Thứ Hai, 9 tháng 6, 2014
BÀI VIẾT HAY 72
Đọc văn anh, thích lắm
Tấm lòng sùng tín quê hương!...
Thôi anh ạ, thiền trong đằm thắm
Chấp chi giữa cõi vô thường!
(ĐC chép từ http://chimviet.free.fr)
Thương nhớ
Bình-Định
"hồn thiêng nguyên khí
đất Tây-Sơn" *****
Tượng Hoàng-đế Quang-Trung
ở Tây-Sơn
- Hôm nay cũng là quá khứ và chúng ta cố giành giựt với thời gian để biến ngày hôm nay thành một hiện tại vô tận. Quy-Nhơn có những tháp Chàm đứng một mình lặng lẽ nghìn năm "mưa vẫn mưa bay trên tầng tháp cổ". Cái giấc mộng dài nó buộc con người không được quên và phải nhớ về những dấu tích đã in thành vết không tàn phai trên tâm hồn mỗi con người.
Cụm tháp Dương-Long (tháp Ngà) ở Tây-Sơn
Đây là một chứng
từ ý nghĩa, nói về nguồn gốc lịch sử ra đời về trường
hợp bài hát nổi tiếng "Diễm Xưa" của tác giả
chính là do sự xúc cảnh sinh tình trước toàn cảnh bức tranh
đan kết hòa quyện giữa màu sắc thảo mộc, núi sông, bể
cả, đất đai, đền tháp…Hay nói cách khác, là sự kết
hợp hài hoà giữa thiên nhiên và thân phận con người dưới
bầu không gian sinh tồn trên dải đất địa phương Quy-Nhơn,
Bình-Định. Thủy chung, nó đã có tạo ra được một cái
gì gắn bó sâu đậm trong mối tương quan liên hệ tâm hồn
với mỗi con người, và cùng nhau nhắc nhở về tình tự quê
hương không thể tách rời. Do vậy, nếu tình khúc trứ danh
ngày xa xưa đó đã có được một thời từng là dấu ấn
sâu đậm vào lòng người, thì người ta phải hiểu rằng
phong thủy nước non Bình-Định nó đã vô tình toát ra ngoài
được cái phần hồn do nhờ vào yếu tố linh thiêng của
nguyên nhân đặc biệt, chứ không phải ngẫu nhiên mà có
thể có được.
Non
nước hồn thiêng Hầm-Hô ở Tây-Sơn
Cách đây hằng
thế kỷ, người ta thường hay nhắc tới địa phương nầy
như là một vùng đất nổi tiếng về môn võ thuật dân gian
với câu ca dao: "Ai về Bình-Định mà coi.Đàn bà con gái
múa roi đi quyền’. Chính vì vậy mà nhiều người cả
đời chưa hề đặt gót chân đến Bình-Định bao giờ nhưng
khi hễ mỗi khi nghe nói đến địa danh nầy, thì trong đầu
họ thường có ý nghĩ thoáng ra ngay về vùng đất Tây-Sơn.
Nơi, khi xưa từng là một thao trường huấn luyện võ thuật
cho hàng vạn chiến binh tinh nhuệ, để dấy lên một cuộc
cách mạng động binh phất cờ khởi nghĩa thu phục nhân tâm
về cùng một mối và thống nhất san hà sau hơn 100 năm
chia cắt. Và cũng như, tạo nên được chiến công lẫy lừng
đại phá quân xâm lăng nhà Thanh, tiêu diệt đạo quân quấy
nhiễu Xiêm-La, lập thành đầy những trang sử vẻ vang anh
dũng, kiêu hùng, soi sáng ngàn đời cho hậu thế dân tộc nước
nhà.
Và ngày nay, ảnh hưởng về mặt tinh thần của cái nôi võ thuật Tây-Sơn tại đây cũng vẫn hãy còn được lưu truyền như là một hình thức sinh hoạt văn hóa thể thao cổ truyền làng xã ở địa phương. Ngoài ra, trong chương trình huấn luyện ở tại nhiều võ đường trong các thành phố lớn trong nước cũng có tổ chức thường xuyên mở ra những khóa đặc biệt, để truyền thụ cho môn sinh về võ thuật cổ truyền Bình-Định. Đặc biệt, là về tinh hoa của các bài bản tập dượt nổi tiếng như "Độc phủ", "Song đao", "Chấn thiên cung", "Trường kích", "Thập bát ban binh khí" giờ đây đã được các võ sư của nhiều hệ phái võ Tây-Sơn tận tình nghiên cứu, bảo tồn chiêu thức trước nguy cơ có thể sẽ bị thất truyền. Trong năm 2013 vừa qua, môn võ thuật cổ truyền Bình-Định đã được công nhận là di sản văn hóa phi vât thể quốc gia.
Võ công Bình-Định trình diễn quyết đấu
Sẵn sàng tự vệ
Tuy nhiên, bên cạnh
truyền thống tinh thần hiếu võ thấm sâu trong máu thịt thì
người dân Bình-Định lại cũng rất sùng văn, sính thơ. Và
ảnh hưởng hồn thơ của những thi nhân từng vang bóng một
thời cận đại như Xuân-Diệu, Chế-Lan-Viên, Hàn-Mạc-Tử,
Quách-Tấn, Yến-Lan v.v trên các diễn đàn thơ ca ngày trước,
hiện vẫn còn được người dân luôn nhắc nhở, lưu niệm
về những hình ảnh chứng tích sinh hoạt dưới thời cực
thịnh nơi chốn văn đàn tao nhã xảy ra ở tại địa phương.
Lại ngược dòng thời gian dưới triều vua Tự-Đức, thì
Bình-Định cũng có một thời được coi như là trung tâm văn
hóa với tổ chức thi hương đào tào nhân tài cho triều đình
nhà Nguyễn. Nói cách khác, Bình-Định
là một trong những địa phương đã từng sản sinh ra khá
nhiều về hình thức hát tuồng, bài chòi, ca dao, hò vè phồn
thực làm phong phú thêm vào cho nghệ thuật sáng tạo văn chương
dân dã của nước nhà. Và cũng chính nhờ vào ngọn lửa văn
nghệ di truyền không bao giờ tắt đó, mà nó đã tạo dịp
làm cho hâm nóng lại trong bầu nhiệt huyết sùng văn sính
thơ của hàng thế hệ hậu sinh trên dải đất nầy, để
họ tiếp tục nuôi dưỡng tinh thần sáng tạo thể hiện ra
bằng nhiều phương cách nói lên tình yêu quê hương một cách
tha thiết chân thành.
Hơn thế nữa, nếu nói sang qua về lĩnh vực sân khấu cổ nhạc thì ông tổ của kịch nghệ hát bội là nhà soạn tuồng kiệt xuất, danh nhân văn hóa Đào-Tấn, tên thật là Đào-Đăng-Tấn (1845-1907) ở Bình-Định miền Trung quả là một bậc kỳ tài, được liệt vào hàng đầu trong ba danh nhân nghệ sĩ sân khấu đặc biệt của nước Việt-Nam từ xưa cho tới nay. Và cũng như mọi người đều biết, thì dưới thời nhà Đinh ở nước ta cũng đã có nữ nghệ sĩ Phạm-Thị-Trân (926-976), hiệu là Huyền-Nữ sinh ở Hồng-Châu (thuộc vùng địa lý của tỉnh Hải-Dương ngày nay). Bà chính là bà tổ của nghệ thuật sân khấu hát chèo, mà hằng bao thế kỷ qua từng được phổ biến rộng rãi tại miền Bắc. Còn nhạc sĩ Cao-Văn-Lầu (1892-1976), tục danh Sáu Lầu sinh ở Long-An miền Nam. Ông là tác giả khai sinh ra bài "Dạ-Cổ Hoài-Lang" về sau phát triển ra thành bài ca "Vọng-Cổ" thật là nổi tiếng, và được phổ biến rất là cực thịnh hành trên cả vùng trời ở đất phương Nam.
Trở lại trường hợp của nhà soạn tuồng, danh nhân văn hóa Đào-Tấn, tự là Chỉ-Thúc, hiệu là Tô-Giang và Mộng-Mai, biệt hiệu là Mai-Tăng, hoặc Mai-Tăng Tiểu-Linh-Phong. Ông là nhà trí thức thanh liêm từng được vua nhà Nguyễn ban cho giữ chức vụ Tổng-Đốc An-Tĩnh (Nghệ -An – Hà-Tĩnh). Trong quá trình cống hiến rất nhiều cho sự nghiệp viết tuồng giá trị xuất sắc của ông còn để lại cho đến bây giờ, thì có ba vở tưồng diễn đặc biệt rất được nhiều khán thính giả thường xuyên nhắc nhở. Đó là tuồng Tam-Nữ Đồ-Vương, Đào-Phi-Phụng và Sơn-Hậu. Và với tài nghệ văn chương uyên bác, giàu tính ước lệ không kém phần nghiêm túc trong ý lẫn lời làm cho giá trị của bất cứ tuồng hát nào của ông cũng đều được người đời đánh giá cho là có chất lượng cao trong mọi góc cạnh của vấn đề. Tuy nhiên, Đào-Tấn cũng còn là một nhà thơ yêu nước luôn luôn trăn trở trước họa xâm lăng nước nhà. Và một trong những chứng tích của các bài thơ dưới đây, đã nói lên được sự chân thành trong tấm lòng thiết tha gởi gấm của ông:
Ức Phan-San
(Phan-Bội-Châu)
Tích niên thu chiến đoạt nguy khoa
Kim nhật tha hương khổ nhược hà?
Đãn nguyện nhân dân như thử sĩ
Bất sầu định quốc dữ an gía
………………………….
Nhớ Phan-San (Phan-Bội-Châu)
Năm ấy thi hương chiếm bảng cao
Giờ đây đất khách cực ra sao?
Ước chi ai cũng như người vậy
Nước thịnh nhà yên chẳng khổ sầu
Ngoài ra, trong quá
trình sự nghiệp soạn tuồng, danh nhân văn hóa Đào-Tấn ông
cũng còn có để lại một câu nói bất hủ dành lại cho đời
là "Sống ở đời mà thấy chuyện ngang trái không trị,
thì còn mặt mũi nào dạy dỗ thiên hạ trong tuồng’.
Sau khi qua đời, ông được cả triều đình và người dân
bản địa vô cùng thương tiếc và đã xây mộ phần cho ông
thật khang trang, ấm cúng ở tại huyện Tuy-Phước bây giờ.
Ngày nay kể từ năm 1989, sau khi tỉnh Bình-Định được tái lập lại sau một thời kỳ hợp nhất với tỉnh Quảng-Ngãi để trở thành tỉnh Nghĩa-Bình, thì cho đến năm 2004 tổ chức về hành chánh trên địa bàn của tỉnh Bình-Định đã được tái cấu trúc chia ra gồm có một thành phố Quy-Nhơn, một thị xã An-Nhơn. Và 9 huyện là: Tây-Sơn, Phù-Cát, Phù-Mỹ, Hoài-Ân, Hoài-Nhơn, Tuy-Phước, Vân-Canh, Vĩnh-Thạnh và An-Lão. Cùng với, tổng số dân là 1.497.300 đầu người theo thống kê vào năm 2011. Và trải qua bao thời kỳ bị đổi thayvề hoàn cảnh lịch sử địa lý, xã hội, thì bây giờ địa phương nầy là nơi cộng cư còn lại của bốn sắc dân chính là Việt, Chăm, Ba-Na và Hrê cùng sống chung nhau trong một diện tích dải đất 6.050,6km² với mật độ là 247 người/km². Ngoài ra, với ưu thế chiều dài của bờ biển là 134km cùng với những vịnh, vũng, mỏm đá, đảo, nhiều bãi biển thiên nhiên hoang sơ. Ngày nay, Bình-Định không những là một địểm hẹn dừng chân lý tưởng dành cho du khách, mà nó còn được coi như là một trong những cửa ngõ hàng hải có điều kiện dễ dàng để phát triển giao thông lên tận Tây-Nguyên và miền Nam của nước Lào.
Cảng Quy-Nhơn
Còn về cảnh quan
ven biển ngay cạnh thành phố Quy-Nhơn, thì khu du lịch Ghềnh-Ráng
và đầm Thị-Nại là hai thắng cảnh xinh đẹp nhất và có
tính cách lịch sử đã được người dân ở tại địa phương
thường hay quen thuộc để giới thiệu cùng du khách. Ghềnh-Ráng
(hay Gành-Ráng) là một nơi thắng cảnh thiên nhiên gồm có
nhiều hòn đá chập chùng nằm chồng chất lên nhau ven theo
bờ biển bị sóng vỗ lâu ngày tạo thành rạn, thành hang,
thành gành suốt tháng quanh năm dạn dày phong trần cùng sương
gió. Và quần thể sơn thạch nầy từ hàng thế kỷ qua cũng
đã từng bị nước thấm bào mòn tạo thành từng hình thể
nhẵn nhụi, độc đáo nhất là có những hòn đá cuội, hơi
tròn giống như hình thù của trứng chim gom lại thành đống
từ dưới nước cho tới trên bờ cho nên được dân gian gọi
là bãi Trứng. Dưới thời vua Bảo-Đại, hoàng hậu Nam-Phương
mỗi khi đi nghỉ mát ở Quy-Nhơn thì thường xuống tắm biển
ở khu vực biển xinh đẹp nầy, do vậy mà ngày nay bãi Trứng
cũng còn được người dân sở tại gọi tên là bãi tắm
Hoàng-Hậu.
Bãi tắm Hoàng-Hậu
Từ điểm cao Ghềng-Ráng
người ta nhìn thấy rõ thành phố Quy-Nhơn, đầm Thị-Nại,
bán đảo Phương-Mai, và cù lao Xanh cùng với các dãy núi xanh
màu xa tận chân trời. Nơi đây, có mộ nhà thơ Hàn-Mạc-Tử,
trại phong Quy-Hòa, và kề bên còn có thêm những hòn đá do
thiên nhiên tạo dáng rất ấn tượng, cho nên được người
dân gọi bằng với những cái tên thơ mộng như là Vọng-Phu,
đầu Voi, Sư-Tử, hòn Chồng, hòn Vợ, cùng với bãi cát trắng
chạy dài theo ven biển sóng vỗ xạc xào trong bầu không khí
yên lặng hữu tình.
Toàn cảnh thành phố Quy-Nhơn
Bãi biển Quy-Nhơn ngày nay
Riêng về trường
hợp của đầm Thị-Nại ngày nay sở dĩ được nghiễm nhiên
trở thành thắng cảnh đẹp tân kỳ của thành phố Quy-Nhơn,
là do nhờ có hình ảnh hiện đại của cây cầu Thị-Nại.
Cầu Thị-Nại là một cây cầu vượt biển dài nhất ở VN
có chiều dài 2.477,3m, gồm có 54 nhịp nối liền giữa thành
phố Quy-Nhơn với khu kinh tế Nhơn-Hội ở bán đảo Phương-Mai,
và đã được khánh thành đưa vào hoạt động kể từ năm
2006. Trên chiều dài toàn tuyến gần 7km đó, còn có thêm cả
5 cây cầu nhỏ bắc qua sông Hà-Thanh tạo thành một dáng đứng
nên thơ, xinh đẹp giữa không gian thiên nhiên bao la trời nước,
làm tăng thêm sức hút lạ kỳ cho biết bao nhiêu thành phần
du khách một khi đã đặt gót chân vào ghé thăm thành phố
Quy-Nhơn
Cầu Thị-Nại
với 54 nhịp cầu
Ngoài ra, người
ta cũng còn cần phải được biết Bình-Định là một dải
đất có nhiều tháp, cụm tháp Chàm nằm rải rác ở trong
tám địa điểm khác nhau trên địa bàn của tỉnh. Riêng Quy-Nhơn
thì có tháp Đôi nằm ngay cửa ngõ đi vào thành phố là một
thắng cảnh đặc biệt vì lối kiến trúc hơi khác lạ với
các ngôi tháp Chàm khác. Tháp Đôi có chiều dài lịch sử
kiến trúc từ niên đại tiền bán thế kỷ XII, là một công
trình di sản văn hóa nghệ thuật mang đậm nét Chămpa. Tuy
hình thể của nó không được coi như có tầm cỡ nhưng công
phu mài dũa, chạm khắc tạo hình trên những bức phù điêu
thì không kém phần sinh động, mỹ quan vì nó đã diễn tả
ra được rất nhiều về mặt văn hóa hồn thiêng tín ngưỡng
tâm linh. Giờ đây, ngôi tháp Đôi nầy đã góp phần không
nhỏ làm tô điểm thêm cho nét đẹp của thành phố biển
Quy-Nhơn nầy.
Tháp đôi ở Quy-Nhơn
Ngoài ra, những
tháp khác như là cụm tháp Dương-Long, tháp Bánh Ít, tháp Phú-Lốc
v.v tuy có vị trí nằm ở mỗi nơi cách xa nhau và có dáng
vẻ riêng, nhưng tất cả cũng đều là những công trình văn
minh di tích cổ có nhiều nét đẹp chung mang tính đặc trưng
của các vương triều Chămpa. Tháp Phú-Lốc ở huyện Phù-Cát
trong quá trình nghiên cứu được các nhà khảo cổ người
Pháp gọi tên là Tour d’Or (tháp Vàng). Tháp Bánh Ít nằm trong
vùng địa lý của huyện Tuy-Phước, và ngày xưa được các
nhà khảo cổ người Pháp gọi là Tour d’Argent (tháp Bạc),
còn người địa phương bây giờ thì gọi bằng những tên
khác nhau như là tháp Bà-Gi, hay Thổ-Sơn hoặc Thiện-Mẫu,
Tri-Thiện. Đặc biệt là cụm di tích tháp Dương-Long nằm
trong phạm vi của huyện Tây-Sơn, thì cũng được các nhà
khảo cổ người Pháp gọi là Tour d’Ivoire (tháp Ngà). Và
nếu tháp Bánh Ít từng được coi như là đền tháp lớn nhất,
thì tháp Dương-Long cũng được coi như là cao nhất (24m) trong
các tháp còn lại của các vương triều Chămpa.
Tháp Phú-Lốc (tháp Vàng)
Tháp Bánh Ít (tháp Bạc)
Tuy nhiên, đối
với những thành phần khách du lịch nào thích phiêu lưu khám
phá về lịch sử văn hóa Chăm ở Bình-Định, thì tháp Cánh-Tiên
được các nhà khảo cổ người Pháp gọi là Tour de Cuvre (tháp
Đồng) mới chính lại là một địa điểm lịch sử không
thể không đến để tham quan cho bằng được. Và theo công
trình nghiên cứu của nhà khảo cổ Henri-Parmentier (1871-1949)
người Pháp, thì tháp nầy nằm ở ngay trong trung tâm của
kinh đô Đồ-Bàn ngày trước.
Tháp Cánh Tiên (tháp Đồng)
Đồ-Bàn (Vijaya)
là kinh đô cuối cùng của vương quốc Chămpa được xây cất
từ năm 982 và được tồn tại cho đến thế kỷ thứ 15 với
lối kiến trúc thật kiên cố bằng những tảng đá ong. Theo
địa lý hành chánh bây giờ, thì nó có vị địa thế toạ
lạc trong huyện An-Nhơn cách Quy-Nhơn 27km về hướng Bắc.
Ngày nay, hầu hết những du khách nào từng đã đến đây
chứng kiến khung cảnh điêu tàn, thì cũng đều không sao có
thể tránh khỏi được niềm xúc động ở trong lòng khi nhìn
thấy ngôi tháp Cánh Tiên uy nghi giữa những gò sỏi đá, lác
đác đó đây có những cây cổ thụ đứng im lìm như cùng
chung thả hồn trầm mặc suy tư tiếc nhớ hình bóng một thời
vàng son dĩ vãng, cùng với những bụi gai xương rồng đượm
nét u buồn ven bờ ao nước đọng. Định mệnh của kinh thành
Đồ-Bàn thật là cay nghiệt, vì nó đã từng phải hứng chịu
trải qua nhiều thời kỳ chiến tranh với các nước lân bang
kéo quân đến đánh phá như Xiêm-La, Nguyên, Mông, Chân-Lạp
và người Khmer cũng từng cai trị kinh đô Vijaya. Tuy nhiên,
cuối cùng dưới triều vua Lê-Thánh-Tông thì thành Đồ-Bàn
lại bị rơi hẳn vào tay của Đại-Việt đúng vào năm 1471,
chấm dứt sự tồn tại sau năm thế kỷ mà nơi đây được
chọn làm kinh đô của nước Chiêm-Thành. Từ đó, Đồ-Bàn
được đổi thành tên mới là Hoài-Nhơn.
Đến thời kỳ Tây-Sơn, sau khi cuộc khởi nghĩa cách mạng thành công thì cũng đã chọn Đồ-Bàn làm kinh đô của chính quyền trung ương. Tuy nhiên, sau đó vua Thái-Đức (Nguyễn-Nhạc) ban lệnh cho xây cất mở rộng cung điện, thành lũy và đổi lại tên là thành Hoàng-Đế và đặt đại bản doanh chỉ huy quân sự Tây-Sơn tại đây. Ngược dòng thời gian, khi còn trong giai đoạn khởi nghĩa thì Đồ-Bàn cũng lại là điểm xuất quân Nam tiến của đoàn quân Tây-Sơn đánh đại bại liên quân Xiêm-La – Nguyễn-Ánh, và Bắc tiến lật đổ chế độ chúa Trịnh, đánh tan quân nhà Thanh, lập lại nền thống nhất quốc gia.
Bên trong thành Đồ-Bàn
Tượng Voi ở kinh thành Đồ-Bàn
Sau khi Nguyễn-Nhạc
mất thì thành Hoàng-Đế đổi tên lại là thành Quy-Nhơn,
và đến thời kỳ Gia-Long thì lại đổi tên nữa là thành
Bình-Định. Bây giờ tại đây chỉ còn sót lại có 2 hình
tượng voi, 5 con nghê đá là những di tích quý báu của nghệ
thuật điêu khắc Chăm.
Hồ bán nguyệt trong thành Hoàng-Đế
Và hồ bán nguyệt,
bức tường cổ rêu phong cùng với đền thờ của hai nhân
vật trung thành với Nguyễn-Ánh là Võ-Tánh, Ngô-Tùng-Châu,
chùa Thập-Tháp xây cất từ năm 1665.
Chùa Thập-Tháp trong thành Đồ-Bàn
Ngoài ra, Bình Định
còn có di tích thành Thị-Nại (Sri-Banoy) tọa lạc bên bờ
đầm Thị-Nại vốn là tiền đồn án ngự của kinh thành
Đồ-Bàn ngày trước, và đầm Thị-Nại là cửa ngõ chiến
lược quân sự để quyết định mọi số phận của kinh thành
Đồ-Bàn. Ngày xưa đầm Thị-Nại từng là một bãi chiến
trường đẫm máu, xảy ra nhiều trận thủy chiến ác liệt
giữa Tây-Sơn và Nguyễn-Ánh với sự trợ giúp của người
Pháp. Cách đây không bao lâu, vào năm 2008 trong quá trình khai
thác thủy sản trên đầm Thị-Nại, người dân địa phương
đã vô tình tìm thấy được một khẩu súng thần công nặng
500kg, có bánh xe di chuyển được các nhà nghiên cứu lịch
sử đánh giá cho là có khả năng thuộc về của quân Nguyễn-Ánh.
Hiện tại, trong Bảo-Tàng Tổng-Hợp Bình-Định đã có tất
cả là 3 khẩu thần công được phát hiện dưới đầm Thị-Nại.
Về các nhân vật anh hùng nghiệp võ ở Bình-Định kể ra rất nhiều nhưng hình như người địa phương (nhất là phái nữ), ai nấy cũng thường tự hào về trường hợp đặc biệt của nữ tướng Bùi-Thị-Xuân. Bà là một người đẹp sinh ra ở ngay tại đất Tây-Sơn, lớn lên theo học võ thuật và đạt tới trình độ cao cường về tài múa kiếm, bắn cung, cỡi ngựa, tập luyện voi chiến thuần phục. Là công thần, tướng giỏi của triều Nguyễn Tây-Sơn, bà đã từng lập được rất nhiều chiến công hiển hách là đánh tơi bời đạo quân của Nguyễn-Ánh trên trận mạc. Ngày nay, tuy các sử gia đã có những công trình sưu khảo về hình ảnh bi thảm nhưng oai hùng, bất khuất trong phút cuối cùng của cuộc đời bà khi sa cơ thất thế bị hành hình bằng với những cái nhìn theo mỗi góc cạnh thán phục khác nhau. Nhưng thái độ hiên ngang, khí khái của bà khi ngẩng cao đầu trước mặt Nguyễn-Ánh (Gia-Long) mà bà cho là một kẻ đi cầu viện ngoại bang hết Xiêm đến Tây về làm tan nát sơn hà, thì đã được dân gian đồng kính phục và truyền tụng mãi cho đến bây giờ:
Vận nước đang xoay chuyển
Quần thoa cũng vẫy vùng
Liều thân lo cứu chúa
Công trận quyết thay chồng.
Khảng khái khi lâm nạn!
Kiên trinh lúc khốn cùng
Ngàn thu gương nữ liệt
Gương sáng hãy soi chung
Còn danh nhân Tăng-Bạt-Hổ, tên thật là Tăng-Doãn-Văn (1858-1906), tự là Sư-Triệu, hiệu là Điền-Bát, và huyện Hoài-Ân ngày nay chính là quê hương của ông. Là một nhà chí sĩ tiêu biểu nhiệt tình cho lòng yêu nước, ông hưởng ứng phong trào Cần-Vương của vua Hàm-Nghi lập chiến khu ngay tại quê nhà nổi lên chống Pháp. Sau khi thất bại trước thế mạnh của kẻ địch, ông lưu vong sang qua các quốc gia như Lào, Xiêm, Trung-Quốc, Nga và cuối cùng ông đến Nhật-Bản để xin cầu viện. Năm 1905, ông trở về nước bắt dầu dấn thân tích cực họp cùng với các sĩ phu vận động động quảng bá phong trào Đông-Du của cụ Phan-Bội-Châu cho đến khi lâm trọng bệnh qua đời, và lăng mộ của ông được xây cất trong ngay trong khu nhà thờ của cụ Phan-Bội-Châu tại Huế. Tuy nhiên, vào ngày 18-8-2013 vừa qua thì tộc Tăng cùng chính quyền ở Hoài-Ân đã có làm lễ mang một phần đất từ ngôi mộ (Tăng-Bạt-Hổ) ở tại Huế để rước về chôn cất ở trong ngôi mộ phiên bản trong khuôn viên đền thờ ông tại Hoài-Ân, Bình-Định.
Ngoài ra, ở ngay tại cục đất Tây-Sơn ngày trước cũng có một nhà chí sĩ thanh niên văn hay võ giỏi đó là ông Mai-Xuân-Thưởng (1860-1887) tên thật là Mai-Văn-Siêu. Ông từng là phụ tá cho Tổng-Đốc Đào-Doãn-Địch hưởng ứng phong trào Cần-Vương đứng lên chiêu mộ nghĩa sĩ phất cờ chống giặc xâm lăng tàn bạo Pháp vào cuối thế kỷ 19 ở tại Bình-Định. Ảnh hưỏng truyền hịch của nhà Vua lúc bấy giờ đã lan rộng được hàng ngàn từng lớp dân gian hưởng ứng dưói cờ, và thắng lợi nhiều phen trên trận địa cũng như loại trừ được những bọn Việt-gian bán nước cam tâm làm tay sai cho giặc. Sau khi được chủ tướng Đào-Doãn-Địch phong chức cho làm Nguyên-soái, ông liền cho làm lễ tế cờ và truyền lệnh xuất quân tấn công trong khí thế lẫy lừng chiến thắng rất nhiều đồn bót của bọn Việt-gian theo giặc. Tuy nhiên, sau cùng vì có sự tiếp viện của lính Pháp có nhiều vũ khí tối tân hơn cho nên ông sa cơ rơi vào tay giặc, và cùng các đồng đội bị chúng bắt đem ra xử trảm. Trước khi bị hành quyết ở pháp trường, ông khẳng khái ngâm vang lên một bài thơ để lại cho đời có ý nhĩa thật là hào hùng, tráng lệ.
Không tính
làm chi việc mất còn
Nợ trai lo trả ấy là khôn.
Gió đưa hồn nghĩa, gươm ba thước
Đá tạc lòng trung núi mấy hơn
Tái ngắt mặt gan sương tệ giá
Đỏ lòe bìa sách máu là son
Rồi đây thoi ngọc đưa xuân tới
Một nhánh mai già trổ nụ non.
Lăng mộ của ông
hiện nay đã được cải táng đem về tại thôn Hòa-Sơn, xã
Bình-Tường, huyện Tây-Sơn. Tây-Sơn là một huyện thuộc
về miền trung du của tỉnh Bình-Định có vị trí đường
thủy trên sông Côn, và nằm trên quốc lộ 19 là tuyến giao
thông huyết mạch nối liền giữa hai thành phố duyên hải
Quy-Nhơn và thành phố cao nguyên Gia-Lai. Không gian của mảnh
đất Tây-Sơn tuy nhỏ, nhưng nó đã chứa đầy hình ảnh của
nhiều chứng tích lịch sử quá khứ kiêu hùng của dân tộc.
Đặc biệt là địa thế nơi cảnh trí hùng vĩ ở Hầm-Hô,
nó từng tỏa ra được nét hào khí hồn thiêng của một vùng
đất sản sinh ra nhiều vị anh hùng dân tộc.
Hầm-Hô kỳ ảo
Non nước Hầm-Hô
nằm ở trong huyện Tây-Sơn có thể được người ta ví như
là hình ảnh của một chiến khu Lam-Sơn (Thanh-Hóa) dưới thời
Lê-Lợi khởi nghĩa, do nhờ có vị trí địa hình thiên nhiên
hiểm trở rất thuận tiện đặc biệt dùng để làm mật
khu huấn luyện nghĩa quân nổi lên chống lại giặc xâm lăng.
Và cho dù thời gian đã trải dài qua bao hằng trăm năm nhưng
Hầm-Hô ngày nay cũng vẫn hãy còn giữ lại được những
nét đẹp của thiên nhiên nguyên sơ kỳ ảo, nên thơ, hùng
vĩ. Một Bùi-Thị-Xuân, Trần-Quang-Diệu, Võ-Văn-Dũng dưới
thời Tây-Sơn. Một Mai-Xuân-Thưởng và các tổ chức phong
trào yêu nước dưới thời chiến tranh chống giặc đế quốc
phương Tây đi tìm thuộc địa chẳng từng đã dùng cứ địa
an toàn nầy để xây dựng cơ sở quân sự rèn cán chỉnh
quân dùng vào đại cuộc. Giờ đây, non nước thái bình thì
Hầm-Hô lại trở thành một thắng cảnh thiên nhiên đẹp
tuyệt vời, và từ lâu đã từng thu hút được hàng vạn
du khách tìm đến tham quan.
Thắng cảnh tuyệt đẹp Hầm-Hô
Giữa núi rừng
bao la, Hầm-Hô là nơi gặp gỡ của hai nhánh sông Đồng-Hưu
và sông Cát chạy vào sông Phú-Phong. Tại khúc sông nầy nước
chảy trong xanh, cá lội từng đàn, đá dựng tua tủa thành
vách tạo hình dáng kỳ dị khác nhau, lại có thác nước cao
đổ xuống hầm đá rộng phát ra thành tiếng kêu ầm ầm
liên tục không ngừng. Trên hai bên bờ thì cây cối tàn lá
xanh um chen đầy hoa dại, và du khách bốn phương trầm mình
dưới nước thả hồn ngắm nhìn cảnh vật sẽ có cảm tưởng
rằng như là mình đang nhìn vào một bức tranh nghệ thuật
công phu hoàn mỹ, với đầy cảm nhận thú vị trào dâng ở
trong lòng.
Tuy nhiên, không gian trong Viện Bảo-Tàng Quang-Trung ở ngay tại Tây-Sơn mới chính lại là một hình ảnh vô cùng đặc biệt, để cho hầu hết tất cả mọi người dân ta đều phải cùng nhau thành tâm cúi đầu xúc động bồi hồi trước bao nhiêu chứng tích kỷ vật của triều đại Tây-Sơn kiêu hùng còn lưu lại. Và cho dù suốt thời kỳ Gia-Long đã tìm đủ mọi cách để mong xóa sạch những dấu ấn chói rạng uy danh của Tây-Sơn, nhất là vết tích của vị anh hùng tướng quân Nguyễn-Huệ. Nhưng sau 143 năm triều nhà Nguyễn tàn lụi, thì người dân địa phương lại cũng tìm bằng đủ mọi phương cách, để làm sống lại hình ảnh oai phong lẫm liệt của vua Quang-Trung, và cũng để trả lại mọi sự công bằng về cho lịch sử nước nhà. Do vậy, vào ngày 16-01-2006 thì người dân Bình-Định cùng với chính quyền địa phương đã hợp sức khánh thành bức tượng vua Quang-Trung mới ở trước viện Bảo-Tàng trong tư thế khoan thai, đĩnh đạc hơn với đôi mắt sáng rực thần hồn, tay cầm đốc kiếm, tay đưa về phía trước với động thái nghiêm nghị như đang đứng truyền hịch giữa hàng ba quân tướng sĩ, và thốt lên những lời hiệu triệu quốc dân đồng bào.
Bảo-Tàng Quang-Trung ở Tây-Sơn
Viện Bảo-Tàng
Quang-Trung được xây cất vào năm 1977, tọa lạc trên căn
nhà cũ của ba anh em Nguyễn-Nhạc, Nguyễn-Huệ và Nguyễn-Lữ
ở tại huyện Tây-Sơn bên cạnh dòng sông Côn chảy ngang qua.
Tuy nhiên, tiền thân của nó thì đã có từ hơn 200 năm qua.
Sau khi nhà Tây-Sơn sụp đổ, thì người dân làng Kiên-Mỹ
luôn luôn lúc nào cũng thương tiếc vua Quang-Trung cho nên âm
thầm xây lên một ngôi đình mang tên là đình Kiên-Mỹ tọa
lạc ngay trên mái nhà xưa, vườn cũ của gia đình Tây-Sơn
tam kiệt. Và hằng năm lúc nào họ cũng đều có làm lễ che
mắt triều đình nhà Nguyễn Gia-Long bằng hai buổi tổ chức
mang tên là "cúng cơm mới" trùng vào ngày vua Quang-Trung
đăng quang trên núi Bân, và kỷ niệm chiến trận đại thắng
Đống-Đa quét sạch quân xâm lăng ra khỏi nước nhà.
Ngày nay, mỗi khi du khách vừa bước chân đến viếng thăm cảnh trí phía ngoài không gian của bên trong viện Bảo-Tàng thì thường hay cảm thấy lòng mình bị xúc động bồi hồi, vì khi đứng trên mảnh đất thiêng mà không còn thấy bóng dáng của những vị anh hùng dân tộc thuở xa xưa. Tuy nhiên, trong một giây phút linh thiêng bất chợt thoáng qua nào đó, thì hình như hầu hết tất cả mọi người cũng đều có thể cùng nhau nghe được có tiếng vó ngựa hí vang, tung bụi ngập trời của đoàn quân mãnh hổ Tây-Sơn rộn ràng hòa lẫn trong hồi trống trận giục giã xuất quân xông ra chiến địa. Lúc đó, tâm hồn của họ mới có dịp để sâu lắng vào cái hồn, cái uy nghi của các vị tướng quân còn phảng phất ở nơi nầy. Và giờ đây, di tích giếng nước từ thuở mấy trăm năm về trước, và cây me cổ thụ dạn dày phong vũ với thời gian bây giờ cũng đã hãy còn sót lại trên mảnh đất nhà xưa, vườn cũ của gia đình tam kiệt. Hình ảnh đó chính là những kỷ niệm đẹp đẽ dưới thời thơ ấu của ba anh em Nhạc-Huệ-Lữ nhà Nguyễn Tây-Sơn, trước khi đĩnh đạc thành nhân với sự nghiệp cuộc đời ngang dọc hiên ngang thời thế tạo anh hùng.
Cây me cổ thụ hơn 250 năm
gắn liền thời thơ ấu của Tây-Sơn tam kiệt
Di tích giếng nước xưa
của gia đình Tây-Sơn tam kiệt
Còn bên trong điện
thờ Tây-Sơn tam kiệt, thì ngoài tượng thờ ba vị anh hùng
Nguyễn-Nhạc, Nguyễn-Huệ, Nguyễn-Lữ, thì còn có cả 6 vị
võ tướng, văn thần như Bùi-Thị-Xuân, Trần-Quang-Diệu, Ngô-Văn-Sở,
Ngô-Thì-Nhậm, Võ-Văn-Dũng và Trần-Văn-Kỷ cùng với những
11.057 tư liệu hiện vật gốc, và hàng trăm hiện vật phục
chế về phong cách thời Tây-Sơn. Ngoài những báu vật như
ấn tín, các sắc phong, gia phả của của nhiều võ tướng,
văn thần, trống da voi của đồng bào Tây-Nguyên hưởng ứng
tham gia phong trào khởi nghĩa Tây-Sơn, thì còn có thêm nào
là súng thần công, chuông đồng, tiền đồng Thái-Đức, Quang-Trung,
Cảnh-Thịnh, bia mộ tổ dòng họ Tây-Sơn. Và cả những loại
gương đồng, bát cổ mang chứng tích dưới triều đại Tây-Sơn
ngắn ngủi.
Gương đồng và bát cổ thời Tây Sơn
Tuy nhiên, cho dù
triều đại Tây-Sơn có ngắn ngủi nhưng từ bao năm qua gần
như hầu hết các vị tướng lãnh có tầm nhìn chiến lược
của quân đội Việt-Nam đều có đến viếng thăm mảnh đất
Tây-Sơn, để nghiêng mình tưởng niệm trước anh linh của
một bậc thầy lục thao tam lược về chiến thuật dụng binh.
Trong số những yếu nhân đó, du khách thấy có chứng tích
kỷ niệm của đại tướng Võ-Nguyên-Giáp còn lưu lại bên
cạnh tượng đài của Hoàng-đế Quang-Trung, là cũng một cây
me nay đã to lớn do chính tay của đại tướng đã vun trồng.
Trong hiện tại, để đáp ứng công trình bảo tồn di tích
lịch sử danh nhân Bình-Định, thì chính quyền sở tại lúc
nào cũng luôn luôn cố gắng kêu gọi sự hợp tác của mọi
từng lớp người dân. Để cùng ra sức sưu tầm, phát hiện
về các di tích cổ vật dưới thời Tây-Sơn, hầu để làm
phong phú thêm cho viện Bảo-Tàng Quang-Trung ở tại địa phương.
Và cũng như mọi người đều biết, từ lâu địa danh tỉnh Bình-Định cũng còn được người ta gọi bằng một cái tên rất ngộ nghĩnh khác nữa là xứ "Nẫu ‘‘, và thổ âm thân thương đó có nghĩa là anh, chị, nó, họ…Xứ "Nẫu" của quê hương Bình-Định có rất nhiều danh lam thắng cảnh, và một cuộc hành trình ngắn hạn thì sẽ không bao giờ du khách có thể tham quan cho hết được. Ngoài các thắng cảnh thiên nhiên nổi tiếng như bán đảo Phương-Mai, suối Tiên, suối khoáng nóng Hội-Vân, hồ núi Một, động Cườm, núi Bà, đảo Yến, thì còn có các di tích do bàn tay của những con người từng sống trên đất " Nẫu" tạo dựng thành hình. Đó là những từ đường Bùi-Thị-Xuân, hải đăng cù lao Xanh, rồi nào là chùa thập Tháp Di-Đà, chùa Long-Khánh, chùa Sơn-Long, chùa Linh-Phong, Tu-viện Nguyên-Thiều, nhà thờ Chính-Tòa v.v. Còn các lễ hội truyền thống thì có lễ cầu ngư, hội Xuân chợ Gò, hội làng rèn Tây-Phương-Danh, hội làng đúc đồng Bằng-Châuv.v, và đặc biệt là ngày lễ hội trọng đại Đống-Đa.
Lễ hội truyền thống Đống-Đa từ lâu đã được nước nhà chính thức coi như là quốc lễ, và hằng năm đều có tổ chức chu đáo diễn ra đúng vào ngày mồng 5 Tết Nguyên-Đán ở tại Gò Đống-Đa Hà-Hội, để cho mọi người dân thủ đô kéo đến tham dự đông đảo nhằm mục đích tưởng nhớ đến chiến công lịch sử của vua Quang-Trung đánh đại bại quân xâm lăng. Và nói riêng về hình ảnh của ngày lễ hội truyền thống Đống-Đa ở tại huyện Tây-Sơn hằng năm cũng đã xảy ra vào cùng thời điểm đó, thì lễ hội nầy là một ngày trọng đại có ý nghĩa vô cùng thật là đặc biệt đối với hầu hết mọi người dân Bình-Định. Vì từ lâu, ngoài sự tôn kính hương linh của Tây-Sơn tam kiệt, thì hình ảnh của riêng vị anh hùng tướng quân Nguyễn-Huệ đã được đi vào huyền thoại, và từng được bao người dân sở tại luôn luôn nhắc nhở tiếc thương nhiều hơn bất cứ ở nơi nào khác.
Festival Tây-Sơn – Bình-Định năm 2008
Đặc biệt, nhất
là hình ảnh tưng bừng trong bầu không khí của ngày tổ chức
lễ hội Festival Tây-Sơn - Bình- Định hoành tráng xảy
ra trong năm 2008 mà tác giả đã có dịp tham dự, hiện nay
vẫn còn lưu lại những dấu ấn kỷ niệm tốt đẹp ở trong
tâm hồn của rất nhiều thành phần khán giả trong nước,
kể cả các phái đoàn du khách nước ngoài. Vì người ta có
thể nói rằng, đây là một ngày lễ hội truyền thống ở
địa phương đã được tổ chức chu đáo lớn lao nhất từ
trước cho đến nay đã có đến hàng vạn người ở khắp
các nơi đổ về tham dự. Và trong không gian náo nhiệt khác
thường, hoà lẫn với tiếng trống nhạc võ Tây-Sơn oai hùng
nổi lên giục giã liên hồi, là những hoạt cảnh diễn hành
Tây-Sơn tam kiệt uy nghi lẫm liệt ngồi trên bành voi chiến
cùng với hình ảnh của các tướng võ, văn thần như Bùi-Thị-Xuân,
Trần-Quang-Diệu v.v, các đoàn kỵ binh, các đội tiền quân,
trung quân đi theo sau trong đội hình tiến về điện thờ Tây-Sơn
tam kiệt với khí thế hùng dũng như sau cơn chiến trận khải
hoàn. Một biển người tràn ngập lần lượt nối đuôi nhau
đến trước tượng đài Hoàng-đế Quang-Trung thành kính dâng
hoa, và dâng hương bên trong điện thờ Tây-Sơn tam kịệt.
Trong khi đó thì các tiết mục đặc sắc như là biểu diễn
võ thuật Tây-Sơn cũng như biểu diễn trống trận Tây-Sơn
diễn ra liên tục xem rất ngoạn mục, và đều đã được
hầu hết tất cả khán giả tham dự reo hò vỗ tay tán thưởng
hoan nghinh nhiệt liệt.
Tái hiện hình ảnh đoàn tượng binh nhà Tây-Sơn ra trận
Đoàn kỵ binhTây-Sơn diễn hành
Hàng vạn người tham dự lễ hội Đống-Đa năm 2008 ở Bình-Định
Sự kiện đó, từ
lâu đã làm cho người dân địa phương hết sức lấy làm
tự hào và hãnh diện. Ngoài ra, nó lại còn có ảnh hưởng
thêm rất nhiều đến tâm lý của các thành phần người dân
trong nước để cho họ lúc nào cũng muốn tạo dịp, để
không thể bỏ qua một chuyến du hành về thành phố Quy-Nhơn
đang trên đà khởi sắc, phát triển nhanh với tiến trình
kỳ vọng chuyển thành đô thị hiện đại hóa có nét riêng
biệt để làm khởi điểm cho vấn đề xây dựng bổ túc,
đánh bóng thương hiệu và quảng bá về hình ảnh địa phương
lên tầm cao mới. Và đó, là cũng chỉ là còn chờ vào điều
kiện yếu tố hoàn cảnh thích hợp chín muồi của thời điểm
không gian trong giai đoạn ở tương lai.
Ngoài ra, nói riêng về địa danh ngàn năm bất hủ Tây-Sơn thì tiếng vang của nó bây giờ không còn đóng khung ở tại địa phương Bình-Định hay ở trong nước của dân ta nữa. Vì thực ra, từ lâu địa danh lịch sử của nó từng đã được các nhà nghiên cứu lịch sử trên thế giới nghiêm túc tô đậm rõ nét trên tấm bản đồ, để mỗi khi họ muốn tìm hiểu về trường hợp thân thế của nhân vật anh hùng áo vải Nguyễn-Huệ ở nước Nam. Vả lại, ngày nay nếu cần phải được lấy công tâm mà nói thì triều đại của nhà Nguyễn Tây-Sơn tuy ngắn ngủi nhưng mà là một triều đại đặc biệt kiêu hùng chưa từng có xảy ra trong hoàn cảnh lịch sử dân tộc nước nhà. Và trận thủy chiến "Rạch-Gầm – Xoài-Mút" xảy ra trong năm 1785, cũng như trận địa chiến "Ngọc-Hồi - Đống-Đa" xảy ra trong năm 1789là hai chứng tích quân sử kiêu hùng đại thắnggiặc ngoại xâm vẻ vang oanh liệt. Là đánh tiêu diệt quân Xiêm-La ở phương Nam do Nguyễn-Ánh cầu viện cõng rắn cắn gà nhà. Và đánh đại bại quân xâm lược nhà Thanh ở phía Bắc do Lê-Chiêu-Thống cầu viện rước voi về giày mả tổ, (cũng như trước đó đã toàn thắng trên tất cả khắp các chiến trường khi rượt đuổi đạo quân Nguyễn-Ánh chạy ra khỏi biên thùy tổ quốc, và diệt Trịnh) mở đường đưa đến thống nhất san hà lập nên trang sử mới vẻ vang hào hùng cho dân tộc. Nhưng không may! Tiếp liền theo đó, là một biến cố lịch sử trọng đại đột ngột xảy ra trong cơn bão tố Vô-Thường nghiệt ngã. Đấng anh hùng đoản mệnh, chí lớn không thành.
tưởng rằng đất lệch trời nghiêng
nào hay khí lạnh gươm thiêng buột rời
Vì rằng trước đó Quang-Trung là một vị Vua dũng cảm phi thường, có thừa nghị lực, khí phách hiên ngang duy nhất trong lịch sử nước nhà đã từng có quyết định là sẽ đem quân sang đánh Trung-Hoa để đòi lại phần đất lưỡng Quảng (Quảng-Đông và Quảng-Tây). Do vậy, cho nên Ngài đã khéo léo dùng đến chiến thuật ngoại giao mềm mỏng, tế nhị, là đưa Quang-Trung giả sang đất địch để thương thuyết nghị hòa, và đồng thời cũng xin được giao hảo cầu hôn với công chúa Mãn-Thanh. Và cũng tiếc thay! Định mệnh khắc nghiệt an bài làm cho vua Quang-Trung mất sớm, thành ra di sản công lao xây dựng của nhà Nguyễn Tây-Sơn là khi vừa mới đã hoàn thành sứ mạng thực hiện xong được con đường cái quan lịch sử nối liền lại dải đất hai miền Nam-Bắc, thì đành phải để lại cho nhà Nguyễn Gia-Long may mắn tiếp tục thời cơ thừa hưởng gia tài.
Ngày nay, đối với hầu hết thế giới bên ngoài thì Bình-Định là một địa điểm du lịch tuy không được nổi tiếng nhiều như những vùng miền khác. Tuy nhiên, từ lâu thì cũng đã có những thành phần du khách trí thức đặc biệt, họ từng am tường về lịch sử của dân tộc Việt-Nam và có lòng mến mộ các bậc anh hùng hào kiệt nước nhà. Nhất là uy danh của đại đế Quang-Trung, tướng quân Nguyễn-Huệ một vị thiên tài thao lược, với chiến công hiển hách dụng binh thần tốc bách chiến bách thắng trên khắp cả các chiến trường. Chính vì vậy, mà bằng mọi giá họ đã tìm đến tham quan miền quê sơn kỳ thủy tú, địa linh nhân kiệt Bình-Định với thành tâm là để được hòa mình tưởng niệm vào với mảnh hồn thiêng nguyên khí đất Tây-Sơn.
Và cũng để chính thức nói lên sự khâm phục về hình ảnh của một trong những vị cái thế anh hùng, mà họ đã từng cho là hiếm hoi tìm thấy trong quân sử cổ kim trên thế giới.
Khu
tượng đài vua Quang-Trung
tại Gò Đống-Đa ở Hà-Nội
Di tích lịch sửRạch-Gầm - Xoài-Mút ở Tiền-Giang
**************************
Xem tiếp...
Tấm lòng sùng tín quê hương!...
Thôi anh ạ, thiền trong đằm thắm
Chấp chi giữa cõi vô thường!
(ĐC chép từ http://chimviet.free.fr)
Thương nhớ
"hồn thiêng nguyên khí
đất Tây-Sơn" *****
ở Tây-Sơn
An-Tiêm
MAI-LÝ-CANG
(Paris)
Bình-Định
là một tỉnh của nước Việt-Nam nhưng lại là một vùng
đất có bề dày quá khứ oai hùng, oanh liệt đã từng khoác
lên mình được những hào quang địa linh nhân kiệt mang dấu
ấn tinh thần rạng rỡ thật là đặc biệt về cho lịch sử
dân tộc nước nhà. Và sau mấy mươi năm chấm dứt chiến
tranh, thì giờ đây, từ trong đổ nát hoang tàn người dân
ở khắp cả mọi miền trong nước đều đã phải bị mất
khá nhiều thời gian để cùng nhau hướng tới tương lai, và
xây dựng lại một hình ảnh quê hương mới như ngày hôm
nay. Tuy nhiên, tùy theo từng hoàn cảnh địa phương, mà công
cuộc kiến thiết từ thành thị cho đến thôn trang ở mỗi
nơi đều có những điều kiện phát triển không được đồng
đều. Chẳng hạn như ở miền Trung thì Quy-Nhơn cũng là một
thành phố biển thơ mộng, hữu tình nhưng lại không có nhiều
lợi thế nếu đem so bì với Nha-Trang nhờ vào yếu tố địa
dư được thiên nhiên ưu đãi cho nên đã có nhiều thắng
cảnh xinh đẹp hấp dẫn hơn. Tuy nhiên, nói như vậy không
có nghĩa là hình ảnh của đất võ trời văn ở Quy-Nhơn
không có được những đường nét quyến rũ kỳ lạ, để
làm cho thu hút được sự chú ý của những thành phần người
dân có phương tiện tìm đến tham quan khám phá lịch sử,
cảnh quan mỗi vùng một vẻ.
Thuở sinh tiền,
nhạc sĩ Trịnh-Công-Sơn đã từng viết lưu bút "Về Một
Thành Phố Tôi Đã Xa" có đoạn văn như sau:
(Paris)
- Hôm nay cũng là quá khứ và chúng ta cố giành giựt với thời gian để biến ngày hôm nay thành một hiện tại vô tận. Quy-Nhơn có những tháp Chàm đứng một mình lặng lẽ nghìn năm "mưa vẫn mưa bay trên tầng tháp cổ". Cái giấc mộng dài nó buộc con người không được quên và phải nhớ về những dấu tích đã in thành vết không tàn phai trên tâm hồn mỗi con người.
Cụm tháp Dương-Long (tháp Ngà) ở Tây-Sơn
Và ngày nay, ảnh hưởng về mặt tinh thần của cái nôi võ thuật Tây-Sơn tại đây cũng vẫn hãy còn được lưu truyền như là một hình thức sinh hoạt văn hóa thể thao cổ truyền làng xã ở địa phương. Ngoài ra, trong chương trình huấn luyện ở tại nhiều võ đường trong các thành phố lớn trong nước cũng có tổ chức thường xuyên mở ra những khóa đặc biệt, để truyền thụ cho môn sinh về võ thuật cổ truyền Bình-Định. Đặc biệt, là về tinh hoa của các bài bản tập dượt nổi tiếng như "Độc phủ", "Song đao", "Chấn thiên cung", "Trường kích", "Thập bát ban binh khí" giờ đây đã được các võ sư của nhiều hệ phái võ Tây-Sơn tận tình nghiên cứu, bảo tồn chiêu thức trước nguy cơ có thể sẽ bị thất truyền. Trong năm 2013 vừa qua, môn võ thuật cổ truyền Bình-Định đã được công nhận là di sản văn hóa phi vât thể quốc gia.
Võ công Bình-Định trình diễn quyết đấu
Sẵn sàng tự vệ
Hơn thế nữa, nếu nói sang qua về lĩnh vực sân khấu cổ nhạc thì ông tổ của kịch nghệ hát bội là nhà soạn tuồng kiệt xuất, danh nhân văn hóa Đào-Tấn, tên thật là Đào-Đăng-Tấn (1845-1907) ở Bình-Định miền Trung quả là một bậc kỳ tài, được liệt vào hàng đầu trong ba danh nhân nghệ sĩ sân khấu đặc biệt của nước Việt-Nam từ xưa cho tới nay. Và cũng như mọi người đều biết, thì dưới thời nhà Đinh ở nước ta cũng đã có nữ nghệ sĩ Phạm-Thị-Trân (926-976), hiệu là Huyền-Nữ sinh ở Hồng-Châu (thuộc vùng địa lý của tỉnh Hải-Dương ngày nay). Bà chính là bà tổ của nghệ thuật sân khấu hát chèo, mà hằng bao thế kỷ qua từng được phổ biến rộng rãi tại miền Bắc. Còn nhạc sĩ Cao-Văn-Lầu (1892-1976), tục danh Sáu Lầu sinh ở Long-An miền Nam. Ông là tác giả khai sinh ra bài "Dạ-Cổ Hoài-Lang" về sau phát triển ra thành bài ca "Vọng-Cổ" thật là nổi tiếng, và được phổ biến rất là cực thịnh hành trên cả vùng trời ở đất phương Nam.
Trở lại trường hợp của nhà soạn tuồng, danh nhân văn hóa Đào-Tấn, tự là Chỉ-Thúc, hiệu là Tô-Giang và Mộng-Mai, biệt hiệu là Mai-Tăng, hoặc Mai-Tăng Tiểu-Linh-Phong. Ông là nhà trí thức thanh liêm từng được vua nhà Nguyễn ban cho giữ chức vụ Tổng-Đốc An-Tĩnh (Nghệ -An – Hà-Tĩnh). Trong quá trình cống hiến rất nhiều cho sự nghiệp viết tuồng giá trị xuất sắc của ông còn để lại cho đến bây giờ, thì có ba vở tưồng diễn đặc biệt rất được nhiều khán thính giả thường xuyên nhắc nhở. Đó là tuồng Tam-Nữ Đồ-Vương, Đào-Phi-Phụng và Sơn-Hậu. Và với tài nghệ văn chương uyên bác, giàu tính ước lệ không kém phần nghiêm túc trong ý lẫn lời làm cho giá trị của bất cứ tuồng hát nào của ông cũng đều được người đời đánh giá cho là có chất lượng cao trong mọi góc cạnh của vấn đề. Tuy nhiên, Đào-Tấn cũng còn là một nhà thơ yêu nước luôn luôn trăn trở trước họa xâm lăng nước nhà. Và một trong những chứng tích của các bài thơ dưới đây, đã nói lên được sự chân thành trong tấm lòng thiết tha gởi gấm của ông:
Tích niên thu chiến đoạt nguy khoa
Kim nhật tha hương khổ nhược hà?
Đãn nguyện nhân dân như thử sĩ
Bất sầu định quốc dữ an gía
………………………….
Nhớ Phan-San (Phan-Bội-Châu)
Năm ấy thi hương chiếm bảng cao
Giờ đây đất khách cực ra sao?
Ước chi ai cũng như người vậy
Nước thịnh nhà yên chẳng khổ sầu
Ngày nay kể từ năm 1989, sau khi tỉnh Bình-Định được tái lập lại sau một thời kỳ hợp nhất với tỉnh Quảng-Ngãi để trở thành tỉnh Nghĩa-Bình, thì cho đến năm 2004 tổ chức về hành chánh trên địa bàn của tỉnh Bình-Định đã được tái cấu trúc chia ra gồm có một thành phố Quy-Nhơn, một thị xã An-Nhơn. Và 9 huyện là: Tây-Sơn, Phù-Cát, Phù-Mỹ, Hoài-Ân, Hoài-Nhơn, Tuy-Phước, Vân-Canh, Vĩnh-Thạnh và An-Lão. Cùng với, tổng số dân là 1.497.300 đầu người theo thống kê vào năm 2011. Và trải qua bao thời kỳ bị đổi thayvề hoàn cảnh lịch sử địa lý, xã hội, thì bây giờ địa phương nầy là nơi cộng cư còn lại của bốn sắc dân chính là Việt, Chăm, Ba-Na và Hrê cùng sống chung nhau trong một diện tích dải đất 6.050,6km² với mật độ là 247 người/km². Ngoài ra, với ưu thế chiều dài của bờ biển là 134km cùng với những vịnh, vũng, mỏm đá, đảo, nhiều bãi biển thiên nhiên hoang sơ. Ngày nay, Bình-Định không những là một địểm hẹn dừng chân lý tưởng dành cho du khách, mà nó còn được coi như là một trong những cửa ngõ hàng hải có điều kiện dễ dàng để phát triển giao thông lên tận Tây-Nguyên và miền Nam của nước Lào.
Cảng Quy-Nhơn
Bãi tắm Hoàng-Hậu
Toàn cảnh thành phố Quy-Nhơn
Bãi biển Quy-Nhơn ngày nay
Cầu Thị-Nại
với 54 nhịp cầu
Tháp đôi ở Quy-Nhơn
Tháp Phú-Lốc (tháp Vàng)
Tháp Bánh Ít (tháp Bạc)
Tháp Cánh Tiên (tháp Đồng)
Đến thời kỳ Tây-Sơn, sau khi cuộc khởi nghĩa cách mạng thành công thì cũng đã chọn Đồ-Bàn làm kinh đô của chính quyền trung ương. Tuy nhiên, sau đó vua Thái-Đức (Nguyễn-Nhạc) ban lệnh cho xây cất mở rộng cung điện, thành lũy và đổi lại tên là thành Hoàng-Đế và đặt đại bản doanh chỉ huy quân sự Tây-Sơn tại đây. Ngược dòng thời gian, khi còn trong giai đoạn khởi nghĩa thì Đồ-Bàn cũng lại là điểm xuất quân Nam tiến của đoàn quân Tây-Sơn đánh đại bại liên quân Xiêm-La – Nguyễn-Ánh, và Bắc tiến lật đổ chế độ chúa Trịnh, đánh tan quân nhà Thanh, lập lại nền thống nhất quốc gia.
Bên trong thành Đồ-Bàn
Tượng Voi ở kinh thành Đồ-Bàn
Hồ bán nguyệt trong thành Hoàng-Đế
Chùa Thập-Tháp trong thành Đồ-Bàn
Về các nhân vật anh hùng nghiệp võ ở Bình-Định kể ra rất nhiều nhưng hình như người địa phương (nhất là phái nữ), ai nấy cũng thường tự hào về trường hợp đặc biệt của nữ tướng Bùi-Thị-Xuân. Bà là một người đẹp sinh ra ở ngay tại đất Tây-Sơn, lớn lên theo học võ thuật và đạt tới trình độ cao cường về tài múa kiếm, bắn cung, cỡi ngựa, tập luyện voi chiến thuần phục. Là công thần, tướng giỏi của triều Nguyễn Tây-Sơn, bà đã từng lập được rất nhiều chiến công hiển hách là đánh tơi bời đạo quân của Nguyễn-Ánh trên trận mạc. Ngày nay, tuy các sử gia đã có những công trình sưu khảo về hình ảnh bi thảm nhưng oai hùng, bất khuất trong phút cuối cùng của cuộc đời bà khi sa cơ thất thế bị hành hình bằng với những cái nhìn theo mỗi góc cạnh thán phục khác nhau. Nhưng thái độ hiên ngang, khí khái của bà khi ngẩng cao đầu trước mặt Nguyễn-Ánh (Gia-Long) mà bà cho là một kẻ đi cầu viện ngoại bang hết Xiêm đến Tây về làm tan nát sơn hà, thì đã được dân gian đồng kính phục và truyền tụng mãi cho đến bây giờ:
Vận nước đang xoay chuyển
Quần thoa cũng vẫy vùng
Liều thân lo cứu chúa
Công trận quyết thay chồng.
Khảng khái khi lâm nạn!
Kiên trinh lúc khốn cùng
Ngàn thu gương nữ liệt
Gương sáng hãy soi chung
Còn danh nhân Tăng-Bạt-Hổ, tên thật là Tăng-Doãn-Văn (1858-1906), tự là Sư-Triệu, hiệu là Điền-Bát, và huyện Hoài-Ân ngày nay chính là quê hương của ông. Là một nhà chí sĩ tiêu biểu nhiệt tình cho lòng yêu nước, ông hưởng ứng phong trào Cần-Vương của vua Hàm-Nghi lập chiến khu ngay tại quê nhà nổi lên chống Pháp. Sau khi thất bại trước thế mạnh của kẻ địch, ông lưu vong sang qua các quốc gia như Lào, Xiêm, Trung-Quốc, Nga và cuối cùng ông đến Nhật-Bản để xin cầu viện. Năm 1905, ông trở về nước bắt dầu dấn thân tích cực họp cùng với các sĩ phu vận động động quảng bá phong trào Đông-Du của cụ Phan-Bội-Châu cho đến khi lâm trọng bệnh qua đời, và lăng mộ của ông được xây cất trong ngay trong khu nhà thờ của cụ Phan-Bội-Châu tại Huế. Tuy nhiên, vào ngày 18-8-2013 vừa qua thì tộc Tăng cùng chính quyền ở Hoài-Ân đã có làm lễ mang một phần đất từ ngôi mộ (Tăng-Bạt-Hổ) ở tại Huế để rước về chôn cất ở trong ngôi mộ phiên bản trong khuôn viên đền thờ ông tại Hoài-Ân, Bình-Định.
Ngoài ra, ở ngay tại cục đất Tây-Sơn ngày trước cũng có một nhà chí sĩ thanh niên văn hay võ giỏi đó là ông Mai-Xuân-Thưởng (1860-1887) tên thật là Mai-Văn-Siêu. Ông từng là phụ tá cho Tổng-Đốc Đào-Doãn-Địch hưởng ứng phong trào Cần-Vương đứng lên chiêu mộ nghĩa sĩ phất cờ chống giặc xâm lăng tàn bạo Pháp vào cuối thế kỷ 19 ở tại Bình-Định. Ảnh hưỏng truyền hịch của nhà Vua lúc bấy giờ đã lan rộng được hàng ngàn từng lớp dân gian hưởng ứng dưói cờ, và thắng lợi nhiều phen trên trận địa cũng như loại trừ được những bọn Việt-gian bán nước cam tâm làm tay sai cho giặc. Sau khi được chủ tướng Đào-Doãn-Địch phong chức cho làm Nguyên-soái, ông liền cho làm lễ tế cờ và truyền lệnh xuất quân tấn công trong khí thế lẫy lừng chiến thắng rất nhiều đồn bót của bọn Việt-gian theo giặc. Tuy nhiên, sau cùng vì có sự tiếp viện của lính Pháp có nhiều vũ khí tối tân hơn cho nên ông sa cơ rơi vào tay giặc, và cùng các đồng đội bị chúng bắt đem ra xử trảm. Trước khi bị hành quyết ở pháp trường, ông khẳng khái ngâm vang lên một bài thơ để lại cho đời có ý nhĩa thật là hào hùng, tráng lệ.
Nợ trai lo trả ấy là khôn.
Gió đưa hồn nghĩa, gươm ba thước
Đá tạc lòng trung núi mấy hơn
Tái ngắt mặt gan sương tệ giá
Đỏ lòe bìa sách máu là son
Rồi đây thoi ngọc đưa xuân tới
Một nhánh mai già trổ nụ non.
Hầm-Hô kỳ ảo
Thắng cảnh tuyệt đẹp Hầm-Hô
Tuy nhiên, không gian trong Viện Bảo-Tàng Quang-Trung ở ngay tại Tây-Sơn mới chính lại là một hình ảnh vô cùng đặc biệt, để cho hầu hết tất cả mọi người dân ta đều phải cùng nhau thành tâm cúi đầu xúc động bồi hồi trước bao nhiêu chứng tích kỷ vật của triều đại Tây-Sơn kiêu hùng còn lưu lại. Và cho dù suốt thời kỳ Gia-Long đã tìm đủ mọi cách để mong xóa sạch những dấu ấn chói rạng uy danh của Tây-Sơn, nhất là vết tích của vị anh hùng tướng quân Nguyễn-Huệ. Nhưng sau 143 năm triều nhà Nguyễn tàn lụi, thì người dân địa phương lại cũng tìm bằng đủ mọi phương cách, để làm sống lại hình ảnh oai phong lẫm liệt của vua Quang-Trung, và cũng để trả lại mọi sự công bằng về cho lịch sử nước nhà. Do vậy, vào ngày 16-01-2006 thì người dân Bình-Định cùng với chính quyền địa phương đã hợp sức khánh thành bức tượng vua Quang-Trung mới ở trước viện Bảo-Tàng trong tư thế khoan thai, đĩnh đạc hơn với đôi mắt sáng rực thần hồn, tay cầm đốc kiếm, tay đưa về phía trước với động thái nghiêm nghị như đang đứng truyền hịch giữa hàng ba quân tướng sĩ, và thốt lên những lời hiệu triệu quốc dân đồng bào.
Bảo-Tàng Quang-Trung ở Tây-Sơn
Ngày nay, mỗi khi du khách vừa bước chân đến viếng thăm cảnh trí phía ngoài không gian của bên trong viện Bảo-Tàng thì thường hay cảm thấy lòng mình bị xúc động bồi hồi, vì khi đứng trên mảnh đất thiêng mà không còn thấy bóng dáng của những vị anh hùng dân tộc thuở xa xưa. Tuy nhiên, trong một giây phút linh thiêng bất chợt thoáng qua nào đó, thì hình như hầu hết tất cả mọi người cũng đều có thể cùng nhau nghe được có tiếng vó ngựa hí vang, tung bụi ngập trời của đoàn quân mãnh hổ Tây-Sơn rộn ràng hòa lẫn trong hồi trống trận giục giã xuất quân xông ra chiến địa. Lúc đó, tâm hồn của họ mới có dịp để sâu lắng vào cái hồn, cái uy nghi của các vị tướng quân còn phảng phất ở nơi nầy. Và giờ đây, di tích giếng nước từ thuở mấy trăm năm về trước, và cây me cổ thụ dạn dày phong vũ với thời gian bây giờ cũng đã hãy còn sót lại trên mảnh đất nhà xưa, vườn cũ của gia đình tam kiệt. Hình ảnh đó chính là những kỷ niệm đẹp đẽ dưới thời thơ ấu của ba anh em Nhạc-Huệ-Lữ nhà Nguyễn Tây-Sơn, trước khi đĩnh đạc thành nhân với sự nghiệp cuộc đời ngang dọc hiên ngang thời thế tạo anh hùng.
Cây me cổ thụ hơn 250 năm
gắn liền thời thơ ấu của Tây-Sơn tam kiệt
Di tích giếng nước xưa
của gia đình Tây-Sơn tam kiệt
Gương đồng và bát cổ thời Tây Sơn
Và cũng như mọi người đều biết, từ lâu địa danh tỉnh Bình-Định cũng còn được người ta gọi bằng một cái tên rất ngộ nghĩnh khác nữa là xứ "Nẫu ‘‘, và thổ âm thân thương đó có nghĩa là anh, chị, nó, họ…Xứ "Nẫu" của quê hương Bình-Định có rất nhiều danh lam thắng cảnh, và một cuộc hành trình ngắn hạn thì sẽ không bao giờ du khách có thể tham quan cho hết được. Ngoài các thắng cảnh thiên nhiên nổi tiếng như bán đảo Phương-Mai, suối Tiên, suối khoáng nóng Hội-Vân, hồ núi Một, động Cườm, núi Bà, đảo Yến, thì còn có các di tích do bàn tay của những con người từng sống trên đất " Nẫu" tạo dựng thành hình. Đó là những từ đường Bùi-Thị-Xuân, hải đăng cù lao Xanh, rồi nào là chùa thập Tháp Di-Đà, chùa Long-Khánh, chùa Sơn-Long, chùa Linh-Phong, Tu-viện Nguyên-Thiều, nhà thờ Chính-Tòa v.v. Còn các lễ hội truyền thống thì có lễ cầu ngư, hội Xuân chợ Gò, hội làng rèn Tây-Phương-Danh, hội làng đúc đồng Bằng-Châuv.v, và đặc biệt là ngày lễ hội trọng đại Đống-Đa.
Lễ hội truyền thống Đống-Đa từ lâu đã được nước nhà chính thức coi như là quốc lễ, và hằng năm đều có tổ chức chu đáo diễn ra đúng vào ngày mồng 5 Tết Nguyên-Đán ở tại Gò Đống-Đa Hà-Hội, để cho mọi người dân thủ đô kéo đến tham dự đông đảo nhằm mục đích tưởng nhớ đến chiến công lịch sử của vua Quang-Trung đánh đại bại quân xâm lăng. Và nói riêng về hình ảnh của ngày lễ hội truyền thống Đống-Đa ở tại huyện Tây-Sơn hằng năm cũng đã xảy ra vào cùng thời điểm đó, thì lễ hội nầy là một ngày trọng đại có ý nghĩa vô cùng thật là đặc biệt đối với hầu hết mọi người dân Bình-Định. Vì từ lâu, ngoài sự tôn kính hương linh của Tây-Sơn tam kiệt, thì hình ảnh của riêng vị anh hùng tướng quân Nguyễn-Huệ đã được đi vào huyền thoại, và từng được bao người dân sở tại luôn luôn nhắc nhở tiếc thương nhiều hơn bất cứ ở nơi nào khác.
Festival Tây-Sơn – Bình-Định năm 2008
Tái hiện hình ảnh đoàn tượng binh nhà Tây-Sơn ra trận
Đoàn kỵ binhTây-Sơn diễn hành
Hàng vạn người tham dự lễ hội Đống-Đa năm 2008 ở Bình-Định
Ngoài ra, nói riêng về địa danh ngàn năm bất hủ Tây-Sơn thì tiếng vang của nó bây giờ không còn đóng khung ở tại địa phương Bình-Định hay ở trong nước của dân ta nữa. Vì thực ra, từ lâu địa danh lịch sử của nó từng đã được các nhà nghiên cứu lịch sử trên thế giới nghiêm túc tô đậm rõ nét trên tấm bản đồ, để mỗi khi họ muốn tìm hiểu về trường hợp thân thế của nhân vật anh hùng áo vải Nguyễn-Huệ ở nước Nam. Vả lại, ngày nay nếu cần phải được lấy công tâm mà nói thì triều đại của nhà Nguyễn Tây-Sơn tuy ngắn ngủi nhưng mà là một triều đại đặc biệt kiêu hùng chưa từng có xảy ra trong hoàn cảnh lịch sử dân tộc nước nhà. Và trận thủy chiến "Rạch-Gầm – Xoài-Mút" xảy ra trong năm 1785, cũng như trận địa chiến "Ngọc-Hồi - Đống-Đa" xảy ra trong năm 1789là hai chứng tích quân sử kiêu hùng đại thắnggiặc ngoại xâm vẻ vang oanh liệt. Là đánh tiêu diệt quân Xiêm-La ở phương Nam do Nguyễn-Ánh cầu viện cõng rắn cắn gà nhà. Và đánh đại bại quân xâm lược nhà Thanh ở phía Bắc do Lê-Chiêu-Thống cầu viện rước voi về giày mả tổ, (cũng như trước đó đã toàn thắng trên tất cả khắp các chiến trường khi rượt đuổi đạo quân Nguyễn-Ánh chạy ra khỏi biên thùy tổ quốc, và diệt Trịnh) mở đường đưa đến thống nhất san hà lập nên trang sử mới vẻ vang hào hùng cho dân tộc. Nhưng không may! Tiếp liền theo đó, là một biến cố lịch sử trọng đại đột ngột xảy ra trong cơn bão tố Vô-Thường nghiệt ngã. Đấng anh hùng đoản mệnh, chí lớn không thành.
tưởng rằng đất lệch trời nghiêng
nào hay khí lạnh gươm thiêng buột rời
Vì rằng trước đó Quang-Trung là một vị Vua dũng cảm phi thường, có thừa nghị lực, khí phách hiên ngang duy nhất trong lịch sử nước nhà đã từng có quyết định là sẽ đem quân sang đánh Trung-Hoa để đòi lại phần đất lưỡng Quảng (Quảng-Đông và Quảng-Tây). Do vậy, cho nên Ngài đã khéo léo dùng đến chiến thuật ngoại giao mềm mỏng, tế nhị, là đưa Quang-Trung giả sang đất địch để thương thuyết nghị hòa, và đồng thời cũng xin được giao hảo cầu hôn với công chúa Mãn-Thanh. Và cũng tiếc thay! Định mệnh khắc nghiệt an bài làm cho vua Quang-Trung mất sớm, thành ra di sản công lao xây dựng của nhà Nguyễn Tây-Sơn là khi vừa mới đã hoàn thành sứ mạng thực hiện xong được con đường cái quan lịch sử nối liền lại dải đất hai miền Nam-Bắc, thì đành phải để lại cho nhà Nguyễn Gia-Long may mắn tiếp tục thời cơ thừa hưởng gia tài.
Ngày nay, đối với hầu hết thế giới bên ngoài thì Bình-Định là một địa điểm du lịch tuy không được nổi tiếng nhiều như những vùng miền khác. Tuy nhiên, từ lâu thì cũng đã có những thành phần du khách trí thức đặc biệt, họ từng am tường về lịch sử của dân tộc Việt-Nam và có lòng mến mộ các bậc anh hùng hào kiệt nước nhà. Nhất là uy danh của đại đế Quang-Trung, tướng quân Nguyễn-Huệ một vị thiên tài thao lược, với chiến công hiển hách dụng binh thần tốc bách chiến bách thắng trên khắp cả các chiến trường. Chính vì vậy, mà bằng mọi giá họ đã tìm đến tham quan miền quê sơn kỳ thủy tú, địa linh nhân kiệt Bình-Định với thành tâm là để được hòa mình tưởng niệm vào với mảnh hồn thiêng nguyên khí đất Tây-Sơn.
Và cũng để chính thức nói lên sự khâm phục về hình ảnh của một trong những vị cái thế anh hùng, mà họ đã từng cho là hiếm hoi tìm thấy trong quân sử cổ kim trên thế giới.
An-Tiêm
MAI-LÝ-CANG
(Paris)
(Paris)
tại Gò Đống-Đa ở Hà-Nội
Di tích lịch sửRạch-Gầm - Xoài-Mút ở Tiền-Giang
**************************
DƯ LUẬN XÃ HỘI 16
(ĐC sưu tầm trên NET)
Thứ Bẩy, 07/06/2014 - 09:29
(Dân trí) - Động thái của Trung Quốc nhằm xây dựng một hòn đảo
nhân tạo tại quần đảo Trường Sa của Việt Nam đã chứng tỏ sự thay đổi của
Bắc Kinh từ phòng thủ sang tấn công. Đây cũng được xem là bước đi tiến
tới thiết lập vùng nhận dạng phòng không ở Biển Đông.
Theo giới phân tích, kế hoạch mở rộng Bãi Chữ Thập, nếu được phê chuẩn, sẽ là một dấu hiệu nữa cho thấy sự thay đổi về chiến lược của Trung Quốc nhằm giải quyết các tranh chấp chủ quyền kéo dài từ vị thế phòng thủ sang tấn công. Đây cũng được xem là một bước đi tiến tới việc thiết lập vùng nhận dạng phòng không ở Biển Đông.
Philippines hồi tháng trước đã phản đối các hoạt động cải tạo của Trung Quốc tại bãi đá Gạc Ma (tên quốc tế là Johnson South) gần đó.
Trong bối cảnh các diễn biến gần đây ở Biển Đông đang thu hút sự chú ý của thế giới đối với Trung Quốc, các nhà phân tích đã cảnh báo rằng việc cải tạo Bãi Chữ Thập có thể làm gia tăng căng thẳng trong quan hệ giữa Bắc Kinh và các quốc gia láng giềng.
Li Jie, một chuyên gia hải quân từ Viện nghiên cứu hải quân Trung Quốc, cho hay hòn đảo nhân tạo sẽ bao gồm một đường băng và một cảng. Sau khi mở rộng, hòn đảo sẽ tiếp tục là nơi đặt trạm quan sát và để cung cấp hỗ trợ và tiếp tế quân sự.
Một quan chức cấp cao đã nghỉ hưu giấu tên của quân đội Trung Quốc tiết lộ rằng việc xây dựng một đường băng tại Bãi Chữ Thập có thể cho phép Trung Quốc chuẩn bị tốt hơn cho việc thiết lập một vùng nhận dạng phòng không (ADIZ) ở Biển Đông.
Tuyến bố của Bắc Kinh về một dùng như vậy trên Hoa Đông hồi tháng 12 năm ngoái đã gây ra những lo ngại đối với các quốc gia Đông Nam Á rằng một ADIZ tương tự sẽ được áp đặt ở Biển Đông.
Bãi Chữ Thập nằm gần các tuyến đường biển và có thể trở thành một điểm đỗ hải quân chiến lược, Alexander Neill, một trong những đại biểu tham dự Đối thoại Shangri-La 13 tại Singapore mới đây, cho biết.
Ông Jin cho hay việc cân nhắc có hay không và làm cách nào để thực hiện kế hoạch đảo nhân tạo tại Bãi Chữ Thập có thể phụ thuộc vào tiến triển công việc cải tạo tại bãi đá Gạc Ma.
"Đó là một dự án xây dựng trên biển rất phức tạp, vì vậy chúng ta cần học hỏi kinh nghiệm từ bãi đá Gạc Ma", ông Jin nói.
Âm mưu xây dựng từ nhiều năm trước
"Chúng tôi đã có khả năng xây dựng các đảo nhân tạo nhiều năm trước, nhưng chúng tôi phải kiềm chế vì chúng tôi không muốn gây quá nhiều tranh cãi", bà Zhang nói.
Tuy nhiên, năm nay đã chướng kiến một "bước ngoặt" khi Bắc Kinh liên tiếp tiến hành các hành động khiêu khích trong khu vực, trong đó có việc triển khai một giàn khoan dầu trái phép trong lãnh hải Việt nam.
"Chắc chắn rằng việc xây dựng một hòn đảo nhân tạo có thể trợ giúp tiếp tế cho các tàu và các giàn khoan gần đó, nhưng điều này cũng gây những ảnh hưởng rất tiêu cực trong khu vực", bà Zhang nhận định.
Theo bà Zhang, những động thái như vậy có thể làm gia tăng sự ngờ vực giữa các láng giềng của Trung Quốc và gây mất ổn định trong khu vực.
Bộ quốc phòng và bộ ngoại giao Trung Quốc hiện chưa có bình luận gì về các thông tin trên.
(Chép từ http://dantri.com.vn)
Xem tiếp...
Thứ Bẩy, 07/06/2014 - 09:29
Trung Quốc xây đảo nhân tạo để lập vùng phòng không trên Biển Đông
(Dân trí) - Động thái của Trung Quốc nhằm xây dựng một hòn đảo
nhân tạo tại quần đảo Trường Sa của Việt Nam đã chứng tỏ sự thay đổi của
Bắc Kinh từ phòng thủ sang tấn công. Đây cũng được xem là bước đi tiến
tới thiết lập vùng nhận dạng phòng không ở Biển Đông.
>> Trung Quốc nhăm nhe xây đảo nhân tạo gần bãi đá Gạc Ma
>> Philippines tính phản đối Trung Quốc thay đổi nguyên trạng Biển Đông
Một công trình do Trung Quốc xây dựng trái phép trên bãi đá Gạc Ma (tên quốc tế là Johnson South) của Việt Nam.
Trung Quốc đang xem xét việc mở rộng cơ sở lớn nhất
của mình tại Bãi Chữ Thập thành một hòn đảo nhân tạo, với cả đường băng
và hải cảng, để thúc đẩy mạnh mẽ sức mạnh quân sự ở Biển Đông, một học
giả và một chuyên gia hải quân Trung Quốc cho hay.
Bãi Chữ Thập (tên tiếng Anh là Fiery Cross Reef), thuộc quần đảo
Trường Sa (thuộc chủ quyền của Việt Nam), bị Trung Quốc chiếm đóng trái
phép kể từ năm 1988.Theo giới phân tích, kế hoạch mở rộng Bãi Chữ Thập, nếu được phê chuẩn, sẽ là một dấu hiệu nữa cho thấy sự thay đổi về chiến lược của Trung Quốc nhằm giải quyết các tranh chấp chủ quyền kéo dài từ vị thế phòng thủ sang tấn công. Đây cũng được xem là một bước đi tiến tới việc thiết lập vùng nhận dạng phòng không ở Biển Đông.
Philippines hồi tháng trước đã phản đối các hoạt động cải tạo của Trung Quốc tại bãi đá Gạc Ma (tên quốc tế là Johnson South) gần đó.
Trong bối cảnh các diễn biến gần đây ở Biển Đông đang thu hút sự chú ý của thế giới đối với Trung Quốc, các nhà phân tích đã cảnh báo rằng việc cải tạo Bãi Chữ Thập có thể làm gia tăng căng thẳng trong quan hệ giữa Bắc Kinh và các quốc gia láng giềng.
Kế hoạch đã được trình lên chính phủ trung ương
Jin Canrong, một giáo sư về quan hệ quốc tế tại Đại học Renmin ở
Bắc Kinh, cho biết đề xuất xây dựng một hòn đảo nhân tạo tại Bãi Chữ
Thập đã được trình lên chính phủ trung ương. Hòn đảo nhân tạo sẽ rộng ít
nhất gấp đôi căn cứ quân sự Mỹ Diego Garcia - một đảo san hô rộng 44
km2 ở giữa Ấn Độ Dương.
Trung Quốc gần đây đã xây dựng các cơ sở trên Bãi Chữ Thập, trong đó có một trạm quan sát.Li Jie, một chuyên gia hải quân từ Viện nghiên cứu hải quân Trung Quốc, cho hay hòn đảo nhân tạo sẽ bao gồm một đường băng và một cảng. Sau khi mở rộng, hòn đảo sẽ tiếp tục là nơi đặt trạm quan sát và để cung cấp hỗ trợ và tiếp tế quân sự.
Một quan chức cấp cao đã nghỉ hưu giấu tên của quân đội Trung Quốc tiết lộ rằng việc xây dựng một đường băng tại Bãi Chữ Thập có thể cho phép Trung Quốc chuẩn bị tốt hơn cho việc thiết lập một vùng nhận dạng phòng không (ADIZ) ở Biển Đông.
Tuyến bố của Bắc Kinh về một dùng như vậy trên Hoa Đông hồi tháng 12 năm ngoái đã gây ra những lo ngại đối với các quốc gia Đông Nam Á rằng một ADIZ tương tự sẽ được áp đặt ở Biển Đông.
Bãi Chữ Thập nằm gần các tuyến đường biển và có thể trở thành một điểm đỗ hải quân chiến lược, Alexander Neill, một trong những đại biểu tham dự Đối thoại Shangri-La 13 tại Singapore mới đây, cho biết.
Ông Jin cho hay việc cân nhắc có hay không và làm cách nào để thực hiện kế hoạch đảo nhân tạo tại Bãi Chữ Thập có thể phụ thuộc vào tiến triển công việc cải tạo tại bãi đá Gạc Ma.
"Đó là một dự án xây dựng trên biển rất phức tạp, vì vậy chúng ta cần học hỏi kinh nghiệm từ bãi đá Gạc Ma", ông Jin nói.
Âm mưu xây dựng từ nhiều năm trước
Trung Quốc đã âm mưu các tham vọng hải quân từ nhiều năm trước.
Từ cuối tháng trước, các thông tin về kế hoạch xây dựng đảo nhân
tạo đã lan truyền trên báo chí Trung Quốc. Trích dẫn một báo cáo được
đăng tải trên trang web của Viện nghiên cứu và thiết kế đóng tàu số 9
Trung Quốc (NDRI) tại Thượng Hải, tờ Thời báo Hoàn cầu cho hay kế hoạch đảo nhân tạo - vốn chưa rõ ràng - có thể bao gồm một đường băng và một bến tàu.
Zhang Jie, một chuyên gia về an ninh khu vực tại Học viện khoa học
Trung Quốc, cho biết Trung Quốc từ lâu đã nghiên cứu cải tạo đảo. Các
viện nghiên cứu và các công ty đã phác thảo các thiết kế khác nhau trong
thập niên qua. Chuyên gia này nói thêm rằng bà đã tham dự cuộc thảo
luận về một đề xuất nhiều năm trước."Chúng tôi đã có khả năng xây dựng các đảo nhân tạo nhiều năm trước, nhưng chúng tôi phải kiềm chế vì chúng tôi không muốn gây quá nhiều tranh cãi", bà Zhang nói.
Tuy nhiên, năm nay đã chướng kiến một "bước ngoặt" khi Bắc Kinh liên tiếp tiến hành các hành động khiêu khích trong khu vực, trong đó có việc triển khai một giàn khoan dầu trái phép trong lãnh hải Việt nam.
"Chắc chắn rằng việc xây dựng một hòn đảo nhân tạo có thể trợ giúp tiếp tế cho các tàu và các giàn khoan gần đó, nhưng điều này cũng gây những ảnh hưởng rất tiêu cực trong khu vực", bà Zhang nhận định.
Theo bà Zhang, những động thái như vậy có thể làm gia tăng sự ngờ vực giữa các láng giềng của Trung Quốc và gây mất ổn định trong khu vực.
Bộ quốc phòng và bộ ngoại giao Trung Quốc hiện chưa có bình luận gì về các thông tin trên.
An BìnhTheo SCMP, Wantchinatimes
09/06/2014
Không phải dàn khoan. Gạc Ma mới là chuyện lớn!
Nguyễn Khắc Mai
Cả
tháng nay, chúng ta tập trung vào vụ dàn khoan HY981. Dùng dư luận lên
án, phản đối, dùng cảnh sát biển, kiểm ngư để ngăn cản… Trung Hoa cứ lì
lợm, tăng thêm lực lượng, tăng cả thủ đoạn hành động, tăng cả đấu khẩu,
bất chấp lý lẽ, mặc kệ thiên hạ chê cười. Vì sao?
Nay
đang có thêm một hướng phán đoán mới, để trả lời câu hỏi vì lý do gì mà
Trung Hoa đem giàn khoan vào vùng biển chủ quyền của Việt Nam. Vấn đề
là Gạc Ma!
Có vẻ như “Tàu Khựa” đang dùng mẹo
Tôn Tử, dương Đông kích Tây, đưa giàn khoan xuống để dư luận tập trung
vào đây, còn chúng lại cấp tập, ráo riết đổ vật liệu, biến Gạc Ma thành
một căn cứ, một sân bay quân sự.
Khi
Gạc Ma đã trở thành một căn cứ không quân, bấy giờ mới là vấn đề. Chúng
sẽ tuyên bố về một “Vùng phòng ngự không phận” trên Biển Đông, như
chúng đã làm tại biển Hoa Đông. Còn Việt Nam sẽ nghẽn đường ra Trường
Sa. Bởi Gac Ma sẽ như một cứ điểm nằm ở yết hầu của con đường huyết mạch
quan trọng ấy
Từ năm 1988 sau khi Trung Hoa
dùng vũ lực, tranh cướp Gạc Ma trên tay của Việt Nam, phía Việt Nam chỉ
lên tiếng “bóng gió” rằng Việt Nam có đầy đủ chứng lý, Trường Sa là của
Việt Nam. Tuồng như ban lãnh đạo Việt Nam âm thầm, mặc nhiên công nhận
việc chiếm đóng Gạc Ma của Trung Hoa. Chưa hề có một tố cáo rành mạch,
cương quyết việc chiếm đóng trái phép của phía Trung Hoa. Hơn nữa, hễ ai
tưởng niệm những chiến sĩ hy sinh để bảo vệ Gạc Ma còn bị bắt bớ, cấm
đoán, gây khó dễ.
Thâm độc và nguy hiểm đấy, hành động của Trung Hoa ở Gạc Ma.
Bộ
Chính trị, Chính phủ, Nhà nước không thể tiếp tục lầm lỗi của mình, để
phó mặc cho Trung Hoa làm gì thì làm ở Gạc Ma. Chính đây mới là chỗ để
khởi kiện Trung Hoa ra Tòa án quốc tế. Hãy tập trung khởi kiện hành động
dùng vũ lực quân sự để tranh chấp biển đảo với Việt Nam – một điều bị
cấm trong công ước về Luật biển 1982 của Liên Hiệp Quốc. Rõ ràng đây là
sự vi phạm trắng trợn về luật biển của phía Trung Hoa, một bên đã ký
công ước!
Hãy ngăn cản không để cho Trung Hoa
lộng hành, làm việc đã rồi ở Gạc Ma. Hãy chặn đứng hành động nham hiểm,
thâm độc của Trung Hoa ở Gạc Ma.
Bỏ mặc, để Trung Hoa biến Gạc Ma thành căn cứ không quân của chúng là tội lỗi muôn đời không thể tha thứ!
Không được mắc mưu Trung Hoa đang dương Đông kích Tây!
N. K. M.
Tác giả gửi BVN.
(Chép từ http://boxitvn.blogspot.com)
09/06/2014
Cảnh giác với âm mưu thâm hiểm của Trung Quốc
Hải Ngọc
Trung
Quốc muốn xây dựng “bức tường hàng hải” xung quanh quần đảo Trường Sa
để kiểm soát hoạt động hàng không và hàng hải của các nước trong khu vực
Trung
Quốc đang có kế hoạch xây đảo nhân tạo tại bãi đá Chữ Thập thuộc quần
đảo Trường Sa của Việt Nam, bất chấp sẽ gây bất bình và phản đối từ các
nước láng giềng.
Mưu đồ nguy hiểm
Tờ South China Morning Post (Hồng
Kông) dẫn lời ông Jin Canrong, giáo sư tại Trường ĐH Renmin ở Bắc Kinh,
nói kế hoạch đã được trình lên chính quyền trung ương. Theo ông Jin,
hòn đảo nhân tạo này ít nhất sẽ gấp đôi diện tích 44 km2 của căn cứ quân
sự Diego Garcia (Mỹ) trên Ấn Độ Dương.
Li
Jie, chuyên gia của Viện Nghiên cứu Hải quân Trung Quốc, cho biết trên
đảo nhân tạo sẽ có sân bay và cảng để đáp ứng việc tiếp tế quân sự. Một
đại tá quân đội Trung Quốc về hưu thừa nhận xây đường băng trên bãi Chữ
Thập sẽ cho phép nước này dễ dàng lập vùng nhận dạng phòng không (ADIZ)
trên biển Đông.
Theo bà Zhang Jie, chuyên gia về
an ninh của Học viện Khoa học xã hội Trung Quốc, nước này đã nghiên cứu
cải tạo đảo từ lâu và phác thảo nhiều kiểu thiết kế trong một thập kỷ
qua. “Những động thái như vậy chắc chắn sẽ làm các nước láng giềng mất lòng tin vào Trung Quốc và gây ra bất ổn trong khu vực” - bà Zhang cảnh báo.
Cơ sở Trung Quốc xây dựng trên bãi đá ngầm Gạc Ma. Ảnh: AP
Ngoài
nghi án đảo nhân tạo, Philippines mới đây tiếp tục tố cáo Trung Quốc có
hoạt động đáng ngờ tại các bãi Ga Ven (Gavin), Châu Viên (Cuarteron) và
Gạc Ma (Johnson South) thuộc Trường Sa của Việt Nam.
Theo đài ABS-CBN ngày
7-6, Bộ Quốc phòng Philippines khẳng định việc cải tạo các bãi trên đi
ngược Tuyên bố về ứng xử của các bên trên biển Đông (DOC) và đe dọa hòa
bình, ổn định trong khu vực.
Hết sức dè chừng
Đáng
lo ngại hơn, một quan chức an ninh Philippines khẳng định Trung Quốc
đang xây dựng một “bức tường hàng hải” quanh quần đảo Trường Sa để kiểm
soát hoạt động hàng không và hàng hải của các nước trong khu vực về lâu
dài. Cụ thể, theo ABS-CBN, với căn cứ quân sự trên bãi Ga Ven, Trung Quốc sẽ dòm ngó được đảo Ba Bình của Việt Nam mà Đài Loan đang chiếm đóng trái phép.
Việc
Trung Quốc lấn xuống phía Nam biển Đông khiến Malaysia và Indonesia
không thể ngồi im. Trước đây, Indonesia từng tuyên bố không bao giờ cho
phép Trung Quốc lập ADIZ trên biển Đông.
Ngoài
ra, những hoạt động mờ ám của Trung Quốc trên biển Đông đều lọt vào “tầm
ngắm” của Mỹ, theo người phát ngôn Bộ Ngoại giao Marie Harf. Trong cuộc
họp báo ngày 5-6, bà Harf hối thúc Trung Quốc tham gia vụ kiện mà
Philippines khởi xướng. Tuy nhiên, Tân Hoa Xã ngày 7-6 đưa tin
Bắc Kinh tiếp tục gạt bỏ với lý do Tòa án Trọng tài quốc tế “không có
quyền xét xử tranh chấp lãnh thổ và lãnh hải trong khu vực”.
Không chỉ các nước Đông Nam Á, Ấn Độ cũng đang hết sức dè chừng người láng giềng khó lường. Tờ Times of India cho hay Ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị sẽ đến New Delhi vào ngày 8-6.
Tờ
báo cảnh giác Ấn Độ phải rút ra bài học từ trường hợp của Đông Nam Á.
“Sự thâm nhập về kinh tế của Trung Quốc khiến các nước này mất đi khả
năng chống cự” - tờ báo viết sau khi đưa ra câu hỏi Ấn Độ có nên tạm gác
tranh chấp biên giới để tập trung làm ăn với Trung Quốc.
Tuy
nhiên, với việc Bộ trưởng Nội vụ Rajnath Singh sắp thăm bang Ladakh và
Arunachal Pradesh sát vách Trung Quốc cũng như việc ông Modi thăm Mỹ vào
tháng 9, Ấn Độ đã gửi đi thông điệp: An ninh biên giới vẫn là mối bận
tâm lớn và quan hệ với Mỹ vẫn mạnh mẽ.
Việt Nam tiếp tục gửi công hàm phản đối
Ngày
6-6, Đại sứ Lê Hoài Trung, Trưởng Phái đoàn Đại diện Thường
trực Việt Nam tại Liên Hiệp Quốc, tiếp tục gửi thư lên Tổng Thư ký
Ban Ki-moon kèm theo Công hàm của Bộ Ngoại giao Việt Nam gửi Bộ
Ngoại giao Trung Quốc, phản đối việc Trung Quốc duy trì giàn
khoan Hải Dương 981 (Haiyang Shiyou 981) và các tàu hộ tống, tàu
quân sự, máy bay chiến đấu trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục
địa của Việt Nam. Thậm chí, Trung Quốc còn đâm chìm tàu cá và
đâm thủng tàu cảnh sát biển Việt Nam, làm leo thang căng thẳng ở
biển Đông, đe dọa hòa bình, ổn định cũng như an ninh hàng hải
trong khu vực.
Công hàm trên nhắc lại Việt
Nam kiên quyết yêu cầu Trung Quốc tôn trọng luật pháp quốc tế,
rút ngay giàn khoan Hải Dương 981 cùng các tàu hộ tống ra khỏi
vùng biển Việt Nam và không để tái diễn hành vi tương tự.
H. N.
Nguồn: nld.com.vn
(Chép từ http://boxitvn.blogspot.com)
Chủ Nhật, 8 tháng 6, 2014
LẠC BƯỚC ĐƯỜNG ĐỜI
(Chuyện Tổ Quốc cũng là chuyện của Tôi
Chuyện Tôi cũng là chuyện của Tổ Quốc)
LẠC BƯỚC ĐƯỜNG ĐỜI
Có kẻ dưới quê
Lên người thành phố.
Ngày trật khấc tìm ăn
Đêm mê lòa bù khú
Tháng vùn vụt trôi chẳng biết
Năm lũ lượt đi không hay...
Đêm nay,
Sương phủ bạc đầu, xòe trắng bàn tay,
Rùng mình biết sợ!
Sợ tự bao giờ phố thành đồ sộ
Sợ khối bê tông cao nghệu nghênh ngang
Sợ hoành tráng, xênh xang hai bờ đại lộ
Sợ muôn màu sặc sỡ huy hoàng
Sợ cụ già nài mua vé số...
Ôi, thành phố!
Tự bao giờ văn minh quá lố
Quảng cáo mê man, son phấn bạt ngàn
Đêm cũng như ngày khoe thân loang loáng
Ca kịch loẹt lòe, diêm dúa, hô hoan
Giàu sang xoen xoét cơ hàn
Cơ hàn lặng thầm, cúi đầu giàn giụa...
Đêm nay,
Hồn quê xác phố
Bên rượu đắng mồi cay
Giật mình hoang mang, bỡ ngỡ
Chợt buồn dâng tràn dìm ngợp cô đơn
Nguồn cơn ập về dập dềnh tiếc nhớ
Nhớ bờ môi xưa dịu mềm hương lúa
Nhớ bầu vú xưa căng nuột ánh trăng
Và tiếc một hình hài
săn chắc tảo tần,
giản dị dung nhan!...
Trần Hạnh Thu
HIỂN HÁCH NHỮNG CHIẾN CÔNG
(ĐC sưu tầm trên NET)
Hải quân nhân dân Việt Nam: Hiển hách những chiến công
- Dưới ánh sao vàng
- Đăng ngày Thứ bảy, 21 Tháng 4 2012 09:03
“Ngày
trước ta chỉ có đêm và rừng. Ngày nay ta có ngày, có trời, có biển. Bờ
biển ta dài, tươi đẹp, ta phải biết giữ gìn lấy nó”.
Đúng một năm sau chiến
thắng “chấn động địa cầu”, ngày 7/5/1955, Cục Phòng thủ bờ bể - tiền
thân của Hải quân Nhân dân Việt Nam (NDVN), có quyết định ra đời. Hơn
nửa thế kỷ chiến đấu, Hải quân nhân dân Việt Nam ngày càng trưởng thành
với những chiến công hiển hách.
Thế hệ mười chín, đôi
mươi vừa rời ghế nhà trường phổ thông năm 1964 không thể nào quên kỳ
tích biên đội ba tàu phóng lôi 333, 336 và 339 thuộc phân đội 3, Đoàn
135 ngày ấy…
Phát huy truyền thống đánh thắng trận đầu
Ngày 2/8/1964, khi tàu khu trục Maddox của Mỹ cách Hòn Mê 9 hải lý, Phân đội ba được lệnh nhổ neo xuất kích, tăng tốc vượt trước tìm địch. Tàu Maddox phát hiện có ba tàu tốc độ cao đang tiếp cận. Lúc này Maddox đã ở phía đông Hòn Nẹ, liền tăng tốc độ và chạy ra xa. Phân đội ba bám sát, còn cách 6 hải lý, tàu Maddox đã dùng pháo lớn bắn tới tấp vào đội hình ta.
Chỉ huy trưởng Phân đội lệnh cho tàu 333 tăng tốc độ để chặn địch, tạo điều kiện thuận lợi để hai tàu 336 và 339 tấn công. Khi tiếp cận được góc mạn tàu địch, thuyền trưởng tàu 339 hạ lệnh phóng ngư lôi tiêu diệt tàu địch và chuyển hướng rời khỏi khu vực tác chiến. Lúc này, trên trời, 5 máy bay địch tập kích và bắn trúng khoang máy chính, tàu phải thả trôi vừa tập trung dập lửa, sửa chữa, vừa chiến đấu đánh trả máy bay địch bằng súng 14,5 mm và súng trung liên. Sau khi tàu 339 phóng ngư lôi, tàu 336 tiếp tục tiếp cận mục tiêu và tiến hành phóng ngư lôi rồi giảm tốc độ chuyển hướng rời khỏi khu vực tác chiến.
Chiến thắng trận đầu ra quân, Hải quân không những đuổi được kẻ thù, bảo vệ hải phận mà còn nêu cao ý chí quyết chiến, quyết thắng, dù chênh lệch về trang bị và kinh nghiệm. Tiếp đó, ngày 15/8/1964, bộ đội hải quân hiệp đồng cùng bộ đội phòng không, dân quân tự vệ và nhân dân các tỉnh Quảng Ninh, Thanh Hóa, Nghệ An, Quảng Bình chống lại cuộc hành quân “Mũi tên xuyên” của Mỹ, bắn rơi 8 máy bay, bắt sống phi công Mỹ đầu tiên (trung úy Anvaret).
Suốt hai cuộc chiến tranh phá hoại (1965-1968, 1972-1973), Hải quân đã chiến đấu 716 trận, bắn rơi 118 máy bay, bắn bị thương 102 lần chiếc khác và bắn bị thương 45 lần tàu chiến Mỹ.
Hải quân quyết tâm “đánh địch mà đi, mở đường mà tiến”, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ rà phá, tháo gỡ thủy lôi, mở tuyến thông luồng, trực tiếp vô hiệu hóa 2.400 quả thủy lôi.
Không những thế, theo quyết định của Bộ Chính trị ngày 26/10/1961, Hải quân đã mở đường Hồ Chí Minh trên biển để đưa người, vũ khí vào miền Nam với nòng cốt là đoàn 759 (sau đổi thành Đoàn 125 thuộc Bộ Tư lệnh Hải quân).
Từ 1961 - 1973, Hải quân đã tổ chức được 1.879 lượt tàu thuyền, vận chuyển 152.876 tấn vũ khí, phương tiện, thuốc chữa bệnh và 80.026 cán bộ, chiến sĩ từ Bắc vào Nam, chiến đấu hàng trăm trận với máy bay, tàu chiến của Mỹ ngụy, viết nên trang sử huyền thoại trên Biển Đông.
Ngày 2/8/1964, khi tàu khu trục Maddox của Mỹ cách Hòn Mê 9 hải lý, Phân đội ba được lệnh nhổ neo xuất kích, tăng tốc vượt trước tìm địch. Tàu Maddox phát hiện có ba tàu tốc độ cao đang tiếp cận. Lúc này Maddox đã ở phía đông Hòn Nẹ, liền tăng tốc độ và chạy ra xa. Phân đội ba bám sát, còn cách 6 hải lý, tàu Maddox đã dùng pháo lớn bắn tới tấp vào đội hình ta.
Chỉ huy trưởng Phân đội lệnh cho tàu 333 tăng tốc độ để chặn địch, tạo điều kiện thuận lợi để hai tàu 336 và 339 tấn công. Khi tiếp cận được góc mạn tàu địch, thuyền trưởng tàu 339 hạ lệnh phóng ngư lôi tiêu diệt tàu địch và chuyển hướng rời khỏi khu vực tác chiến. Lúc này, trên trời, 5 máy bay địch tập kích và bắn trúng khoang máy chính, tàu phải thả trôi vừa tập trung dập lửa, sửa chữa, vừa chiến đấu đánh trả máy bay địch bằng súng 14,5 mm và súng trung liên. Sau khi tàu 339 phóng ngư lôi, tàu 336 tiếp tục tiếp cận mục tiêu và tiến hành phóng ngư lôi rồi giảm tốc độ chuyển hướng rời khỏi khu vực tác chiến.
Chiến thắng trận đầu ra quân, Hải quân không những đuổi được kẻ thù, bảo vệ hải phận mà còn nêu cao ý chí quyết chiến, quyết thắng, dù chênh lệch về trang bị và kinh nghiệm. Tiếp đó, ngày 15/8/1964, bộ đội hải quân hiệp đồng cùng bộ đội phòng không, dân quân tự vệ và nhân dân các tỉnh Quảng Ninh, Thanh Hóa, Nghệ An, Quảng Bình chống lại cuộc hành quân “Mũi tên xuyên” của Mỹ, bắn rơi 8 máy bay, bắt sống phi công Mỹ đầu tiên (trung úy Anvaret).
Suốt hai cuộc chiến tranh phá hoại (1965-1968, 1972-1973), Hải quân đã chiến đấu 716 trận, bắn rơi 118 máy bay, bắn bị thương 102 lần chiếc khác và bắn bị thương 45 lần tàu chiến Mỹ.
Hải quân quyết tâm “đánh địch mà đi, mở đường mà tiến”, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ rà phá, tháo gỡ thủy lôi, mở tuyến thông luồng, trực tiếp vô hiệu hóa 2.400 quả thủy lôi.
Không những thế, theo quyết định của Bộ Chính trị ngày 26/10/1961, Hải quân đã mở đường Hồ Chí Minh trên biển để đưa người, vũ khí vào miền Nam với nòng cốt là đoàn 759 (sau đổi thành Đoàn 125 thuộc Bộ Tư lệnh Hải quân).
Từ 1961 - 1973, Hải quân đã tổ chức được 1.879 lượt tàu thuyền, vận chuyển 152.876 tấn vũ khí, phương tiện, thuốc chữa bệnh và 80.026 cán bộ, chiến sĩ từ Bắc vào Nam, chiến đấu hàng trăm trận với máy bay, tàu chiến của Mỹ ngụy, viết nên trang sử huyền thoại trên Biển Đông.
Độc đáo đặc công Hải quân
Một nét đắc sắc của Hải quân là đã sáng tạo ra cách đánh độc đáo, táo bạo và đạt hiệu suất cao của đặc công hải quân. Trong hoàn cảnh trang bị rất chênh lệch, hải quân ta đã nghiên cứu tìm ra cách đánh phù hợp cho Đoàn 126 Đặc công Hải quân, vượt qua tuyến bao vây phong tỏa dày đặc ngày đêm của địch, dựa vào dân, hiệp đồng với các lực lượng trinh sát kỹ thuật, luồn sâu vào các cảng, căn cứ, sân bay, sở chỉ huy, trận địa pháo… của địch, dùng các đơn vị nhỏ, tinh nhuệ, sử dụng vũ khí có uy lực cao, đánh đau, đánh hiểm.
Chiến công của đặc công hải quân đã làm giàu kho tàng tri thức quân sự với kinh nghiệm tác chiến phi đối xứng dành cho những lực lượng yếu và thiếu về trang bị đối đầu với kẻ địch được trang bị tới tận răng. Người Mỹ phải ngạc nhiên: làm thế mà Việt cộng lại có thể mang cả khối thuốc nổ lớn hàng trăm cân đi xuyên rừng, xuyên núi, lọt vào tận nơi neo đậu ngoài biển xa để đánh chìm các tàu chiến của họ?
Bằng phương pháp ngụy trang và rèn luyện chỉ có ở đặc công nước như nằm phơi sương nhiều ngày để mất “mùi người”, làm “tịt mũi” khuyển, ngỗng, các chiến sĩ đặc công dễ dàng lọt qua hàng rào thép gai và chế độ tuần tra dày đặc. Độc đáo hơn, nhờ “ngòi nổ” chế từ đồng hồ đeo tay bình thường, các chiến sĩ đặc công của ta có thể ung dung đi ra khỏi căn cứ của địch và ngắm nhìn chiến công từ xa.
Trong 7 năm chiến đấu liên tục trên chiến trường Cửa Việt – Đông Hà (Quảng Trị), Đoàn 126 đã đánh trên 300 trận, đánh chìm, đánh hỏng nặng 336 tàu, xuồng chiến đấu, vận tải, tiêu diệt nhiều sinh lực địch. Chiến công này không thể tách rời sự đùm bọc của nhân dân, nhất là vùng đất lửa Vĩnh Linh.
Một nét đắc sắc của Hải quân là đã sáng tạo ra cách đánh độc đáo, táo bạo và đạt hiệu suất cao của đặc công hải quân. Trong hoàn cảnh trang bị rất chênh lệch, hải quân ta đã nghiên cứu tìm ra cách đánh phù hợp cho Đoàn 126 Đặc công Hải quân, vượt qua tuyến bao vây phong tỏa dày đặc ngày đêm của địch, dựa vào dân, hiệp đồng với các lực lượng trinh sát kỹ thuật, luồn sâu vào các cảng, căn cứ, sân bay, sở chỉ huy, trận địa pháo… của địch, dùng các đơn vị nhỏ, tinh nhuệ, sử dụng vũ khí có uy lực cao, đánh đau, đánh hiểm.
Chiến công của đặc công hải quân đã làm giàu kho tàng tri thức quân sự với kinh nghiệm tác chiến phi đối xứng dành cho những lực lượng yếu và thiếu về trang bị đối đầu với kẻ địch được trang bị tới tận răng. Người Mỹ phải ngạc nhiên: làm thế mà Việt cộng lại có thể mang cả khối thuốc nổ lớn hàng trăm cân đi xuyên rừng, xuyên núi, lọt vào tận nơi neo đậu ngoài biển xa để đánh chìm các tàu chiến của họ?
Bằng phương pháp ngụy trang và rèn luyện chỉ có ở đặc công nước như nằm phơi sương nhiều ngày để mất “mùi người”, làm “tịt mũi” khuyển, ngỗng, các chiến sĩ đặc công dễ dàng lọt qua hàng rào thép gai và chế độ tuần tra dày đặc. Độc đáo hơn, nhờ “ngòi nổ” chế từ đồng hồ đeo tay bình thường, các chiến sĩ đặc công của ta có thể ung dung đi ra khỏi căn cứ của địch và ngắm nhìn chiến công từ xa.
Trong 7 năm chiến đấu liên tục trên chiến trường Cửa Việt – Đông Hà (Quảng Trị), Đoàn 126 đã đánh trên 300 trận, đánh chìm, đánh hỏng nặng 336 tàu, xuồng chiến đấu, vận tải, tiêu diệt nhiều sinh lực địch. Chiến công này không thể tách rời sự đùm bọc của nhân dân, nhất là vùng đất lửa Vĩnh Linh.
Giải phóng quần đảo Trường Sa, bảo vệ chủ quyền
Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mùa xuân 1975, Hải quân đã hiệp đồng tác chiến hướng biển. Đặc biệt, đã phối hợp chặt chẽ với Quân khu 5 thần tốc, tạo báo, bí mật giải phóng quần đảo Trường Sa, góp phần vào thắng lợi trọn vẹn, vĩ đại của dân tộc.
Mở đầu là trận đánh ở đảo Song Tử Tây (14/4/1975). Bằng trận tập kích đổ bộ đường biển của Đội đặc công 1 (Đoàn 126) và ba tàu của Đoàn 125 phối hợp đặc công Quân khu 5, sau 30 phút, ta đã làm chủ trận địa, tạo điều kiện phát triển tiến công giải phóng các đảo khác. Tiếp đó, Hải quân đã dũng cảm chiến đấu, bảo vệ toàn vẹn vùng biển Tây Nam của Tổ quốc.
Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mùa xuân 1975, Hải quân đã hiệp đồng tác chiến hướng biển. Đặc biệt, đã phối hợp chặt chẽ với Quân khu 5 thần tốc, tạo báo, bí mật giải phóng quần đảo Trường Sa, góp phần vào thắng lợi trọn vẹn, vĩ đại của dân tộc.
Mở đầu là trận đánh ở đảo Song Tử Tây (14/4/1975). Bằng trận tập kích đổ bộ đường biển của Đội đặc công 1 (Đoàn 126) và ba tàu của Đoàn 125 phối hợp đặc công Quân khu 5, sau 30 phút, ta đã làm chủ trận địa, tạo điều kiện phát triển tiến công giải phóng các đảo khác. Tiếp đó, Hải quân đã dũng cảm chiến đấu, bảo vệ toàn vẹn vùng biển Tây Nam của Tổ quốc.
Suốt từ
năm 1975 đến nay, vượt qua mọi khó khăn thử thách, kể cả hy sinh xương
máu, Hải quân đã cùng với quân dân cả nước bảo vệ chủ quyền, giữ vững
môi trường hòa bình, ổn định trên các vùng đảo, thềm lục địa của Tổ
quốc. Quá trình xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, Hải quân Nhân dân
Việt Nam đã xây đắp nên truyền thông vẻ vang: “Chiến đấu anh dũng – Mưu
trí sáng tạo – Làm chủ vùng biển – Quyết chiến quyết thắng”.
VĂN TUẤN (ĐẤT VIỆT ONLINE)
Chính sách biển và hải quân Việt Nam dưới góc nhìn của người Nga
- Chủ quyền Việt Nam
- Đăng ngày Thứ bảy, 21 Tháng 4 2012 08:47
Về
truyền thống, Việt Nam xưa nay vốn dĩ vẫn là quốc gia hải quân yếu và
sự yếu kém này đã không chỉ một lần ảnh hưởng tai hại đối với an ninh
quốc gia của Việt Nam.
Bài viết của Prokhor Yurevich Tebin, nghiên cứu sinh Viện Kinh tế thế giới và Quan hệ quốc tế, Viện Hàn lâm khoa học Nga.
Chiến hạm HQ-012 Lý Thái Tổ huấn luyện trên biển
|
Đông Nam Á là một trong những khu vực phát triển năng
động nhất trong những năm gần đây. Có thể tự tin nói đến sự xuất hiện
một trung tâm địa-chính trị mới của thế giới. Điều đó được quy định bởi
sự tập trung tại khu vực này các tuyến giao thương hàng hải chủ chốt,
các nguồn tài nguyên, dân số 600 triệu người và tiềm năng xung đột cao.
Tiềm năng xung đột được quy định một mặt bởi sự hiện diện của một số lượng đáng kể các mối đe dọa phi nhà nước (khủng bố quốc tế, cướp biển, buôn bán ma túy) và nội bộ quốc gia (bất ổn chính trị, các xung đột sắc tộc, tôn giáo chưa được giải quyết), mặt khác bởi sự đối kháng giữa các quốc gia, kể cả giữa một số quốc gia trong khu vực, lẫn các cường quốc ngoài khu vực.
Yếu tố chủ chốt của nền chính trị khu vực ở Đông Nam Á là sự gia tăng mạnh vai trò của đại dương thế giới. Eo biển Malacca và Biển Đông ở mức độ đáng kể bảo đảm cho sự tăng trưởng kinh tế trong khu vực, nhưng chúng cũng tạo ra phần lớn các nguy cơ đối với an ninh quốc gia và quốc tế. Chính các tuyến đường biển quy định vai trò lớn mà các cường quốc ngoài khu vực là Ấn Độ, Nhật Bản và Mỹ đang có ở đây. Không có gì ngạc nhiên khi các quốc gia trong khu vực đều “đã quay ra hướng biển” và dành sự chú ý ngày càng lớn cho chính sách biển.
Một trong các quốc gia then chốt ở khu vực lấy chính sách biển làm chỗ dựa là Việt Nam. Để phát triển kinh tế và bảo đảm an ninh quốc gia của một nước 90 triệu dân, việc phát triển tiềm năng biển nói chung và hải quân nói riêng sẽ là một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất trong tương lai gần. Hơn nữa, sự phát triển sức mạnh hải quân của Việt Nam đã trở thành yếu tố quan trọng trong “ván cờ lớn” của ba gã khổng lồ Trung Quốc, Ấn Độ và Mỹ.
Tiềm năng xung đột được quy định một mặt bởi sự hiện diện của một số lượng đáng kể các mối đe dọa phi nhà nước (khủng bố quốc tế, cướp biển, buôn bán ma túy) và nội bộ quốc gia (bất ổn chính trị, các xung đột sắc tộc, tôn giáo chưa được giải quyết), mặt khác bởi sự đối kháng giữa các quốc gia, kể cả giữa một số quốc gia trong khu vực, lẫn các cường quốc ngoài khu vực.
Yếu tố chủ chốt của nền chính trị khu vực ở Đông Nam Á là sự gia tăng mạnh vai trò của đại dương thế giới. Eo biển Malacca và Biển Đông ở mức độ đáng kể bảo đảm cho sự tăng trưởng kinh tế trong khu vực, nhưng chúng cũng tạo ra phần lớn các nguy cơ đối với an ninh quốc gia và quốc tế. Chính các tuyến đường biển quy định vai trò lớn mà các cường quốc ngoài khu vực là Ấn Độ, Nhật Bản và Mỹ đang có ở đây. Không có gì ngạc nhiên khi các quốc gia trong khu vực đều “đã quay ra hướng biển” và dành sự chú ý ngày càng lớn cho chính sách biển.
Một trong các quốc gia then chốt ở khu vực lấy chính sách biển làm chỗ dựa là Việt Nam. Để phát triển kinh tế và bảo đảm an ninh quốc gia của một nước 90 triệu dân, việc phát triển tiềm năng biển nói chung và hải quân nói riêng sẽ là một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất trong tương lai gần. Hơn nữa, sự phát triển sức mạnh hải quân của Việt Nam đã trở thành yếu tố quan trọng trong “ván cờ lớn” của ba gã khổng lồ Trung Quốc, Ấn Độ và Mỹ.
Hai tàu chiến uy lực nhất của Hải quân Việt Nam hiện nay, HQ-011 Đinh Tiên Hoàng và HQ-012 Lý Thái Tổ huấn luyện trên biển
|
Chính sách biển
Về truyền thống, Việt Nam xưa nay vốn dĩ vẫn là quốc
gia hải quân yếu và sự yếu kém này đã không chỉ một lần ảnh hưởng tai
hại đối với an ninh quốc gia của Việt Nam. Thời chiến tranh của Mỹ ở
Việt Nam, ưu thế trên biển hiển nhiên đã cho phép Mỹ tự do tiến hành
chuyển quân và tấn công bờ biển miền Bắc Việt Nam. Năm 1974, sau một
cuộc va chạm nhỏ giữa các tàu chiến của Việt Nam cộng hòa và Trung Quốc,
Trung Quốc đã thiết lập quyền kiểm soát đối với quần đảo Hoàng Sa của
Việt Nam.
Trong cuộc chiến tranh Trung-Việt năm 1979, Việt Nam đã thể hiện được sức mạnh của lực lượng vũ trang của mình ở trên bộ và sự yếu kém trên biển, điều đó đã được bù đắp bởi sự hiện diện của một binh đoàn tàu chiến lớn của Liên Xô. Các chiến hạm Liên Xô đã bảo đảm nhiệm vụ bảo vệ bờ biển Việt Nam, giao thông vận tải của Việt Nam, cũng như kiềm chế hạm đội Trung Quốc. Các tàu Liên Xô cũng đã đóng vai trò lớn trong việc ngăn chặn Mỹ can thiệp vào cuộc chiến khi Mỹ duy trì sự hiện diện của cụm tàu sân bay do tàu sân bay Constellation dẫn đầu ở gần bờ biển Việt Nam trong 3 tháng.
Một trong những kết quả của cuộc chiến Trung-Việt là việc Hà Nội và Moskva ký kết hiệp định thành lập trạm bảo đảm vật chất-kỹ thuật của Hải quân Liên Xô ở Cam Ranh, căn cứ hải quân lớn nhất của Liên Xô ở nước ngoài. Tuy nhiên, năm 1988, hạm đội Liên Xô đã không thể trợ giúp Việt Nam trong cuộc va chạm mới giữa các tàu chiến Việt Nam và Trung Quốc ở bãi đá Gạc Ma, trong đó Việt Nam lại thất bại và Trung Quốc kiểm soát được một bộ phận các đảo của quần đảo Trường Sa.
Sau khi Liên Xô sụp đổ, Việt Nam đã có cách nhìn khác về sự cần thiết phát triển chính sách biển. Tấm gương điển hình đối với Việt Nam là trường hợp Singapore, quốc gia đã từ một mảnh đất nhỏ ở cực nam eo biển Malacca trở thành một trong những nước dẫn đầu thế giới về GDP trên đầu người nhờ phát triển hạ tầng cảng biển và thương mại đường biển.
Khác với Singapore, Trung Quốc, Thái Lan và Malaysia, Việt Nam có hạ tầng cảng biển cực kỳ yếu. Ba hải cảng lớn nhất của Việt Nam là Thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng và Đà Nẵng thua xa Hongkong, Tanjung Pelepas và Port Klang của Malaysia, Laem Chabang của Thái Lan về doanh thu và chất lượng dịch vụ. Sự tụt hậu này có tác động tiêu cực tới khả năng cạnh tranh của kinh tế Việt Nam và cản trở việc phát triển khai thác dầu mỏ và các tài nguyên khác.
Năm 1999, Chính phủ Việt Nam đã công bố chương trình 10 năm phát triển hạ tầng cảng biển và nó đã chỉ được thực hiện một phần. Mặc dù vậy, Việt Nam đã tìm được một đồng minh chiến lược là đối tác lâu đời Ấn Độ, quốc gia từ thập niên 1990 đã phát triển học thuyết “Hướng đông” và đang muốn bám trụ ở Đông Nam Á. Mùa thu năm 2011, tập đoàn dầu khí Videsh của Ấn Độ và PetroVietnam của Việt Nam đã ký hợp đồng đối tác 3 năm trong lĩnh vực thăm dò, khai thác các mỏ dầu khí ở Biển Đông.
Việc củng cố quan hệ giữa Hà Nội và New Delhi đã làm cho quan hệ Việt-Trung căng thẳng hơn nữa. Tờ báo China Energy News của Trung Quốc đã đăng bài kêu gọi Ấn Độ và Việt Nam hủy hợp đồng dầu khí này và đe dọa không cho thực hiện hợp đồng,
Mặc dù cả hai nước đều có chung ý thức hệ cộng sản, Trung Quốc vẫn là mối đe dọa chủ yếu đối với an ninh quốc gia của Việt Nam. Sau hơn 30 năm đối đầu, sự căng thẳng trong quan hệ giữa Bắc Kinh và Hà Nội ở Biển Đông đang gia tăng. Các yêu sách chủ quyền của Trung Quốc đối với phần lớn Biển Đông, các quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa khiến cho Việt Nam ngày càng bất bình.
Ấn Độ cảm thấy ngày càng tự tin ở Đông Nam Á và vì Việt Nam họ sẵn sàng chấp nhận sự gia tăng căng thẳng nhất định trong quan hệ với Trung Quốc.
Một đối tác khác của Việt Nam trong cuộc đối đầu với các tham vọng của Trung Quốc trong khu vực là Mỹ. Sau khi Liên Xô tan vỡ, Hà Nội và Washington đã chủ trương vượt qua sự thù địch do chiến tranh để lại. Năm 2000, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ đã thăm Việt Nam lần đầu tiên sau chiến tranh. Năm 2010 và 2011, Mỹ và Việt Nam đã tiến hành đợt huấn luyện hải quân chung mà lập tức bị giới lãnh đạo quân sự Trung Quốc gọi là “không phù hợp”.
Trong cuộc chiến tranh Trung-Việt năm 1979, Việt Nam đã thể hiện được sức mạnh của lực lượng vũ trang của mình ở trên bộ và sự yếu kém trên biển, điều đó đã được bù đắp bởi sự hiện diện của một binh đoàn tàu chiến lớn của Liên Xô. Các chiến hạm Liên Xô đã bảo đảm nhiệm vụ bảo vệ bờ biển Việt Nam, giao thông vận tải của Việt Nam, cũng như kiềm chế hạm đội Trung Quốc. Các tàu Liên Xô cũng đã đóng vai trò lớn trong việc ngăn chặn Mỹ can thiệp vào cuộc chiến khi Mỹ duy trì sự hiện diện của cụm tàu sân bay do tàu sân bay Constellation dẫn đầu ở gần bờ biển Việt Nam trong 3 tháng.
Một trong những kết quả của cuộc chiến Trung-Việt là việc Hà Nội và Moskva ký kết hiệp định thành lập trạm bảo đảm vật chất-kỹ thuật của Hải quân Liên Xô ở Cam Ranh, căn cứ hải quân lớn nhất của Liên Xô ở nước ngoài. Tuy nhiên, năm 1988, hạm đội Liên Xô đã không thể trợ giúp Việt Nam trong cuộc va chạm mới giữa các tàu chiến Việt Nam và Trung Quốc ở bãi đá Gạc Ma, trong đó Việt Nam lại thất bại và Trung Quốc kiểm soát được một bộ phận các đảo của quần đảo Trường Sa.
Sau khi Liên Xô sụp đổ, Việt Nam đã có cách nhìn khác về sự cần thiết phát triển chính sách biển. Tấm gương điển hình đối với Việt Nam là trường hợp Singapore, quốc gia đã từ một mảnh đất nhỏ ở cực nam eo biển Malacca trở thành một trong những nước dẫn đầu thế giới về GDP trên đầu người nhờ phát triển hạ tầng cảng biển và thương mại đường biển.
Khác với Singapore, Trung Quốc, Thái Lan và Malaysia, Việt Nam có hạ tầng cảng biển cực kỳ yếu. Ba hải cảng lớn nhất của Việt Nam là Thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng và Đà Nẵng thua xa Hongkong, Tanjung Pelepas và Port Klang của Malaysia, Laem Chabang của Thái Lan về doanh thu và chất lượng dịch vụ. Sự tụt hậu này có tác động tiêu cực tới khả năng cạnh tranh của kinh tế Việt Nam và cản trở việc phát triển khai thác dầu mỏ và các tài nguyên khác.
Năm 1999, Chính phủ Việt Nam đã công bố chương trình 10 năm phát triển hạ tầng cảng biển và nó đã chỉ được thực hiện một phần. Mặc dù vậy, Việt Nam đã tìm được một đồng minh chiến lược là đối tác lâu đời Ấn Độ, quốc gia từ thập niên 1990 đã phát triển học thuyết “Hướng đông” và đang muốn bám trụ ở Đông Nam Á. Mùa thu năm 2011, tập đoàn dầu khí Videsh của Ấn Độ và PetroVietnam của Việt Nam đã ký hợp đồng đối tác 3 năm trong lĩnh vực thăm dò, khai thác các mỏ dầu khí ở Biển Đông.
Việc củng cố quan hệ giữa Hà Nội và New Delhi đã làm cho quan hệ Việt-Trung căng thẳng hơn nữa. Tờ báo China Energy News của Trung Quốc đã đăng bài kêu gọi Ấn Độ và Việt Nam hủy hợp đồng dầu khí này và đe dọa không cho thực hiện hợp đồng,
Mặc dù cả hai nước đều có chung ý thức hệ cộng sản, Trung Quốc vẫn là mối đe dọa chủ yếu đối với an ninh quốc gia của Việt Nam. Sau hơn 30 năm đối đầu, sự căng thẳng trong quan hệ giữa Bắc Kinh và Hà Nội ở Biển Đông đang gia tăng. Các yêu sách chủ quyền của Trung Quốc đối với phần lớn Biển Đông, các quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa khiến cho Việt Nam ngày càng bất bình.
Ấn Độ cảm thấy ngày càng tự tin ở Đông Nam Á và vì Việt Nam họ sẵn sàng chấp nhận sự gia tăng căng thẳng nhất định trong quan hệ với Trung Quốc.
Một đối tác khác của Việt Nam trong cuộc đối đầu với các tham vọng của Trung Quốc trong khu vực là Mỹ. Sau khi Liên Xô tan vỡ, Hà Nội và Washington đã chủ trương vượt qua sự thù địch do chiến tranh để lại. Năm 2000, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ đã thăm Việt Nam lần đầu tiên sau chiến tranh. Năm 2010 và 2011, Mỹ và Việt Nam đã tiến hành đợt huấn luyện hải quân chung mà lập tức bị giới lãnh đạo quân sự Trung Quốc gọi là “không phù hợp”.
Xây dựng hải quân
Ban lãnh đạo Việt Nam nhận thức được rằng, Việt Nam
không thể tham gia cuộc chạy đua vũ khí hải quân thực sự với Trung Quốc.
Tuy nhiên, kinh nghiệm các cuộc xung đột trước đó cho thấy rằng, để bảo
vệ các lợi ích quốc gia của mình, Việt Nam phải có tiềm lực hải quân đủ
mạnh. Trong những năm đầu 2000, Hà Nội chủ trương xây dựng một hạm đội
ven bờ hiện đại và có khả năng chiến đấu cao. Đối tác chính của Việt Nam
trong lĩnh vực này là Nga và ở mức độ thấp hơn là Ấn Độ.
Theo cách tiếp cận của Việt Nam, hạm đội là dùng để bảo vệ lãnh thổ ven bờ và vùng đặc quyền kinh tế của mình. Việt Nam không cố gắng thiết lập ưu thế trên biển một khi xảy ra xung đột với Trung Quốc, nhưng dự định có được khả năng gây tổn thất đủ lớn cho đối phương và ngăn chặn Trung Quốc thi hành chính sách fait accompli (việc đã rồi). Đây sẽ là yếu tố kiềm chế quan trọng trong quan hệ Trung-Việt.
Ngoài đối phó với Trung Quốc, hạm đội Việt Nam phải có khả năng đối phó với các mối đe dọa trên biển phi truyền thống (buôn lậu, hải tặc, buôn bán ma túy…), cũng như sẵn sàng cho một cuộc xung đột ít có khả năng xảy ra song không thể loại trừ với một nước Đông Nam Á khác.
Theo các nhiệm vụ chính trị và quân sự được giao, Hải quân Việt Nam trong một thời gian dài thực tế chỉ là “hạm đội muỗi” với toàn tàu nhỏ, nay hướng đến thành lập một hạm đội tàu ngầm hùng mạnh, đóng các frigate hạng nhẹ và corvette hiện đại, cũng như các tàu xuồng trang bị pháo-tên lửa.
Theo cách tiếp cận của Việt Nam, hạm đội là dùng để bảo vệ lãnh thổ ven bờ và vùng đặc quyền kinh tế của mình. Việt Nam không cố gắng thiết lập ưu thế trên biển một khi xảy ra xung đột với Trung Quốc, nhưng dự định có được khả năng gây tổn thất đủ lớn cho đối phương và ngăn chặn Trung Quốc thi hành chính sách fait accompli (việc đã rồi). Đây sẽ là yếu tố kiềm chế quan trọng trong quan hệ Trung-Việt.
Ngoài đối phó với Trung Quốc, hạm đội Việt Nam phải có khả năng đối phó với các mối đe dọa trên biển phi truyền thống (buôn lậu, hải tặc, buôn bán ma túy…), cũng như sẵn sàng cho một cuộc xung đột ít có khả năng xảy ra song không thể loại trừ với một nước Đông Nam Á khác.
Theo các nhiệm vụ chính trị và quân sự được giao, Hải quân Việt Nam trong một thời gian dài thực tế chỉ là “hạm đội muỗi” với toàn tàu nhỏ, nay hướng đến thành lập một hạm đội tàu ngầm hùng mạnh, đóng các frigate hạng nhẹ và corvette hiện đại, cũng như các tàu xuồng trang bị pháo-tên lửa.
Tầm ngắm thông thường
Tàu ngầm Projekt 636 Varshavyanka
|
Dự án lớn nhất mà Việt Nam đang thực hiện trong lĩnh
vực xây dựng hải quân là việc mua sắm từ Nga 6 tàu ngầm thông thường
Projekt 636 Kilo.
Hợp đồng này được ký năm 2009, trị giá 1, 8 tỷ USD, tàu ngầm đầu tiên đã được khởi đóng tại Admiralteiskye Verfi ở St. Petersburg vào tháng 8/2010.
Nga cũng sẽ hỗ trợ xây dựng căn cứ tàu ngầm và hạ tầng đi kèm tại Việt Nam. Chi phí xây dựng căn cứ ước 1,5-2,1 tỷ USD.
Các tàu ngầm thông thường hiện đại được trang bị tên lửa chống hạm (các tàu ngầm Việt Nam nhiều khả năng sẽ được trang bị hệ thống tên lửa Club-S), là một trong những chủng loại vũ khí trang bị hải quân tối ưu nhất xét từ giác độ hệ số chi phí/hiệu quả.
Khi cần, Việt Nam sẽ có thể bảo đảm sự hiện diện thường xuyên của một số tàu ngầm ở ngoài khơi, điều này sẽ cho phép trong trường hợp xung đột tranh giành ưu thế cục bộ trên biển của Trung Quốc trong một thời gian nhất định.
Ấn Độ với hải quân sở hữu 10 tàu ngầm thông thường do Nga đóng cũng sẽ giúp đỡ Việt Nam khai thác tàu ngầm Nga và đào tạo các thủy thủ đoàn. Cũng cần lưu ý rằng, Hải quân Việt Nam còn có trong biên chế 2 tàu ngầm siêu nhỏ lớp Yugo mua từ CHDCND Triều Tiên vào năm 1997.
Hợp đồng này được ký năm 2009, trị giá 1, 8 tỷ USD, tàu ngầm đầu tiên đã được khởi đóng tại Admiralteiskye Verfi ở St. Petersburg vào tháng 8/2010.
Nga cũng sẽ hỗ trợ xây dựng căn cứ tàu ngầm và hạ tầng đi kèm tại Việt Nam. Chi phí xây dựng căn cứ ước 1,5-2,1 tỷ USD.
Các tàu ngầm thông thường hiện đại được trang bị tên lửa chống hạm (các tàu ngầm Việt Nam nhiều khả năng sẽ được trang bị hệ thống tên lửa Club-S), là một trong những chủng loại vũ khí trang bị hải quân tối ưu nhất xét từ giác độ hệ số chi phí/hiệu quả.
Khi cần, Việt Nam sẽ có thể bảo đảm sự hiện diện thường xuyên của một số tàu ngầm ở ngoài khơi, điều này sẽ cho phép trong trường hợp xung đột tranh giành ưu thế cục bộ trên biển của Trung Quốc trong một thời gian nhất định.
Ấn Độ với hải quân sở hữu 10 tàu ngầm thông thường do Nga đóng cũng sẽ giúp đỡ Việt Nam khai thác tàu ngầm Nga và đào tạo các thủy thủ đoàn. Cũng cần lưu ý rằng, Hải quân Việt Nam còn có trong biên chế 2 tàu ngầm siêu nhỏ lớp Yugo mua từ CHDCND Triều Tiên vào năm 1997.
Tác chiến biển xa
Thành phần quan trọng thứ hai của hạm đội đổi mới Việt Nam là các tàu chiến lớp corvette hạng nặng/frigate hạng nhẹ. Năm 2011, Nga đã chuyển giao cho Việt Nam 2 tàu hộ vệ lớp Projekt 11661E Gepard 3.9 đóng tại Nhà máy Zelenodolsk mang tên A.M. Gorky theo thiết kế của Viện thiết kế Zelenodolsk (ZPKB). Hợp đồng này trị giá 350 triệu USD được ký vào năm 2006.
Các chiến hạm này trong biên chế Hải quân Việt Nam được đặt tên lửa HQ-011 Đinh Tiên Hoàng và HQ-012 Lý Thái Tổ, có lượng giãn nước 2.100 tấn và tốc độ tối đa đến 27 hải lý/h. Vũ khí chính của tàu là hệ thống tên lửa chống hạm Uran-E với cơ số đạn gồm 8 quả tên lửa chống hạm Kh-35E.
Thành phần quan trọng thứ hai của hạm đội đổi mới Việt Nam là các tàu chiến lớp corvette hạng nặng/frigate hạng nhẹ. Năm 2011, Nga đã chuyển giao cho Việt Nam 2 tàu hộ vệ lớp Projekt 11661E Gepard 3.9 đóng tại Nhà máy Zelenodolsk mang tên A.M. Gorky theo thiết kế của Viện thiết kế Zelenodolsk (ZPKB). Hợp đồng này trị giá 350 triệu USD được ký vào năm 2006.
Các chiến hạm này trong biên chế Hải quân Việt Nam được đặt tên lửa HQ-011 Đinh Tiên Hoàng và HQ-012 Lý Thái Tổ, có lượng giãn nước 2.100 tấn và tốc độ tối đa đến 27 hải lý/h. Vũ khí chính của tàu là hệ thống tên lửa chống hạm Uran-E với cơ số đạn gồm 8 quả tên lửa chống hạm Kh-35E.
Chiến hạm HQ-011 Đinh Tiên Hoàng
|
Sau khi nhận được 2 tàu Gepard đầu tiên, Việt Nam đã
chuyển điều khoản phụ của hợp đồng thành hợp đồng cứng, đóng thêm 2 tàu
loại này. Khác với 2 tàu đầu tiên, các tàu này sẽ có vũ khí chống ngầm
mạnh hơn.
Mùa thu năm 2011, có tin Việt Nam đang đàm phán với công ty Damen Schelde Naval Shipbuilding của Hà Lan về khả năng mua sắm 4 chiến hạm lớp SIGMA, loại tàu đang được đóng cho Indonesia và Morocco. Lớp tàu này có một số biến thể với lượng giãn nước từ 1.700-2.400 tấn.
Mùa thu năm 2011, có tin Việt Nam đang đàm phán với công ty Damen Schelde Naval Shipbuilding của Hà Lan về khả năng mua sắm 4 chiến hạm lớp SIGMA, loại tàu đang được đóng cho Indonesia và Morocco. Lớp tàu này có một số biến thể với lượng giãn nước từ 1.700-2.400 tấn.
Tàu hộ tống lớp SIGMA |
Xét về tính năng và vũ khí, các tàu lớp SIGMA tương
đương với Gepard của Nga, nhưng có giá cao hơn: tùy thuộc biến thể cụ
thể, Việt Nam sẽ phải trả cho các tàu này 230-400 triệu USD/chiếc. Nếu
hợp đồng sẽ được ký kết thì 2 tàu SIGMA đầu tiên dự định đóng ở Hà Lan, 2
tàu còn lại đóng tại Việt Nam.
Nhiều chuyên giá đánh giá khá thấp tiềm lực chiến đấu của các tàu Geparad và SIGMA khi chê trách các hệ thống chống ngầm và phòng không là yếu. Được đánh giá ngược lại lớp tàu corvette hạng nặng/frigate hạng nhẹ là các tàu ngầm thông thường và tàu xuồng tên lửa cỡ nhỏ. Tuy nhiên, các tàu chiến nổi biển xa cũng có hàng loạt ưu thế mà người ta thường không chú ý.
Nhiều chuyên giá đánh giá khá thấp tiềm lực chiến đấu của các tàu Geparad và SIGMA khi chê trách các hệ thống chống ngầm và phòng không là yếu. Được đánh giá ngược lại lớp tàu corvette hạng nặng/frigate hạng nhẹ là các tàu ngầm thông thường và tàu xuồng tên lửa cỡ nhỏ. Tuy nhiên, các tàu chiến nổi biển xa cũng có hàng loạt ưu thế mà người ta thường không chú ý.
HQ-012 Lý Thái Tổ
|
Khác với các tàu xuồng tên lửa nhỏ, các tàu như
Gepard của Nga có khả năng tiến hành tuần tra khá lâu ở khoảng cách khá
xa bờ biển Việt Nam. Có trong tay 4-8 tàu chiến loại này, Việt Nam có
khả năng bảo đảm sự hiện diện của 1-3 tàu ở Biển Đông. Kinh nghiệm đụng
độ với hạm đội Trung Quốc năm 1974 và 1988 đã cho thấy rằng, các cuộc va
chạm hải quân quy mô nhỏ có thể có những hậu quả chính trị lâu dài. Sự
hạn chế về thời gian, lực lượng tham gia và tổn thất của cả hai phía của
các cuộc đụng độ đó đã cho phép Trung Quốc thực thi thành công chính
sách “việc đã rồi” mà không thèm chú ý đến cộng đồng quốc tế.
Việc Việt Nam sở hữu các tàu chiến biển xa hiện đại, được trang bị hệ thống tên lửa chống hạm uy lực mạnh làm tăng mạnh rủi ro đối với hạm đội Trung Quốc và làm giảm xác suất tiến hành một chiến dịch chóng vánh hiệu quả theo kịch bản năm 1974 và 1988. Hơn nữa, khác với tàu ngầm, các tàu chiến mặt nước là biểu hiện dễ thấy nhất của sức mạnh hải quân của quốc gia.
Các tàu ngầm có khả năng đóng vai trò then chốt trong trường hợp nổ ra xung đột, nhưng không phải là công cụ hiệu quả để ngăn chặn nó. Ta nên nhớ lại cuộc khủng hoảng năm 1977 xung quanh quần đảo Falklands/Malvinas, khi mà sự hiện diện của một tàu ngầm nguyên tử Anh đã không giúp gì nhiều trong việc kiềm chế xung đột và đã không thể ngăn chặn cuộc chiến tranh năm 1982.
Ngoài ra, đối với Đảng Cộng sản Việt Nam, các chiến hạm mặt nước cỡ lớn là công cụ ngoại giao hải quân và phô trương sức mạnh quốc gia, cũng như là biểu tượng dễ thấy của uy thế quốc gia phục vụ tuyên truyền đối nội.
Hiện tại, Hải quân Việt Nam còn sở hữu 5 tàu hộ vệ lạc hậu Projekt 159 (3 tàu 159А và 2 tàu 159АE, HQ-09/11/13/15/17) mà Liên Xô chuyển giao trong thập niên 1960-1970. Các tàu này sắp tới chắc chắn sẽ bị loại khỏi biên chế hạm đội Việt Nam.
Việc Việt Nam sở hữu các tàu chiến biển xa hiện đại, được trang bị hệ thống tên lửa chống hạm uy lực mạnh làm tăng mạnh rủi ro đối với hạm đội Trung Quốc và làm giảm xác suất tiến hành một chiến dịch chóng vánh hiệu quả theo kịch bản năm 1974 và 1988. Hơn nữa, khác với tàu ngầm, các tàu chiến mặt nước là biểu hiện dễ thấy nhất của sức mạnh hải quân của quốc gia.
Các tàu ngầm có khả năng đóng vai trò then chốt trong trường hợp nổ ra xung đột, nhưng không phải là công cụ hiệu quả để ngăn chặn nó. Ta nên nhớ lại cuộc khủng hoảng năm 1977 xung quanh quần đảo Falklands/Malvinas, khi mà sự hiện diện của một tàu ngầm nguyên tử Anh đã không giúp gì nhiều trong việc kiềm chế xung đột và đã không thể ngăn chặn cuộc chiến tranh năm 1982.
Ngoài ra, đối với Đảng Cộng sản Việt Nam, các chiến hạm mặt nước cỡ lớn là công cụ ngoại giao hải quân và phô trương sức mạnh quốc gia, cũng như là biểu tượng dễ thấy của uy thế quốc gia phục vụ tuyên truyền đối nội.
Hiện tại, Hải quân Việt Nam còn sở hữu 5 tàu hộ vệ lạc hậu Projekt 159 (3 tàu 159А và 2 tàu 159АE, HQ-09/11/13/15/17) mà Liên Xô chuyển giao trong thập niên 1960-1970. Các tàu này sắp tới chắc chắn sẽ bị loại khỏi biên chế hạm đội Việt Nam.
Hệ thống tên lửa bờ biển K-300P Bastion-P
|
Các tàu ven bờ và các hệ thống tên lửa phòng thủ bờ biển
Nền tảng của hạm đội Việt Nam là các tàu xuồng tên lửa cỡ nhỏ do Liên Xô và Nga đóng.
Trong những năm 1990-đầu những năm 2000, Hải quân Việt Nam đã mua của Nga 6 tàu tên lửa Projekt 1241RE (HQ-371-374/377/378), mỗi tàu mang 4 tên lửa chống hạm P-20M. Giá rẻ, khai thác đơn giản và sức mạnh hỏa lực cao của các tàu tên lửa Nga này đã tạo điều kiện cho việc ký kết vào năm 2005 hợp đồng lớn cung cấp 12 tàu tên lửa Projekt 1241.8. Hợp đồng này ước trị giá khoảng 1 tỷ USD.
Hai tàu đầu tiên (HQ-375/336) được đóng tại Nhà máy đóng tàu Vympel ở Rybinsk, Nga và được chuyển giao cho Hải quân Việt Nam vào năm 2007-2008. Từ năm 2010, Việt Nam đã bắt đầu đóng theo giấy phép một loạt 10 tàu loại này. Projekt 1241.8 có sức mạnh hỏa lực tăng mạnh so với các tàu Projekt 1241RE. Thay cho 4 tên lửa chống hạm P-20, Projekt 1241.8 được lắp 16 tên lửa chống hạm Kh-35.
Trong những năm 1990-đầu những năm 2000, Hải quân Việt Nam đã mua của Nga 6 tàu tên lửa Projekt 1241RE (HQ-371-374/377/378), mỗi tàu mang 4 tên lửa chống hạm P-20M. Giá rẻ, khai thác đơn giản và sức mạnh hỏa lực cao của các tàu tên lửa Nga này đã tạo điều kiện cho việc ký kết vào năm 2005 hợp đồng lớn cung cấp 12 tàu tên lửa Projekt 1241.8. Hợp đồng này ước trị giá khoảng 1 tỷ USD.
Hai tàu đầu tiên (HQ-375/336) được đóng tại Nhà máy đóng tàu Vympel ở Rybinsk, Nga và được chuyển giao cho Hải quân Việt Nam vào năm 2007-2008. Từ năm 2010, Việt Nam đã bắt đầu đóng theo giấy phép một loạt 10 tàu loại này. Projekt 1241.8 có sức mạnh hỏa lực tăng mạnh so với các tàu Projekt 1241RE. Thay cho 4 tên lửa chống hạm P-20, Projekt 1241.8 được lắp 16 tên lửa chống hạm Kh-35.
Tàu tên lửa Molnya Projekt 1241.8 của Hải quân Việt Nam |
Các tên lửa chống hạm Kh-35 của Nga là nền tảng tiềm
lực chiến đấu của Hải quân Việt Nam. Loại tên lửa dưới âm nhỏ này có tầm
bắn 130 km, còn biến thể hiện đại hơn là Kh-35UE có tầm bắn 260 km. Tên
lửa chống hạm Kh-35 cho phép tác chiến hiệu quả chống các tàu chiến mặt
nước có lượng giãn nước đến 5.000 tấn và các tàu hỗ trợ có lượng giãn
nước đến 10.000 tấn của đối phương.
Năm 2004-2008, Tập đoàn Vũ khí tên lửa chiến thuật (KTRV) của Nga đã cung cấp cho Việt Nam 120 quả tên lửa chống hạm Kh-35E. Tháng 10/2010, Nga và Việt Nam đã ký hiệp định liên chính phủ về việc hợp tác phát triển và sản xuất hệ thống tên lửa Uran-EV trang bị tên lửa chống hạm Kh-35EV phục vụ riêng cho nhu cầu của hạm đội Việt Nam.
Năm 2004-2008, Tập đoàn Vũ khí tên lửa chiến thuật (KTRV) của Nga đã cung cấp cho Việt Nam 120 quả tên lửa chống hạm Kh-35E. Tháng 10/2010, Nga và Việt Nam đã ký hiệp định liên chính phủ về việc hợp tác phát triển và sản xuất hệ thống tên lửa Uran-EV trang bị tên lửa chống hạm Kh-35EV phục vụ riêng cho nhu cầu của hạm đội Việt Nam.
Bệ phóng tên lửa chống hạm Kh-35E / Uran-E trên tàu hộ vệ tên lửa HQ-012 Lý Thái Tổ
|
Cần lưu ý đến một thành phần quan trọng nữa của Hải
quân Việt Nam - đó là các hệ thống tên lửa bờ biển cơ động K-300P
Bastion-P trang bị tên lửa chống hạm siêu âm hạng nặng Yakhont có tầm
bắn đến 300 km do Tập đoàn công nghiệp quốc phòng NPO Mashinostroernia
phát triển.
Hợp đồng cung cấp 2 hệ thống Bastion-P trị giá gần 300 triệu USD đã được ký vào năm 2005 và hoàn thành vào năm 2010-2011.
Có khả năng đến năm 2015, Nga sẽ bán thêm cho Việt Nam các hệ thống tên lửa bờ biển cơ động.
Hợp đồng cung cấp 2 hệ thống Bastion-P trị giá gần 300 triệu USD đã được ký vào năm 2005 và hoàn thành vào năm 2010-2011.
Có khả năng đến năm 2015, Nga sẽ bán thêm cho Việt Nam các hệ thống tên lửa bờ biển cơ động.
K-300P Bastion-P |
Trong thành phần của hệ thống tên lửa bờ biển cơ động
K-300P gồm có 4 xe bệ phóng lắp trên khung gầm xe MZKT-7930 (mỗi bệ
phóng mang 2 tên lửa), 1 xe chỉ huy chiến đấu, các xe tiếp đạn. Bản thân
các tên lửa được cất giữ trong các ống phóng kín, tạo điều kiện thuận
lợi cho khai thác và tăng hạn sử dụng cho tên lửa chống hạm. K-300P có
thể được tăng cường hệ thống phát hiện tầm xa ngoài đường chân trời và
bám mục tiêu mặt nước Monolit-B triển khai trên bờ biển hoặc hệ thống
chỉ thị mục tiêu lắp trên trực thăng.
Các tàu tuần tra và tàu pháo
Năm 1999-2001, Việt Nam đã tiến hành đóng 2 tàu tuần tra PS-500 (HQ-381/383) theo thiết kế của Viện thiết kế phương Bắc (SPKB) có lượng giãn nước gần 500 tấn. Các tàu lớp này có vũ khí tên lửa và pháo mạnh (tên lửa chống hạm Kh-35, các ụ pháo 76 mm và 30 mm) và có tính năng đi biển cao nhờ 2 ống dẫn tiến phụt nước mạnh và hình dáng thân kiểu chữ V sâu.
Việt Nam đang hoàn tất dự án đóng 6 tàu tuần tra Projekt 10412 Svetlyak do Viện thiết kế hải quân trung ương Almaz của Nga thiết kế. Các tàu nhỏ này có lượng giãn nước gần 400 tấn, dùng để thực hiện các nhiệm vụ bảo vệ bờ biển và không được trang bị vũ khí tên lửa mạnh. Hai tàu đầu tiên (HQ-261/263)đã đóng xong năm 2002, 2 chiếc tiếp theo (HQ-264/265) hoàn thành vào năm 2011. Cặp tàu thứ ba đang đóng hoàn thiện tại Vladivostok, Nga và sẽ được chuyển giao cho Việt Nam trong năm 2012. Chi phí đóng 6 tàu này là gần 110 triệu USD
Năm 1999-2001, Việt Nam đã tiến hành đóng 2 tàu tuần tra PS-500 (HQ-381/383) theo thiết kế của Viện thiết kế phương Bắc (SPKB) có lượng giãn nước gần 500 tấn. Các tàu lớp này có vũ khí tên lửa và pháo mạnh (tên lửa chống hạm Kh-35, các ụ pháo 76 mm và 30 mm) và có tính năng đi biển cao nhờ 2 ống dẫn tiến phụt nước mạnh và hình dáng thân kiểu chữ V sâu.
Việt Nam đang hoàn tất dự án đóng 6 tàu tuần tra Projekt 10412 Svetlyak do Viện thiết kế hải quân trung ương Almaz của Nga thiết kế. Các tàu nhỏ này có lượng giãn nước gần 400 tấn, dùng để thực hiện các nhiệm vụ bảo vệ bờ biển và không được trang bị vũ khí tên lửa mạnh. Hai tàu đầu tiên (HQ-261/263)đã đóng xong năm 2002, 2 chiếc tiếp theo (HQ-264/265) hoàn thành vào năm 2011. Cặp tàu thứ ba đang đóng hoàn thiện tại Vladivostok, Nga và sẽ được chuyển giao cho Việt Nam trong năm 2012. Chi phí đóng 6 tàu này là gần 110 triệu USD
Hai tàu tuần tra lớp Projekt 10412 mang số hiệu nhà máy 044, 045 tại Nga
trước khi bàn giao cho Việt Nam ngày 20.10.2011 |
Tháng 1/2012, Hải quân Việt Nam được chuyển giao tàu
pháo đầu tiên lớpTT400TP là HQ-272. Tàu này có lượng giãn nước gần 400
tấn, được trang bị 1 ụ pháo 76mm và 1 ụ pháo 30 mm. Tàu này do Nhà máy
đóng tàu Z-173 thuộc Công ty đóng tàu Hồng Hà ở Hải phóng tự thiết kế.
Dự kiến, Việt Nam sẽ đóng thêm ít nhất 2 tàu loại này. Tàu này được
thiết kế dựa trên các thiết kế PS-500 và Projekt 10412 của Nga.
Tàu HQ-272 thử nghiệm trên biển
|
Năm 1979-1983, Hải quân Việt Nam đã nhận được 8 tàu
tên lửa Projekt 205 (lượng giãn nước gần 200 tấn, vũ khí gồm 4 tên lửa
chống hạm P-15 và 2 ụ pháo 30 mm) và 16 tàu phóng lôi Projekt 206 (lượng
giãn nước gần 150 tấn, vũ khí gồm 4 ống phóng lôi 533 mm và 2 ụ pháo 30
mm). Các tàu này sẽ được loại khỏi biên chế.
Không quân hải quân
Nền tảng không quân hải quân của Hải quân Việt Nam là các trực thăng đa
năng Ка-28 của Nga, dùng để triển khai trên các tàu hộ vệ Projekt 11661E
Gepard 3.9. Chức năng chính của các trực thăng này là chống ngầm, ngoài
ra còn có biến thể trực thăng radar phát hiện tầm xa Ка-31.
Năm 2010, Việt Nam đã ký với Công ty Viking Air của
Canada hợp đồng mua 6 máy bay tuần tra hạng nhẹ DHC-6 Twin Otter. Các
máy bay này sẽ được chuyển giao cho Hải quân Việt Nam vào năm 2012-2014.
Hợp đồng có trị giá ước 30-40 triệu USD. Các máy bay này sẽ là thành
phần quan trọng của hệ thống nắm bắt thông tin tình hình tại các vùng
biển ven bờ của Việt Nam.
Máy bay tuần tra hạng nhẹ DHC-6 Twin Otter Series 400
|
Ngoài các chiến hạm thuộc các lớp cơ bản, Việt Nam
còn sở hữu một đội tàu hỗ trợ, xuồng tuần tra và tàu quét lôi mà việc
đánh giá chúng chưa được thực hiện ở đây.
Như vậy, Hải quân Việt Nam đang trong tình trạng phát triển mạnh mẽ và quá độ từ một hạm đội ven bờ lạc hậu, không có khả năng bảo vệ thích đáng ngay cả vùng biển chủ quyền sang một hạm đội khu vực không lớn, nhưng hiện đại và đủ mạnh. Vào cuối thập kỷ này, Hà Nội dự định xây dựng được một hạm đội mà bản thân sự hiện diện của nó sẽ buộc Bắc Kinh kiềm chế, từ bỏ những mưu toan thiết lập thiết lập quyền kiểm soát đối với Biển Đông bằng vũ lực.
Như vậy, Hải quân Việt Nam đang trong tình trạng phát triển mạnh mẽ và quá độ từ một hạm đội ven bờ lạc hậu, không có khả năng bảo vệ thích đáng ngay cả vùng biển chủ quyền sang một hạm đội khu vực không lớn, nhưng hiện đại và đủ mạnh. Vào cuối thập kỷ này, Hà Nội dự định xây dựng được một hạm đội mà bản thân sự hiện diện của nó sẽ buộc Bắc Kinh kiềm chế, từ bỏ những mưu toan thiết lập thiết lập quyền kiểm soát đối với Biển Đông bằng vũ lực.
NHÂN VŨ (VIETNAMDEFENCE.COM)
Thứ Bảy, 7 tháng 6, 2014
ĐIÊN RỒ TRONG VÒNG DANH LỢI 14
Trong bối cảnh hiện nay, dù không cố ý thì tham nhũng, ăn hối lộ, buôn lậu hàng Trung Quốc (nhất là hàng "đểu"), đều là những hành động mang thêm tính phản bội Tổ Quốc.
(ĐC chép từ http://dantri.com.vn)
Thứ Bẩy, 07/06/2014 - 07:07
(Dân trí) - Hai cán bộ hải quan làm việc ở bộ phận kiểm hoá và 2
đối tượng chuyên làm “cò” dịch vụ đã bị công an kinh tế bắt giữ vì liên
quan đến vụ nhập lậu 10 container hàng Trung Quốc qua cảng.
Xem tiếp...
(ĐC chép từ http://dantri.com.vn)
Thứ Bẩy, 07/06/2014 - 07:07
Vụ 10 container hàng Trung Quốc nhập lậu: Bắt khẩn cấp 2 cán bộ hải quan
(Dân trí) - Hai cán bộ hải quan làm việc ở bộ phận kiểm hoá và 2
đối tượng chuyên làm “cò” dịch vụ đã bị công an kinh tế bắt giữ vì liên
quan đến vụ nhập lậu 10 container hàng Trung Quốc qua cảng.
>> Giám đốc đang bỏ trốn, 14 container hàng nghi lậu vẫn ồ ạt về cảng
>> Truy tìm hai “ông trùm” của 10 container hàng lậu
>> Bắt 10 container hàng Trung Quốc “mập mờ” về nguồn gốc
Chiều 6/6, Phòng CSĐT tội phạm về trật tự
quản lý kinh tế và chức vụ (PC46) Công an TP.HCM đã khởi tố, bắt tạm
giam đối với Nguyễn Phước Tường, Bùi Anh Tuấn (đều là cán bộ kiểm hóa
cảng Sài Gòn khu vực 3 - VICT), Châu Thành Nhàn và Tạ Quang Trình (người
trực tiếp lo thực hiện các dịch vụ, thủ tục để lô hàng thông quan) để
điều tra về các hành vi “Thiếu trách nhiệm trong công việc gây hậu quả
nghiêm trọng” và “Buôn lậu”.
Liên quan đến vụ án này, công an kinh tế đã thực
hiện lệnh khám xét nhà của những đối tượng trên để thu thập chứng cư,
làm rõ vụ án.
Số hàng trong 10 container nhập lậu bị kiểm tra tại cảng
Đọc những thông tin kinh tế - tài chính mới nhất trên FICA:
|
Theo điều tra ban đầu, vào tháng 12/2013, Đội 2 -
Phòng PC46 phối hợp với Đội Quản lý thị trường (QLTT) 2A (Chi cục
QLTT TP.HCM) bắt 10 container hàng Trung Quốc nhập khẩu có dấu hiệu
gian lận thương mại, không rõ về nguồn gốc đậu trước khu vực cảng VICT
(cảng Sài Gòn KV3). Qua kiểm tra, hàng hoá trong 10 container là thiết
bị loa, đèn Led, văn phòng phẩm, máy móc ngành dệt may, dụng cụ trang
trí phục vụ tết, pháo điện... Đặc biệt nhiều sản phẩm ghi xuất xứ từ
Singapore, Thái Lan và thậm chí in sẵn chữ tiếng Việt.
Cả 10 container này được nhập khẩu từ cảng Shekou
và Nahsha New Port (Trung Quốc) sau đó được thông quan qua cảng VICT
(TP.HCM). Công ty thực hiện nhập khẩu số hàng hóa trên gồm: Công ty TNHH
Tân Nhật Huy Vĩnh Đạt (cư xá Bình Thới, P.8, Q.11) và Công ty TNHH
TM-XNK Nhất Minh (Q.6). Hai công ty trên lần lượt do Hồ Sấm Dũng (27
tuổi, ngụ quân Bình Tân) và Trần Thị Thu Sang (tức Sang “lùn”, 25 tuổi,
ngụ quận 6) làm giám đốc. Đường dây này đã nhập về cảng Vict (Q.7) 10
container trên nhưng vừa làm thủ tục thông quan thì bị lực lượng chức
năng bắt giữ.
Nhiều mặt hàng không đúng như khai báo trong tờ khai hải quan
Trong 10 container có 721 danh mục với trên 6 triệu
đơn vị sản phẩm không đúng như khai báo; trong đó nhiều hàng cấm như
màn hình vi tính đã qua sử dụng, pháo điện các loại và một số lượng đặc
biệt lớn mặt hàng không khai báo như rượu, mỹ phẩm, vải, bàn ghế, đồng
hồ…Ngoài hàng những mặt hàng bị phát hiện, lực lượng chức năng tìm thấy
20 thùng hóa chất không nhãn mác, xuất xứ. Hóa chất này gây choáng và
ngứa với những người tiếp xúc hoặc đứng gần dù thùng chưa được mở nắp.
Số hàng này nằm xem kẽ với nhiều bao bánh kẹo mang nhãn mác Trung Quốc.
Tổng số hàng hoá trong 10 container trị giá khoảng 37 tỷ đồng.
Số hàng trên có đến trên 90% không được kê khai
trong tờ khai hải quan nhập khẩu. Điều đặc biệt, ngay khi 10 container
hàng lậu này bị phát hiện, Hồ Sấm Dũng và Trần Thị Thu Sang đã đột nhiên
“mất tích” khỏi nơi cư trú. Từ cuối năm 2013 đến nay, mặc dù PC46 đã
nhiều lần gửi giấy triệu tập Sang, Dũng nhưng cả hai không đến làm việc
nên đã phát đi thông báo truy tìm.
Lực lượng QLTT kiểm tra hàng trong từng container để phân loại
Quá trình điều tra, PC46 nhận định đây là một đường
dây buôn lậu quy mô và liều lĩnh, các đối tượng đã ngang nhiên tập
trung một lúc 10 container hàng. Số hàng này có thể được nhiều đầu nậu
đặt từ trước, sau đó đường dây này sẽ sang Trung Quốc gom hàng rồi đưa
về Việt Nam tiêu thụ.
Cụ thể, Nguyễn Phước Tường đã móc nối các đối tượng
khác để thực hiện hành vi buôn lậu. Theo qui định, lô hàng buộc phải
kiểm tra 5% số lượng hàng hóa trong container (tương đương khoảng 50
kiện hàng). Tuy nhiên, khi kiểm tra các container hàng hóa số kiện hàng
được mở ra chỉ từ 5 -15 kiện hàng.
Trước đó, ngày 7/3, Công an TP HCM đã khởi tố và
bắt tạm giam Lâm Lương Quang (38 tuổi), giám đốc Công ty TNHH Hùng Cường
đóng tại quận 5. Quang được cơ quan công an xác định là người đứng tên
nhận hàng vận tải đơn của hai hãng tàu Yangming, WanHai. Sau khi hàng
hóa về cảng, Quang đưa cho Nhàn 10 triệu đồng kèm 10 bộ hồ sơ, cùng
nhiều giấy tờ đã ký khống chữ ký của giám đốc 2 Công ty Tân Nhật Huy
Vĩnh Đạt và Nhất Minh để Nhàn đem giấy tờ đến Cảng VICT (quận 7) thực
hiện khai báo hải quan.
Dựa trên hồ sơ Quang đưa, Nhàn giao lại cho Trình
để làm thủ tục truyền dữ liệu khai báo hải quan điện tử. Ngoài ra, Quang
còn cung cấp và chỉ đạo cấp dưới khai báo không đúng về số lượng, chủng
loại hàng hóa trên tờ khai container của 2 công ty nhằm thực hiện buôn
lậu số lượng và giá trị đặc biệt lớn từ Trung Quốc vào Việt Nam.
Hiện PC 46 đang mở rộng vụ án để điều tra, làm rõ.
Trung Kiên
Thứ Sáu, 6 tháng 6, 2014
BUỒN ƠI, VỀ ĐÂY VỚI CÔ HỒN! 24
(ĐC sưu tầm trên NET)
MÊ SẢNG
Tôi ngày xưa ấy, mơ mênh mông
Theo người đắm đuối, người bạc lòng
Đành về bến thương buồn tang tóc
Cắn răng mặc xác lạc dòng sông!
Tôi bây giờ mơ tưởng thong dong
Yêu người nguyên vẹn, thản như không
Đợi về bến thương cười tao ngộ
Hai linh hồn chung chuyến lưu vong!
Trần Hạnh Thu
Xem tiếp...
MÊ SẢNG
Tôi ngày xưa ấy, mơ mênh mông
Theo người đắm đuối, người bạc lòng
Đành về bến thương buồn tang tóc
Cắn răng mặc xác lạc dòng sông!
Tôi bây giờ mơ tưởng thong dong
Yêu người nguyên vẹn, thản như không
Đợi về bến thương cười tao ngộ
Hai linh hồn chung chuyến lưu vong!
Trần Hạnh Thu
Thứ Năm, 5 tháng 6, 2014
Mitya Fomin
(ĐC sưu tầm trên NET)
Xem tiếp...
(...)
Mitya Fomin sinh ngày 17 tháng Giêng 1974 ở Novosibirsk -
một trong những thành phố lớn nhất của nước Nga. Khả năng âm nhạc và
diễn xuất của anh bộc lộ từ thuở ấu thơ. Sau khi tốt nghiệp trung học
phổ thông, Mitya Fomin quyết định trở thành một bác sĩ và nhập học tại
Đại học Y khoa Novosibirsk. Quả thực đây là lựa chọn chẳng mấy dễ dàng
với chàng trai có thiên hướng âm nhạc. Bởi vậy không bao lâu sau đó
Mitya Fomin rời trường Y và bắt đầu chuyên tâm cho âm nhạc và sân khấu.
Rồi sau đó Mitya Fomin lại quay về giảng đường đại học. Dù cuối cùng
cũng nhận được tấm bằng Y khoa, nhưng Mitya Fomin không làm việc theo
chuyên môn đào tạo mà lên đường đến Matxcơva để ghi danh vào đại học của
ngành sân khấu. Anh được nhận vào khoa Diễn xuất của Học viện Điện ảnh
(VGIK).
Chính trong những ngày ở thủ đô Nga Mitya Fomin
đã gặp những người bạn cũ của mình từ Novosibirsk – đó là nhà sản xuất
Eric Chanturia và nhà soạn nhạc Pavel Esenin. Họ mời Mitya Fomin đảm nhận
vai trò ca sĩ lĩnh xướng chính của ban nhạc mới với tên gọi “Hi-Fi”.
Những bài ca đầu tiên của tập thể nghệ thuật này đã ngay lập tức đưa
“Hi-Fi” vào hàng những ban nhạc được ưa chuộng nhất.
Nhạc phẩm “Cánh hoa thứ bảy” qua thể hiện của các nghệ sĩ nhóm “Hi-Fi” sẽ tiếp nối chương trình của chúng tôi.
Theo
học ở đại học Sân khấu chưa đầy một năm, Mitya Fomin nhận ra rằng bởi
lịch trình lưu diễn dày đặc và những thành công vang dội của nhóm
“Hi-Fi”, anh buộc phải chia tay với chuyện học tập. Mitya Fomin đã thực
hiện sự lựa chọn về ưu tiên cho âm nhạc, sáng tạo nghệ thuật và biểu
diễn, trong hành trình kéo dài mười năm.
Cuối năm 2008,
lĩnh xướng chính không thay đổi của “Hi-Fi” là Mitya Fomin rời khỏi ban
nhạc. Anh muốn độc lập phát triển sự nghiệp của chính mình.
Giờ đây là Mitya Fomin với nhac phẩm “Những ánh lửa của thành phố lớn”.
Bây
giờ Mitya Fomin luôn tràn đầy những ý tưởng sáng tạo và kế hoạch cho
tương lai. Anh trao tặng niềm vui cho những người hâm mộ bằng nhiều bài
ca mới, đĩa nhạc và clip thú vị. Trong các sáng tác của mình, chủ đề ưa
thích trước hết là hát về tình yêu. "Tôi cho rằng tình yêu là chủ đề ý
nghĩa nhất cho hứng khởi sáng tạo của mỗi nghệ sĩ”, - Mitya Fomin tâm
sự.
(...)
(...)
Lược trích từ http://vietnamese.ruvr.ru
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)