Dai Chung la su suy ngam cua toi ve cuoc doi, xa hoi, nhan sinh
TẬP HỢP BÍ ẨN THẾ GIỚI 10
Nhận đường liên kết
Facebook
X
Pinterest
Email
Ứng dụng khác
-
(ĐC sưu tầm trên NET)
Những hiện tượng bí ẩn nhất hành tinh - Tập 10
Bằng chứng tồn tại của lục địa Lemuria đã mất dưới biển Ấn Độ Dương
Cẩm Mai |
4
Lục địa Lemuria.
Trong thế kỷ 19, nhà động vật học người Anh Philip Sclater đã
nói đến vùng đất bị chìm gọi là Lemuria. Các nhà khoa học hiện đại mới
tìm ra bằng chứng về sự tồn tại của nó.
Những bằng chứng về một lục địa đã mất ở Ấn Độ Dương
Chúng ta đã nghe nói đến lục địa huyền thoại Lemuria, Mu và Atlantis. Theo truyền thuyết và thư tịch cổ, có một số lục địa trên Trái Đất nay đã không còn nữa. Như lục địa Lemuria là vùng đất rộng trải dài từ Ấn Độ đến Australia.
Giống như lục địa Atlantis, vùng đất cổ xưa biến mất vì một số lý do bí ẩn và bị nhân loại lãng quên cách đây hàng vạn năm. Trong thế kỷ 19, nhà động vật học người Anh Philip Sclater đã nói đến vùng đất bị chìm gọi là Lemuria.
Trong bài báo "Động vật có vú vùng Madagascar" viết
năm 1864, Philip Sclater nói đến mẫu hóa thạch vượn cáo có rất nhiều ở
Madagascar và Ấn Độ. Những mẫu hóa thạch này đã không còn ở châu Phi và
Trung Đông.
Chân dung nhà động vật học người Anh Philip Sclater (4 tháng 11 năm 1829 – 27 tháng 6 năm 1913). Ảnh: Wikipedia.
Từ quan sát đó, ông Philip Sclater suy ra trước đây, Madagascar và Ấn Độ là một phần của lục địa rộng hơn là Lemuria. Một số nghiên cứu gần đây đã chứng minh, dù lục địa trôi dạt nhưng vẫn có lục địa bị chìm tồn tại trên Trái Đất.
Các
nhà khoa học đã khám phá phía đông Australia. Một lục địa rộng 5 triệu
m2, không có tuổi. Ngày nay, phần còn lại chỉ là 5% của lục địa trước
đây. Câu hỏi đặt ra là: Vì sao các nhà nghiên cứu trước đây không nhận
thấy điều này?
Phần bị chìm nằm dưới Thái Bình Dương và chứa New Zealand cùng lãnh thổ New Caledonia của Pháp nằm bên kia biển.
Lục địa Lemuria được cho rằng từng nối giữa Madagascar, Ấn Độ và Australia, bao phủ Ấn Độ Dương.
Vẫn
còn bằng chứng nữa về những lục địa bị chìm tồn tại trên Trái Đất. Xem
xét vùng đất liền giữa Ấn Độ và Sri Lanka, các nhà nghiên cứu nhận thấy
kết cấu địa chất kỳ lạ.
Trong eo biển
Palk ở Ấn Độ Dương, có một khu vực địa lý đặc biệt, là một dải đất hẹp
nối phía nam Ấn Độ với Sri Lanka, gọi là cầu Adam.
Cầu
Adam được cho là phần còn lại của cây cầu cổ xưa do con người xây dựng
tồn tại trước trận lụt. Có lẽ đó là cây cầu đầu tiên trên Trái Đất. Hơn
nữa, bức ảnh chụp của NASA cho thấy cây cầu đã sập, một phần bị chìm
dưới biển.
Nhóm nghiên cứu của tiến
sĩ Badrinarayanan – cựu giám đốc Viện Khảo sát Địa lý Ấn Độ đã khoan 10
lỗ khoan thẳng hàng dọc cầu Adam và phát hiện ra điều đáng giật mình.
Sâu
dưới lòng đất 6m, có một lớp vật liệu rắn chắc gồm sa thạch chứa đá
vôi, san hô và đá cuội. Họ ngạc nhiên khi thấy một lớp cát mềm dày 4-5m,
rồi đến lớp đá cứng.
Một nhóm thợ lặn đã khám phá cây cầu. Họ thấy đá vôi không có đặc điểm của biển cả, mà lấy từ đường đắp cao.
Tiến
sĩ Badrinarayanan còn nhận thấy bằng chứng sự vận chuyển trong khu vực.
Nhóm nghiên cứu kết luận vật liệu được lấy từ bờ biển, được đắp trên
đáy cát chứa nước để tạo thành đường đắp cao.
Theo
các nhà nghiên cứu, do nước lũ dâng cao trong Kỷ Đại Trung Sinh mà lục
địa Lemuria bị tách khỏi đất liền. Theo Viện Đại dương học Quốc gia Ấn
Độ, cách đây 15.000 năm, nước biển dâng cao khoảng 100m.
Trận lụt lớn đó không chỉ làm biến mất cả một lục địa, mà còn làm mất đi cả một nền văn minh cổ đại đã từng tồn tại trên Trái Đất.
Lục
địa cổ xưa đó từng nằm giữa Madagascar và Ấn Độ, gần đây được phát hiện
thấy dưới đáy Ấn Độ Dương. Theo các chuyên gia, cách đây 3 tỷ năm, lục
địa này bao phủ đại dương nằm ở đảo Mauritiu thuộc Tây Phi hiện nay.
Các
chuyên gia đi đến kết luận như vậy sau khi phân tích những mảnh khoáng
chất nhỏ niên đại 3.000 triệu năm. Trong một số mẫu đá ở đảo Mauritius
có ít mảnh khoáng chất đã 3.000 triệu năm tuổi.
Từ
đó đặt ra câu hỏi: hòn đảo còn non trẻ, gốc tích núi lửa mới 10 triệu
năm tuổi, vậy những mẫu đá 3.000 triệu năm từ đâu ra? Vì sao chúng có
niên đại lâu như vậy?
Theo các chuyên
gia thuộc trường ĐH Witwatersrand (Nam Phi), những mẫu đá 3.000 triệu
năm có nguồn gốc từ "lục địa đã mất" nằm dưới đảo. Có phải lục địa này
tồn tại cách đây hàng vạn năm hoặc lâu hơn nữa?
Các
nghiên cứu gần đây chứng minh rằng: Trước đây, đất liền trên Trái Đất
hoàn toàn khác với ngày nay. Nên rất có thể đã từng tồn tại những lục
địa khác nữa như Atlantis.
Văn
minh là trật tự xã hội nhằm đẩy mạnh sự sáng tạo văn hoá, Từ “văn minh”
– civilization xuất hiện đầu tiên ở Pháp vào thế kỷ 18 nói lên niềm tin
và khát vọng của con người vào tiến bộ xã hội. Sau đó dùng để chỉ những
loại hình xã hội khác nhau kể từ khi con người ra khỏi thời tiền sử,
đặc biệt để chỉ những nền văn minh cổ đại như Hy Lạp, Lưỡng Hà, Trung
Hoa, Ấn Độ… Văn minh là sự kết hợp đầy đủ các yếu tố tiên tiến tại thời
điểm xét đến để tạo nên, duy trì, vận hành và tiến hoá xã hội loài
người. Các yếu tố của văn minh có thể hiểu gọn lại là di sản tích luỹ
tri thức, tinh thần và vật chất của con người kể từ khi loài người hình
thành cho đến thời điểm xét đến.
Trước khi tìm hiểu nền văn minh Harappa,
chúng ta hãy tìm hiểu xem thế Văn minh là gì để từ đó ứng chiếu với các
phát hiện khảo cổ học và suy luận của các nghiên cứu, khảo cổ học và sử
học. Có nhiều định nghĩa về Văn minh. Một
định nghĩa mang tính chất bao hàm nhất cho rằng một nền văn minh là một
xã hội phức tạp, thể hiện phẩm chất tiên tiến từ một xã hội đồng nhất.
Mọi cư dân sinh sống trong xã hội cùng một văn hoá, nhưng không phải tất
cả mọi cư dân đều sống trong nền văn minh. V. Gordon Childe đã đưa ra
10 đặc điểm chung nhất đối với một nền văn minh và nền văn minh Harappa
mang những nét mang đăc trưng của một nền văn minh đô thị:
Trình độ kỹ thuật nông nghiệp: đạt mức
độ cao, con người sử dụng sức mạnh, canh tác luân canh và biết sử dụng
thủy lợi. Điều này giúp hình thành một tầng lớp nông dân tạo ra một
lượng thặng dư về thực phẩm.
Mâu thuẫn giữa các tầng lớp: không phải
toàn bộ cư dân dồn hết thời gian cho việc kiếm thức ăn. Việc này sẽ
thức đẩy dẫn đến sự phân chia các tầng lớp cư dân. Xã hội sẽ dôi dư các
lực lượng cư dân quan tâm đến các lĩnh vực không thuộc lao động trong
nông nghiệp như, xây dựng, chiến tranh, khoa học hoặc tôn giáo. Điều này
chỉ có thể đạt được nếu xã hội nói đến có một lượng thặng dư thức ăn
dồi dào.
Hình thành nên các trung tâm đô thị: Sự
tập trung của một lượng lớn sản phẩm phi nông nhiệp vào khu vực định cư
cố định, gọi là đô thị.
Hình thành nên hình thái tổ chức xã
hội: cần phải có một thủ lĩnh hoặc là người đứng đầu các gia đình quý
tộc hoặc là đảng phái để điều hành xã hội; hoặc là hình thái nhà nước, ở
đó tầng lớp cai trị được sự hỗ trợ của một chính phủ hay quan lại. Sức
mạnh chính trị phải được tập trung bên trong đô thị.
Có người đứng đầu/tầng lớp cai trị:
phần lương thực, thực phẩm sản xuất ra được vận hành bằng thể chế hóa
của tầng lớp cai trị, chính phủ hay quan lại.
Tôn giáo: Thể chế phức tạp, xã hội trật
tự như một sự ngăn nắp của tôn giáo và giáo dục, đối nghịch với nó là
một xã hội kém về tín ngưỡng và giáo dục thấp.
Kinh tế: Sự phát triển của một hình
thái phức tạp của nền kinh tế thương mại. Cái này đưa đến sự hình thành
nền thương mại trên cơ sở sử dụng tiền tệ và khu thương mại tập trung –
chợ.
Sự giàu có ở mức độ cao hơn một xã hội đơn lẻ.
Sử dụng các công cụ lao động: Có sự phổ
biến của các công nghệ mới do các lực lượng không bận bịu vào các công
việc tìm kiếm thực phẩm. Trong rất nhiều nền văn minh sơ khởi, công nghệ
luyện kim là một tiến bộ cốt lõi.
Chữ viết: Có sự phát triển mạnh mẽ về hội họa, bao gồm cả chữ viết.
Như vậy, để minh chứng được rằng, Harappa là một nền văn minh đô thị, chúng ta hãy đi tìm hiểu từng đặc trưng của nó. Cách đây vài ngàn năm, lịch sử đã ghi
nhật sự tồn tại một nền văn minh phát triển rực rỡ ở thung lũng sông Ấn.
Nằm ở Pakistan và miền tây Ấn Độ ngày nay, đó là văn hóa đô thị sớm
nhất của tiểu lục địa Ấn Độ. [Indus Valley Civilization (1990) In Encyclopedia Britannica. (p. 302). Chicago, IL.] Nền
văn minh Thung lũng sông Ấn theo đúng tên gọi của nó bao phủ một diện
tích bằng cả Tây Âu. Nó là nền văn minh lớn nhất trong bốn nền văn minh
cổ đại Ai Cập, Lưỡng Hà, Ấn Độ và Trung Quốc. Văn minh lưu vực sông Ấn
cũng còn được gọi là Văn hóa Harappa theo địa danh của một trong những
nơi khai quật chính là một nền văn minh thời Cổ đại phát triển vào
khoảng thời gian từ năm 2.800 – 1.800 TCN nằm bên trái nhánh sông Ravi –
một trong năm nhánh của sông Ấn hay còn gọi là Punjab và nằm về phía
tây bắc của tiểu lục địa Ấn Độ. Một tên gọi khác của nền văn hóa này,
nền văn minh Sindhu-Sarasvati, dựa trên thuyết cho rằng nền văn minh này
là nền văn minh đã được nhắc đến trong văn học Veda. Tuy nhiên, trong
tất cả các nền văn minh này thì đây được xem là nền văn minh ít được
biết nhất. Điều này là do chữ viết của nền văn minh Indus vẫn chưa được
giải mã. Có nhiều dấu tích của các con chữ được tìm thấy trên các mảnh
gỗm bị vỡ, các con dấu, hay bùa hộ mệnh, nhưng các nhà ngôn ngữ học và
các nhà khảo cổ đã gắng để có thể giải mã nó. Sau đó, các nhà nghiên cứu đã phải dựa
vào vật liệu mang tính văn hóa còn sót để từ đó cho họ cái nhìn sâu sắc
vào đời sống của người dân Harappan. [Kenoyer, Jonathan. (July 2003) Uncovering the keys to lost Indus cities. Scientific American. pg 71.] Harappan
là tên được đặt cho người dân thời kỳ cổ đại thuộc nền văn minh Thung
lũng Ấn. Bài viết này sẽ được tập trung chủ yếu vào hai thành phố lớn
nhất của Harappa và Mohenjo-Daro, và những gì đã được phát hiện ở đó. Phát hiện và khám phá nền văn minh sông Ấn – Harappa Việc phát hiện ra nền văn minh Thung
lũng Indus lần đầu tiên vào năm 1800 bởi người Anh. Việc ghi chép lại
đầu tiên là do một đào ngũ quân đội Anh, James Lewis, người đã được xem
như một kỹ sư người Mỹ vào năm 1826. Ông nhận thấy sự hiện diện của
những đống di tích tại một thị trấn nhỏ ở Punjab gọi là Harappa. Vì
Harappa là thành phố đầu tiên được tìm thấy, và những phái hiện sau đó
đều được gọi là nền văn minh Harappan. Thành phố Harappa đổ nát đã được biết
đến từ lâu và được Charles Masson miêu tả lần đầu tiên vào năm 1844
trong quyển Narrative of Various Journeys in Balochistan, Afghanistan
and The Panja của ông như là “một pháo đài xây bằng gạch nung từ đất sét
đã bị phá hủy”, tầm quan trọng của nó chỉ được nhận biết rất lâu sau
đó. Alexander Cunningham, người đứng đầu
Viện Khảo cổ học Ấn Độ đã đến khu vực này vào năm 1853 và năm 1856 trong
khi tìm kiếm các thành phố mà người hành hương Trung Quốc đã đặt chân
trong thời kỳ Phật giáo. Sự hiện diện của một thành phố cổ đã được khẳng
định trong 50 năm sau, nhưng không ai có bất kỳ ý tưởng về tuổi tác
hoặc tầm quan trọng của nó. Vào năm 1872, các phế tích bằng gạch đã bị
lấy đi đã làm phá hủy hầu các tầng trên của các khu vực này. Năm 1857
trong lúc xây dựng đường tàu hỏa Đông Ấn từ Karatschi đến Lahore người
Anh đã sử dụng gạch tìm thấy trên một cánh đồng đổ nát gần Harappa để
củng cố con đường tàu hỏa này. Vì thế mà tình trạng các di chỉ còn lại ở
Harappa xấu hơn rất nhiều so với ở Mohenjo-Daro. Mohenjo-Daro cũng được
biết đến từ lâu nhưng ở đấy người ta chỉ quan tâm đến những phần còn
lại của một tu viện Phật giáo từ thế kỷ thứ 2 SCN được xây dựng trên
những đống đổ nát cũ. Alexander Cunningham đã thực hiện một cuộc khai
quật nhỏ tại đây và phát hiện một số đồ gốm cổ xưa, một số công cụ bằng
đá, và con dấu bằng đá. Ông công bố phát hiện của mình và nó tạo ra sự
tò mò nghiên cứu của các học giả. Năm 1912 J. Fleet tìm thấy trong vùng
đất thuộc địa Anh ngày xưa nhiều con dấu với chữ viết chưa được biết
đến, thu hút sự quan tâm của giới khoa học tại châu Âu. Nhưng Phải đến
năm 1920 việc tiến hành khai quật một cách nghiêm túc mới bắt đầu diễn
ra tại Harappa. Ngài John Marshall, về sau là giám đốc Viện Khảo cổ học
của Ấn Độ, bắt đầu một cuộc khai quật mới tại Harappa. Cùng với phát
hiện từ một nhà khảo cổ học, những người đã được khai quật tại Mohenjo
Daro, Marshall tin rằng những gì họ đã tìm thấy cho bằng chứng về một
nền văn minh mới đã được khai quật lớn hơn bất kỳ những nền văn minh họ
đã từng biết đến.[Kenoyer, Jonathan. (1998). Ancient Cities of the Indus Valley Civilization. Oxford, New York. Oxford University Press. 20-21]. Tuy nhiên, các cuộc khai quật đã không
được thực hiện trong vòng 40 năm cho đến năm 1986 khi nguyên giáo sư
George Dales của Đại học California tại Berkeley đã thiết lập dự án khảo
cổ Harappan, còn gọi là HARP. Đây là nỗ lực nghiên cứu đa ngành bao gồm
các nhà khảo cổ học, ngôn ngữ học, sử học, và nhà nhân loại học vật
lý. Từ khi thành lập dự án HARP, Jonathan
Mark Kenoyer đã từng là đồng giám đốc và giám đốc phụ trách chuyên môn
của dự án. Kenoyer sinh ra ở Shillong, Ấn Độ, và dành phần lớn tuổi trẻ
của mình ở đây. Ông tiếp tục theo học tại Đại học California tại
Berkeley và hiện là giáo sư nhân chủng học tại Đại học
Wisconsin-Madison, và dạy khảo cổ học và công nghệ cổ đại. Tập trung
chính Kenoyer là về nền Văn minh lưu vực sông Ấn nơi ông đã tiến hành
nghiên cứu trong vòng 23 năm qua. Khi còn là sinh viên, Kenoyer được đặc
biệt quan tâm đến công nghệ nghiên cứu thời cổ đại. Ông đã làm rất
nhiều công việc cố gắng để tái tạo các quá trình được sử dụng bởi những
người cổ đại trong sản xuất đồ trang sức và đồ gốm. Một trong những nỗ
lực đầu tiên của ông trong việc tái tạo làm các loại vòng bằng vỏ sò sau
đó đã được đồng tác giả với George Dales và xuất bản một bài báo. Luận
án tiến sĩ của ông đã được dựa trên nghiên cứu này, và luận án của ông
là một mốc quan trọng trong lĩnh vực khảo cổ học thực nghiệm và khảo cổ
-nhân chủng học, ngoài việc nghiên cứu làm việc chế tác vỏ sò của người
dân Harappan. Hiện nay, Kenoyer là trợ lý của đồng
giám đốc Richard Meadow của Đại học Harvard và Rota Wright của Đại học
New York. Kenoyer sử dụng một cách tiếp cận khảo cổ học theo ngữ cảnh.
Công việc của ông được đặc trưng bởi việc sử dụng các bằng chứng lạnh để
vẽ phác thảo của nền văn minh cổ đại. Từ năm 1931, tại Mohenjo-Daro hơn 10 ha
của thành phố đã được khai quật, sau đấy chỉ còn những khai quật nhỏ,
trong đó là cuộc khai quật năm 1950 của Sir Mortimer Wheeler. Sau khi
thuộc địa Anh được chia cắt năm 1947, khu vực dân cư của văn hóa Harappa
được chia thành một phần thuộc Pakistan và một phần thuộc Ấn Độ. Sau
đó, tại Pakistan, người Mỹ, người Pháp, người Anh và người Đức đã cùng
với những nhà khảo cổ học người Pakistan tiếp tục công việc nghiên cứu
trong khi tại Ấn Độ là ngành khảo cổ học Ấn. Đã và đang có nhiều ảnh
hưởng lớn đến công cuộc nghiên cứu nền văn hóa song Ấn, bên cạnh những
nhà khảo cổ học khác, là người Anh Aurel Stein, người Ấn Nani Gopal
Majumdar và người Đức Michael Jansen. Như vậy, có thể nói rằng chỉ đến năm
1922, khi các nhà khảo cổ học người Anh trên đường đi tìm dấu vết của
Alexander Đại đế khám phá những phần còn lại của một nền văn hóa chưa
được biết đến trong lãnh thổ của Pakistan ngày nay, nền văn hóa cổ phát
triển cao này mới được biết đến. Nền văn minh này trải dài gần khắp lãnh
thổ Pakistan ngày nay cũng như nhiều phần của Ấn Độ và Afganistan trên
một diện tích là 1.250.000 km² và như thế so về diện tích lớn hơn Ai Cập
cổ đại và nền văn minh Lưỡng Hà (Mesopotamia) cộng lại. Bên cạnh hai
nền văn hóa này, nền văn minh sông Ấn là một trong ba nền văn minh lâu
đời nhất của thế giới. Ngay từ thời đấy người ta đã biết đến quy hoạch
đô thị, chữ viết và kiến trúc. Cho đến nay có hơn 1.050 di chỉ đã được
xác định, phần lớn dọc theo sông Ấn. Trên 140 thành phố và làng mạc đã
được tìm thấy. Hai trung tâm đô thị lớn nhất là Harappa và Mohenjo-Daro,
bên cạnh đó còn có nhiều thành phố lớn như Dholavira, Ganweriwala,
Lothal và Rakhigarhi. Trong thời kỳ nở rộ, nền văn hóa sông Ấn được
phỏng đoán có trên 5 triệu dân cư. Nguồn tài liệu về văn hóa Harappa,
trái ngược với 2 nền văn hóa tại Ai Cập và Lưỡng Hà, rất đáng tiếc là
còn rất mỏng. Chỉ khoảng 10% làng mạc của họ là đã được khai quật, chữ
viết chưa được giải mã và việc nền văn hóa này biến mất đột ngột từ
khoảng 1.900 TCN cũng chưa được giải thích. Dân cư và đô thị Cho đến nay, thành phố lớn nhất được tìm
thấy trong thung lũng sông Ấn là Mohenjo Daro, đồi của người chết – The
mound of death, nằm trong tỉnh Sindh của Pakistan ngày nay, ngay cạnh
sông Ấn. Cùng với những di chỉ khảo cổ quan trọng khác như Kot Diji,
Lothal và Harappa, đặc điểm của Mohenjo Daro là kiến trúc đồng nhất
trong xây dựng thành phố, đặc biệt là trong hệ thống cung cấp nước và hệ
thống nước thải. Các thành phố được xây dựng tương tự như một bàn cờ,
chứng minh cho những hiểu biết tiến bộ trong khoa vệ sinh và quy hoạch
đô thị.. Mặc dù, cũng có thể nền văn minh Harappa
tồn tại trước đó nhưng thời kỳ phát triển rực rỡ nhất là vào khoảng từ
2600-1900 TCN, đánh dấu đỉnh cao của phát triển kinh tế và phát triển
văn minh đô thị. Việc tính niên đại bằng phương pháp sử dụng radio
carbon, cùng với việc so sánh các hiện vật, đồ gốm phát hiện được đã xác
định được niên đại hình thành thành phố Harappa và các thành phố khác ở
vùng sông Indus. Đây có thể coi là thời kỳ hoàng kim của nền văn minh
Harappa. Thời kỳ này đã chứng kiến việc phát triển công nghệ thủ công,
thương mại, và mở rộng đô thị. Lần đầu tiên trong lịch, có bằng chứng
cho thấy nhiều người dân thuộc các tầng lớp khác nhau với nhiều loại
hình nghề chung sống với nhau. Giai đoạn 2800-2600 TCN còn được gọi là
thời kỳ Kot Diji, Harappa đã phát triển thành một trung tâm kinh tế phát
triển mạnh với nhiều thị trấn và các trung tâm buôn bán lớn. Cùng với
Harappa, các thành phố khác thung lũng Indus đã được xây dựng và kiến
thiết theo quy hoạch kiến trúc theo hinh ô. Thành phố được xây dựng
theo mô hình lưới giống với định hướng của đường phố và các tòa nhà được
thiết kế theo quy hoạch cụ thể. Để tạo thuận lợi cho việc tiếp cận các
khu phố khác và để phân biệt khu vực tư nhân và công cộng, thành phố và
đường phố được tổ chức đặc biệt. Các thành phố có nhiều giếng nước, và
một hệ thống thoát nước rất tinh vi. Tất cả các nhà của người dân
Harappan được trang bị nhà vệ sinh, nhà tắm, và nước thải cống rãnh mà
đổ vào hệ thống thoát nước lớn hơn và cuối cùng lắng đọng bùn màu mỡ
được sử dụng vào mục đích làm nông nghiệp. Nhà dân trong các khu phố tại
khu vực phía dưới được xây dựng rất hợp lý và được kết cấu từ gạch đất
sét nung. Khoảng 50% nhà có diện tích từ 50 m² đến 100 m², cũng khoảng
từng ấy nhà có diện tích giữa 100 m² và 150 m² và một số ít có diện tích
lớn từ 210 m² đến 270 m². Thông thường chúng bao gồm một sân trước nối
liền ra đường bằng một phòng ở phía trước, từ đấy có thể đi đến các căn
phòng chính, được sắp xếp chung quanh sân. Sân này chính là nơi sinh
hoạt hằng ngày. Trên các căn phòng thường có sân thượng, có cầu thang đi
lên. Một căn nhà thông thường có nhà vệ sinh riêng, nằm nhìn ra đường
phố và được kết nối với hệ thống thoát nước công cộng. Nhà có giếng
riêng cung cấp nước. Mức độ cung cấp và thải nước rất cao, vài vùng của
Pakistan và Ấn Độ ngày nay vẫn chưa đạt lại được mức độ này. Điều đáng
ngạc nhiên đối với các nhà khảo cổ khi phát hiện ra cách bố trí trang và
phong cách tạo tác trên toàn khu vực sông Ấn có những nét tương đồng.
Điều này chứng tỏ rằng rằng có sự thống nhất cơ cấu kinh tế và xã hội ở
thành phố này. Mohenjo-Daro là thành phố được khảo sát
tốt nhất của văn hóa sông Ấn. Trong các thập niên 1920 và 1930, Cơ quan
khảo cổ Anh đã tổ chức khai quật rộng khắp tại đây và đào lộ thiên nhiều
phần lớn của thành phố đã hoàn toàn bị chôn vùi trong bùn lầy của sông
Ấn 4.500 năm trước đó. Thành phố được xây dựng trên một nền nhân tạo làm
bằng gạch đất sét và bằng đất được xem như là để bảo vệ chống lụt. Cạnh
một vùng nằm cao hơn, rộng 200 m và dài 400 m, được xem là thành lũy,
là một vùng được coi như là khu dân cư, nơi có nhiều nhà dân. Giữa 2 khu
vực này là một khoảng trống rộng 200 m. Các con đường chính có nhiều
ngang 10 m chạy xuyên qua thành phố theo hướng Bắc-Nam và đường nhỏ
thẳng góc với đường lớn theo hướng Đông-Tây, từ đó hình thành các khu
nhà cho người dân thành phố. Trong khu thành lũy mà mục đích vẫn chưa rõ
có một bể nước được làm bằng một loại gạch đặc biệt nung từ đất sét,
được khám phá trong năm 1925, có độ lớn vào khoảng 7 m x 12 m và có thể
đi lên qua 2 cầu thang. Bể nước được bao bọc bởi một lối đi, có một
giếng nước cung cấp riêng trong một phòng cạnh đó. Người ta vẫn chưa rõ
đây là một bể nước để tắm rửa trong nghi lễ hay là một bể bơi công cộng.
Cũng trên nền này là một căn nhà lớn làm từ gạch nung được xem như là
kho trữ ngũ cốc mặc dầu chức năng này chưa được chứng minh. Trong việc quy hoach đô thị, việc thống
nhất về chỉ số của những viên gạch dùng để xây dựng tại các thành phố
Indus là tất cả thống nhất về kích thước. Dương như như kích thước gạch
tiêu chuẩn đã được quy định và được sử dụng trong việc xây dựng các
thành phố. Bên cạnh việc sự dụng đồng nhất kích thước gạch, việc cân đo
lường cũng được thống nhất và sử dung chung cho các vùng thuộc văn minh
Harappa. Các quả cân ghi trọng lượng đo lường đã được tìm thấy cho thấy
độ chính xác đáng kể. Họ theo một hệ thống nhị phân thập phân: 1, 2, 4,
8, 16, 32, lên đến 12.800 đơn vị, nơi một đơn vị trọng lượng khoảng 0,85
gram. Một số trọng lượng quá nhỏ mà họ có thể đã được sử dụng bởi các
nhà kim hoàn để đo lường kim loại quý. [Feurstein, George, Kak,
Subash, Frawley, David. (2001) In Search of the Cradle of Civilization.
Wheaton, Illinois. Quest Books. 83] Kinh tế Kinh tế giao thương: nền
kinh tế Harappa lúc bấy giờ khá đa dạng và đặc biệt là dựa trên cơ sở
một nền thương mại được ưu đãi bởi nhiều tiến bộ trong kỹ thuật vận tải.
Các tiến bộ này không những bao gồm xe do bò kéo rất giống những loại
xe này ngày nay tại Nam Á mà còn cả các loại tàu lớn nhỏ. Phần lớn những
con tàu này được phỏng đoán là tàu buồm có đáy bằng như vẫn còn nhìn
thấy trên sông Ấn ngày nay. Các nhà khảo cổ học đã khám phá ra phần còn
lại của một con kênh đào lớn và bến cảng gần Lothal tại bờ biển Ả Rập.
Đường thủy chính là trụ cột của hạ tầng cơ sở vận tải thời đấy. Dựa và
các đồ tạo tác còn sót lại của nền văn minh sông Ấn và sự phân bổ của
nó, mạng lưới thương mại bao phủ một diện tích rộng lớn, bao gồm nhiều
phần đất của Afghanistan, vùng bờ biển của Iran ngày nay, Bắc và Trung
Ấn Độ và vùng Lưỡng Hà. Đặc biệt là đã có trao đổi hàng hóa thường xuyên
với người Sumer, không những bằng đường bộ (qua Iran ngày nay) mà còn
bằng đường biển (qua Dilmun, ngày nay là Bahrain), đã được chứng minh
bằng nhiều di chỉ và tài liệu tại Sumer. Thí dụ như trong ngôi mộ của nữ
hoàng Puabi sống khoảng 2.500 năm trước Công Nguyên tại khu vực Lưỡng
Hà đã có trang sức làm bằng carnelian từ lưu vực sông Ấn. Thêm vào đó,
chữ khắc người Sumer, được phỏng đoán là nói về nền văn hóa sông Ấn, sử
dụng tên Meluha, là manh mối duy nhất cho việc người tại lưu vực sông Ấn
đã có thể tự gọi mình như thế nào. Dường như Mohenjo Daro là trung tâm
của thương mại, nơi đã có thể nhận dạng một cấu trúc hành chính và
thương mại. Kinh tế nông nghiệp: khó
có thể nhận định được kỹ thuật nông nghiệp của người dân Harappan thời
bấy giờ do những phát hiện về khảo cổ học còn quá mỏng. Điều đáng nói là
nền nông nghiệp của văn minh Harappa phải có sản lượng rất cao để nuôi
sống hằng ngàn người dân trong thành phố không trực tiếp tham gia vào
hoạt động nông nghiệp. Việc trồng lúa, loại cây trồng vẫn còn chưa được
biết đến, mà phần lớn là trồng lúa mì. Người Harappa đã biết sử dụng sức
kéo của trâu cho hoạt động sản xuất nông nghiệp của mình. Tận dụng phù
sa bồi đắp, mầu mỡ của con sông Ấn, cư dân Harappa đã phát triển trồng
trọt và kết hợp với việc đánh bắt cá, tương tự như những cư dân nông
nghiệp tại nền văn minh Ai Cập cho đến khi xây đập Nasser, thế nhưng
phương pháp đơn giản này không đủ để nuôi sống thành phố lớn. Dấu tích về đập nước hay kênh tưới không
được tìm thấy cho đến nay; nếu như chúng đã tồn tại trong thời gian đó
thì có lẽ là đã bị phá hủy trong lũ lụt thường hay xảy ra tại vùng này.
Từ một thành phố vừa được khám phá tại Ấn Độ người ta biết rằng thời đấy
nước mưa đã được thu thập lại trong các bể nước lớn được đục từ các
tảng đá, cung cấp nước cho thành phố trong mùa khô. Lúa mì, lúa mạch, đậu lăng, đậu tròn và
cây lanh được trồng trong nền văn hóa Harappa. Gujarat thuộc vào khu vực
chịu ảnh hưởng của nền văn hóa Harappa nhưng vì không có sông lớn nên
chỉ trồng trọt theo mùa mưa và vì thế có nhiều điểm khác nhau lớn trong
kinh tế. Tại các di chỉ có niên đại muộn hơn của văn hóa Harappa như tại
Rojdi và Kutasi, cây kê chiếm đa số. Lúa mì và lúa mạch chỉ có rất ít.
Vì tìm được nhiều xương còn lại nên người ta cho rằng gà đã được nuôi
như gia cầm từ thời gian cuối của nền văn hóa Harappa. Việc phân chia lao động đã được tiến
hành triệt để vào thời đấy. Khai quật dọc theo Ghaggra, một con sông
ngày nay đã khô cạn nằm về phía Đông của sông Ấn, cho thấy mỗi một nơi
định cư đã chuyên môn về một hay nhiều kỹ thuật sản xuất. Thí dụ như kim
loại được chế biến trong một vài thành phố trong khi nhiều thành phố
khác sản xuất bông vải. Nghệ thuật Kể từ khi phát hiện ra Harappa, các nhà
khảo cổ đã cố gắng để xác định những thuộc tầng lớp cai trị của thành
phố này. Những gì đã được tìm thấy là rất đáng ngạc nhiên bởi vì nó
không giống như các mô hình chung sau các xã hội đô thị trẻ khác. Có vẻ
là những người cai trị thành phố Harappan và Indus thông qua sự kiểm
soát của thương mại và tôn giáo, thay vì bằng sức mạnh quân sự. Đây là
một khía cạnh thú vị của nền văn minh Harappa cũng như các thành phố
khác thuộc nền văn minh Indus về lĩnh vực nghệ thuật và điêu khắc, không
có tượng đài được dựng lên để tôn vinh, và không những bức họa lại
chiến tranh hay chinh phục. [ Kenoyer, Jonathan. (July 2003) Uncovering the keys to lost Indus cities. Scientific American. Tr. 71] Cũng
có thể suy luận rằng các nhà cai trị có thể là các thương gia giàu có,
chủ đất quyền lực hay các nhà lãnh đạo tinh thần. Dù là ai cai trị điều
này đã được xác định rằng họ đã cho thấy sức mạnh và địa vị của mình
thông qua việc sử dụng con dấu và đồ trang sức. So với các nền văn hóa tại Ai Cập và
Lưỡng Hà, có rất ít tượng đá được tìm thấy tại lưu vực sông Ấn. Ngoài
những vật khác, đầu cũng như tượng cừu đực ngự trên đế được tìm thấy,
chứng tỏ mang ý nghĩa về tế lễ. Ngược lại, người dân của nền văn hóa
sông Ấn sản xuất nhiều loại nữ trang khác nhau. Vật liệu ban đầu bao gồm
không những đá quý như carnelian, mã não, ngọc thạch anh và lapis
lazuli cũng như là vàng (ít hơn) và các loại đá khác. Vòng đeo tay, dây
chuyền và đồ trang sức đeo trên đầu được sản xuất với kỷ năng thủ công
cao độ, bao gồm mài, đánh bóng và những kỹ năng khác. Bên cạnh đó nhiều tượng nhỏ làm từ đất
sét được tìm thấy, thường là hình tượng phụ nữ mảnh khảnh, có lẽ là biểu
tượng cho khả năng sinh sản và tượng thú vật được chế tạo rất chi tiết.
Hội họa và âm nhạc cũng được coi trọng, như nhiều hình tượng bằng đồng
thau và đất sét biễu diễn các hoạt cảnh tương ứng chứng minh. Trên một
con ấn, các nhà khảo cổ học đã tìm thấy miêu tả của một dụng cụ giống
như đàn thụ cầm và trên 2 vật được tìm thấy từ Lothal đã có thể xác định
được là các miêu tả nhạc cụ giây. Tôn giáo Các học giả khó có thể rút ra một kết
luận liên quan đến tôn giáo của người Harappa. Không giống như
Mesopotamia hoặc Ai Cập, ở đây không có các tòa nhà lớn mang dáng dấp
tôn giáo để chúng ta có thể kết luận nó có thể là một ngôi đền hoặc liên
quan đến bất kỳ nơi thờ phụng công cộng. Tuy nhiên, một số nhà sử học
lại đưa ra ý kiến cho rằng Harappan chính là tiền nhân của người Hindu
và Hindu giáo sau này. Có thể khảng định rằng, con người thời
kỳ văn minh Harappa vẫn chưa có khái niệm về tôn giáo mà mới chỉ dừng
lại ở góc độ tín ngưỡng. Tín ngưỡng của họ vẫn còn ở mức độ sơ khai. Các
tôn giáo Harappan là đa thần. Họ sử dụng trâu, bò, voi và các động vật
khác để đại diện cho vị thần của họ. Các con dấu Harappan được Amulets
gửi đến các vị thần Harappan. Các vị thần của Harappans mô tả về con dấu
của họ đại diện cho các vị thần khác nhau ở Thung lũng Indus. Thiên
lân, có thể là đại diện `Ma`, trong khi gia súc có thể đại diện cho
Thiên Chúa Kali hoặc Uma, Amma hoặc Pravarti, vị nữ thần mẹ. Những con
dấu là một trong những vật dụng thường thấy ở các thành phố Harappan.
Chúng được trang trí bằng họa tiết động vật như voi, trâu, hổ, và hầu
hết thường là những con lân. Một số các con dấu được khắc với con số đó
là nguyên mẫu về sau đó nhân vật tôn giáo Hindu, một số trong đó được
nhìn thấy ngày hôm nay. Ví dụ, có con dấu đã được phục hồi với
các họa tiêt lặp đi lặp lại về một người đàn ông ngồi trong tư thế yoga
xung quanh là các loài động vật. Điều này là tương tự như thần Shiva của
người Hindu, người được biết là có được những người bạn của các loài
động vật và ngồi theo tư thế yoga. Nhiều con dấu được tìm thấy với hình
ảnh Shiva. Hình ảnh khác của một vị thần nam đã được tìm thấy, do đó cho
thấy sự khởi đầu của việc thờ thần Shiva, mà vẫn được thờ cho đến ngày
nay ở Ấn Độ. [Knapp, Stephen, Proof of Vedic Culture's Global Existence. Detroit, Michigan. The World Relief Network, 2000 tr. 42] Một
con dấu nổi tiếng cho thấy một số ngồi trong một tư thế gợi nhớ của các
vị trí hoa sen và bao quanh bởi các động vật được đặt tên theo
Pashupati – chúa tể của gia súc, danh hiệu của Shiva và Rudra. Trong đời sống sinh hoạt của người dân
Harappan, nhiều bằng chứng khảo cổ học đã phát hiện ra những khu vực
người dân tụ họp và thực hiện các nghi lễ mang tính chất tâm linh. Tuy
nhiên, điều này vẫn chưa được khảng định một cách rõ ràng. Chúng ta chỉ
có thể suy luận qua những gì còn lại khi tìm thấy những hồ tắm lớn –
Great Bath, xung quanh có những gian nhà nhỏ và có hệ thống thoát nước,
được xây bằng các bậc tam cấp. Nhiều quan điểm cho rằng nơi đây diễn ra
các nghi lễ tôn giáo, và xuống dưới hồ tắm để làm lễ phóng sinh hay gột
rửa sạch con người về mặt tâm linh. Người
Harappa cũng có khái niệm về linh hồn sau khi con người đã chết. Nhiều
ngôi mộ cổ được phát hiện được đặt theo hướng Nam – Bắc. Đặc biệt là
trong Nghĩa trang H của thời kỳ Harrapan sau này, đã tìm thấy những ngôi
mộ hỏa táng và chôn cất người chết của họ tro trong bình chôn lấp và
kèm theo các vật dụng tùy táng. Chữ viết người người Harappan gồm các
chuỗi ngắn của các biểu tượng, ký tự được tìm thấy nền văn minh lưu vực
sông Ấn. Các nhà khảo cổ học cho rằng, những biểu tượng/ký tự này được
sử dụng trong thời kỳ phát triển Harappan từ khoảng 2600 – 2000 TCN. Tuy
nhiên, vẫn chưa giải mã được những biểu tượng/ký tự này do đó việc giải
thích các văn bản vẫn còn gây nhiều tranh cãi. Năm 1873, Alexander Cunningham lần đầu
tiên xuất bản những con dấu Harappan dưới hình thức một bản vẽ. Kể từ
đó, hơn 4000 biểu tượng/ký tự đã được phát hiện. Năm 1970, Iravatham
Mahadevan xuất bản một tập sao lục và sách dẫn về danh sách chữ viết văn
minh sông Ấn với 3700 con dấu và khoảng 417 dấu hiệu khác biệt bằng mô
hình cụ thể. Trung bình mỗi ký tự có năm dấu hiệu, và các dòng chữ dài
nhất gồm có 17 dấu hiệu. Ông cũng sắp xếp theo hướng viết là phải sang
trái. Ban đầu, Cunningham vào năm 1877 cho
rằng hệ thống chữ viết này là nguyên mẫu chữ viết Brahmi được sử dụng
bởi hoàng đế Ashoka. G.R. Hunter, Mahadevan cũng đồng quan điểm với
Cunningham cũng như một số ít các học giả. Tuy nhiên, nhiều tranh luận
vẫn diễn ra, có người cho rằng chữ viết thời kỳ văn minh sông Indus như
là tiền thân hệ chữ Brahmic. Tuy nhiên hầu hết các học giả không đồng ý,
cho rằng thay vì rằng chữ Brahmi bắt nguồn từ chữ Aramaic. Sao lục ký tự của nền văn minh Harappa Văn minh Harappa thời sơ khai: Chữ
viết được sử dụng trong giai đoạn Harappan phát triển bắt nguồn từ hệ
chữ viết được tìm thấy vào đầu năm 3500 TCN. Richard Meadow người cũng
góp mặt trong việc khai quật nền văn minh này đã bác bỏ quan điểm này.
Việc sử dụng các ký tự bằng gốm và các con dấu Indus chính là hệ chữ
viết của giai đoạn Harappan phát triển. Văn minh Harappan thời kỳ phát triển: Chuỗi
các con dấu Indus được tìm thấy phổ biến trên nền đất bằng phẳng, có
con dấu đóng dấu hình chữ nhật, nhưng các nhà khảo cổ cũng được tìm thấy
trên ít nhất một tá các vật liệu khác bao gồm các công cụ, các thanh
nhỏ, đĩa đồng và đồ gốm. Văn minh Harappa – hậu kỳ: Sau 1900 TCN, hệ thống biểu tượng/ký tự dường như đã được hoàn thiện. Năm 1960, BB Lal thuộc, Viện khảo cổ học
Ấn Độ đã viết một bài báo trong tạp chí Ấn Độ cổ đại. Ông đưa ra một hệ
thống các hình ký tự bằng đồ gốm, cự thạch và so sánh với các chữ viết
cổ của nền văn minh Harappa. Những chuỗi biểu tương/ký tự cổ có những
nét tương đồng với chữ viết Harappan đã được tìm thấy ở Sanur gần
Tindivanam tại Tamil Nadu, Musiri ở Kerala và Sulur gần Coimbatore. Trong một trong những bản giải mã được
chấp nhận hơn được SR Rao, nhà khảo cổ học người Ấn Độ cho rằng giai
đoạn cuối của chữ viết là sự khởi đầu của bảng chữ cái. Ông đưa ra một
số điểm tương đồng nổi bật về hình dáng và hình thức giữa các ký tự
Harappan thời kỳ sau này và các chữ Phoenician, và tranh luận rằng chữ
viết Phoenician phát triển từ chữ viết của người Harappan và thách thức
lý thuyết cổ điển rằng bảng chữ cái đầu tiên là Proto-Sinaitic. Nhiều học giả phương Tây lại cho rằng,
chữ viết của người Harappan là tiền thân của chữ viết người Dravidian.
Học giả Nga Yuri Knorozov phỏng đoán rằng những biểu tượng đại diện cho
hệ chữ logosyllabic và cho rằng dựa trên máy tính phân tích, phương pháp
chấp dính và xem như là một giả định của ngôn ngữ tiền-Dravidian. Asko Parpola học giả người Phần Lan đã
dẫn đầu một nhóm nghiên cứu trong thập niên 1960-80 tranh luận với các
học giả người Liên Xô Knorozov trong điều tra chữ viết và sử dụng phân
tích máy tính. Dựa trên một giả định tiền-Dravidian, họ đề xuất các bài
đọc của nhiều dấu hiệu, một số đồng ý với Heras và Knorozov (như tương
đương là “cá” đăng nhập với từ Dravidian cho “min” cá), nhưng không đồng
ý về một cách đọc khác. Hoàn tất công việc nghiên cứu của mình cho đến
năm 1994 Parpola đã cho xuất bản cuốn sách “Giải mã Chữ viết văn minh
sông Indus”. Tháng 05 năm 2007, Cục Khảo Cổ Tamil
Nadu phát hiện thấy những chiếc chậu với biểu tượng mũi tên trong một
cuộc khai quật tại Melaperumpallam gần Poompuhar. Những biểu tượng này
có nét giống với các con dấu được khai quật tại Mohenjo daro vào những
năm 1920 Sự suy tàn của nền văn minh Harappa Sự suy tàn của nền văn minh Harappan rất
khó để giải thích. Trong giai đoạn cuối của nó từ năm 2000 – 1700 TCN
“Nền văn minh Thung lũng sông Ấn như một thực thể riêng biệt dần dần
không còn tồn tại ‘. Nhiều nhà sử học có ý kiến khác nhau về nguyên nhân
của sự phân rã và biến mất của các nền văn minh Harappan. Nguyên nhân
khác nhau đã chứng minh cho sự suy yếu của nó và sau đó là diệt vong
như: tăng về lượng mưa, động đất, dân số tăng và hạn chế về đất ở, lũ
lụt, xâm lược Aryan, dịch bệnh bệnh Những trận động đất kinh hoàng có thể là
nguyên nhân làm sụp đổ nhiều nền văn minh trong lịch sử loài người, từ
thành Tơroa cổ đại tới nền văn minh Maya ở Trung Mỹ. Giả thuyết này vừa
được các nhà khoa học đưa ra hôm qua, tại cuộc họp của Hiệp hội Địa Vật
lý Mỹ. Ông Amos Nur, Giáo sư vật lý tại Đại học
Stanford, cho biết: “Chúng tôi tin rằng các thảm họa tự nhiên, đặc biệt
là động đất, đã đóng vai trò quan trọng trong sự mất tích bí ẩn của
nhiều nền văn minh”. Các nhà khoa học khác của Hiệp hội Địa
vật lý Mỹ đã đưa giả thuyết này đi xa hơn. Họ cho rằng những trận động
đất lịch sử có thể triệt hạ các nền văn minh khác, từ Harappan của thung
lũng sông Ấn, tới Maya ở Trung Mỹ . Tuy nhiên, Nur và đồng nghiệp Prasad,
khi xem xét lịch sử địa chấn, đã nhận thấy có những trận động đất thảm
khốc đổ xuống vùng ven biển gần biên giới giữa Ấn Độ và Pakistan. Theo
giả thuyết của họ, một hoặc nhiều chấn động lớn có thể đã làm vỏ trái
đất di chuyển, kéo theo việc chặn dòng chảy của một con sông lớn trong
vùng. Nền sản xuất nông nghiệp bị phá hủy, các trận lụt nghiêm trọng xảy
ra và cuối cùng vùi lấp các thành phố dưới bùn lầy. Một điều khá thú vị về những quan niệm
cho rằng có sự xâm chiếm của người Aryan. Giả thiết rằng nếu người Aryan
đã xâm chiếm các thành phố Thung lũng Indus, chinh phục người Harappa,
và áp đặt nền văn hóa riêng và tôn giáo của họ vào nền văn minh này, vì
theo lý thuyết, có vẻ không chắc rằng có sự tiếp tục trong việc thực
hành những tín ngưỡng tôn giáo tương tự cho đến ngày nay. Có bằng chứng
trong lịch sử Ấn Độ cho biết thờ Shiva đã tiếp tục cho hàng ngàn năm mà
không có sự gián đoạn. Mortimer Wheeler cũng cùng quan điểm
trên và chỉ ra rằng các nền văn hóa Harappan đã bị phá hủy bởi người
Aryan. Người Aryan đã được nhiều kỹ năng chiến tranh và đã mạnh mẽ hơn
so với Harappans. Trong giai đoạn cuối cùng của Mohenjodaro, đàn ông và
phụ nữ và trẻ em bị thảm sát trên đường phố và nhà ở. Tuy nhiên, có rất
ít bằng chứng khảo cổ học về quan điểm này. Sir John Marshal, Lambrick và EJH Mackay
cho rằng sự suy giảm của nền văn minh Harappan chủ yếu là do sự thay
đổi bất thường của sông Ấn. Nhưng lý thuyết này là một phần sự thật. Một
số các bằng chứng về sự tàn phá của lũ lụt đã được tìm thấy tại
Mohenjodaro và Lothal nhưng không có bằng chứng như vậy đối với các nơi
khác như Kalibangan. Một số sử gia cho rằng nền văn minh đô
thị đầu tiên đã kết thúc vào khoảng năm 1700 trước công nguyên bởi vì
tại nhiều khu định cư nhỏ dân số đã tăng trưởng vượt quá giới hạn tự
nhiên của chúng dẫn đến việc quản lý yếu kém nguồn tài nguyên thiên
nhiên. Mặc dù trên lý thuyết các yếu tố sinh thái bị suy giảm do nền văn
minh Harappan là mới nhất nhưng nó không cho chúng ta câu trả lời hoàn
chỉnh. Các sử gia đều có quan điểm rằng sự suy giảm của nền văn minh
sông Ấn không phải là kết quả của một sự kiện đơn lẻ, nó là một sự suy
giảm dân dần và kết quả của sự kết hợp các yếu tố tạo nên.
Trước khi người châu Âu khám phá ra châu Mỹ vào khoảng thế kỷ
XV-XVI, đã có nhiều nền văn minh xuất hiện, phát triển rồi lụi tàn trên
mảnh đất này.
Một trong những nền văn minh tiêu biểu được hình thành trong giai
đoạn từ năm 1.200 đến 400 trước Công nguyên là nền văn minh cổ đại
Olmec. Ngày nay ta có thể tìm được những vết tích còn lại của cư dân
Olmec ở khu vực bờ biển phía nam vịnh Mexico, các bang Veracruz và
Tabasco.
Nền văn minh Olmec được coi là văn hóa nguồn cội tại khu vực Trung
Mỹ, nếu Aztec được coi là nền văn minh nổi tiếng ở Mexico thì Olmec đã
có mặt trước đó đến cả 1.000 năm. Nhiều nền văn minh Trung Mỹ sau này
đều chịu ảnh hưởng từ nền văn minh Olmec. Vậy những người Olmec từ đâu
tới và nền văn minh Olmec đặc sắc như thế nào?
Qua các di tích khảo cổ còn sót lại, các nhà nghiên cứu hy vọng có
thể tìm ra lời giải cho sự khởi nguồn và biến mất bí ẩn của Olmec cổ
đại. Ảnh hưởng khắp Trung Mỹ
Trong cuốn Di sản văn minh Mesoamerican, nhóm các tác giả Robert M.
Carmack, Janine Gasco và Gary H. Gossen (Đại học New York và California,
Mỹ) đã chia sự hình thành phát triển của khu vực Trung Mỹ thành 5 thời
kỳ: thời kì đồ đá, thời kì cổ xưa, thời kì hình thành, thời kì cổ điển
và thời kì hậu cổ điển.
Một bức tranh cổ được ghép bởi 500 khối đá serpentine.
Theo đó, nền văn minh Olmec xuất hiện và phát triển trong thời kỳ
Hình Thành. Những cư dân Olmec đầu tiên cư trú trong những ngôi làng nhỏ
ở vùng đất thấp, khu vực bờ biển Mexico. Những bằng chứng khảo cổ tại
San Lorenzo cho thấy người Olmec thời kỳ này đã chế tác một số dụng cụ
sinh hoạt như bình, vò bằng đất nung để phục vụ sinh hoạt. Đến khoảng
năm 1.200 trước Công Nguyên, nghệ thuật đúc tượng đá của cư dân Olmec đã
đạt tới trình độ cao.
Điển hình là những bức tượng đầu đá khổng lồ còn lưu lại cho tới ngày
nay. Trung tâm San Lorenzo của nền văn minh Olmec thời kỳ này được xây
dựng với hàng ngàn nhà cửa, các công trình thủy lợi, đây có lẽ là địa
điểm chính trị và tôn giáo quan trọng của người Olmec cổ đại.
Tới những năm 900-400 trước Công Nguyên, trung tâm văn minh Olmec
tiêu biểu nằm ở thành phố Le Venta. Các cuộc khảo cổ đã tìm thấy những
tượng điêu khắc đá với nhiều kích thước, cạnh đó là những khu mộ táng,
nhiều đồ vật tùy táng và cả những chiếc mặt nạ bí ẩn.
Ngoài Le Venta, đã xuất hiện thêm hai khu vực khác cũng trở thành các
trung tâm văn hóa Olmec lớn như San Jose Mogote nổi tiếng với các khối
điêu khắc cộng đồng quy mô lớn và Chatcatzingo với những hiện vật nghệ
thuật mang tính tôn giáo bằng đá.
Tượng sinh đôi được tìm thấy ở El Azuzul.
Cũng ở giai đoạn này, nền văn minh Olmec đã hình thành tổ chức nhà
nước sơ khai và đã có sự liên kết với các khu vực lân cận qua hình thức
thương mại. Người Olmec cũng đã tiến hành những cuộc chinh phạt, cai trị
và buôn bán với những lãnh thổ xung quanh.
Vào cuối thời kỳ Hình Thành khoảng đầu Công Nguyên, trung tâm
Cuicuilco xuất hiện thay thế cho các trung tâm văn minh hình thành từ
thời kỳ đầu. Những người dân Olmec tại Cuicuilco đã xây kim tự tháp đầu
tiên tại châu Mỹ với hình dạng nhiều tầng hình tròn chồng lên nhau.
Những nhà nghiên cứu cho rằng vào thời điểm phát triển cao nhất, có
đến 20.000 người đã sống ở thành phố Cuicuilco. Vì một lý do bí ẩn nào
đó, thành phố này lụi tàn vào khoảng thế kỷ thứ 1 sau Công Nguyên và
nhường chỗ cho nền văn minh Teotihuacan, còn được gọi là thành phố của
những vị thần (đã đăng trên ANTG Cuối tháng số 186, 2-2017)
Một trong những thành tựu văn hóa nhận thức tiêu biểu của người Olmec
là lịch pháp thổ dân vùng Trung Mỹ. Ở thời kỳ Hình Thành, cư dân cổ đại
vùng Trung Mỹ sử dụng tới ba hệ thống lịch khác nhau gồm thánh lịch,
dương lịch và loại thứ ba là sự kết hợp cả 2 loại trên. Thánh lịch hình
thành từ sự kết hợp tuần hoàn của 2 vòng, một vòng gồm 13 chữ số và 1
vòng gồm 20 tên của các vị thần… vì thế một năm có tới 260 ngày với tên
gọi hoàn toàn khác nhau.
Dương lịch cổ Trung Mỹ có 18 tháng, mỗi tháng dài 20 ngày và 5 ngày
riêng biệt… tổng cộng là 365 ngày, gần giống với lịch hiện đại chúng ta
sử dụng ngày nay. Loại thứ ba là sự kết hợp của thánh lịch và dương
lịch, tạo bởi các vòng chu kỳ, mỗi vòng dài tới 52 năm…
Olmec cũng được coi là nền văn minh đầu tiên ở Trung Mỹ phát triển hệ
thống chữ viết. Những di tích khảo cổ ở San Lorenzo đã tìm thấy những
phiến đá cổ được cho là chứa văn bản của người Olmec. Những chữ tượng
hình này được khắc theo lối hàng ngang với 28 biểu tượng khác nhau, khác
với hệ thống chữ viết theo chiều dọc của các nền văn minh khác cùng khu
vực. Những tác phẩm nghệ thuật bí ẩn và giả thuyết
Cùng với lịch pháp, chữ viết, kiến trúc xây dựng… người Olmec cổ đại
còn thể hiện khả năng điêu khắc trình độ cao qua những chiếc mặt nạ đá,
đầu đá khổng lồ được tìm thấy ngày nay.
Matthew Stirling cùng cộng sự đã phát hiện ra những bức tượng đầu đá khổng lồ, bằng chứng của nền văn minh Olmec.
Có tới 17 chiếc đầu đá khổng lồ nằm rải rác trên khắp lãnh thổ
Mexico, chúng cao từ 1~3 mét và nặng tới 50 tấn. Những chiếc đầu đá nổi
tiếng này được tìm thấy qua cuộc thám hiểm của Matthew Stirling,
William Duncan Strong, Clarence Wolsey Weiant vào năm 1938 tại vùng đất
Tres Zapota. Kết quả ban đầu của cuộc thám hiểm chỉ là những phiến đá cổ
xưa, tác phẩm điêu khắc và cả tượng tôn giáo…
Chỉ tới khi đoàn thám hiểm của Weiant vào sâu hơn trong rừng thì họ
mới phát hiện ra chiếc đầu đá đầu tiên cao 1,8m và lần lượt tìm được 16
chiếc đầu đá khổng lồ nữa tại các địa điểm khác.
Những chiếc đầu đá của nền văn minh Olmec miêu tả khuôn mặt người đàn
ông trưởng thành với đôi mắt xếch, mũi tẹt và má phệ, gần giống với đặc
điểm chung của người dân vùng Veracruz và Tabasco. Biểu cảm trên khuôn
mặt của đầu đá hết sức sinh động và đường nét tinh xảo.
Pho tượng người đàn ông với trang phục được chạm khắc tinh xảo.
Các nhà nghiên cứu cho rằng những đầu đá khổng lồ này miêu tả các vị
thủ lĩnh người Olmec hoặc cầu thủ khi tham gia trò chơi bóng đá và bị
hành quyết thời kỳ đó. Những chiếc đầu đá khổng lồ này được tạo từ đá
bazan nguyên khối và được chuyển từ mỏ đá đến một địa điểm cách đó chừng
300km.
Theo tính toán, cần đến 1.500 người để chuyển những khối đá này với
thời gian chừng 3, 4 tháng. Người cổ đại Olmec cũng khắc ra những mặt nạ
đá, được chế tác từ đá serpentin cao chừng 13cm và có đặc điểm tương tự
khuôn mặt của đầu đá khổng lồ.
Việc phát hiện ra những chiếc đầu đá khổng lồ đã làm dấy lên cuộc
tranh luận về nguồn gốc của người Olmec. Có giả thuyết cho rằng, với đôi
môi dày, mũi to, mặt mỏng là đặc điểm của người châu Phi, và những
người Olmec chính là người châu Phi tới định cư tại châu Mỹ.
Tảng đá cổ phủ đầy rêu xanh có dấu tích chữ viết của người cổ đại Olmec.
Nhưng các nhà nhân chủng học lại cho rằng những nét mặt như vậy là do
việc chạm khắc bằng dụng cụ thô sơ rất khó khăn tạo nên. Một giả thuyết
nữa được đưa ra là người Olmec có nguồn gốc từ người Trung Quốc cổ đại.
Những nhà nghiên cứu cho rằng chiếc mặt nạ ngọc bích của người Olmec có
phong cách nghệ thuật giống với phong cách nghệ thuật thời nhà Thương,
Trung Quốc …
Tuy nhiên, vẫn chưa có bằng chứng khảo cổ nào chứng tỏ người Trung
Quốc cổ đại có đã có mặt tại châu Mỹ. Những nghiên cứu y học hình thể
mới đây còn cho thấy, mẫu sọ người Olmec trùng khớp với kích cỡ và đặc
trưng của người phương Tây.
Cũng giống như nhiều nền văn minh cổ đại khu vực Trung Mỹ khác, Olmec
phát triển rực rỡ và lụi tàn một cách đầy bí ẩn. Đã có nhiều giả thiết
được đưa ra như về thiên tai, dịch bệnh, nội chiến hoặc bị xâm lăng…
nhưng đều chưa có cơ sở khoa học để khẳng định.
Chỉ biết một điều chắc chắn rằng những người Olmec cổ đại thực sự là
những người chủ đầu tiên tại Trung Mỹ với những công trình kiến trúc,
điêu khắc đặc sắc và ảnh hưởng văn hóa mạnh mẽ tới các nền văn minh sau
này. Hoàng Ngọc
Bí ẩn lục địa huyền thoại Atlantis: Hậu duệ của văn minh Atlantis hiện giờ ở đâu?
Sự tương đồng giữa hai nền văn
hóa Inca và Ai Cập ở hai bán cầu đối lập, ngăn cách bởi một Đại Tây
Dương rộng lớn hé lộ bí ẩn đáng kinh ngạc về sự tồn tại một lục địa
huyền thoại bị nhấn chìm dưới đáy biển trong trận Đại Hồng Thủy – lục
địa Atlantis.
Theo chính sử, phải mãi đến năm 1498,
khi Colombo đặt chân lên Tân Thế Giới (Châu Mỹ), sự giao lưu văn hóa
giữa khu vực này với Cựu Thế giới (Châu Âu, Châu Phi, Châu Á) mới chính
thức bắt đầu trên diện rộng. Do đó, thật khó để tưởng tượng hai nền văn
minh tiền Colombo phát triển rực rỡ ở hai nửa bán cầu đối lập, ngăn cách
bởi một Đại Tây Dương rộng lớn, lại có thể sở hữu một nền nghệ thuật,
kiến trúc, biểu tượng, truyền thuyết và tín ngưỡng giống nhau một cách
đáng kinh ngạc. Hai nền văn minh đó là Ai Cập, phát triển rực rỡ bên bờ
sông Nin ở Châu Phi, và Inca/tiền Inca, phát triển tại sườn dãy núi
Andes ở Nam Mỹ.
Đây là không chỉ là một sự giao lưu văn
hóa thời tiền Colombo đơn thuần, mà nó còn ẩn chứa đằng sau một bí ẩn to
lớn, bí ẩn về một lục địa huyền thoại thất lạc sau trận Đại Hồng Thủy.
Bí ẩn này sẽ được đề cập đến trong phần sau, nhưng trước hết, xin mời
độc giả xem qua những điểm tương đồng đáng kinh ngạc giữa hai nền văn
hóa này, theo danh sách của nhà báo, nhà nghiên cứu Richard Cassaro:
I. Công trình kiến trúc tương đồng đến kinh ngạc
Khi nhắc đến bất kỳ nền văn hóa nào, có
lẽ điểm nổi bật nhất bề mặt nhất đặc trưng nhất chính là công trình kiến
trúc của nền văn hóa ấy. Sự tương đồng đến kỳ lạ ở rất nhiều các công
trình kiến trúc, từ bề mặt nhất đến chi tiết nhất, từ kiểu dáng bên
ngoài đến từng khối đá nhỏ cấu thành, cho đến kỹ thuật xây của văn minh
Inca và Ai Cập, đều rất khó hiểu và bí ẩn. Xác suất là rất nhỏ để điều
này có thể xảy ra “ngẫu nhiên”. Nó khẳng định một sự liên thông về văn
hóa dù ít dù nhiều giữa hai nền văn minh ở hai cực bên bán cầu.
Từ bề mặt nhất …
Kim tự tháp
Trái: Kim tự tháp của nền văn minh Tiền Inca và Inca, Phải: Kim tự tháp Ai Cập cổ đại.
Người Ai Cập và người Inca/Tiền Inca cổ
đại đều xây dựng các kim tự tháp đá và kim tự tháp bậc thang trên sa mạc
dọc theo các con sông và nằm thẳng hàng với bốn hướng chính (đông, tây,
nam, bắc). Và họ đều mai táng người chết bên trong.
Những đền thờ giống nhau đến khó tin
Các đền thờ của nền văn minh Tiền Inca và Inca, Ai Cập cổ đại có những điểm tương đồng đến kỳ lạ.
Công trình cự thạch
Người Ai Cập và người Inca/Tiền Inca cổ
đại đều xây dựng những ngôi đền quan trọng nhất của mình sử dụng những
khối cự thạch (đá lớn) nặng đến hàng trăm tấn.
Đền thờ với cửa tam quan
Công trình dốc nghiêng (chống chọi với động đất)
Người Ai Cập và người Inca/Tiền Inca cổ
đại đều xây dựng các công trình có khả năng chống chọi với động đất sử
dụng thiết kế dốc nghiêng vào bên trong, vốn đã đứng vững trước thử
thách của thời gian.
Tượng đài khắc chữ tượng hình (obelisk)
Người Ai Cập và người Inca/Tiền Inca cổ đại đều xây và dựng lập các tượng đài khắc chữ tượng hình (gọi là obelisk).
Cửa vào hình thang
Người Ai Cập và người Inca/Tiền Inca cổ
đại đều đều xây các cửa vào hình thang. Giống cửa vào hình tam giác, cửa
hình thang biểu trưng cho sự thăng tiến về tâm linh và thăng hoa về
tinh thần.
Không chỉ vậy, người Ai Cập và người
Inca/Tiền Inca cổ đại đều thiết kế một đôi rắn đối xứng nhau bên trên
cửa vào hình thang dẫn vào đền thờ của họ, biểu tượng cho trạng thái cân
bằng.
Biểu tượng bậc thang trên đỉnh cửa ra vào (Chakana/ankh)
Người Ai Cập và người Inca/Tiền Inca cổ đại đều sử dụng mô típ thiết kế bậc thang.
… đến chi tiết nhất
Khối đá xây nề tương đồng
Người Ai Cập và người Inca/Tiền Inca cổ
đại đều xây các khối đá nề trông rất giống nhau, ngay cả đến từng chi
tiết chạm nổi hay “chỗ phồng ra” trên bề mặt khối đá (hình trên).
Ngoài ra, họ còn biết cắt xẻ và xếp đặt
các phiến đá khít nhau đến mức khó tin, đến nỗi một tờ giấy mỏng cũng
không thể nhét lọt (hình dưới). Thông thường vữa – một chất kết dính gắn
kết các khối đá với nhau trong cách xây nhà hiện đại – không thấy được
sử dụng.
Kẹp kim loại
Người Ai Cập và người Inca/Tiền Inca cổ đại đều ráp nối các tảng đá lại với nhau sử dụng kẹp kim loại.
II. An táng người chết
Quan tài hình người
Người Ai Cập và người Inca/Tiền Inca cổ đại đều thiết kế các quan tài hình người cho người chết.
Xác ướp
Người Ai Cập và người Inca/Tiền Inca cổ
đại đều ướp xác người chết. Xác ướp được mai táng bên trong kim tự tháp
cùng với vật phẩm cúng tế và đồ dùng cá nhân. Cả hai nền văn hóa đều tin
vào sự tồn tại của sự sống sau khi chết
Xác ướp với cánh tay bắt chéo
Người Ai Cập và người Inca/Tiền Inca cổ
đại đều xếp cánh tay của xác ướp theo tư thế bắt chéo. Việc này nhằm mục
đích “cân bằng” trạng thái khi một người tiến nhập vào cõi chết, để có
một cuộc sống cân bằng ở thế giới bên kia. Hai cánh tay biểu thị cho sự
đối lập được cân bằng, hai bên trái phải bắt chéo vào với nhau.
Mặt nạ tang lễ bằng vàng
Người Ai Cập và người Inca/Tiền Inca cổ
đại đều đeo mặt nạ bằng vàng cho người đã khuất, tượng trưng cho việc
trở về cõi vĩnh hằng, “phía bên kia” của bức màn chắn, ngôi nhà cao hơn
trên thiên đường, vốn vĩnh hằng và thần thánh, khác với Trái Đất, vốn
chỉ mang tính tạm thời.
Vòng cổ động vật đối xứng nhau
Người Ai Cập và người Inca/Tiền Inca cổ
đại đều đeo vòng cổ bằng vàng cho người chết, với hai đầu chóp cuối của
vòng là hai cái đầu động vật sinh đôi hướng ra phía ngoài, biểu trưng
cho trạng thái cân bằng. Trạng thái cân bằng này là bí quyết trong thuật
giả kim, để tạo ra thành phần vàng trong chiếc vòng.
III. Tín ngưỡng
Tín ngưỡng thờ thần Mặt Trời
Người Ai Cập và người Inca/Tiền Inca cổ
đại đều sử dụng biểu tượng Thần Mặt Trời như bộ phận quan trọng trong
tín ngưỡng của họ. Ở Ai Cập vị Thần Mặt Trời là Thần Ra, trong khi ở
Peru là Thần Inti.
Ở trong cả hai nền văn hóa,bạn chính là
thần mặt trời; mặt trời là biểu tượng của bạn, cho linh hồn bạn. Bạn là
thần mặt trời sol. Bạn là mặt trời thần thánh vĩnh hằng. Bạn đã tự
nguyện sinh ra trong thân thể vật chất này, nhưng bạn đã quên mất cái
Tôi chân chính của mình, bạn đã lạc mất con đường trở về nhà.
– Nhà nghiên cứu Richard Cassaro
Thần thú đối xứng ở hai bên sườn thần Mặt Trời
Người Ai Cập và người Inca/Tiền Inca cổ đại đều sử dụng hai thần thú đối xứng nhau ở hai bên sườn thần mặt trời.
Các vị thần bay
Người Ai Cập và người Inca/Tiền Inca cổ đại đều miêu tả các vị Thần đang bay.
Biểu tượng vị Thần cầm hai thanh trượng ở hai bên
Người Ai Cập và người Inca/Tiền Inca cổ đại đều miêu tả một vị Thần cầm hai thanh trượng ở hai bên.
IV. Con mắt thứ Ba
Biểu tượng động vật trên trán
Người Ai Cập và người Inca/Tiền Inca cổ
đại đều sử dụng “mô típ động vật trên trán” như một cách đánh thức quyền
năng của Con mắt thứ Ba. Cả hai nền văn hóa đều tin vào sự tồn tại của
“Con mắt thứ Ba”, nằm ở chính vị trí đặt mô típ động vật trên trán
(trong hình).
Vòng tròn mặt trời biểu thị con mắt thứ ba trên trán
Người Ai Cập và người Inca/Tiền Inca cổ
đại đều chạm khắc vòng tròn trên trán bức tượng để biểu thị cho vị trí
của con mắt vòng tròn hay con mắt thứ ba.
Một con mắt đơn lẻ tượng trưng cho mặt trời
Người Ai Cập và người Inca/Tiền Inca cổ
đại đều có “biểu tượng con mắt mặt trời”, nhằm liên hệ mặt trời với một
con mắt duy nhất và ngược lại. Cả hai cho rằng con mắt đơn lẻ này (hay
chính là con mắt thứ ba) có thể nhìn thấy mặt trời bên trong (biểu trưng
cho linh hồn bên trong).
V. Nghệ thuật đối xứng
Người Ai Cập và người Inca/Tiền Inca cổ
đại đều thiết kế các tác phẩm nghệ thuật mang tính đối xứng, trong đó có
các biểu tượng bí ẩn.
Biểu tượng rắn đối xứng
Người Ai Cập và người Inca/Tiền Inca cổ đại đều sử dụng biểu tượng rắn đối xứng trên rất nhiều tác phẩm nghệ thuật.
Bí ẩn được giải mã, hé lộ sự tồn tại của một lục địa huyền thoại thất lạc
Rất nhiều nét tương đồng đáng kinh ngạc
cho thấy người Ai Cập cổ đại và người Inca hẳn phải có sự chia sẻ, giao
lưu về văn hóa. Tuy nhiên, hai nền văn hóa phát triển ở hai nửa bán cầu
đối lập nhau trên địa cầu, phân cách bởi một Đại Tây Dương rộng lớn trải
dài hàng nghìn dặm. Việc vượt biển qua đai dương rộng lớn này hẳn không
phải là một công việc dễ dàng.
Nhưng có thực sự xa cách xa đến vậy?
Liệu có khả năng tồn tại một lục địa rộng lớn ở giữa, tiếp cận gần hai
bờ biển Châu Phi và Nam Mỹ, thì có lẽ việc vượt biển sẽ đa phần là hành
trình trên đất liền. Đây không phải là một giả thuyết không tưởng, bởi
từng có nhiều sự đề cập đến một lục địa huyền thoại thất lạc phát triển
cực thịnh nằm trên Đại Tây Dương – lục địa Atlantis.
Được miêu tả sớm nhất trong tác phẩm
Cộng hòa (viết năm 380 TCN) của triết gia Plato, Atlantis là một hòn
đảo, một lục địa nằm trên biển Đại Tây Dương, giữa Châu Mỹ và Châu Âu
(hoặc Châu Phi), nơi xuất hiện một xã hội hoàn hảo và phát triển cực
thịnh.
“Trong những tư liệu của chúng ta, vào thời xa xưa, Nhà nước của chúng ta đã ở một trạng thái tổ chức hùng mạnh, bắt đầu tại một địa điểm rất xa ở Đại Tây Dương,
đã bắt đầu tấn công chinh phục và nghiền nát toàn bộ châu Âu và châu Á.
Nơi đó đại dương yên bình rất thuận lợi cho tàu thuyền đi lại, nơi đó ở
ngay phía trước những hang rất lớn mà người Hy Lạp chúng ta gọi là
“những cột đá của Heracles”, nơi đó có một hòn đảo lớn hơn xứ
Libya và châu Á cộng lại; các nhà lữ hành có thể băng xuyên qua nó để
đến các hòn đảo khác, và từ những hòn đảo đi đến tất cả các lục địa xung
quanh nó, bao gồm đại dương đã được đặt tên. … trong ý nghĩa đầy đủ và
xác thực nhất, nó là một lục địa. Giờ đây, trong hòn đảo
Atlantis tồn tại một liên minh của các vị vua, quyền lực tuyệt vời và
màu nhiệm , thống trị tất cả các hòn đảo, trên nhiều hòn đảo khác và một
phần của lục địa”. (Cộng hòa)
Dựa trên các dữ kiện trên, chúng ta có thể vẽ vị trí đại khái của Atlantis như sau:
Biểu đồ minh họa vị trí tương đối của Atlantis.
Quan sát biểu đồ trên, có thể thấy phía
Đông của Atlantis tiếp cập với Châu Âu/Châu Phi, trong khi phía Tây tiếp
cận với Châu Mỹ. Khoảng cách vượt biển để qua lại giữa các lục địa này
là không lớn. Do đó, không khó để sự giao lưu văn hóa xảy ra giữa các
lục địa nơi đây. Văn minh Ai Cập ở Bắc Phi và Inca ở Nam Mỹ vừa hay nằm ở
hai châu lục giáp ranh hai bên bờ Đông và Tây của lục địa Atlantis, nên
rất có thể họ đã tiếp nhận hoặc thừa hưởng văn hóa ở đây, thậm chí là
hậu duệ trực tiếp của người Atlantis, dù rằng sự tương đồng này không
tuyệt đối do những gì du nhập vào chắc chắn chịu ảnh hưởng của văn hóa
bản địa.
Trên thực tế, người bản địa da đỏ Kogi ở phía bắc Nam Mỹ (phía Tây Atlantis) từng nói họ là hậu duệ của văn minh Atlantis.
Phim tài liêu “Bộ tộc Kogi – Hậu Nhân của Atlantis gửi thông điệp cho con người nhân loại”:
Không chỉ vậy, ở phía Đông Atlantis có
nhiều nơi cũng lưu lại những thư tịch đề cập đến nền văn minh này. Lấy
ví dụ, các thư tịch Hy Lạp cổ đại có đề cập đến một sự kiện, trong đó
một chính khách, nhà lập pháp và nhà thơ người Hy Lạp tên Solon (635-558
TCN) đã gặp một vị tư tế Ai Cập tên Sonchis thành Sais, và được ông kể
cho nghe câu chuyện kì lạ về nền văn minh Atlantis. Theo vị tư tế
Sonchis thành Sais này, các vị Thần trong tín ngưỡng Ai Cập có nguồn gốc
từ lục địa Atlantis, và rằng thành bang Athens của Hy Lạp cổ đại từng
phát sinh chiến tranh với với một thế lực hùng mạnh từ Atlantis khoảng
9000 năm trước. Sau đó lục địa này hứng chịu một thảm họa hủy diệt và
chìm xuống đáy đại dương.
Các vị Thần của Ai Cập cổ đại có phải đến từ Atlantis, do tiếp nhận ảnh hưởng của nền văn hóa nơi đây?
Về số phận của Atlantis, các thư tịch
đều khá ăn khớp với nhau – rằng một trận Đại Hồng Thủy đã nhấn chìm lục
địa này xuống đáy đại dương. Trong tác phẩm Cộng hòa, triết gia Plato
viết:
“”Nhưng một thời gian sau đó đã xảy
ra động đất và lũ lụt như điềm báo, và một ngày và đêm đau thương xảy
đến khi toàn bộ cơ thể của các chiến binh Atlantis bị nuốt chửng bởi mặt
đất, và đảo của Atlantis bị nuốt chửng bởi biển cả và biến mất;
vậy nên đại dương tại vị trí đó không thể đi qua và không được tìm
thấy, bị chặn bởi bùn lầy mà nhờ đó hòn đảo đã tạo ra sự định cư trước
đây”. (Cộng hòa)
Bằng chứng về trận Đại Hồng Thủy?
Bằng chứng khảo cổ về lục địa ngầm dưới biển?
Có rất nhiều. Nhìn chung, địa hình đáy
biển càng tiến ra xa thì càng sâu, công cụ thiết bị và kinh phí là chưa
đủ để khám phá khu vực đáy biển quá xa bờ. Tuy nhiên, ở ven hai bờ biển
Châu Mỹ về phía Đông và Châu Âu/Châu Phi về phía Tây, người ta đã phát
hiện nhiều công trình kiến trúc chìm dưới biển, cũng chính là hai bên
rìa lục địa Atlantis trong giả thuyết. Điểm đặc biệt là những công trình
kiến trúc này lại rất giống với trên đất liền, cho thấy một mối liên hệ
về văn hóa nơi đây. Lấy ví dụ:
Nó quả thực cho thấy một sự liên thông,
tương đồng về văn hóa xuyên suốt từ Nam Mỹ, trải dài qua những di chỉ
ngầm dưới biển Đại Tây Dương, cho đến bờ bên kia tại Ai Cập, và tất cả
chúng đều bắt nguồn từ một nền văn minh huy hoàng trong quá khứ – văn
minh Atlantis.
Một điểm đáng kinh ngạc hơn nữa, đó là
Atlantis không phải là nền văn minh duy nhất bị nhấn chìm dưới đáy biển
trong trận Đại Hồng Thủy. Còn rất nhiều lục địa bị nhấn chìm khác, phân
bổ trên khắp các đại dương trên thế giới, và chúng tôi sẽ đề cập đến
chúng trong các bài sau.
Quý Khải (tham khảo Richard Cassaro, Written in Stone)
(ĐC sưu tầm trên NET) Oscar Là Ai? Câu Chuyện Về Cuộc Đời Bi Kịch Của “Thiên Tài Bị Xã Hội Vùi Dập” Ít ai biết rằng, giải thưởng danh giá của làng điện ảnh – Oscar - được lấy theo tên của nhà văn nổi tiếng Oscar Wilde. Năm 1854, khi rửa tội cho con trai thứ hai nhà Wilde, Đức cha Prideaux Fox không hề biết rằng cậu bé này rồi sẽ là “thiên tài bất thường” của Ireland. Về sau, Oscar Wilde đã trở thành một trong những nhân vật đặc biệt nổi bật của giới văn chương, người luôn ở giữa tôn vinh và hạ nhục, giữa cái đẹp và sự tăm tối, giữa sa hoa và khốn cùng. Không nhiều người có thể trả lời câu hỏi: " Oscar là ai?" Quang Thạch | 01/03/2016 10:07 7 Theo một video phỏng vấn ngay trước thềm Oscar 2016, các diễn viên tới dự giải Oscar cũng không thể trả lời câ...
(ĐC sưu tầm trên NET) Thời sự quốc tế sáng 10/5/2018 TIN TỨC VIỆT NAM MỚI NHẤT TRONG NGÀY 10/5/2018 60 Giây Chiều - Ngày 09/05/2018 - Tin Tức Mới Nhất An ninh ngày mới ngày 09.05.2018 - Tin tức cập nhật TRỰC TIẾP THỜI SỰ BIỂN ĐÔNG 10/05 Cận cảnh Tàu Việt Nam trong diễn tập Komodo 2018 Hai Chị Em - Trung Hậu và Thuỵ Vân Hội nghị Trung ương 7: Sẽ có quyết sách dẹp vấn nạn "cả họ làm quan" (TTXVN/Vietnam+) 09/05/2018 21:06 GMT+7 Bản in Đại biểu dự hội nghị. (Ảnh: Phương Hoa/TTXVN) Hội nghị lần thứ 7, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII, diễn ra từ ngày 7-12/5, tập trung thảo luận, cho ý kiến về các nội dung: xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; cải cách chính sách tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang và người lao động trong các doanh nghiệp; cải cách chính sách bảo hiểm xã hội; và một ...
(ĐC sưu tầm trên NET) Giang hồ Sài Gòn trước 1975: Trùm du đãng Mã Thầu Dậu Mã Thầu Dậu nhận tất cả đơn đặt hàng giải quyết ân oán trong đời thường và trong làm ăn. "Tiền nào của ấy" nên mỗi dịch vụ đều có mức giá khác nhau. Trùm du đãng một vùng rộng lớn không hành xử như đám du đãng cắc ké. Chợ Lớn có trùm du đãng ba Tàu Mã Thầu Dậu (Con ngựa đầu gà) nổi tiếng với vai trò đâm thuê chém mướn. Trùm bảo kê Mã Thầu Dậu xuất thân từ một đứa bé con nhà người Hoa gốc Quảng Đông nghèo. Tuổi thơ Mã Thầu Dậu trải qua nhiều cơ cực, từ bửa củi thuê, bưng cà phê, bưng hủ tiếu đến cả rửa chén bát thuê. Mã Thầu Dậu khởi nghiệp trùm du đãng khét tiếng trên hè phố La Kai (đường Nguyễn Tri Phương, quận 5 ngày nay). Hắn nổi danh nhờ những vụ trừ khử đám du thủ du thực cho các chủ tiệm buôn giàu có người Hoa và dần đi theo con đường đâm thuê chém mướn chuyên nghiệp. Khu vực chợ Lớn xưa Băng du đãng Mã Thầu Dậu h...
Nhận xét
Đăng nhận xét