Dai Chung la su suy ngam cua toi ve cuoc doi, xa hoi, nhan sinh
KÝ ỨC CHÓI LỌI 110
Nhận đường liên kết
Facebook
X
Pinterest
Email
Ứng dụng khác
-
Dáng Đứng Việt Nam - Trọng Tấn
-Xét
được sống còn trong no đủ là mưu cầu cơ bản và ước nguyện chính đáng
của mọi cuộc đời, thì sẽ phân biệt được chiến tranh phi nghĩa và chiến
tranh chính nghĩa, sự phòng vệ chính đáng cũng như sự bắt buộc hạ sát
lực lượng đối kháng. Và khi phải hành động xả thân vì lẽ phải, con người
trở nên vô cùng cao quí. -Nhưng xét trên bình
diện đánh giá sự sống là thứ quí giá nhất trên đời, thì giết chóc lẫn
nhau, dù là giết chóc bắt buộc, là hành động mù quáng đích thực của con
người, và chiến tranh, dù là chiến tranh chính nghĩa, thì kẻ gây chiến vẫn bị coi là kẻ loạn trí
vô hạn, dù đó là sự loạn trí tự giác, nhân danh bảo vệ sự sống! -Đứng lên trên tất cả mà phán xét, thì: trí tuệ siêu việt của con người hóa ra là ngu ngốc bậc nhất! -Chân lý là đây: Chiến tranh là mệnh lệnh tối thượng của tự nhiên mù quáng đối với trí tuệ sáng suốt của loài người: hãy giết chóc lẫn nhau! -Mục đích của mọi cuộc chiến tranh, của mọi phía xung đột đều là cố giết chóc để dành lấy danh lợi. -Xét
như thế mới hiểu được vì sao một dân tộc nhỏ bé, lạc hậu dám kiên quyết
tiến hành chiến tranh với một siêu cường để giành lấy sự sống, thoát
kiếp nô lệ. -Và nhất là khi dân tộc đó giành được thắng lợi, thì thắng lợi đó được coi là của thần thánh. -Như
vậy, muốn không còn chiến tranh nữa, con người thực sự phải biết
tôn sùng cuộc sống, ghê tởm giết chóc, coi cuộc sống là thứ tối thượng, không được xâm
phạm, hoặc không còn lòng tham
và tính tư hữu, hoặc trở lại lối nghĩ tăm tối như hổ báo, hoặc sáng suốt như nước, triệt
tiêu hận thù! -Nhưng hết chiến tranh rồi, xã hội loài người có hết bạo tàn, giết chóc lẫn nhau? -Và vô cớ tàn sát sinh linh, con người có phải là loài ác độc nhất trong muôn loài sinh vật!? -Chiến tranh, dù có thần thánh đến mấy, thì cũng là hành động mang hơi hám của ác quỉ! -Lịch
sử loài người cho thấy, chưa có đế quốc nào, chưa có thế lực nào làm
được bá chủ thế giới. Muốn làm chúa tể thế giới thì phải giết người,
phải chà đạp sự sống, phải ngu xuẩn, nghĩa là phải tự hủy diệt bản thân
mình trước đã!
----------------------------------------------------------------------------
(ĐC sưu tầm trên NET)
Lính bắn tỉa F313 Nguyễn Quang Tuệ "Đằng sau anh nó lên nhiều lắm"
"Đó là những trận đánh không bao giờ tôi quên được."
Chiến tranh biên giới 1979: Vệt ký ức sinh – tử của vị Đại tá giữa mưa pháo Trung Quốc
Thanh Lam |
8
Với Đại tá Nguyễn Kim Hồng, 10 năm giữa lằn ranh sinh tử của
cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc năm 1979 mãi là vệt ký ức chói sáng
không thể nào quên về những tháng ngày đầy gian khổ, kiên cường của quân
và dân Việt Nam để bảo vệ từng tấc đất mẹ Việt Nam anh hùng.
Buổi sáng sớm 40 năm trước, ngày 17/2/1979, Trung Quốc bất
ngờ đưa hơn 600.000 quân và hàng ngàn xe tăng, khí tài quân sự ồ ạt tràn
qua biên giới với mục đích tấn công 6 tỉnh phía Bắc nước ta.
Trong
thời khắc non sông bị xâm phạm ấy, quân và dân ta đã anh dũng đánh trả,
đứng lên bảo vệ bờ cõi non sông dù phải trải qua những đau thương, mất
mát lớn vô cùng. Trong cuộc chiến tranh chính nghĩa của dân tộc, hàng
nghìn người con ưu tú của đất Việt Nam anh hùng đã ngã xuống để làm nên
những trang sử chói sáng của dòng dõi con lạc cháu hồng.
Những
ngày tháng ác liệt ấy, vẫn mãi là vệt ký ức không thể nào quên của vị
Đại tá 87 tuổi, sống tại căn nhà trong một con ngõ nhỏ nằm trên đường
Hai Bà Trưng, TP. Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc. Những đau thương thời gian không thể xóa nhòa
Tháng
Giêng năm 1947, nghe theo tiếng gọi của Tổ quốc, hưởng ứng lời kêu gọi
của Bác Hồ "Ai có súng dùng súng, ai có gươm dùng gươm, không có súng
gươm thì dùng cuốc thuổng gây gộc đánh quân thù xâm lược", cậu thiếu
niên vừa tròn 15 tuổi có tên Nguyễn Kim Hồng (tên thường gọi Kim Hồng)
đã xung phong lên đường tham gia đội dân quân tự vệ.
Là nhân chứng
lịch sử đi qua những ngày tháng nạn đói năm 1945, nhìn dáng người gầy
gò, xanh xao của cậu thiếu niên nhiệt tình nhiều cán bộ cách mạng e
ngại, sợ cậu bé 15 tuổi không chịu được gian khổ, ác liệt của chiến
trường. Phải mất hơn một ngày thuyết phục, cuối cùng chàng trai Kim Hồng
cũng được nhận vào đội dân quân tự vệ.
Trong cuộc kháng chiến 9
năm gian khổ chống thực dân Pháp, anh bộ đội Cụ Hồ có tên Kim Hồng kinh
qua nhiều vị trí. Trước cuộc chiến tranh biên giới năm 1979, ông Kim
Hồng đã là tham mưu trưởng kỹ thuật của quân khu II tại bộ Quốc phòng.
Ngày
17/2/1979 khi hay tin Trung Quốc đưa quân sang đánh biên giới phía Bắc
ông và 6 cán bộ có kinh nghiệm chiến đấu ở chiến trường miền Nam được
điều động lên khu vực tỉnh Hoàng Liên Sơn (nay là tỉnh Yên Bái , Lào
Cai), bổ nhiệm làm tham mưu trưởng kỹ thuật của Quân khu.
Đại tá Kim Hồng nhớ lại những năm tháng chiến tranh khốc liệt nơi biên giới phía Bắc bảo vệ Tổ quốc.
"Ngày
19/2 chúng tôi lên đến nơi khi đó là ở km 21 Yên Bái, đập vào mắt chúng
tôi là cảnh bốn bề hoang tàn, xơ xác. Cây cối bị chặt phá, nhà cửa,
giếng nước cũng bị đập phá tan hoang. Ngoài người lớn, có cả trẻ nhỏ vô
tội bị giết hại dã man, xác người nằm la liệt. Sau phút lặng người vì
đau xót, tôi cùng các đồng đội dằn lòng mình đi thu dọn lại chiến
trường, tìm đồng đội hy sinh và những người bị thương. Đây là cảnh tượng
khiến tôi ám ảnh mãi đến tận bây giờ", vị Đại tá 87 tuổi đau đáu nhớ
lại ký ức về chiến trường biên giới phía Bắc.
Đại tá Kim Hồng
hồi tưởng lại: "Thời điểm năm 1979, Trung Quốc chủ yếu dùng sức người là
chính, họ dùng cả dân của họ để làm lá chắn cho đội quân tiến sang biên
giới Việt Nam. Do địa hình các tỉnh biên giới phía Bắc chủ yếu là rừng
núi, cây cối um tùm vì vậy, quân đội Trung Quốc để dân của họ đi trước
cầm dao phát bờ bụi rậm, bộ đội đi sau. Khi đó, quân đội ta rơi vào hai
tình thế lưỡng nan:
Một là, nếu không đánh thì sẽ bị kẻ địch
giết. Hai là, nếu đánh thì sẽ làm hại đến người dân vô tội nên khi ấy
chúng ta đã rất phân vân. Thế nhưng, khi địch ồ ạt tấn công, pháo bắn
cấp tập, quân ta thương vong nặng nề buộc chúng ta phải lựa chọn cầm
súng đánh. Chiến trường bảo vệ biên giới phía Bắc diễn ra rất ác liệt.
Cứ địch chiếm thì ta lại tiến công lại, rồi quân Trung Quốc lại áp sát
nã đạn pháo, cao điểm có ngày cả hai bên đánh nhau tới 5-7 lần".
Trong
ký ức vị Đại tá 87 tuổi, cuộc đời nhà binh của ông chưa tham gia trận
đánh nào mà quân địch lại sử dụng nhiều pháo đến như vậy. "Tôi gọi cuộc
chiến tranh biên giới phía Bắc thời điểm đó là đại tiệc bắn pháo của
Trung Quốc. Địch dùng pháo nhiều không kể xiết, thậm chí dùng cả pháo
105 bắn ầm ầm vào quân ta", ông Kim Hồng chia sẻ.
Vị Đại tá này kể
tiếp: "Là tham mưu trưởng kỹ thuật, trực tiếp đảm bảo kỹ thuật cho anh
em, tôi có trách nhiệm đến từng nơi diễn ra trận đánh quan sát, nắm tình
hình ở đâu khó khăn về kỹ thuật thì có phân đội kỹ thuật đi theo để đảm
bảo pháo, súng có thể bắn được.
Những đồng đội bị thương thì đều
được chuyển về tập trung nên tôi cũng được tiếp xúc, chăm lo sức khỏe
và tổ chức chôn cất cho các đồng chí đã hy sinh. Nhìn những vết thương
trên cơ thể đồng đội lúc ấy tôi không còn lời nào có thể diễn tả hết
được. Thế nhưng, trong những lần trò chuyện với những người bị thương,
ai cũng nói sẵn sàng hy sinh, họ không sợ cái chết chỉ để hoàn thành
nhiệm vụ thiêng liêng bảo vệ Tổ quốc". Quyết tử cho Tổ quốc
Kết
thúc đợt 1, Đại tá Kim Hồng cùng đồng đội tiếp tục di chuyển lên km 12 ở
Vị Xuyên – Lao Chải (Hà Giang). Tại đây, có cao điểm 1509, địch muốn
chiếm đóng làm bàn đạp khống chế toàn bộ các nơi khác.
Chiến
trường tại đây rất khốc liệt, khoảng 400 đồng đội của ông đã mãi mãi ngã
xuống, đau xót vô cùng. Thế nhưng dù phải hy sinh nhưng chúng ta phải
chấp nhận để giữ bằng được, bởi đây là cứ điểm quan trọng quyết định cục
diện của cuộc chiến.
"Tại
Vị Xuyên – Lao Chải, trước khi đổ bộ vào, quân đội Trung Quốc đánh vào
cầu Thanh Thủy (huyện Vị Xuyên) đầu tiên. Địch dùng pháo bắn tới tấp vào
trận địa, bắn vào cả những nơi mà họ nghi bộ đội ta đóng quân và bắn
vào 29 cao điểm bộ đội ta đang canh giữ, nhưng Vị Xuyên là cao điểm mạnh
nhất. Khi pháo bắn nhiều như vậy là quân đội ta biết rằng Trung Quốc sẽ
tấn công bằng bộ binh.
Nên khi pháo bắn dồn dập, tất cả anh em
xuống hầm ẩn nấp. Khi hết pháo bắn rồi thì mới ra khỏi hầm chiến đấu.
Tôi còn nhớ lúc ấy ở dưới hầm mà tiếng hò hét của quân Trung Quốc ác
liệt, thậm chí có cả kèn đi theo. Nhưng, bằng mọi giá, có hy sinh, đổ
máu thì chúng ta phải giữ bằng được cao điểm ấy, không cho phép địch lấn
chiếm và chúng ta đã giữ được cao điểm 1509 – Vị Xuyên", ông Kim Hồng
hồi tưởng lại trận đánh ác liệt.
Trong quá trình tham gia chiến
đấu cùng các đồng đội, Đại tá Kim Hồng vẫn còn nhớ như in về một sư đoàn
344 vô cùng đặc biệt. Sư đoàn 344 khi ấy toàn phụ nữ làm đường. Khi
Trung Quốc bắt đầu đánh sang thì những nữ thanh niên xung phong rút lui,
nhưng sau đó cả sư đoàn cùng quyết tâm tham gia chiến đấu. Điều này thể
hiện tinh thần đoàn kết dân tộc, đồng lòng của quân và dân không kể già
trẻ, trai, gái đều đứng lên cầm súng bảo vệ non sông Tổ quốc.
Suốt
quá trình trực tiếp chỉ huy, tham mưu trong cuộc chiến tranh bảo vệ
biên giới phía Bắc năm 1979, Đại tá Kim Hồng cho hay có những kỷ niệm
sâu sắc thể hiện tình cảm đồng chí đồng đội gắn kết, một lòng vì Tổ
quốc, mà đến hôm nay, khi nhắc lại ông vẫn lâng lâng niềm tự hào.
"Trong
quá trình tham gia chiến đấu ở Vị Xuyên – Lao Chải, trong lúc đang
chỉnh sửa kỹ thuật, triển khai nhiệm vụ tôi bị đạn pháo của địch vùi dập
dưới chiến hào. Khi đó, có hai chiến sĩ của sư đoàn 313 ra bới hầm lên
để kéo tôi ra, nếu không tôi đã không còn sống sót đến ngày hôm nay",
Đại tá Kim Hồng nhớ về giây phút mình được đồng đội cứu sống.
Ở cái tuổi xưa nay hiếm, nhưng ông chưa khi nào cho phép mình nghỉ ngơi, ông vẫn hăng say viết hồi ký, làm thơ…
Theo
lời của Đại tá Hồng, trong cuộc chiến gian khổ, thiếu thốn đủ thứ thì
mỗi ngày quân ta chỉ được ăn 2 nắm cơm, rồi lại cầm súng chiến đấu. Có
nhiều đêm trên rừng mưa rét, mọi người lại cùng ra ruộng nhổ sắn mang về
lùi bên bếp lửa cùng ăn.
"Lúc này, tôi mới thấm thía câu thơ của
nhà thơ Tố Hữu: Chia nhau một củ sắn lùi/bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp
cùng". Chúng tôi, những người lính sống với nhau bằng tình cảm gắn bó,
như anh em, cha con ruột thịt và cùng sẵn sàng sinh tử trên chiến hào
khi đánh giặc…
Có lẽ, đây chính là sức mạnh chiến đấu của quân
đội nhân dân Việt Nam trong chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược. Đó là một
quân đội chiến đấu vì chính nghĩa, một quân đội dưới sự lãnh đạo của
Đảng, vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì cuộc sống bình yên của nhân dân
mới làm được những việc đó", Đại tá Kim Hồng nhấn mạnh.
40
năm theo nghiệp nhà binh trải qua rất nhiều trận đánh lớn, với Đại tá
Kim Hồng đó là những ngày tháng ông cùng đồng chí, đồng đội nằm giữa
ranh giới sinh tử để ngày hôm nay đây được sống trong hòa bình . Tâm trí
ông lúc nào cũng nhớ tới những đồng đội ngã xuống để ông và mọi người
có hòa bình hôm nay.
Đại tá Kim Hồng bày tỏ: "Tôi luôn biết ơn
những người đã ngã xuống để tôi được sống, nhiều khi tôi khóc khi nghĩ
đến hàng ngàn anh em đã nằm lại nơi chiến trường. Kể từ khi cuộc chiến
tranh ác liệt ấy kết thúc, tôi vẫn cùng những đồng chí khác tìm về nơi
chiến trường xưa để thắp nén hương tưởng nhớ đến những người đồng chí đã
ngã xuống, chiến trường xưa nay đã đổi khác nhưng chúng tôi dặn lòng
mình không thể quên, không được phép lãng quên những ký ức hào hùng đã
qua".
Kết thúc cuộc trò chuyện với chúng tôi, Đại tá Kim Hồng đọc
một bài thơ mà ông vừa sáng tác như một sự tưởng nhớ về đồng chí, đồng
đội nhân kỷ niệm 40 năm chiến thắng cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới
phía Bắc của Tổ quốc (17/2/1979).
"Đất nước thăng hoa
40 năm ấy đã trôi qua
Đánh đuổi xâm lăng cứu nước nhà
Đồng đội bao người nằm lại đó
Anh em mấy đứa bước đi xa
Mường Khương, Bát Xát còn nồng ấm
Phong Thổ, Vị Xuyên vẫn mặn mà
Quét sạch quân thù xây dựng nước
Cõi bờ bền vững đất thăng hoa".
theo Người đưa tin
Dư luận Trung Quốc về Chiến tranh Tháng 2 năm 1979: Một cuộc chiến vô nghĩa, trái đạo lý và thảm bại
Thu Thủy |
226
Nữ dân quân Cao Bằng dẫn giải tù binh Trung Quốc bị bắt
Đã 40 năm trôi qua kể từ ngày 17.2.1979, Trung Quốc huy động 60
vạn quân gồm nhiều quân đoàn chủ lực với sự yểm trợ của hàng nghìn xe
tăng, trọng pháo ồ ạt mở cuộc tiến công xâm lược vào 6 tỉnh biên giới
phía Bắc nước ta.
Chính quyền Bắc Kinh khi đó nói, họ tiến hành cái gọi là "Chiến tranh
phản kích tự vệ" để đáp trả "những hành động khiêu khích chống Trung
Quốc của Việt Nam", "chi viện cuộc kháng chiến của nhân dân
Campuchia"... Rằng, họ đã giành chiến thắng và cuộc chiến "phản kích tự
vệ" đó đã đạt được mục đích đề ra" v.v. và v.v..
Tuy
nhiên, sau 40 năm, ngày càng có nhiều người Trung Quốc hiểu biết, tôn
trọng lẽ phải, nhất là các học giả và những người lính đã từng tham gia
cuộc chiến tranh năm ấy nhận rõ sự thực, dũng cảm phản bác lại những
điều mà họ từng ngộ nhận; công bố và phân tích về những thực tế phũ
phàng của "cuộc chiến tranh vô nghĩa" trái đạo lý ấy...
"Một cuộc chiến tranh gây tranh cãi"
Dưới
tiêu đề "Cựu binh tham chiến vạch ra 11 vấn đề bên trong của Chiến
tranh phản kích tự vệ chống Việt Nam", diễn đàn Cường quốc của báo điện
tử "Nhân dân Nhật báo" (bbs1.people.com.cn) ngày 13.7.2016 đã đăng hình
ảnh cô nữ du kích người Tày súng trong tay đang dẫn giải toán tù binh
Trung Quốc kèm theo chú thích:
"Nữ
binh Việt Nam giám sát các binh lính Trung Quốc bị bắt trong Chiến
tranh phản kích tự vệ chống Việt Nam năm 1979; mà đó là cả một đại đội
đầu hàng tập thể".
Dưới bức ảnh,
tác giả viết: "Vào tết Thanh Minh năm nay, có cựu binh từng tham gia
cuộc Chiến tranh Trung – Việt năm 1979 đã bằng những điều bản thân trải
qua, lật tẩy 11 vấn đề bên trong cuộc chiến đang được yêu cầu phải quên
đi ấy.
Rất nhiều người lại nêu ra:
tính mạng các binh sĩ chỉ có giá tiền ngang một con lợn liệu có đáng
phải tham gia cuộc chiến tranh đó? Vì sao Trung Quốc đem tiền đi viện
trợ nước khác ở khắp nơi mà không có những người bạn thực sự?
Trên
Diễn đàn mạng Thiên Nhai (Chân trời, "Tianya.cn") có đăng bài viết của
tác giả lấy nick là "Shuqinghaigui" là biên tập viên của một tòa soạn
báo, từng tham gia cái gọi là "Chiến tranh phản kích tự vệ chống Việt Nam".
Người
này cho biết ông 16 tuổi vào lính, 19 tuổi bị thương trở thành quân
nhân tàn phế, nhiều năm nay đã viết bài và đi khắp nơi đói quyền lợi hợp
pháp cho các lính bị thương khi xưa.
Cựu binh này viết với giọng thương cảm: "Chúng
tôi đã tuổi quá ngũ tuần, đang già đi, một số chiến hữu bắt đầu nhớ lại
cuộc chiến tranh mình đã trải qua năm xưa, cũng tức là "Chiến tranh
phản kích tự vệ chống Việt Nam".
Cùng
với thời gian qua đi, nay nhớ lại những hiện tượng kỳ quái khi đó, bỗng
rút ra những kết luận mà chính bản thân cũng cảm thấy lạ lẫm".
Cựu
binh này ý thức được rằng, khi mô tả liên quan đến cuộc chiến tranh
sinh tử, mọi người thường thích nói quá lên. Mỗi khi đọc những bài viết
kể lại cuộc chiến đó đều cảm thấy rất nhiều điều không đúng thực tế, đều
tự mình thấy mình là người tự thân trải qua cuộc chiến, cần phải đứng
ra nói vài điều, sửa đổi tận gốc.
Ông
ta bày tỏ, tuy ông không có quyền uy, nhưng những điều ông nói đều là
sự trải nghiệm, cảm nhận hoặc khảo chứng chân thực về cuộc chiến tranh
ấy.
Một nghĩa địa lính Trung Quốc bị chết trong Chiến tranh Tháng 2.1979 tại huyện Malipho, Vân Nam (Ảnh tư liệu Trung Quốc)
Sĩ quan chỉ huy chiến trường hầu như không biết tác chiến hiệp đồng binh chủng, bộ thống soái cao nhất thì chiến lược hỗn loạn.
Chiến tranh không đạt được mục đích "trừng phạt Việt Nam, phá hủy tiềm lực và tài nguyên, sát thương quân chủ lực và phá hoại chiến lược quân sự", cũng không đạt mục tiêu chiến lược chính trị "làm Việt Nam tan rã, giúp chính phủ mới thân Hoa lên cầm quyền".
Tuy
nhiên mục tiêu chính trị quan trọng trong nước là giải quyết vấn đề nắm
quyền chỉ huy quân đội thì đã được giải quyết thuận lợi". Tác giả này
viết: "Chiến tranh phản kích tự vệ chống Việt Nam là một cuộc chiến
có vấn đề nghiêm trọng về cả hoạch định lẫn chỉ huy, cần phải nhìn nhận
lại…"
Cuộc chiến đó thương vong
quá nhiều. Quân đội ta (tức Trung Quốc) không thể hiện được ưu thế về
trang bị và chiến thuật; hệ thống hậu cần và tiếp tế hỗn loạn, thiếu sự
hiệp đồng giữa bộ binh - xe tăng và mặt đất - trên không, không quân và
tên lửa chiến lược không tham chiến. Vũ khí nhẹ quân lính sử dụng quá
cũ, không thực hiện được áp chế hỏa lực…
Tác giả "Shuqinghaigui" nêu lên "11 vấn đề bên trong cuộc chiến tranh cần được làm sáng tỏ", bao gồm:
"1. Về nguyên nhân gây chiến tranh, đến nay vẫn chưa được giải thích công khai, chính thức và khiến người ta tin phục.
Thậm
chí tướng Trương Thắng, nguyên Cục trưởng Cục Tác chiến/Tổng bộ Tham
mưu (con trai nguyên Bộ trưởng Quốc phòng Trương Ái Bình) cũng thừa nhận
trong hai cuốn sách của ông "Đi ra từ chiến tranh" và "Đặc công cuối
cùng náu mình ở Đại lục": về nguyên nhân của cuộc chiến tranh ấy, ngay
Bộ trưởng Quốc phòng khi đó cũng không rõ vì sao phải tiến hành.
2.
Mục đích chiến lược cơ bản không đạt được. Trong cuộc chiến tranh đó,
chúng ta chiếm ưu thế tuyệt đối cả về binh lực lẫn hỏa lực, nhưng chúng
ta không đạt được mục đích chiến lược là tiêu diệt 2 sư đoàn chủ lực
316A và 316B của Việt Nam.
3. Trang
bị tiên tiến chỉ để trưng bày. Khi đó ta có các trang bị hiện đại máy
bay, xe tăng, tên lửa, nhưng do những người chỉ huy không biết tác chiến
hiệp đồng nên các trang bị đó trở thành đồ trang trí.
Vốn
ra một chiếc máy bay có thể giải quyết được vấn đề phong tỏa, nhưng
phải dùng đến cả trung đoàn bộ binh, đi ngược lại quan niệm giá trị
trong chiến tranh.
4. Bảo đảm hậu cần
cực kỳ kém cỏi. Tôi (tác giả) bị thương ngày 19.2, nhưng mãi tới ngày
27.2 mới được chữa chạy bài bản, trong suốt thời gian đó chỉ được cho
uống 1 viên Sulfonamide tác dụng chậm khiến vết thương nhiễm trùng, buộc
phải tháo bỏ ngón chân cái ở chân trái.
Nhiều
thương binh do chưa được học cách sơ cứu đơn giản đã bị đưa ra chiến
trường nên sau khi bị thương vì mìn, không biết cách cầm máu đã bị chết
vì chảy kiệt máu. Một thương binh trước khi chết còn nắm tay tôi chửi
rủa "Bọn quân y chó má, chết mẹ chúng nó đi!".
Chiến tranh đã mang lại nỗi đau mất con cho hàng vạn bà mẹ Trung Quốc (Ảnh tư liệu Trung Quốc )
5.
Tấn công không có bài bản. Vừa khai chiến, bộ đội đã ào ạt kéo lên. Khi
tôi (tác giả) ở điểm cao 796, nhìn xa nhìn gần, khắp mặt đất toàn là
lính ta.
Khi đó tôi đã phẫn nộ nói với Tham mưu trưởng: "Vào trong xóm tìm một đứa trẻ cũng không chỉ huy tồi như thế". Một quả pháo, một loạt đạn của đối phương cũng quét sạch cả một mảng lớn lính ta.
6.
Pháo nhỏ bắn bừa, pháo lớn thì hạn chế. Hỏa lực pháo đi kèm bắn không
hạn chế đạn, các loại trọng pháo 152 ly và 130 ly thì đều hạn chế, có
lúc phải được Tổng bộ tham mưu phê chuẩn mới được bắn, nhưng lính thì
tung không hạn chế.
7. Hiện tượng tự
thương trên chiến trường liên tiếp xảy ra. Để trốn tránh đi đánh nhau,
một số binh lính sau khi vượt biên "đánh kẻ xâm lược" đã tự bắn vào chân
mình.
8. Mức tiền trợ cấp cho người
bị thương vẫn là tiêu chuẩn thời Chiến tranh giải phóng (tức trước khi
Cộng hòa nhân dân Trung Hoa thành lập năm 1949).
Chính
sách chúng ta đề ra đã quá lạc hậu. Sau khi bị thương, tôi chỉ được cấp
15 tệ (Nhân dân tệ) tiền thương tật, đó là tiêu chuẩn thời Chiến dịch
Hoài Hải (nội chiến với Tưởng Giới Thạch trước 1949); chỉ bằng 1/100.000
mức tiêu chuẩn của Anh, Mỹ cùng thời kỳ, trong khi lúc đó GDP của Trung
Quốc cũng không chênh lệch với các nước này lớn đến mức ấy.
9.
Tiền tuất cho lính tử trận chỉ tương đương giá một con lợn. Khi đó mỗi
liệt sĩ chỉ được 300 tệ tiền tuất, đúng bằng giá một con lợn. (1 Nhân
dân tệ hiện nay tương đương 3.500 VND)
10.
Tiền cho lính bị thương xuất ngũ còn thê thảm hơn. Sau khi tôi (tác
giả) bị thương xuất ngũ, hơn chục năm đầu mỗi năm chỉ được nhận 30 tệ
tiền xương máu. Năm 2010 sau 31 năm bị thương mới nhận được quà úy lạo
của chính phủ.
Đêm hôm đó, tôi nắm
cái quà kỉ niệm ấy (cũng trị giá 300 tệ), một mình ngồi uống rượu; uống
mãi, uống mãi, nước mắt chảy giàn giụa. Hơn 30 năm rồi, những cựu binh
chúng tôi nhiều người vẫn chưa có nhà ở, chưa lấy được vợ!
Một người lính Trung Quốc kêu khóc bên cạnh người bạn bị chết (Ảnh tư liệu Trung Quốc)
11.
Những sách ghi chép chân thực về cuộc chiến tranh ấy không thể xuất bản
được. Năm 2010, tôi (tác giả) căn cứ vào những gì mình đã trải qua viết
được hai cuốn sách "Ghi chép của một thương binh chiến tranh Việt Nam"
và "Thực sắc", đăng lên mạng, gây bùng nổ khắp nước. Nhưng cuốn đầu được
thông báo là "không thể xuất bản".
Sách
về "Chiến tranh phản kích tự vệ chống Việt Nam " không được kích động
quá, chỉ được gọi là "Xung đột vũ trang cục bộ ở phía Nam". Một cuộc
chiến tranh làm đổ máu mấy chục vạn người mà không cho nói đến như thế,
trong tương lai ai sẽ đi đánh nhau cho các người đây?
Cuộc
"Chiến tranh phản kích tự vệ chống Việt Nam" năm 1979, rất nhiều binh
sĩ Trung Quốc đã trở thành vật hy sinh. Họ chết vì cái gì?".
11
vấn đề được người cựu binh đó nêu lên đã gây cộng hưởng trong cộng đồng
mạng. Có cư dân mạng nêu lên quan điểm của bản thân về cuộc chiến tranh
đó: cái gọi là "Chiến tranh phản kích tự vệ chống Việt Nam" khiến mấy
vạn người đổ máu hy sinh đó, về đối ngoại là để giải cứu "người anh em
Khmer Đỏ", về đối nội là để Đặng Tiểu Bình nắm quyền chỉ huy quân đội và
thiết lập uy quyền.
Cũng có cư dân
mạng đưa ra lời cảnh báo: đất nước này có đáng để anh đi liều mạng hay
không? Liều mạng mà không được thừa nhận, sinh mạng chỉ đáng giá tiền
một con lợn, chỉ dám ở đây oán trách, không cẩn thận sẽ bị đàn áp, bắt
giam.
Cũng có người nêu lên điều đáng phải suy nghĩ: vì sao Trung Quốc viện trợ nước khác khắp nơi nhưng lại rất ít bạn bè?...".
theo Viettimes
Ký ức về cuộc chiến bảo vệ biên giới phía Bắc tháng 2-1979
VIẾT THỊNH |
18
Ông Nguyễn Xuân Thu, người đã có mặt trong cuộc chiến đấu bảo vệ
biên giới phía Bắc, đã chia sẻ những ký ức của mình về buổi sáng ngày
17-2-1979, thời điểm quân Trung Quốc tràn sang tấn công sáu tỉnh phía
bắc của nước ta.
Lúc đó ông Nguyễn Xuân Thu đang là Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn
4, Trung đoàn 2, Sư đoàn 3 - Sao Vàng, người trực tiếp chỉ huy đơn vị
phòng ngự trên hướng chủ yếu của Quân đoàn tại khu vực Đồng Đăng ngày
đầu tiên. Ba ngày chiến đấu độc lập
Ông Nguyễn Xuân
Thu hồi tưởng lại ký ức sau 40 năm của thời khắc ấy. “Ngày 17-2-1979 , 5
giờ sáng tôi nhận được điện thoại qua Sở chỉ huy Trung đoàn, Tiểu đoàn 4
vào sẵn sàng chiến đấu 100%... Chỉ bấy nhiêu thôi thì pháo địch đã cắt
đứt dây điện thoại của Trung đoàn và trùm kín trận địa của tiểu đoàn”,
ông Nguyễn Xuân Thu nhớ lại.
Ngay sau đó, chiến sĩ thông tin của
Tiểu đoàn hi sinh và máy cũng hỏng, Tiểu đoàn 4 mất liên lạc với Trung
đoàn và Sư đoàn kể từ đó. Ba ngày liền, Tiểu đoàn chiến đấu độc lập trên
trận địa của mình mà không có pháo binh và lực lượng bộ binh cơ động
chi viện.
Bộ đội ta tiến vào Cao Bằng, ảnh chụp ngày 25-2-1979, khoảng 1 tuần sau khi cuộc chiến nổ ra. Ảnh Tư liệu.
Dù
vậy, toàn Tiểu đoàn vẫn giữ chốt đến ngày 20-2-1979. Đến ngày 21, với
sức tấn công của một Sư đoàn bộ binh quân Trung Quốc và một tiểu đoàn xe
tăng thì một số điểm trong trận địa của Tiểu đoàn đã không cầm cự nổi.
Do
lực lượng quá mất cân đối, Tiểu đoàn phải lui về xây dựng trận địa
phòng ngự tại cao điểm 300 phía nam Đồng Đăng (Lạng Sơn) và bắt được
liên lạc với Trung đoàn. “Lúc đó Trung đoàn mới biết tôi còn sống và bộ
đội tiểu đoàn 4 vẫn chiến đấu trên trận địa của mình trong những ngày
mất liên lạc”, CCB Nguyễn Xuân Thu kể.
Trong câu chuyện của mình,
ông Nguyễn Xuân Thu vẫn luôn nhớ về những đồng đội đã nằm đâu đó trên
các chiến hào. Đâu đó trên những mảnh đất nhuốm màu bom đạn năm xưa
nhưng chưa được trở về. Những chiến sĩ “đột xuất”
Khi tiếng súng nổ ra, lời bài hát: Tiếng súng đã vang trên bầu trời biên giới. Gọi toàn dân ta vào cuộc chiến đấu mới…
được vọng vang ở mọi nơi. Nhiều người đã tình nguyện xung phong ra
trận, rất nhiều người vẫn còn là sinh viên của các trường Đại học trên
cả nước.
Những người đạt đủ tiêu chuẩn nhanh chóng bổ sung vào các
binh chủng nhanh chóng tiến quân về nơi có tiếng bom dội ngày đêm.
Nhưng ngoài những người lính được biên chế ấy, vẫn có những người lính
"ngoài biên chế".
Câu chuyện này đã được tác giả Xuân Mai kể lại trong cuốn Những người đi giữ biên cương.
Lúc chiến sự đang diễn ra quyết liệt, chiến sĩ trinh sát phát hiện một
bóng người bám theo đường hào chạy lên. Khi được giữ lại, trinh sát hỏi
ra mới biết đó là em Nông Văn Viền, lúc đó mới 14 tuổi là người dân tộc
Tày.
Bên cạnh những chiến sĩ biên chế, có cả những chiến sĩ đột xuất trên các chốt. Ảnh Tư liệu.
Nông
Văn Viền kể, khi giặc tràn lên quê hương mình bố mẹ đang ở dưới hầm
nhưng bị địch phát hiện và sát hại. Viền vì xuống hầm không kịp, trốn
vào vườn mía nên thoát được nhưng phải chứng kiến cảnh đau thương của
cha mẹ mình.
Lúc
địch đi rồi, Nông Văn Viền đã đi theo chiến hào chạy ngược lên với suy
nghĩ: “Thằng giặc giết cả nhà cháu, cháu phải giết lại nó”.
Dù đã
dùng mọi cách để đưa Viền trở lại hậu phương, nhưng cậu bé vẫn òa khóc
không chịu. Bất đắc dĩ, Đại đội trưởng đơn vị lúc đó phải để em lại và
giao cho một trinh sát hướng dẫn cách bắn súng, ném lựu đạn và Viền đã
chiến đấu rất ngoan cường.
Xác xe tăng định trên trận địa. Ảnh Wpress.
Những
người lính ngoài biên chế như Nông Văn Viền những ngày đó không phải là
chuyện hiếm gặp. Các cựu binh của Quân đoàn 14 còn kể đến nhiều những
người trẻ vì không được tuyển vào chính thức nhưng cứ theo hướng pháo
rền, đạn nổ mà tiến lên.
theo Pháp Luật TP. HCM
Tướng Trung Quốc bẽ bàng vì ảo tưởng ngông cuồng "chiếm Hà Nội trong vòng 1 tuần"
Đại tá Nguyễn Khắc Nguyệt |
1824
Hai nữ chiến sĩ Việt Nam dẫn giải tù binh Trung Quốc ở Cao Bằng ngày 25/2/1979. Nguồn ảnh: Sovfoto.
Túc Dụ, Thứ trưởng Quốc phòng Trung Quốc từng huênh hoang rằng
chỉ cần dùng một phần lực lượng của các quân khu Quảng Châu và Côn Minh
là đủ để đánh chiếm Hà Nội trong 1 tuần.
Là
hai quốc gia láng giềng, "núi liền núi, sông liền sông"- như lời một
bài hát, song lịch sử bang giao Việt Nam- Trung Quốc có nhiều khúc quanh
co, gập ghềnh.
Từ sau khi Ngô Quyền với chiến thắng Bạch Đằng
chấm dứt ngót 1.000 năm "Bắc thuộc", giành lại nền độc lập cho nước nhà
thì các triều đại phong kiến Trung Quốc đã nhiều lần cất quân xâm lược
Việt Nam. Tuy nhiên, các cuộc chiến tranh xâm lược đó trước sau đều bị
quân dân Việt Nam đánh bại.
Những năm 60 của thế kỷ trước,
thất bại trong việc lôi kéo Việt Nam chống Liên Xô và hành động theo ý
mình trong đánh Mỹ, Trung Quốc đã trở mặt bắt tay với Mỹ chống phá Việt
Nam. Khi nhân dân Việt Nam giành thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống
Mỹ, cứu nước thì sự chống phá của Trung Quốc với Việt Nam càng trở nên
rõ ràng.
Ngoài việc cắt đứt viện trợ, ngăn cản thông thương,
tạo ra vụ "nạn kiều" nhằm phá hoại sự ổn định kinh tế - xã hội Việt Nam
thì Trung Quốc còn dung dưỡng cho Khmer Đỏ chống phá Việt Nam từ phía
Tây Nam, tạo nên một gọng kìm hòng "bóp chết" Việt Nam.
Bất chấp
sự chống phá đó, nhân dân Việt Nam vẫn kiên trì con đường độc lập của
mình. Không chỉ vậy, bằng đòn phản công vũ bão, chỉ trong vòng 1 tuần
lễ, quân đội Việt Nam cùng với lực lượng của Mặt trận đoàn kết dân tộc
cứu nước Campuchia đã đánh tan hàng chục sư đoàn chủ lực Khmer Đỏ, giải
phóng thủ đô Phnom Pênh, cứu nhân dân Campuchia khỏi họa diệt chủng.
Vốn
đã sẵn âm mưu tiến công Việt Nam, trong tình thế ấy, để cứu nguy cho
Khmer Đỏ, nhà cầm quyền Trung Quốc đã phát động cuộc chiến tranh xâm
lược Việt Nam trên toàn tuyến biên giới vào ngày 17/2/1979 với cái cớ
hết sức nực cười là "phản công tự vệ".
Để thực hiện mục đích đó,
tư tưởng chỉ đạo được nhà cầm quyền Trung Quốc đặt ra cho cuộc chiến
tranh là "đánh nhanh, thắng nhanh", "đốt sạch, phá sạch" với sự tham gia
của hai Đại quân khu Quảng Tây và Côn Minh quân số tổng cộng lên đến
600.000 người cùng hàng nghìn phương tiện chiến tranh.
Binh
pháp truyền thống của quân đội Trung Quốc đã được nhấn mạnh đó là việc
dùng hai đội quân nhằm "Tập trung biển người để bao vây đối phương từ
hai bên sườn nhằm tiêu diệt từng bộ phận đối phương bằng những trận đánh
hủy diệt theo phương thức đánh nhanh rút gọn".
Nguyên tắc chủ đạo
khi giao chiến là "ngưu đao sát kê" (dùng dao mổ trâu để giết gà) gồm
ba điểm: tập trung tấn công vào vị trí quan trọng nhưng không phải điểm
mạnh của đối phương; sử dụng lực lượng và hỏa lực áp đảo (tiền pháo hậu
xung) để đập tan hàng phòng ngự của đối phương tại những những điểm mấu
chốt; các đơn vị xung kích phải hết sức nhanh chóng thọc sâu và tấn công
trọng địa của phía bên kia.
Ảo tưởng vào sự áp đảo về binh lực,
cuối tháng 12/1978, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Trung Quốc Túc Dụ báo cáo
tại Kì họp thứ ba của Đảng Cộng sản Trung Quốc rằng chỉ cần dùng một
phần lực lượng của các quân khu Quảng Châu và Côn Minh là đủ để đánh
chiếm Hà Nội trong vòng 1 tuần.
Quả thật, nếu so sánh về tương
quan lực lượng hai bên vào thời điểm Trung Quốc phát động chiến tranh-
ngày 17/2/1979, nhiều người Trung Quốc cũng đã ảo tưởng như thế.
Trung
Quốc đã huy động 9 quân đoàn chủ lực và một số sư đoàn bộ binh độc lập
(tổng cộng 32 sư đoàn), 6 trung đoàn xe tăng, 4 sư đoàn và nhiều trung
đoàn pháo binh, phòng không. Lực lượng được huy động khoảng trên 60 vạn
binh sĩ, 550 xe tăng, 480 khẩu pháo, 1.260 súng cối và dàn hỏa tiễn,
chưa kể hơn 200 tàu chiến của hạm đội Nam Hải và 948 máy bay sẵn sàng
phía sau.
Ngoài
lực lượng quân chính quy, Trung Quốc còn huy động hàng chục vạn dân
công và lực lượng dân binh ở các tỉnh biên giới để tải đồ tiếp tế, phục
vụ, tải thương, hỗ trợ quân chính quy phục vụ cho chiến dịch. Chỉ riêng
tại Quảng Tây đã có đến 215.000 dân công được huy động.
Còn về
phía Việt Nam, do phần lớn các quân đoàn chính quy đang chiến đấu ở
Campuchia nên phòng thủ ở biên giới với Trung Quốc chỉ có một số sư đoàn
chủ lực của Quân khu I và II cùng các đơn vị bộ đội địa phương tỉnh,
huyện, công an vũ trang (biên phòng) và dân quân tự vệ.
Lực
lượng tinh nhuệ nhất của phía Việt Nam đóng ở biên giới Việt-Trung là Sư
đoàn 3 (đóng tại Lạng Sơn) và sư đoàn 316A (đóng tại Sa Pa). Ngoài ra
còn có các sư đoàn 346 ở Cao Bằng, 325B ở Quảng Ninh, 345 ở Lào Cai, 326
ở Phong Thổ, Lai Châu và các trung đoàn độc lập 141, 147, 148, 197,
trung đoàn pháo binh 68, các trung đoàn quân địa phương 95, 121, 192,
254 và 741.
Toàn bộ lực lượng phía Việt Nam tham gia phòng thủ
biên giới lúc đó có khoảng 70.000 quân, sau được hai sư đoàn (327 và
337) từ tuyến sau lên Lạng Sơn tiếp viện. Riêng Quân đoàn 1 vẫn đóng
quanh Hà Nội đề phòng Trung Quốc tiến sâu vào trung tâm.
5
giờ sáng ngày 17 tháng 2 năm 1979, sau một trận pháo kích dữ dội vào
trận địa phòng ngự của phía Việt Nam, hơn 120.000 quân lính và xe tăng,
thiết giáp Trung Quốc bắt đầu tiến vào lãnh thổ Việt Nam trên toàn
tuyến biên giới.
Cánh phía đông có sở chỉ huy tiền phương đặt
tại Nam Ninh với mục tiêu chính là Lạng Sơn. Có hai hướng tiến song
song, hướng thứ nhất do quân đoàn 42A dẫn đầu từ Long Châu đánh vào Đồng
Đăng nhằm làm bàn đạp đánh Lạng Sơn; hướng thứ hai do quân đoàn 41A dẫn
đầu từ Tĩnh Tây và Long Châu tiến vào Cao Bằng và Đông Khê. Ngoài ra
còn có quân đoàn 55A tiến từ Phòng Thành vào Móng Cái.
Cánh phía
tây có sở chỉ huy tiền phương đặt tại Mông Tự, có 3 hướng tiến công
chính. Hướng thứ nhất do các quân đoàn 13A và 11A dẫn đầu đánh vào thị
xã Lào Cai. Hướng thứ hai từ Văn Sơn đánh vào Hà Giang. Hướng thứ 3 do
sư đoàn 42D của quân đoàn 14A dẫn đầu đánh từ Kim Bình vào Lai Châu.
Tổng cộng quân Trung Quốc xâm nhập Việt Nam trên 26 điểm trải dài trên toàn tuyến biên giới.
Trong
ngày đầu của cuộc chiến, với sự áp đảo về binh lực, chiến thuật biển
lửa và biển người của Trung Quốc tỏ ra có kết quả. Quân Trung Quốc tiến
được vào sâu trong lãnh thổ Việt Nam trên dưới 10 km và chiếm được một
số thị trấn. Chiến sự ác liệt nhất diễn ra tại các vùng Bát Xát, Mường
Khương ở tây bắc và Đồng Đăng, cửa khẩu Hữu Nghị, Thông Nông ở đông bắc.
Tuy nhiên, trước sự kháng cự ngoan cường và sự mưu trí sáng tạo
của các lực lượng phòng ngự phía Việt Nam, đà tiến công của quân Trung
Quốc nhanh chóng bị khựng lại. Quân Trung Quốc hầu như không thể sử dụng
lực lượng ở mức sư đoàn mà phải dùng đội hình nhỏ và thay đổi chiến
thuật.
Ảnh: Sputnik
Trên
toàn mặt trận, chiến sự diễn ra ngày càng khốc liệt, trong đó ác liệt
nhất phải kể đến là trận chiến tại Đồng Đăng- thị trấn nằm sát biên giới
Việt- Trung trên hướng Lạng Sơn. Đây là trận địa phòng thủ của Trung
đoàn 12 Tây Sơn, Sư đoàn 3 Sao Vàng. Lực lượng Trung Quốc tiến công vào
Đồng Đăng là 2 sư đoàn bộ binh, 1 trung đoàn xe tăng, và chi viện của 6
trung đoàn pháo binh Trung Quốc.
Mặc dù bị cô lập, không được
chi viện nhưng lực lượng phòng thủ tại đây đã kiên cường chiến đấu đến
những người cuối cùng, trụ được cho đến ngày 23.2. Ngày cuối cùng tại
Pháo đài Đồng Đăng, nơi có hệ thống phòng thủ kiên cố nhất, quân Trung
Quốc đã dùng bộc phá đánh sập cửa chính, dùng súng phun lửa, thả lựu
đạn, bắn đạn hóa học vào các lỗ thông hơi làm thiệt mạng hầu hết thương
binh cũng như dân quanh vùng đến đây lánh nạn.
Đổi lại, trong
trận Đồng Đăng, phía Trung Quốc đã thương vong hơn 2.000 binh lính
(trong đó 531 chết). Chiếm được Đồng Đăng, quân Trung Quốc tập trung lực
lượng chuẩn bị tiến công Lạng Sơn, một trong những mục tiêu chủ yếu của
cuộc chiến mà nếu chiếm được thì bọn chúng sẽ rộng đường tiến về Hà Nội
với khoảng cách chỉ 135 km.
Để tăng cường khả năng chiến đấu
phòng thủ và chuẩn bị phản công, ngày 25 tháng 2, Bộ chỉ huy tối cao
phía Việt Nam quyết định thành lập Quân đoàn 14 thuộc Quân khu 1 và Bộ
chỉ huy thống nhất Lạng Sơn do Thiếu tướng Hoàng Đan làm tư lệnh với lực
lượng bao gồm các Sư đoàn 3, 327, 338, 337 (đang từ Quân khu 4 ra) cùng
các đơn vị trực thuộc khác.
Những ngày tiếp theo, chiến sự vẫn
tiếp diễn khốc liệt trên toàn tuyến biên giới nhưng tập trung là ở hướng
Lạng Sơn. Trung Quốc đã điều tới đây thêm 2 sư đoàn từ Đồng Đăng và Lộc
Bình (phía đông nam Lạng Sơn) đồng thời tiếp tục đưa thêm quân mới từ
hậu phương thâm nhập Việt Nam để tăng viện
Trận đánh chiếm thị
xã Lạng Sơn bắt đầu lúc 6 giờ sáng ngày 27.2. Các Sư đoàn 3, 337, của
Việt Nam đã tổ chức phòng thủ chặt chẽ và phản ứng mãnh liệt trước các
đợt tấn công lớn của quân Trung Quốc. Các trận đánh đẫm máu xảy ra tại
khu vực cầu Khánh Khê, Cốc Chủ, Quán Hồ, các điểm cao 800, 477, 417...
Sau
gần 1 tuần giành giật các điểm cao quanh Lạng Sơn, ngày 2/3 quân Trung
Quốc bắt đầu bao vây thị xã Lạng Sơn và sử dụng 6 sư đoàn tấn công đồng
loạt trên nhiều hướng. Chiều ngày 4/3, một cánh quân Trung Quốc đã vượt
sông Kỳ Cùng, chiếm điểm cao 340 và vào tới thị xã Lạng Sơn, một cánh
quân khác của sư đoàn 128 Trung Quốc cũng chiếm sân bay Mai Pha, điểm
cao 391 ở phía tây nam thị xã.
Phía Việt Nam đã điều động các sư
đoàn chủ lực có xe tăng, pháo binh, không quân hỗ trợ áp sát mặt trận,
chuẩn bị phản công giải phóng các khu vực bị chiếm đóng. Quân đoàn 14
với các sư đoàn 337, 327, 338 hầu như còn nguyên vẹn đang bố trí quanh
thị xã Lạng Sơn. Quân đoàn 2 đang làm nhiệm vụ tại Campuchia cũng được
lệnh cơ động gấp toàn bộ lực lượng về nước, tập kết phía sau Quân đoàn
14.
Ngày 5/3/1979, Nhà nước Việt Nam ra lệnh tổng động viên toàn
quốc chống xâm lược. Lo ngại trước sức phản công mãnh liệt của Việt
Nam, trưa cùng ngày, Trung Quốc tuyên bố bắt đầu rút quân.
Như
vậy là, quân Trung Quốc đã bị cầm chân suốt 16 ngày ở thị xã Lạng Sơn,
một thị xã chỉ cách biên giới 15 km và còn cách xa Hà Nội tới 135 km.
Trung bình mỗi ngày quân Trung Quốc chỉ tiến được 0,9 km và chúng đã mất
16 ngày chỉ để tiến được 1/10 quãng đường tới Hà Nội.
Và chuyện ảo tưởng "chiếm Hà Nội trong 1 tuần" chỉ là giấc mơ ngông cuồng của những kẻ xâm lược.
theo Trí Thức Trẻ
Vì sao Trung Quốc mất một nửa số xe tăng Type 62 trong CTBG 1979?
Hải Dương |
89
Theo số liệu thống kê, trong cuộc xâm lược năm 1979 đã có khoảng
100 xe tăng Type 62 của Trung Quốc bị bộ đội Việt Nam tiêu diệt.
Type 62
là loại xe tăng hạng nhẹ do Trung Quốc nghiên cứu phát triển vào thập
niên 1960, nguyên mẫu đầu tiên hoàn thành năm 1962 và được chế tạo hàng
loạt từ năm 1963, với tổng số 1.499 chiếc xuất xưởng.
Trung Quốc dự định biên chế xe tăng Type
62 cho các đơn vị bộ binh đóng quân ở vùng núi hay sông nước, thậm chí
cho cả lính thủy đánh bộ. Bên cạnh đó nó còn được xuất khẩu sang nhiều
nước châu Á và châu Phi như Triều Tiên, Bangladesh, Congo, Mali,
Sudan...
Xe tăng hạng nhẹ Type 62
Về cơ bản, Type 62 là thiết kế giản lược
từ T-54 của Liên Xô với rất nhiều nét tương đồng về ngoại hình. Khác
biệt lớn nhất là nó sử dụng pháo Type 62-85TC 85 mm với cơ số 47 viên
đạn thay vì D-10T2S cỡ 100 mm.
Type 62 có kíp lái 4 người; chiều dài
5,6 m (7,9 m với pháo quay về phía trước); chiều rộng 2,86 m; chiều cao
2,25 m; trọng lượng 21 tấn. Ngoài pháo chính xe còn được trang bị 1 súng
máy đồng trục 7,62 mm và 1 súng máy phòng không 12,7 mm.
Động cơ diesel 12150L-3 công suất 430 mã
lực cho tốc độ tối đa 60 km/h, tầm hoạt động 510 km, leo được dốc 60%,
vượt vật cản cao 0,7 m, vượt hào rộng 2,55 m và lội nước sâu 1,3 m. Xe
có hệ thống chữa cháy tự động nhưng thiếu khả năng phòng vệ NBC.
Vỏ giáp của xe tăng Type 62 rất mỏng,
dày nhất là 50 mm trên tháp pháo, thân xe từ 15 - 35 mm, chỉ chống lại
được vũ khí bộ binh nhẹ hoặc mảnh đạn và gần như bất lực hoàn toàn trước
các loại súng chống tăng.
Do thiếu hệ thống điều khiển hỏa lực
cũng như kính ngắm đêm, chỉ có kính ngắm quang học đơn giản mà tầm bắn
hiệu quả của pháo 85 mm chỉ đạt 1.200 m, khiến Type 62 mất đi rất nhiều
sức chiến đấu, đặc biệt là ở địa hình đồi núi nhiều vật cản như biên
giới phía Bắc.
Yếu kém về mặt kỹ thuật lại thêm việc
phải đối đầu với một quân đội thiện chiến như Việt Nam, nên dễ hiểu vì
sao Trung Quốc mất tới một nửa trong tổng số 200 xe tăng Type 62 huy
động cho cuộc chiến tranh xâm lược năm 1979.
Phiên bản nâng cấp Type 62G
Nhận thấy những điểm yếu của Type 62,
Trung Quốc đã phải cấp tốc đưa ra bản nâng cấp Type 62-I vào đầu thập
niên 1980. Xe được trang bị diềm chắn xích, thiết bị đo xa laser cho khả
năng tác xạ tốt hơn, tấm chắn bảo vệ xạ thủ súng máy... tổng cộng gồm
33 cải tiến
Biến thể Type 62G là gói nâng cấp cuối
cùng với tháp pháo hàn kiểu mới, trang bị thêm giáp phản ứng nổ, thay
thế pháo 85 mm bằng pháo 105 mm mạnh mẽ hơn, bổ sung 4 ống phóng đạn
khói ngụy trang mỗi bên cũng như hệ thống điều khiển hỏa lực hiện đại.
Mặc dù có nhiều cải tiến đáng kể nhưng
nhìn chung Type 62 vẫn không đáp ứng đầy đủ các yêu cầu của chiến tranh
hiện đại, do vậy nó đã bị Quân đội Trung Quốc loại biên trong năm 2011,
sau gần 5 thập kỷ phục vụ.
(ĐC sưu tầm trên NET) Oscar Là Ai? Câu Chuyện Về Cuộc Đời Bi Kịch Của “Thiên Tài Bị Xã Hội Vùi Dập” Ít ai biết rằng, giải thưởng danh giá của làng điện ảnh – Oscar - được lấy theo tên của nhà văn nổi tiếng Oscar Wilde. Năm 1854, khi rửa tội cho con trai thứ hai nhà Wilde, Đức cha Prideaux Fox không hề biết rằng cậu bé này rồi sẽ là “thiên tài bất thường” của Ireland. Về sau, Oscar Wilde đã trở thành một trong những nhân vật đặc biệt nổi bật của giới văn chương, người luôn ở giữa tôn vinh và hạ nhục, giữa cái đẹp và sự tăm tối, giữa sa hoa và khốn cùng. Không nhiều người có thể trả lời câu hỏi: " Oscar là ai?" Quang Thạch | 01/03/2016 10:07 7 Theo một video phỏng vấn ngay trước thềm Oscar 2016, các diễn viên tới dự giải Oscar cũng không thể trả lời câ...
(ĐC sưu tầm trên NET) Thời sự quốc tế sáng 10/5/2018 TIN TỨC VIỆT NAM MỚI NHẤT TRONG NGÀY 10/5/2018 60 Giây Chiều - Ngày 09/05/2018 - Tin Tức Mới Nhất An ninh ngày mới ngày 09.05.2018 - Tin tức cập nhật TRỰC TIẾP THỜI SỰ BIỂN ĐÔNG 10/05 Cận cảnh Tàu Việt Nam trong diễn tập Komodo 2018 Hai Chị Em - Trung Hậu và Thuỵ Vân Hội nghị Trung ương 7: Sẽ có quyết sách dẹp vấn nạn "cả họ làm quan" (TTXVN/Vietnam+) 09/05/2018 21:06 GMT+7 Bản in Đại biểu dự hội nghị. (Ảnh: Phương Hoa/TTXVN) Hội nghị lần thứ 7, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII, diễn ra từ ngày 7-12/5, tập trung thảo luận, cho ý kiến về các nội dung: xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; cải cách chính sách tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang và người lao động trong các doanh nghiệp; cải cách chính sách bảo hiểm xã hội; và một ...
(ĐC sưu tầm trên NET) Giang hồ Sài Gòn trước 1975: Trùm du đãng Mã Thầu Dậu Mã Thầu Dậu nhận tất cả đơn đặt hàng giải quyết ân oán trong đời thường và trong làm ăn. "Tiền nào của ấy" nên mỗi dịch vụ đều có mức giá khác nhau. Trùm du đãng một vùng rộng lớn không hành xử như đám du đãng cắc ké. Chợ Lớn có trùm du đãng ba Tàu Mã Thầu Dậu (Con ngựa đầu gà) nổi tiếng với vai trò đâm thuê chém mướn. Trùm bảo kê Mã Thầu Dậu xuất thân từ một đứa bé con nhà người Hoa gốc Quảng Đông nghèo. Tuổi thơ Mã Thầu Dậu trải qua nhiều cơ cực, từ bửa củi thuê, bưng cà phê, bưng hủ tiếu đến cả rửa chén bát thuê. Mã Thầu Dậu khởi nghiệp trùm du đãng khét tiếng trên hè phố La Kai (đường Nguyễn Tri Phương, quận 5 ngày nay). Hắn nổi danh nhờ những vụ trừ khử đám du thủ du thực cho các chủ tiệm buôn giàu có người Hoa và dần đi theo con đường đâm thuê chém mướn chuyên nghiệp. Khu vực chợ Lớn xưa Băng du đãng Mã Thầu Dậu h...
Nhận xét
Đăng nhận xét