiện diện(apaurusheya). Trong khi đó nhiều sử gia coi Vệ Đà là
một trong vài di tích văn viết cổ điển khác còn lưu tồn, và họ ước tính
đã được viết ra giữa 1500 đến 500 trước Tây lịch (xin xem “Ancient
Egyptian Text” trong “Story of Sinhue”, và “Ipuwer Papyrus”, cả hai đều
được viết vài thời 1800 trước Tây lịch). Những kinh Vệ Đà mới nhất ước
tính được viết vào khoảng 500 trước Tây lịch; và những kinh cổ nhất,
được tìm thấy ngày nay, có niên kỷ vào khoảng 1500 trước Tây lịch. Nhưng
hầu hết những nhà nghiên cứu văn hóa Ấn Độ đều cho rằng Vệ Đà đã trải
qua một thời kỳ rất dài với phong tục dùng lời (thuộc lòng mà không được
viết ra), trước khi được viết ra. Vệ Đà biểu tượng cho nguồn gốc căn
bản của văn chương Ấn Độ và, theo những nhà giáo dục tân thời, đã được
viết ra dưới hình thức những ngôn ngữ trong văn hóa Sanskrit. Mặc dầu
Sanskrit Vệ Đà được coi là đã được dùng để viết kinh Vệ Đà, họ vẫn cho
rằng đây có lẽ là vì một nhầm lẫn về niên kỷ; nghĩa là ngôn ngữ nầy còn
có thể đã được dùng phổ thông hơn trong quá khứ xa xưa. “Từ” “Vệ Đà” có
nghĩa là “kiến thức”, và được lấy từ ngữ căn “vid”, nghĩa là “biết”
trong Sanskrit, viết lại như đã được lấy từ ngữ că n “weid-” của
“Pro-Indo-European”, có nghĩa là “thấy” hay “biết”. “Weid-“ cũng là
nguồn gốc của từ “wit” trong tiếng Anh, cũng như “vision” trong Latin. Ngôn ngữSanskrit: Sanskrit cổ (old)
được gọi là Vệ Đà hay Sanskrit Vệ Đà, phức tạp hơn những hình thái
Sanskrit về sau, và được gọi là Sanskrit cổ điển (classical). Ngôn ngữ
Vệ Đà trở nên đơn giản hơn, khi được biến đổi thành Sanskrit cổ
(classical). Vào thế kỷ thứ Năm trước Tây lịch (400’s B.C.), nhà văn
phạm Panini đã viết ra một mô tả khá chi tiết về Sanskrit cổ điển. Công
trình nầy làm cho hình thức văn viết của ngôn ngữ nầy từ đó không còn
thay đổi thêm nữa. “Từ” Sanskrit có nghĩa là “Đã được chọn lọc và trau chuốt”. Sanskrit
tượng trưng cho trình độ cao nhát của các loại ngôn ngữ Ấn Thái Âu. Mặc
dầu ngày nay chúng ta vẫn còn nhận thấy khó phát âm, Sanskrit đã được
liệt kê là ngôn ngữ được toàn quốc công nhận, trong Chương VIII Híên
Pháp. Ngôn ngữ Sanskrit là
chữ viết cổ điển nhất của Ấn Độ và là căn bản của rất nhiều ngôn ngữ Ấn
Độ hiện đại, kể cả Hindi và Urdu. Hình thức đối thoại xưa nhất của
Sanskrit Vệ Đà, đã được người Ấn Thái Âu dùng. Sanskrit biến mất trong
ngôn ngữ thường nhật vào khoảng thế kỷ thứ 2 trước kỷ nguyên (100 B.C.).
Tuy nhiên, Sanskrit đã tiếp tục, như tiếng Latin ở phương Tây, giữ vai
trò ngôn ngữ của công pháp, thơ văn, và kịch nghệ. Nó cũng được dùng
trong các tài liệu khoa học, triết học, và tôn giáo. Ngay hiện nay, một
số trường học ở Ấn Độ vẫn còn dạy nói và viết tiếng Sanskrit. “Từ” Sanskrit có nghĩa là đã “được chọn lọc hay làm cho sáng sủa”. Từ nầy phản nghĩa với từ Prakrit, nghĩa là “chung” hay “phổ thông”, được
dùng như những ngôn ngữ phổ chúng và được suy diễn từ tiếng Sanskrit
trong một thời kỳ dài nhiều thế kỷ. Những ngôn ngữ nầy, tự chúng, lại
trở thành nguồn gốc của những ngôn ngữ tiến bộ sau nầy của Ấn Độ, như
Bengali, Hindi, và Punjabi. Sanskrit chứa đựng
một mớ phong phú các âm vận chọn lọc. Mặc dầu đơn giản hơn tiếng
Sanskrit cổ Vệ Đà, Sanskrit cổ điển vẫn phức tạp hơn các ngôn ngữ tiến
bộ. Tiếng nầy có 10 nguyên âm đơn giản và 4 nguyên âm trọng (nguyên âm
kép phát thanh như một vần đơn giản). Nó còn gồm có 25 phụ âm căn bản, 4
bán nguyên âm (những chữ, như y, phát âm giống nguyên âm nhưng giữ vai
trò phụ âm), và 3 phụ âm kép, phát ra âm gió. Thêm vào đó, nó còn có 2
âm thở, và 1 âm mũi. Sanskrit có một văn
phạm phức tạp. Ví dụ, danh tự và tỉnh tự có những 3 giống (đực, cái, và
trung tính). Chúng biến thể theo 3 số lượng văn phạm (số ít hay đơn,
kép, và số nhiều). Chúng cũng có 8 trường hợp xử dụng. Hệ thống động từ
cũng phức tạp như vậy. Sanskrit có 8 trường
hợp văm phạm (diễn tả hình thức danh từ, đại danh từ, và tỉnh tự). Cũng
có 3 “số lượng”, đó là số ít, số nhiều, và số kép (một lọai danh tự,
tỉnh tự, và động tự riêng để dùng cho hai người hay vật). Sanskrit cũng
có một hệ thống đánh vần gọi là “sandhi”, trong đó một từ được kết thúc
tùy thuộc vào những âm vận trước và sau nó. Cũng theo tài liệu bách khoa Wikipedia. Sanskrit Vệ Đà là
ngôn ngữ Vệ Đà, những kinh văn tế lễ sớm nhất của Ấn Độ. Kinh văn Vệ Đà
cổ nhất, là Rig Vệ Đà, đã được viết trong suốt hai thiên niên kỷ trước
Tây lịch, và việc xử dụng ngôn ngữ có nhiều tiếng lóng Vệ Đà đã được
tiếp tục để viết những kinh văn tôn giáo cho đến khoảng 500 trước Tây
lịch, khi mà thời đậi ngôn ngữ Hậu-Vệ Đà bắt đầu xuất hiện. Hiìh thức Sanskrit của Vệ Đà là hậu duệ sớm nhất của nền ngôn ngữ Ấn-Âu Nguyên thủy (Proto-Indo-Iranian – ngôn
nói vào khoảng 2000 trước Tây lịch), và vẫn còn rất giống (mặc dầu đã
bị xóa bỏ có lẽ vào khaỏng 1500 trước Tây lịch) với ngôn ngữ Ấn-Âu
Nguyên thủy. Sanskrit Vệ Đà được xác nhận là ngôn ngữ cổ nhất của chi
nhánh văn hóa Ấn-Âu (Indo-Iranian Branch), của họ ngôn ngữ Ấn Độ-Âu châu(Indo-European Family). Nó cũng vẫn còn liên hệ rất gần gủi với Aveston, một ngôn ngữ Iranian cổ nhất còn tồn tại. Văn minh Vệ Đà là một nền văn minh
theo phong tục Ấn-Âu hội nhập với Vệ Đà. Nhiều nhà giáo dục đã đặt nền
văn minh Vệ Đà vào thiên niên kỷ thứ 2 và thứ 1 trước Tây lịch; trong
khi nhiều nhà ngôn ngữ Ấn Độ xác định niên kỷ sớm hơn nhiều, vào khoảng
thiên niên kỷ thứ 7 trước Tây lịch, bắt đầu từ phong tục Mehrgarh. Việc
xử dụng Sanskrit Vệ Đà kéo dài cho đến thế kỷ thứ 6 trước Tây lịch, khi
mà tập quán xã hội bắt đầu biến đổi sang hình thức Ấn giáo cổ điển. Sự tái lập lịch sử
Ấn Độ Vệ Đà được căn cứ vào chi tiếc nội dung các loại kinh văn Vệ Đà.
Theo ngôn ngữ, kinh điển Vệ Đà được chia ra làm năm giai đoạn lịch sử
phát triển: 1. Rig Vệ Đà: Rig Vệ Đàlà
kinh văn Vệ Đà cổ nhất còn lưu giữ được, và nó chứa đựng nhiều dữ kiện
lịch sử chung của nền văn hóa Ấn-Âu, về cả hai phương diện, ngôn ngữ và
nội dung, không hề thấy có trong các kinh văn Vệ Đà khác. Sự hình thành
của nó phải trải qua nhiều thế kỷ, trước xa nhiều hình thức kinh điển
khác, và người ta tin rằng nó phải được hoàn tất vào khoảng 1500 trước
Tây lịch. Về phương diện khảo cổ, thời kỳ nầy có lẽ thích hợp với nền văn hóa Gandhara Grave, và những thế hệ tiếp nối nền Văn minh Thung Lũng Ấn Độ (Indus Valley Civilization-IVC), những tập quán Cemetery-H trong nền văn hóa Punjab và Sành sứ Nhuộm màu Ochre (OCP) ở
xa hơn về phía đông. Không thể chối cải được, nhất là điều nầy đã được
nhấn mạnh bởi các trương phái Ấn Độ, rằng nó đã có thể hiện một phần
quan trọng sự tiếp nối của nền văn hóa IVC bản địa. Về phương diện ngôn
ngữ, ngay cả trong Rig Vệ Đà, cũng thể hiện ảnh hưởng của nền tảng văn
minhDravidian. Một bản đồ Ấn Độ về
thời kỳ Đồ Sắc Vệ Đà theo Witzel (1989) cho chúng ta hình ảnh phối trí
sinh hoạt các sắc tộc Realms, các sắc tộc ngoại lai, sắc tộc Vệ ĐàShakhas, sông ngoài, kể cả sa mạc Thar. 2. Ngôn ngữ Mantra: Thời kỳ nầy bao gồm cả hai hình thức, thơ và văn xuôi, củaAtharva Vệ Đà (Paippalada và Shaunakiya), Rig Vệ Đà Khilani,Sama Vệ Đà, Samhita(chứa
đến 75 bài thơ không thấy có trong Rig Vệ Đà), và thơ của Yajur Vệ Đà.
Những kinh văn nầy phần lớn được đẫn từ Rig Vệ Đà, nhưng cũng chứng tỏ
một ít thay đổi căn bản, về cả hai phương điện, văn tự và cách diễn
giải. Những thay đổi dễ nhận ra nhất gồm có sự biến đổi từ vishva “all”bằng từ sarva, và sự xử dụng rộng rải tiếp-động-từ kuru (cho Rig Vệ Đà krno). Đây là thời kỳ Tiền Đồ Sắc ở vùng Tây-Bắc Ấn Độ, tương ứng với nền văn hóa Black and Red Ware (BRW), và vương quốc Kurus, trong thế kỷ thứ 12 trước Tây lịch. 3. Tiểu thuyết Sanhita: Thời kỳ nầy (1100 –
800 BC) đánh dấu sự bắt đầu của sự nghiệp tập hợp và điển chế luật lệ Vệ
Đà. Một thay đổi quan trong về ngôn ngữ là sự biến mất hoàn toàn của
các thể mệnh lệnh, điều kiện cách, trong thể xác định. Phần tường thuật của Yajur Vệ Đà (MS, KS) thuộc vào thời kỳ nầy. Theo tài liệu khảo cổ, thời đại Văn Hoá Đồ Sơn Xám (PGW) từ
900 trước Tây lịch, tương ứng với thời điểm chuyển biến trung tâm chính
trị từ Kuru đến Pancalas ở Ganges. Một phần nền văn hóa Black Yajur Vệ Đà cũng thuộc vào thời kỳ nầy. 4. Tiểu thuyết Brahmana: Những kinh văn Brahmanas của 4 pho Vệ Đà thuộc vào cùng thời đại nầy, cũng như bộ Upanishads cổ nhất (BAU, CHU, JUB). 5. Ngôn ngữ Sutra: Đây
là hình thái cuối cùng của ngôn ngữ Sanskrit Vệ Đà kéo dài cho đến 500
trước Tây lịch, gồm toàn bộ khối kinh văn khổng lồ Shrauta và Grhya, và
một phần Upanishads (như KathU, MaitrU. Kinh văn Upanishads trẻ tuổi hơn
là bộ Hậu-Vệ Đà). Khi mà Videha, trung tâm chính trị thứ ba, được thành
lập. Khoảng 500 trước Tây
lịch, tất cả những yếu tố phong tục, chính trị, và ngôn ngữ đã phối hợp
làm cáo chung thời đại Vệ Đà. Điển chế nghi lễ Vệ Đà lên đến tuyệt đỉnh
của nó, và những phong trào chống đối như Vedanta và Tiền Phật giáo khởi sự thâm nhập xã hội, dùng các thổ ngữ Pali và Prakrit, hơn là Sanskrit trong các kinh văn. Hoàng Đế Darius I của Persia đã xâm lăng thung lũng Ấn Độ, và trung tâm chính trị các vương quốc Ấn-Âu dời xa hơn về phía đông, đến tận vùng đồng bằngGangetic. Vào khoảng thời gian nầy (thế kỷ thứ 5 trước Tây lịch), Panini sang định lại văn phạm của Sanskrit cổ điển. 6. Sankrit Epic và Paninian: Các loại ngôn gnữ Epics Mahabharata và Ramayana, và Sanskrit cổ điển diễn tả bởi kinh sách Panini được
xem như là Hậu-Vệ Đà, và thuộc thời kỳ sau 500 trước Tây lịch. Theo tài
liệu khảo cổ, sự phát triển rộng lớn và nhanh chóng của Thời đại Sành
Sứ Đánh Bóng Màu Đen ở miền Bắc (Northern Black Polished Ware-NBP) ra khắp miền bắc Ấn Độ tương ứng với thời kỳ nầy. Ngôn ngữ Prakrit Vedanta, Buddha, và Pali của kinh điển Phật giáo cũng thuộc thời kỳ nầy. Sử liệu chỉ được
thành lập sau cuối thời kỳ Vệ Đà, và rất hiếm hoi trong suốt thời đại
Trung Cổ Ấn Độ. Cuối thời Vệ Đà, Ấn Độ được đánh dấu bằng những thay đổi
về ngôn ngữ, phong tục, và chính trị. Văn phạm Panini đánh dấu đỉnh cao
cuối cùng của hệ thống điển chế kinh văn tế lễ, và đây cũng là thời kỳ
bắt dầu ngôn ngữ Sanskrit cổ điển. Cuộc xâm lăng thung lũng Ấn Độ của Darius I vào
cuối thế kỷ thứ 6 trước Tây lịch đánh dấu điểm bắt đầu của ảnh hưởng
ngoại lai mạnh mẽ, tiếp nối tập quán truyền thống của những vương quốc
Ấn-Hy Lạp, những làn sóng di cư mới bắt đầu từ 150 trước Tây lịch (Abhira, Shaka),
và đặc biệt là ảnh hưởng của những Đế quốc Hồi giáo Trung cổ. Tài liệu
lịch sử quan trọng nhất về địa dư và nhân chủng của thời đại Hậu-Vệ Đà ở
Ấn Độ là những tác phẩm giá trị của Arrian, sử gia Hy Lạp vào thế kỷ
thứ 2. Văn hóa Sanskrit Cổ Điển: Trong nền văn hóa Ấn
Độ, rất khó mà vẻ được một lằn ranh phân biệt giữa các triết thuyết tôn
giáo và văn minh thế sự, đặc biệt là những câu chuyện thế sự thường
được phô diễn bằng những luận án tôn giáo. Một số dạng văn hóa Sanskrit
đã được viết để giải trí và để làm vui cho các triều đại vua chúa. Những
giải trí nầy dành cho hàng khán thính giả có kiến thức. Giải trí là
những bi kịch được đạo diễn để trình bày với giới người trí thức, hạng
thượng lưu, và có trình độ văn hóa và cảm xúc. Khán thính giả phải thuộc
giới có trình độ về ngôn ngữ Sanskrit ngay ở trong gia đình, phải có
cái âm giọng của giới thượng lưu trí thức có tầm vóc quốc gia. Mặc dầu
một ít diễn viên trong các bi kịch nói tiến phổ thông, là Prakrit, biệt
tài về ngôn ngữ Sanskrit của người viết kịch vẫn là yếu tố chính quyết
định giá trị của nó. Một soạn giả bi kịch
Sanskrit đáng kính phục nhất là Kalidasa, sinh vào thập niên 400. Ông
ta được coi là một soạn giả bi kịch vĩ đại nhất được biết dưới danh xưng“Shakespeare của Ấn Độ”. Vở kịch nổi tiếng nhất của ông ta, Abhigyaan Shakuntala,
đặt tên theo vị nữ anh hùng trong truyện, được căn cứ theo câu chuyện
tình sử trong kinh Mahabharata. Kalidasa cũng đã là một bậc thầy trong
nghệ thuật thơ khai phóng, gọi là kavya. Trong phong tục nầy, thể loại
văn chương (literary style and form) được coi trọng hơn ngay cả nội dung
câu chuyện. Bài thơ tự sự Meghaduta của Kaliđasa (Nhà tiên tri mây) mô
tả mây hoạt động như thế nào trong vai trò môi giới giữa hai người yêu
cách biệt. Nó chứa đựng tràn đầy những thể hiện chi tiết về tình yêu và
thiên nhiên. Bản Gitagovinda (Bài
Ca của Govinda), một bài thơ khai phóng quan trọng của thi sĩ Jayadeva
(thi sĩ thập niên 1100), mô tả việc làm tình của Govinda (một tên khác
của Krishma) và Radha, và được hành diễn trên một con đê của sông Jumna.
Bài thơ đầy những mô tả về cảnh tình thiên nhiên và đã trở nên phổ cập
như là nội dung chính của bài ca và điệu múa trong kịch bản. Văn hóa Pali, Sanskrit, và Dravidian cổ: Nhóm ngôn ngữ
Dravidian nói ở miền nam Ấn Độ có một văn hóa cổ điển. Nền văn hóa nầy
hầu như tách biệt với phong tục tập quán Sanskrit, nhưng ngôn ngữ
Dravidian mượn rất nhiều “ngôn từ” từ Sanskrit. Trong nhóm nầy, có bốn
ngôn ngữ chính: Tamil, Telugu, Kannada, và Malayalam. Văn hóa Tamil cổ,
Sangam (cộng đồng), được viết bằng hai nhóm thơ văn. Một nhóm viết thơ
tình ái. Nhóm khác quan chú mô tả lòng can đảm và sự vinh quang của các
vị vua, và chuyên viết về cái thiện và cái ác. Văn hóa Sangam cổ được
chính thức ghi nhận từ thế kỷ thứ Tư trước kỷ nguyên (300’s B.C.). Chúng
bao gồm tám bộ, tập hợp các bài ca văn, và mười bài thơ dài. Có 473 nhà
văn, gồm cả 30 nhà văn nữ, là những người nổi tiếng nhất trong môn phái
Avvaiyar. Hai bài thơ tự sự được sáng tác vào thế kỷ thứ 2, Silappadhikaram (Câu chuyện Anklet) của tác giả Llango-Adigal, và Manimekalai của
tác giả Chatthanar, cung cấp nhiều dử kiện sống động về xã hội Tamil.
Câu chuyên của manimekalai thể hiện rất chi tiết về những môn phái triết
học Phật giáo. Vào thế kỷ thứ 5, Thiruvalluvar viết kinh Thirukkural,
một hướng dẫn vào cách sống giải thoát. Văn chương, kinh
điển tôn giáo giải thoát đã được viết vào khoảng thế kỷ thứ 6. Một nhóm
thi sĩ Tamil gọi là Nayanars đã trở thành môn hộ thần Shiva, và một nhóm
khác, mang tên Alvars, là môn hộ thần Vishnu. Thơ phú của cả hai môn
phái mang màu sắc cá nhân tính mạnh mẻ. Cả hai đều bao gồm nhiều nữ thi
sĩ. Nhiều bài thơ Tamil ca ngợi nhiều đền thờ trong vùng. Một bản dịch
Tamil của Ramayana được sang định bởi thi sĩ Kamban giữa thế kỷ 9 và 11. Văn chương qua những
ngôn ngữ Dravidian khác tiếp nối những thuyết án tương tự, bị ảnh hưởng
bởi phong tục tập quán Tamil và Sanskrit. Văn chương Tamil phản ánh
quan trọng phong tục Ấn giáo và Phật giáo, nhưng Kannada thì bị ảnh
hưởng bởi Jainism nhiều hơn. Văn chương qua những ngôn ngữ nam Ấn Độ
phát triển từ lâu trước các nền văn minh địa phương ở miền bắc Ấn, và
chúng được liên tục phát triển để trở thành những ngôn ngữ quan trọng
ngày nay. Văn hóa Dravidian: Những ngôn ngữ ở
miền nam Ấn Độ lập thành họ ngôn ngữ Dravidians. Các bộ tộc nói tiếng
Dravidian cũng được hội lập ngay trong những địa phương mà các loại ngôn
ngữ bắc Ấn đã từng thống dụng. Ngôn ngữ Dravidian
làm thành từng nhóm bộ tộc riêng, và không giống như các vùng nói tiếng
Aryan, Austric, hay Sino-Tibetan, họ không có liên hệ với bên ngoài ở
các vùng bán đảo Ấn Độ, ví như Ấn Độ, Pakistan, và Bangladesh. Nhóm
Dravidian là nhóm lớn thứ hai ở Ấn Độ, chiếm khoảng 25% dân số Ấn Độ. Có
thể chia thành 3 chi nhánh ở bán đảo Ấn Độ: 1. Nhánh phía bắc, gồm ngôn ngữ Brahui được người Baluchistan và Kurukh dùng, và Malto do người Bengal và Orissa xủ dụng. 2. Nhánh thứ hai, gồm tiếng Telugu và một số tiếng lóng địa phương, nói trong vùng Trung Ấn. 3. Nhánh miền nam được hội lập bởi các thứ tiếng Tamil, Kannada, Malaylaam, Tulu, Badaag, Toda, Kota, và Kadogu. Những ngôn ngữ quan trọng nhất của nhóm Dravidian là: 1. Telugu, tiếng nói chính thức của tiểu bang Andhra Pradesh, có dân số lớn nhất trong các vùng nói tiếng Dravidian. 2. Tamil, tiếng nói của vùng Tamil Nadu, hầu như là ngôn ngữ cổ nhất và trong sáng nhất của họ Dravidian. 3. Kannada (cũng gọi là Canarese), tiếng nói của tiểu bang Karnataka, một loại tiếng nói cổ khác của Dravidian, được phát triển rất cách biệt. 4. Malaaylam, ngôn ngữ tiểu bang Kerala, là ngôn ngữ của thiểu số nhất và mới nhất trong họ Dravidian. Những ngôn ngữ
Dravidians làm thành một họ hoàn toàn cách biệt với những ngôn ngữ
Ấn-Âu, mặc dầu chính chúng cũng vay mượn rất nhiều từ của Sanskrit. Bốn
hệ chính của Dravidians, Tamil, Telugu, Kannada, và Malayalam là
bốn ngôn ngữ hành chánh của Ấn Độ. Cắc sắc dân Dravidian đã cùng sinh
tồn trong ít nhất 4,500 năm qua, và các ngôn ngữ Dravidians có một lịch
sử được ghi chép lại trong hơn 2,000 năm. Người nói tiếng Dravidians tự
cảm nhận là một tập thể văn hóa quan trọng. Indo-Aryan (Ngôn ngữ Ấn-Âu): Các chuyên gia về ngôn ngữ đã nghiên cứu ba thời kỳ phát triển của các ngôn ngữ Ấn-Âu (Indo-Aryan). Thời kỳ đầu là ngôn ngữ Sanskrit. Dân di trú từ phía bắc đã dùng Sanskrit trong vùng bắc Ấn vào khoảng thời gian trước 1000 trước Tây lịch. Trong thời kỳ tiếp theo, Prakrit phát triển chung với Sanskrit vào khoảng 250 trước Tây lịch. Cùng thời kỳ nầy, Pali là một ngôn ngữ khác cũng đã phát triển từSanskrit. Từ 1000 sau Tây lịch, nhiều dạng tân tiến hơn của Prakrit, gọi chung làApabhramsha, khai sinh ra nhiều ngôn gnữ địa phương khác nhau, thông dụng cho đến ngày nay. Những ngôn ngữ chính phát sinh từ nhiều dạng có tính địa phương của Apabhamshalà Assamese, Bengali, Gujarati, Hindi, Kashmini, Marathi, Oriya, Punjabi, Rajasthani,và Sindhi. Những ngôn ngữ nầy đã bắt đầu phát sinh từ sau 1000 (thế kỷ 11). Trong khi phát triển, chúng mượn từ của Sanskrit và Persian (hai
ngôn gnữ của những đế chế Hồi giáo ở Ấn Độ). Những ngôn ngữ bắc Ấn nầy
nay là những ngôn ngữ địa phương quan trọng, mỗi ngôn gnữ được dùng bởi
nhiều triệu người. Nepali, ngôn gnữ họ hàng rất gần gủi của Hindi, là ngôn ngữ quốc gia của Nepal.Bengali là ngôn ngữ quốc gia của Bangladesh, vừa cũng là ngôn ngữ chính của vùng Bắc Bengal. Hindi tân
thời, có căn bản là những tiếng lóng của Dehli nhưng mượn rất nhiều chữ
của Sanskrit, là ngôn ngữ của đa số người Ấn Độ. Chị em của ngôn ngữ
Hindi là Urdu, có cùng văn phạm, nhưng lại mượn nhiều từ của Persian và Arabic. Urdu là ngôn ngữ quốc gia của Pakistan. Bên cạnh từ ngữ vay
mượn của Persian và Arabic, những ngôn ngữ Ấn-Âu tân tiến cũng đã mượn
nhiều từ ngữ của tiếng Anh và các loại ngôn ngữ Âu châu khác. Những ngôn
ngữ tân thời chính yếu khởi diễn từ nhiều hình thái Apabhramsha là
Assamese, Bengali, Gujarati, Hindi, Kashmiri, Marathi, Oriya, Punjabi,
Rajasthani, Urdu, và Sindhi. Văn Hóa Cổ Epic: Nền văn hóa cổ Ấn Độ Hậu-Vệ Đà ngự trị bởi hai bài thơ khai phóng (epic!),Ramayana (Câu chuyện Rama) và Mahabharata (Cuộc
Đại Chiến của Bharatas). Thi sĩ Valmiki được biết là tác giả của
Ramayana. Nhưng thật ra cả hai Ramayana và Mahabharata đều đã được viết
bởi nhiều thi sĩ trong nhiều thời kỳ dài. Trước hết thi sĩ đã viết ra
những bài thơ khai phóng rồi được truyền khẩu qua những người xướng ca
và kể chuyện. Hai loại thơ khai phóng nầy của Ấn Độ có một ảnh hưởng
toàn cầu. Chúng được dịch ra và kể lại trong hầu hết mọi ngôn ngữ, Ấn Độ
và rất nhiều ngôn ngữ khác trên thế giới. Ramayana gồm 24,000 câu thơ, chia ra bảy bộ. gọi là Kandaas. Hình thức của nó, gọi là kavya (thơ khai phóng), có nghĩa là nó được sáng tác trong lúc tác giả đang có cảm hứng và phóng túng trong tiêu khiển. Ramayana kể
chuyện vua Rama và trận đánh với quỷ Ravana. Quỷ đã cướp Sita, vợ của
thần Rama, và giam giữ bà trong Lanka (bây giờ là Sri Lanka). Rama, nhờ
sự trợ thủ của đoàn quân khỉ của Hanuman, cứu được Sita. Chiến thắng của
thần Rama đối với quỷ Ravana là hình ảnh sự toàn thắng của thiện đối
với ác. Rama căn bản đã là một anh hùng thần thoại, nhưng sau nầy được
xem là tiền thân của thần Vishnu. Mahabharata là
một bài thơ dài nhất thế giới, gồm có gần 100,000 câu, được soạn thảo
suốt trong một chiều dài thời gian giữa 700 năm trước cho đến 500 năm
sau kỷ nguyên. Ấn Độ giáo cũng phát triển theo hình thức cổ điển của nó
trong cùng thời gian nầy. Câu chuyện chính của Mahabharata là một
cuộc chiến tranh xuyên suốt qua nhiều thế hệ trị vì giữa dòng họ
Pandavas và Kauravas, hai chi nhánh của một gia đình vọng tộc. Thần
Krishna đã ở về phía Pandavas, và chính họ về sau cũng được mô tả như là
những vị Thần trong các phần phụ đính của câu chuyện dài. Bhagavad Gita (Bài ca của Thượng Đế) được tìm ẩn trong nội dung củaMahabharata.
Đây là phần có nhiều ảnh hưởng nhất trong toàn bộ kinh điển Ấn Độ giáo,
trong đó Krishna giải thích cho hoàng tử Pandava, là Arjuna, ý nghĩa
của dharma (chân lý – trách nhiệm tôn giáo). Krishna dạy cho Arjuna,
người đã hủy bỏ cuộc chiến tranh với chính những thân nhân của mình,
rằng mọi người phải phục tùng một quy trình nhiệm vụ mà không phải nghĩ
ngợi đến kết quả của nó. Văn hóa cổ Puranas: Kinh Puranas: Sau hai bộ thơ khai phóng vĩ đại, những kinh văn được gọi là Puranas là
một tổng hợp khổng lồ tiếp theo, về niềm tin Ấn Giáo (Hindu) và sự phát
triển của tôn giáo nầy. Purana có nghĩa là canh tân. Kinh Puranas xử
dụng hình thức chuyện trường kỳ và thần học phổ thông để tô vẻ và quản
bá những khái niệm triết lý và tôn giáo của Vệ Đà. Cùng với Ramayana và Mahabharata, Puranas là nguồn gốc của rất nhiều câu chuyện và ngụ ngôn có tính lịch sử xã hội tôn giáo, phong tục tập quán của Ấn Độ. Những bộ Puranas chính bao gồm 18 tập hợp đa dạng các loại chuyện và huyền thoại. Chúng có lẽ đã được trước tác vài thời kỳ từ 500 đến 1000 trước Tây lịch.
Chúng triển khai những quan điểm của Ấn giáo cổ điển qua những câu
chuyện về các thần và anh hùng ở những đồng bằng, núi, và sông Ấn Độ. Những Puranas chính gồm có 5 đề tài: 1. sự sáng tạo của vũ trụ 2. chu trình diễn tiến hũy diệt và tái tạo 3. những thời đại khác nhau hay chu kỳ vũ trụ 4. những lịch sử của những hoàng gia mặt trời và mặt trăng, của các thần, và các nhà thông thái 5. dòng dỏi các vì vua. Mỗi Purana lại hêm vào một số chi tiết hành giáo. Những Puranas nầy
là điểm gặp nhau của nhiều niềm tin tôn giáo và xã hội khác nhau, và
tiêu biểu cho một tập hợp của nhiều phong tục tập quán từ nhiều tiểu lục
địa Ấn Độ. Upanishads: Là một nhóm văn bản lập thành một tập hợp sách kinh Ấn Độ, gọi là Vệ Đà. Upanishads, là phần căn bản của Ấn Độ giáo và ảnh hưởng mạnh mẽ nhất vào hệ thống triết lý của Ấn Độ. Upanishads đôi khi cũng được gọi là Vedanta, có nghĩa là tổng hợp thành hệ thống Vệ Đà. “Từ” Upanishads có nghĩa là “ngồi gần lại”. Nó ngầm ý rằng những sự kiện thiêng liêng nầy bản nguyên bí mật. Hầu hết Upanishadsđược
kết cấu bằng những đối thoại giữa một thầy giáo và một học trò. Những
phần kinh sách quan trọng nhất xuất hiện vào giữa 800 năm đến 600 năm
trước kỷ nguyên. Nhiều môn phái tư tưởng Ấn Độ, kể cả môn phái Sankhya và Yoga, đã được sáng lập từ những bài giảng của Upanishads.
Những bài giảng nầy thuộc vào hai dòng triết lý căn bản. Một cho rằng
chỉ có một chân lý căn bản duy nhất, gọi là Brahman, hay Thượng Đế, liên
thuộc với Atman, tức linh hồn. Như vậy, không thật có sự phân biệt giữa
linh hồn và Thượng Đế. Môn phái triết lý kia của Upanishads thì cho
rằng mỗi linh hồn là một cá thể vĩnh hằng.
9 người bí ẩn nắm giữ những cuốn sách thay đổi vận mệnh nhân loại
Hoa Hướng Dương |
46
9 cuốn sách này có khả năng thay đổi vận mệnh nhân loại. Hình minh họa.
Với mục đích bảo toàn sự tốt đẹp của tri thức khỏi tay kẻ xấu,
Hoàng đế Asoka đã giao cho 9 người bí ẩn nắm giữ những cuốn sách thay
đổi vận mệnh nhân loại.
Những người bí ẩn nắm giữ quyền lực có thể thay đổi vận mệnh của nhân loại. Mỗi người trong số họ sở hữu một cuốn sách bí ẩn...
9 người bí ẩn mà ít ai biết đến sự tồn tại của họ.
Câu chuyện về 9 người bí ẩn nắm giữ những cuốn sách có thể thay đổi
vận mệnh nhân loại đưa chứng ta trở về quá khứ, thời đại của Hoàng đế
Osaka (A Dục vương) người trị vị đế quốc Khổng tước ở Ấn Độ vào những
năm 273 TCN.
Trong những năm chinh chiến trên chiến trường, ông chứng kiến sự chết
chóc trong cuộc chinh phạt của mình. Từ đó ông trở thành một người sùng
bái đạo Phật. Sau này góp phần tích cực truyền bá Phật giáo đi khắp
nơi.
Hoàng đế Asoka và hoàng hậu.
Trong cuốn sách "Đại cương lịch sử thế giới" (Outline of World History), sử gia G. Wells có viết:
"Trong số 10 cái tên của hàng ngàn các đế vương trong lịch sử, cái tên Asoka tỏa sáng gần như một mình, như một vì sao".
Từ một vị vua đi chinh phạt khắp nơi, ông đã hoàn toàn thay đổi con
người mình sau cuộc chinh phạt nhà nước Kalinga, ngày nay nằm giữa
Calcutta và Madras.
Đế quốc Khổng tước 270 TCN.
Chứng kiến sự chết chóc thảm khốc của cuộc chiến, ông dường như đã bị sốc và cảm thấy hối hận:
"Ashoka qua chiến tranh ở Kalinga, có hơn 100.000 người chết và
150.000 bị trục xuất". Ashoka đã chuyển đổi một cách từ từ sang Phật
giáo vào khoảng 263 TCN. Sau đó ông đã tuyên truyền Phật giáo khắp châu
Á.
Mong muốn tất cả mọi người đều được sống hòa thuận và hạnh phúc, tự
do theo ước muốn của đức Phật, ông kêu gọi mọi người ăn chay, từ bỏ rượu
và giết mổ động vật.
Hoàng đế Asoka trở thành một vị vua kiệt xuất nhất Ấn Độ, tên tuổi
ông gắn liền với việc lưu truyền Phật giáo. Những gì ông để lại đã thay
đổi đất nước Ấn Độ cổ đại và cho tới tận ngày nay.
Vị hoàng đế kêu gọi ăn chay và ngưng giết động vật.
9 cuốn sách bí ẩn có khả năng thay đổi vận mệnh nhân loại
Hoàng đế Asoka là một vị vua thông minh, ông nhận ra con người thường
sử dụng trí thông minh, khoa học và công nghệ cho mục đích xấu, chỉ
mang lợi cho bản thân.
Do đó, những kiến thức khoa học lúc bấy giờ được ông lưu giữ một cách bí mật, không phổ biến trong người dân.
Ông đã lập ra một nhóm bí mật gồm 9 người thông thái có nhiệm vụ gìn giữ những kho tàng tri thức ấy.
Có rất ít thông tin về họ, hầu như họ không gặp gỡ bất cứ người nào
và sự tồn tại của họ cũng ít người biết đến. Họ tránh việc giao tiếp xã
hội nhằm tránh những cuốn sách của mình rơi vào tay kẻ khác có mưu đồ
bất chính.
Hình minh họa.
Tuy nhiên, họ cũng tiếp xúc với thế giới bên ngoài nhưng vô cùng hiếm
hoi, nhiều nhà nghiên cứu còn cho rằng họ thậm chí không tồn tại.
Theo tác giả Pháp có tên Louis Jacolliot cho rằng những nhà khoa học
này đã thí nghiệm và nghiên cứu việc giải phóng năng lượng, sự khử trùng
và tâm lý chiến tranh...
Những kiến thức mà họ đã biết từ 2000 năm trước cả chúng ta, những con người của thế giới hiện đại.
Rất nhiều nền văn minh cất giữ kiến thức của mình không để người khác lấy được.
Tuy nhiên, họ không để bất cứ ai có thể có được những kiến thức "nguy
hiểm" này. Do đó chúng không được biết đến rộng rãi mà chỉ được biết
đến qua cuốn sách được viết bởi Talbot Mundy năm 1927.
Ông là người thuộc lực lượng cảnh sát Anh ở Ấn Độ.
Trong cuốn sách của mình, ông cho biết tổ chức bí mật này sử dụng
loại ngôn ngữ tổng hợp chỉ có họ mới hiểu được. Mỗi người trong số đó
nắm giữ một cuốn sách huyền bí lưu giữ kiến thức bí mật. Cuốn sách thứ nhất lưu giữ kiến thức về kỹ thuật tuyên truyền và tâm lý chiến tranh, Mundy viết:
"Kiến thức nguy hiểm nhất của sự đúc kết lại từ các nhà nghiên cứu, vì nó có thể cho phép bất cứ người nào cai trị thế giới".
Mỗi cuốn sách là một kho tàng kiến thức. (Ảnh minh họa).
Cuốn sách thứ hai thảo luận về sinh lý học và giải thích
nhiều cách có thể giết chết một người đơn giản bằng việc chạm vào họ.
Trong đó còn nói về những kỹ thuật Judo nguy hiểm. Cuốn sách thứ 3 tập trung vào vi trùng học và sự biến đổi kim loại là nội dung cuốn thứ 4. Cuốn sách thứ 5 nghiên cứu về ý nghĩa của sự giao tiếp, những thứ thuộc mặt đất và bên ngoài Trái đất.
Trong đó còn đề cập tới sự tồn tại của người ngoài hành tinh trong Vũ trụ. Cuốn thứ 6 chủ yếu là các bí mật về trong lực. Cuốn thứ 7 bao gồm các vấn đề về vũ trụ, còn cuốn thứ 8 nghiên cứu các vấn đề về ánh sáng. Cuốn thứ 9, cuốn sách cuối cùng bàn luận về xã hội học. Bao
gồm các nguyên tắc của sự tiến hóa xã hội và sự tiến đoán sự suy tàn của
chúng.
Những người giữ chúng không tiếp xúc với bên ngoài.
Mục đích của việc lưu giữ bí mật những cuốn sách này không phải để làm chậm tiến trình phát triển của nhân loại.
Hơn ai hết vị Hoàng đế Asoka hiểu rõ nếu rơi vào tay kẻ xấu, chúng sẽ trở thành những kiến thức rất nguy hiểm cho xã hội.
Điều này không chỉ xuất hiện ở Ấn Độ, rất nhiều đế chế khác cũng cất
giữ kiến thức của mình và không để những thế lực bên ngoài có được chúng
dưới nhiều hình thức bảo vệ khác nhau.
Đó là những kiến thức tuyệt vời nhất của nhân loại, mang sức mạnh thay đổi vận mệnh loài người.
Hình minh họa.
Kiến thức là sức mạnh nhưng thúc đẩy hay kìm hãm sự phát triển của nhân loại còn tùy thuộc cách con người sử dụng chúng.
(ĐC sưu tầm trên NET) Oscar Là Ai? Câu Chuyện Về Cuộc Đời Bi Kịch Của “Thiên Tài Bị Xã Hội Vùi Dập” Ít ai biết rằng, giải thưởng danh giá của làng điện ảnh – Oscar - được lấy theo tên của nhà văn nổi tiếng Oscar Wilde. Năm 1854, khi rửa tội cho con trai thứ hai nhà Wilde, Đức cha Prideaux Fox không hề biết rằng cậu bé này rồi sẽ là “thiên tài bất thường” của Ireland. Về sau, Oscar Wilde đã trở thành một trong những nhân vật đặc biệt nổi bật của giới văn chương, người luôn ở giữa tôn vinh và hạ nhục, giữa cái đẹp và sự tăm tối, giữa sa hoa và khốn cùng. Không nhiều người có thể trả lời câu hỏi: " Oscar là ai?" Quang Thạch | 01/03/2016 10:07 7 Theo một video phỏng vấn ngay trước thềm Oscar 2016, các diễn viên tới dự giải Oscar cũng không thể trả lời câ...
(ĐC sưu tầm trên NET) Thời sự quốc tế sáng 10/5/2018 TIN TỨC VIỆT NAM MỚI NHẤT TRONG NGÀY 10/5/2018 60 Giây Chiều - Ngày 09/05/2018 - Tin Tức Mới Nhất An ninh ngày mới ngày 09.05.2018 - Tin tức cập nhật TRỰC TIẾP THỜI SỰ BIỂN ĐÔNG 10/05 Cận cảnh Tàu Việt Nam trong diễn tập Komodo 2018 Hai Chị Em - Trung Hậu và Thuỵ Vân Hội nghị Trung ương 7: Sẽ có quyết sách dẹp vấn nạn "cả họ làm quan" (TTXVN/Vietnam+) 09/05/2018 21:06 GMT+7 Bản in Đại biểu dự hội nghị. (Ảnh: Phương Hoa/TTXVN) Hội nghị lần thứ 7, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII, diễn ra từ ngày 7-12/5, tập trung thảo luận, cho ý kiến về các nội dung: xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; cải cách chính sách tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang và người lao động trong các doanh nghiệp; cải cách chính sách bảo hiểm xã hội; và một ...
(ĐC sưu tầm trên NET) Giang hồ Sài Gòn trước 1975: Trùm du đãng Mã Thầu Dậu Mã Thầu Dậu nhận tất cả đơn đặt hàng giải quyết ân oán trong đời thường và trong làm ăn. "Tiền nào của ấy" nên mỗi dịch vụ đều có mức giá khác nhau. Trùm du đãng một vùng rộng lớn không hành xử như đám du đãng cắc ké. Chợ Lớn có trùm du đãng ba Tàu Mã Thầu Dậu (Con ngựa đầu gà) nổi tiếng với vai trò đâm thuê chém mướn. Trùm bảo kê Mã Thầu Dậu xuất thân từ một đứa bé con nhà người Hoa gốc Quảng Đông nghèo. Tuổi thơ Mã Thầu Dậu trải qua nhiều cơ cực, từ bửa củi thuê, bưng cà phê, bưng hủ tiếu đến cả rửa chén bát thuê. Mã Thầu Dậu khởi nghiệp trùm du đãng khét tiếng trên hè phố La Kai (đường Nguyễn Tri Phương, quận 5 ngày nay). Hắn nổi danh nhờ những vụ trừ khử đám du thủ du thực cho các chủ tiệm buôn giàu có người Hoa và dần đi theo con đường đâm thuê chém mướn chuyên nghiệp. Khu vực chợ Lớn xưa Băng du đãng Mã Thầu Dậu h...
Nhận xét
Đăng nhận xét