Cô Gái Sài Gòn Đi Tải Đạn - Tốp Ca Quân Khu 7 [Official Audio]
CÔ GÁI ĐÁNH ĐÀN
Giữa miên man Thăm thẳm ngút ngàn Cao hùng sừng sững Hiện hình cô gái ngồi bên pho tượng Ôm đàn rải nhạc vào chiều... Gió uyên áo mang theo Len lỏi gieo khắp thâm u, thinh lắng Hiện thực đang dần tắt nắng Bừng lên cõi hứng khởi siêu linh Vi vu giai điệu "Lịch sử mối tình" Kể về ngày xưa chốn "Đồng xanh" bát ngát Có "Căn nhà ngoại ô" mát rượi "Giàn thiên lý" Nghe tiếng "Gọi đò", "Em đi trên cỏ non" Lanh lảnh hối người tìm "Lá diêu bông" Người trao "Phượng hồng", cho người lẫy hờn "Nỗi buồn hoa phượng"...
Rồi "Hương thầm" cứ tỏa lan "Ở hai đầu nỗi nhớ" Khắc khoải đợi chờ "Một mai giã từ vũ khí", "Về quê"...
Chiều nay buông mê, Hả hê những lạc xác cô hồn chiến binh thất vọng Đã
tụ hội chỉnh tề hướng về pho
tượng Giữa linh thiêng sâu lắng gió núi mưa ngàn Lặng nghe cô gái thiện nguyện ru đàn...
Mãi còn nỗi nhớ niềm thương, Các
chị các anh
ơi, Máu xương nào cũng là máu xương Cùng một giống nòi, đã đành nằm xuống, Thôi thì...xóa bỏ hận thù, trong lòng Tổ Quốc, Đâu cũng là đất nước quê hương!
Hôm
nay
30, Không khí Tết đã tràn ngập khắp sông biển, non
ngàn Cô gái dạo lên những khúc đàn rộn
rã Pho tượng mấy ngàn năm hiện hồn rực
rỡ Cất tiếng ca vang vọng, xum họp, trường tồn...
Trần Hạnh Thu
Yêu nhau đi (Bésame mucho) - Tiếng hát Hoàng Phương Mai & Thu Hồng
Tiếng đàn Balalaica trên sông Đà – Bài thơ hấp dẫn của thi sĩ Quang Huy
Tiếng đàn Balalaica trên sông Đà là một thi phẩm đặc
sắc nổi bật cho phong cách thơ của Quang Huy. Ông là một cây bút vang
danh của nền thơ ca Việt Nam. Bài thơ cho thấy sự hùng vĩ gắn bó hòa
quyện giữa con người, tâm hồn con người và thiên nhiên, giữa ánh trăng
với dòng sông. Đây là một thi phẩm hay đã được đưa vào chương trình dạy
học gắn bó với nhiều thế hệ bạn đọc nước ta. Cùng nhau cảm nhận bài thơ
hấp dẫn này nhé!
Tiếng đàn Ba-la-lai-ca Như ngọn gió bình yên Thổi qua rừng bạch dương dìu dặt Nghe rụt rè Như tia mắt Người thiếu nữ soi mình trong đáy giếng Mùa thu Nghe mơ hồ Như tiếng hát Trong bồng bềnh sương núi Nghe vời vợi Như cánh thiên nga Bay khuất nẻo mây xa… Tiếng đàn Ba-la-lai-ca Như ngọn sóng Vỗ trắng phau ghềnh đá Nghe náo nức Những dòng sông nóng lòng tìm biển cả Như khúc dân vũ Cáp-ca Nhịp chân quay khiến mắt nhìn chếnh choáng Nghe hào phóng Như ngọn gió Xi-bia Thổi hút cuối trời… Trên sông Đà Một đêm trăng chơi vơi Tôi đã nghe tiếng đàn Ba-la-lai-ca như thế Một cô gái Nga mái tóc màu hạt dẻ Ngón tay đan trên những sợi dây đồng. Lúc ấy Cả công trường say ngủ cạnh dòng sông Những tháp khoan nhô lên trời ngẫm nghĩ Những xe ủi, xe ben sóng vai nhau nằm nghỉ Chỉ còn tiếng đàn ngân nga Với một dòng trăng lấp loáng sông Đà. Ngày mai Chiếc đập lớn nối liền hai khối núi Biển sẽ nằm bỡ ngỡ giữa cao nguyên Sông Đà gửi ánh sáng đi muôn ngả Từ công trình thuỷ điện lớn đầu tiên Khi ấy những người bạn Nga sẽ ở đâu Hàn cực Véc-khôi-an Hay đỉnh cao I-éc-cút? Ở những vùng nào trên Liên bang Xô-viết Lại mở những công trình thuỷ điện vẻ vang. Nhưng vĩnh viễn sẽ còn ở Việt Nam Tiếng đàn Ba-la-lai-ca lay động Tiếng đàn, ấy là biểu tượng Cho tâm hồn Nga Như đêm nay Rung một khoảng sông Đà.
Đây là một bài thơ hay mang ý nghĩa sâu sắc của nhà thơ Quang Huy.
Bài thơ này đã được đưa vào chương trình sách giáo khoa tiếng việt lớp 4
( bộ cũ ) và lớp 5 ( bộ mới ). Chắc chắn sẽ có nhiều độc giả cần một
địa chỉ tham khảo bài thơ này đúng không? Mời các bạn đón xem nhé!
Câu 1 (trang 70 sgk Tiếng Việt 5): Những chi tiết nào trong bài thơ gợi lên hình ảnh một đêm trăng vừa tĩnh mịch vừa sinh động trên công trường sông Đà?
Trả lời: Một đêm trăng vừa tĩnh mịch vừa sinh động trên công trường sông Đà được thể hiện qua các câu thơ giàu hình ảnh, giàu màu sắc:
“Một đêm trăng chơi vơi
Tôi đã nghe tiếng ba-la-lai-ca
Một cô gái Nga mái tóc màu hạt dẻ”.
Và:
“Cả công trường say ngủ cạnh dòng sông
Những tháp khoan nhô lên trời ngẫm nghĩ
Những xe ủi, xe ben sánh vai nhau nằm nghỉ
Chỉ có tiếng đàn ngân nga
Với một dòng trăng lấp loáng sông Đà”.
Tuy tĩnh mịch, nhưng đêm trăng vẫn rất sinh động vì có tiếng đàn của
cô gái Nga, có dòng sông lấp loáng dưới ánh trăng và những sự vật đưa
tác giả miêu tả bằng biện pháp nhân hóa: Công trường say ngủ, tháp khoan
đang bận ngẫm nghĩ, xe ủi, xe ben sóng vai nhau nằm nghỉ.
Câu 2 (trang 70 sgk Tiếng Việt 5): Tìm một hình ảnh đẹp trong bài thơ thể hiện sự gắn bó giữa con người với thiên nhiên trong đêm trăng bên sông Đà.
Trả lời: Hình ảnh đẹp thể hiện sự gắn bó giữa con người với thiên nhiên, theo em là:
“Trên sông Đà
Một đêm trăng chơi vơi
Tôi đã nghe tiếng ba-la-lai-ca
Một cô gái Nga tóc màu hạt dẻ
Ngón tay đan trên những sợi dây đồng”.
Và:
“Chỉ còn tiếng đàn ngân nga
Với một dòng trăng lấp loáng sông Đà”.
Hình ảnh rất đẹp này gợi lên cho thấy sự hùng vĩ gắn bó hòa quyện
giữa con người, tâm hồn con người và thiên nhiên, giữa ánh trăng với
dòng sông. Tiếng đàn ngân nga lan tỏa vào dòng sông.
Nội dung: Ca ngợi vẻ đẹp kì vĩ của công trình, sức mạnh của những
người đang chinh phục dòng sông và sự gắn bó, hòa quyện giữa con người
với thiên nhiên.
Câu 3 (trang 70 sgk Tiếng Việt 5): Những câu thơ nào trong bài thơ sử dụng phép nhân hóa?
Trả lời:Những câu thơ sử dụng phép nhân hóa:
Cả công trường say ngủ cạnh dòng sông.
Những tháp khoan nhô lên trời ngẫm nghĩ.
Những xe ủi, xe ben sánh vai nhau nằm nghỉ.
Biển sẽ nằm bỡ ngỡ giữa cao nguyên.
Sông Đà chia ánh sáng đi muôn ngả.
Tiếng đàn Balalaica trên sông Đà là một thi phẩm nổi tiếng của
nhà thơ Quang Huy. Qua bài thơ tác giả ca ngợi vẻ đẹp thiên nhiên vào
đêm của sông Đà. Hãy đón xem bài viết này và cảm nhận sâu sắc ngòi bút
tài hoa cùng ý nghĩa sâu sắc của ông. Cảm ơn các bạn đã theo dõi bài
viết này của chúng tôi!
Mới
hôm qua nghe em cười nắc
nè
Sáng nay đã thấy mặt em buồn
thiu Nàng Thơ ơi, xuân đang về vui
vẻ
Sao em tặng đời toàn vần điệu hắt hiu
Em cảm nhận Tết năm nay khí thế?
Đại dịch tràn qua truy sát dân tình
Sức sống đô thành oằn lên mạnh mẽ
Và Sài Gòn đã ngát một vùng xanh!
Vui lên em, mắt cười tươi cùng anh
Cho mai ruộm cành, xuân xanh ca hát
Xứng vai Nàng Thơ phải lạc quan, tươi mát
Nhuộm thêm xanh trời, xanh nắng, xanh thơ...
Xanh những con người, xanh những ước mơ
Xanh tất cả, xanh màu tình sự sống
Anh đến bên Thơ, rủ Thơ vào giấc mộng
Giấc mộng lành, anh giành sẵn trong tim!
Nếu mai này có thất lạc yêu tin
Thì Thơ ơi, hãy giữ lòng nhân ái
Bởi khi đủ đầy tình yêu thương đồng loại
Mới thỏa linh hồn, tỏa ngát ngàn thơ...!
Trần Hạnh Thu
Xuân Yêu Thương - Kim Chi | Nhạc Xuân 2022 Mới Nhất Đón Năm Mới Tết Nhâm Dần
Hoa mai vàng Yên Tử Một Loài Hoa Quý Độc Đáo Ngày Tết
Cứ mỗi đợt năm mới xuân về thì những cánh mai vàng lại phủ vàng cả
một bầu trời quê hương làm cho con người ta có một cảm giác nôn nao và
vui tươi đến lạ thường. Và đặc biệt khi nhắc đến loài hoa của mùa xuân
này phải kể đến mai vàng Yên Tử – Một loài hoa quý.
Theo những lời kể của người xưa, ngày đi khi vua Trần Nhân Tông dẹp
loạn được giặc phương Bắc đã truyền lại ngôi vị cho người con trai của
mình và lên núi Yên Tử tu hành. Và loài mai vàng Yên Tử cũng bắt đầu từ
đây bởi khi ấy vua Trần Nhân Tông đã lập ra Thiền Phái Trúc Lâm Yên Tử
và phát động cho các tín đồ trồng mai. Với sự chăm sóc tỉ mỉ cùng thời
tiết phù hợp và chỉ trong vài năm mai vàng đã ngập khắp khu rừng và được
đặt tên là “Đại lão mai vàng Yên Tử”.
Đặc điểm Mai Yên Tử
Theo những nghiên cứu khoa học thì vốn dĩ mai vàng sẽ không trồng
cũng như phát triển được ở miền Bắc, thường muốn ngắm nhìn sắc vàng rực
rỡ của những bông hoa này phải vận chuyển từ Nam ra. Tuy nhiên việc này
khá tốn kém chi phí và hoa lại không giữa được lâu do thời tiết không
phù hợp.
Tuy nhiên, đối với loài mai vàng Yên Tử thì lại có thể trồng và phát
triển được trong điều kiện thời tiết á nhiệt đới miền Bắc. Đó là một sự
khác biệt tạo nên nét đặc trưng riêng.
Mai Yên Tử nở theo chùm và trên một cây khi nở rộ có rất nhiều chùm
rất đẹp. Hoa có 5 cánh, lộc hoa màu xanh, hương thơm thoang thoảng nhẹ
nhàng dễ chịu. Những cây mai Yên Tử lâu đời rất cao, đường kính lớn nằm
trong khoảng từ 40 – 50 cm. Nơi núi rừng xanh thẳm thẳm, trong cái thời
tiết se lạnh của những ngày cuối đông chớm xuân, những cánh hoa mai Yên
Tử rực rỡ khoe sắc làm bừng sáng không gian trên cao làm say đắm lòng
người.
Và với một đặc điểm nữa khiến Mai Yên Tử được nhiều người yêu quý và
ưa chuộng chính là loài hoa này có tuổi thọ rất dài, ít sâu bệnh, phát
triển và sinh trưởng rất khỏe. Những cây mai cổ thụ có vòng đời lên đến
hàng trăm năm.
Ý Nghĩa loài Mai vàng Yên Tử
Mai vàng Yên Tử tượng trưng cho sự bền bỉ và kiên trì không bao giờ
bỏ cuộc, luôn vươn mình vượt qua mọi khó khăn và khắc nghiệt của cuộc
sống. Nó cũng giống như tinh thần mà ngày xưa vua Trần Nhân Tông và các
thuyền môn đã bỏ công để trồng và chăm sóc để hoa nở vàng cả một cánh
rừng.
Ngoài giá trị về mặt kinh tế, Mai vàng Yên Tử còn có giá trị về mặt
đời sống tâm linh, trường tồn và còn mãi theo thời gian. Ngày nay, người
ta chủ động tăng cường bảo tồn và nhân giống loài hoa đẹp và quý này.
Để mỗi dịp Tết đến xuân về có thể được ngắm nhìn những bông hoa mai tươi
sắc trong ánh nắng ấm áp và cùng những cơn gió bay.
"Có hai cách để sống trên đời: một là xem như không có phép lạ nào cả, hai là xem tất cả đều là phép lạ".
Albert Einstein
“Chính qua cuộc đấu tranh nhằm thống nhất một cách hợp lý cái đa dạng
mà đã đạt được những thành công lớn nhất, dù rằng chính ý đồ đó có thể
gây ra những nguy cơ lớn nhất để trở thành con mồi của ảo vọng”.
Albert Einstein
“Người nhìn thấy cái đa dạng mà không thấy cái đồng nhất thì cứ trôi lăn trong cõi chết”.
“Điều gì đã thổi sức sống vào các phương trình và làm cho chúng có thể mô tả Vũ Trụ?”
Stephen Hawking
“Không có thiên tài nào mà không pha lẫn sự điên rồ trong đó”
Arixtốt
“Thiên tài khác ngu ngốc ở chỗ thiên tài có giới hạn”
A. Anhxtanh
“Nếu thực tại không tương đồng với lý thuyết, hãy thay đổi thực tại”
A. Anhxtanh
“Có thật nhiều thứ để tìm hiểu, nhưng cũng thật ít thứ đã được tìm hiểu thấu đáo”
Robert A. Heinlein
“Từ
Vũ Trụ, tôi không còn nhìn thấy biên giới các quốc gia! Trái đất xanh
một màu xanh vĩnh cửu”.
Gagarin
“...Đặt
cược cho một vũ trụ duy nhất và sự tồn tại của một nguyên lý sáng tạo
chịu trách nhiệm cho việc điều chỉnh Vũ Trụ một cách vô cùng chính
xác... Nguyên lý này không đại diện bởi một vị Chúa rậm râu; đó là một
nguyên lý phiếm thần biểu hiện qua các định luật của tự nhiên.”
Trịnh Xuân Thuận
“Chắc
chắn rằng, tựa như tình cảm tôn giáo, niềm tin rằng thế giới là lý
tính, hay ít nhất là có thể hiểu được, chính là cơ sở của mọi công trình
khoa học. Niềm tin này tạo nên quan niệm của tôi về Chúa. Đó là quan
niệm của Spinoza”.
Albert Einstein
"Có
một thứ chúng ta thấy ngay từ khi chào đời và hầu như thường xuyên
trong cuộc đời, nhưng chúng ta vẫn tưởng là chưa từng thấy, đó là không
gian. Có một thứ chúng ta tưởng thực sự tồn tại như dòng trôi cuốn chúng
ta đi nhưng không biết trôi về đâu, đó là thời gian. Ngày nay, chưa ai
nhận thức được hoặc nhận thức vẫn sai lầm về chúng. Chỉ khi nào loài
người nhận thức chính xác và cặn kẽ hai thứ thiết yếu ấy, thì nhiệm vụ
khoa học của loài người mới có cơ may hoàn thành".
TC
"Sau nhiều năm nghiền ngẫm, ở chặng cuối cuộc đời tôi mới ngộ ra: Vũ
Trụ không hỗn độn như chúng ta tưởng mà là một khối gắn kết thống nhất
vĩ đại, không phải vì phục tùng ý Chúa (làm gì có Chúa!) mà vì chính bản
thân nó: Tồn Tại. Vạn vật trong lòng nó luôn vận động để tránh Hư Vô,
nghĩa là vận động cho nó và vì nó, luôn tự giác răm rắp tuân theo một
nguyên lý chung nhất và duy nhất: nguyên lý Tự Nhiên".
NTT
""Của
dân,do dân và vì dân" là nguyên tắc cơ bản của mọi nhà nước trong việc
duy trì và bảo toàn xã hội chứ không phải sở hữu riêng của NNVN".
NTT
(Tiếp theo)
***
Trong lịch sử nghiên cứu khoa học của
nhân loại, không hiếm những ý tưởng mới hôm qua còn bị cho là ngớ ngẩn, điên rồ
“điếc không sợ súng” như trên đã làm nên những điều kỳ diệu của hôm nay, và nói
cho công bằng, không hiếm những điều hôm nay được xem như kỳ diệu thì ngày mai
đã thành ấu trĩ, ngây thơ, thậm chí là “vớ vẩn”, sai lầm. Phải chăng quá trình
đi nhận thức để tìm hiểu Tự Nhiên Tồn Tại là tất yếu như thế? Có lẽ, đó
là quá trình vừa “tình cờ” vừa “cố ý”, là xâu chuỗi và đan xen những sự kiện,
biến cố ngẫu nhiên như “bèo dạt mây trôi” theo dòng chảy tất yếu hướng về một
chân lý đích thực cuối cùng. Chúng ta cũng là những kẻ học hành không được bao
nhiêu không phải vì không được học mà vì học không được. Cha mẹ sinh ra chúng
ta là một thân xác tương đối hoàn hảo nhưng Trời lại chỉ ban cho chúng ta một
bộ não hoạt động ở mức thiểu năng trí tuệ nên đành sống một cuộc đời đầy hoài
nghi, lúc nào cũng ngơ ngơ ngác ngác. Chính vì như thế nên chúng ta đã cố học
nhưng không thể nào lĩnh hội được “tảng” lý thuyết toán - lý cao siêu và vĩ đại
đang “trị vì” kiến thức nhân loại. Sự thể ấy đã làm cho chúng ta, vào thời xưa
kia, khi còn chưa già, nhiều lúc vô cùng buồn nản và thất vọng. Còn bây giờ
thì… không hề nhé, hỡi “ông” Toán - Lý!
Hoài nghi và ngơ ngác có cái dở nhưng
cũng có cái hay. Cái hay đó là đã tạo ra trong chúng ta sự tò mò “ghê gớm” về
thế giới khách quan làm bật ra nỗi ước vọng mãnh liệt: hiểu được bản chất của
Vũ Trụ và giải thích được vì sao nó lại vốn dĩ thế chứ không thể khác.
Sự thực không thể phủ nhận được là toán -
lý ngày nay, dù có thể còn hàm chứa những ngộ nhận này nọ thì xét một cách tổng
thể, vẫn là thành quả mang tính “có lý” chứ không thể phi lý được. Quá trình
hình thành, phát triển, vượt qua thử thách suốt hàng mấy ngàn năm nhận thức của
loài người chứng tỏ rõ ràng như vậy. Vậy thì muốn nhận biết đến căn nguyên về
sự tồn tại của Vũ Trụ, không thể chối bỏ toán - lý mà ngược lại, phải tiến tới
theo hướng mà toán - lý đã khai mở và chỉ ra, phải sử dụng những “phương tiện”
mà toán - lý đã sáng tạo. Nhưng như đã thổ lộ, năng lực trí tuệ yếu kém của
chúng ta đã không cho phép chúng ta sánh vai, đồng hành với lực lượng tinh
nhuệ, đi tiên phong của toán - lý để thực hiện ước vọng cháy bỏng của bản thân
mình. Đó là cái mâu thuẫn đối kháng cực kỳ gay gắt, tuy không đến nỗi một mất
một còn, nhưng đến Tạo Hóa (xin lỗi Ngài!) cũng không khắc phục được!
Nếu không khắc phục được mâu thuẫn thì
tìm cách vượt qua mâu thuẫn, nếu không có “tảng” lý thuyết toán - lý cao siêu
và vĩ đại làm điểm tựa thì chúng ta hãy hành động như anh chàng nọ: tự túm tóc
làm mình bay lên và hành trình đó đây cho thỏa niềm ước ao, khát vọng. Lời tự
nhủ thầm ấy, ai nghe thấy mà không cười hô hố vì đối với họ rõ ràng là nó đầy
ngông cuồng và hão huyền. Nhưng đối với chúng ta, đó là lời tự nhủ tuyệt vời
bởi vì chúng ta đã biết tỏng, một cách tương đối, và nếu tìm ra cách tự tạo một
động cơ phản lực trong nội tại bản thân mình bằng những vật liệu và phương tiện
thông dụng nhất, thì chúng ta cũng sẽ hóa thành trái tên lửa vi vu đến mọi chân
trời góc bể của Vũ Trụ.
Tuân theo lời khuyên nhủ, việc đầu tiên
chúng ta làm là đặt ra câu hỏi: toán - lý là cái gì? Và chúng ta đã trả lời
được: toán - lý là một Vũ Trụ ảo do loài người sáng tạo ra trong quá trình quan
sát và nhận thức Vũ Trụ thực tại, nhằm mô phỏng, miêu tả thực tại theo nhãn
quan, cách thức đặc thù và ý chí (tức lý trí chưa hoàn toàn sáng suốt) của mình. Cũng do đó mà Vũ Trụ ảo toán - lý vừa
mang tính khách quan vừa mang tính chủ quan, vừa như thực thể vừa là nguyên lý.
Nói cách khác, toán - lý là một thực tại kỳ ảo hòa quyện với hoang đường huyễn
hoặc. Còn thực chứng có ảo không? Ảo luôn! Tất cả các thí nghiệm đúng là thực
tại, nhưng kiến thức rút ra được từ các thí nghiệm ấy đều phải thông qua suy
luận. Cho dù suy luận có tính trực giác đến mấy thì cũng không thoát khỏi sự
lũng đoạn của suy nghĩ chủ quan con người, nghĩa là các thí nghiệm ấy đã bị “ảo
hóa”. Ví dụ, để chứng minh xung quanh một dây dẫn điện có tồn tại trường điện
từ, người ta phải dùng thiết bị đo. Nếu thiết bị đo hoạt động, ta rút ra kết
luận rằng ở đó tồn tại một trường điện từ, dù ta có đo nó hay không. Nhưng có
chắc trong vùng không gian xung quanh dòng điện, thực sự tồn tại trường điện từ
không? Nếu hỏi các nhà vật lý theo chủ nghĩa thực chứng, thì 100% câu trả lời
là khẳng định. Chúng ta thắc mắc: đành rằng khi đưa thiết bị đo đến đó thì phải
thừa nhận là có, nhưng khi lấy thiết bị đo đi khỏi thì sao lại khẳng định được (vì đã có thực chứng đâu!?)?
Dòng điện dùng năng lực của mình để tạo dựng một trường tương tác cố định trong
vùng không gian bao quanh nó nếu là sự thực thì thật…phi thường!
Có thể hiểu nôm na: “tư duy” là “nghĩ” và
“suy”. Ở loài vật (không phải loài người) có thể có “nghĩ” nhưng không có
“suy”, hoặc sự “suy” của chúng là nông cạn, nhất thời và được gọi là bản năng,
vô thức. Một con báo nằm rình rập con mồi, chờ đợi thời cơ để xông ra vồ chụp,
không thể nói khác được, phải là một quá trình được điều khiển bởi sự "nghĩ".
Nhưng cũng không thể nói khác được, đó là sự "nghĩ" thiếu "suy", nhất thời, nông cạn,
tương tự một phản xạ bản năng đã được tự nhiên hun đúc qua nhiều thế hệ. Sự
nghĩ đó mau chóng nhạt nhòa sau quá trình săn bắt mồi và không còn được lưu giữ
như một “kỷ niệm” trong não con báo nữa. Như thế, nếu ở loài vật có tồn tại sự
suy nghĩ nào đó thì sự suy nghĩ đó hầu như không có hồi ức (sự nhớ lại), và đã
thành bản năng của con vật thông qua con đường tiến hóa-thích nghi sinh vật.
Vậy, có thể quan niệm: tư duy là những cảm giác về thế giới khách quan được lưu
giữ tương đối dài lâu theo thời gian mà bộ não có thể tái hiện lại trong tâm
thức (hồi ức), nhờ đó mà chọn lựa (suy ra) được hành động được coi là tốt nhất
cho đảm bảo sống còn trong cuộc đấu tranh sinh tồn. Nói cách khác, tư duy là
“nghĩ” và có khả năng “suy” từ sự “nghĩ” ấy. Tư duy mà loài người có được chính
là một trong những thành quả của tiến hóa thích nghi thông qua quá trình đấu
tranh sinh tồn ở một giống loài có cơ thể sinh học đặc thù tồn tại trong một
môi trường thiên nhiên đặc thù, với thời gian đủ lâu.
Nhờ có tư duy ấy mà loài người nhận thức
ngày một sâu sắc về tự nhiên. Quá trình nhận thức tất yếu làm xuất hiện toán học
và vật lý học. Toán - lý thuở ban đầu chỉ có mục đích duy nhất là đáp ứng đòi
hỏi nảy sinh ra từ cuộc mưu sinh và ước ao được sống ổn định hơn, sung sướng
hơn của loài người. Chính vì sự nhận thức còn yếu kém của loài người, cũng như
sự thể hiện “lấp lửng”, “hai mặt” của hiện thực khách quan mà trong toán - lý xuất
hiện những mâu thuẫn nội tại gây rạn vỡ niềm tin đối với nhận thức và buộc loài
người phải tìm cách giải quyết. Lịch sử cho thấy việc giải quyết mâu thuẫn phát
sinh trong toán - lý là một công cuộc vô cùng khó khăn gian khổ, nhưng cũng hết
sức oanh liệt, hào hùng, tuy rằng cho đến tận ngày nay vẫn còn đầy những “ngổn
ngang”. Mặt khác, cũng cần thấy rằng công cuộc đó đã làm cho toán - lý ngày nay
đã vượt xa mục đích “thực dụng” dung dị thuở ban đầu của nó để đảm nhiệm luôn
cái vai trò mà triết học không kham nổi: mô tả và giải thích Tự Nhiên Tồn Tại
một cách định tính, và cả định lượng. Chính quá trình thực thi sứ mạng ấy mà
chúng dần chuyển hóa thành thực tại ảo. Nhưng đến nay toán - lý vẫn chưa hoàn
thành vai trò đó, trái lại, toán - lý ngày một phát phì với “ngổn ngang” những
lý thuyết, giả thuyết nhân tạo vô cùng phức tạp, vô cùng rối rắm, trở thành cao
siêu, huyền bí mà dù cho một người có bộ não nhận thức kiệt xuất, bỏ cả đời để
học, cũng không thể lĩnh hội hết được. Điều đó ám chỉ rằng Vũ Trụ là cực kỳ khó
hiểu và người thường như chúng ta, nếu muốn nhận thức nó thì trước hết phải
thấu suốt toán - lý, nhưng vì chúng ta (cũng như những thế hệ mai sau) không
thể thực hiện được điều đó, nên đành “bất khả tri” trước thực tại khách quan.
Nếu sự ám chỉ ấy là sự thực tất yếu thì… buồn quá! Nhưng thật là may lại không
phải như vậy! Bởi vì như chính toán - lý đã phô bày ra, nhiều trường hợp, một
hiện tượng có thể hiểu được theo nhiều cách, bằng nhiều lý thuyết khác nhau, từ
đơn giản đến phức tạp. Vì sao vậy? Vì Vũ Trụ là thực tại khách quan vốn dĩ hai
mang như thế, hay tại vì tư duy "sáng tạo" ra như thế?
Vũ Trụ thực tại có rắm rối và quá ư phức
tạp như toán - lý đã chỉ ra không? Ngắm nhìn hiện thực khách quan, chúng ta bao
giờ cũng có cảm nghĩ vạn vật - hiện tượng sao mà hồn nhiên thế. Mọi quá trình
trong Vũ Trụ, trừ của loài biết tư duy, đều là mù quáng, mà sao lại có thể
triển khai nhịp nhàng, hợp lý đến mức tối ưu như thế? Vì là mù quáng nên các sự
vật - hiện tượng không biết “tính toán” các phương trình để lựa chọn giữa có
nghiệm và vô nghiệm, giữa bất toàn và tối ưu trong sự vận động duy trì tồn tại
của chúng, ấy vậy mà chúng chưa một lần mảy may phạm sai lầm, vẫn tuân thủ
tuyệt đối chính xác những vốn dĩ cần phải tuân thủ mà loài người đã khám phá ra
(có lẽ là hầu hết) và gọi đó là những nguyên lý, qui luật của tự nhiên. Hơn nữa
sự chính xác tuyệt đối ấy chứng tỏ trong Vũ Trụ thực tại khách quan, mọi quá
trình nhân - quả bao giờ cũng dẫn đến “có nghiệm” chứ không thể “vô nghiệm”, và
“nghiệm” được tạo thành bao giờ cũng xác định, tồn tại một cách dứt khoát.
Trong khi đó ở Vũ Trụ ảo toán - lý, đầy rẫy những bất định, những khiên cưỡng
không thể hình dung nổi, những hoang cảnh kỳ dị ẩn chứa mâu thuẫn lôgic sâu
sắc, chẳng hạn nếu không là tất cả thì cũng gần như tất cả các hằng số mà toán
- lý rút ra được từ suy luận khoa học đều là số vô tỷ. Làm thế nào mà các bộ phận trong
Vũ Trụ kết hợp với nhau một cách đồng bộ được, nhịp nhàng được, nếu kết quả cho
thấy chúng vô tỷ!? Tóm lại, nếu Vũ Trụ thực tại được thấy là một tổng thể được
bảo toàn, do đó sự vận động, chuyển hóa trong nội tại nó phải luôn luôn mạch
lạc và cân bằng, thì Vũ Trụ ảo toán - lý lại được thấy là một tổng thể bất
toàn, bộc lộ nhiều trục trặc, nghịch lý giả tạo đến…vô tỷ...!
Những suy nghĩ nêu trên đã dẫn chúng ta
đến kết luận: toán - lý ngày nay chưa thực sự kiện toàn, vừa thiếu vừa thừa vừa
sai lạc, thừa trong chức năng ứng dụng, thiếu trong chức năng giải mã tự nhiên
và sai lạc khi là công cụ thuyết minh Vũ Trụ. Như vậy có nghĩa rằng toán - lý ngày
nay vẫn chưa hoàn hảo trong vai trò mô phỏng, miêu tả Vũ Trụ thực tại. Như đã
nhận xét thì thành quả mà toán - lý tạo lập được trong suốt hàng ngàn năm thật
là vĩ đại. Đó là những nguyên lý, định lý, qui luật, định luật và dạng định
lượng của chúng là những phương trình, biểu thức, được thiết lập thông qua quá
trình nhận thức và nhận thức lại dài lâu của loài người, đồng thời cũng đã kinh
qua biết bao thử thách để tự điều chỉnh và định hình mà có dạng như ngày nay.
Thành quả ngày nay của toán - lý, do đó, về mặt hình thức và nhất là về mặt
định lượng, nói chung là đúng đắn, không thể không thừa nhận được, nhưng cũng
không thể cho rằng chúng là “bùa hộ mệnh” vạn năng được, vì chúng là thành quả
tạo dựng còn "vương vấn" tính chủ quan và bảo thủ của con người.
Nếu các phương trình, biểu thức toán - lý
nói chung là đã xác đáng thì toán - lý không hoàn hảo ở chỗ nào? Chính câu hỏi
của nhà vật lý nổi tiếng S. Hawking, mà chúng ta chép lại ở đầu chương, đã gợi
ý ra câu trả lời!
Từ quá trình khảo cứu để tìm hiểu một
hiện tượng hay một loại hiện tượng của tự nhiên, các nhà nghiên cứu thu được
những kết quả có tính đồng nhất và từ đó rút ra được kết luận dưới dạng một
định luật, đồng thời đưa ra qui ước và bằng những ký tự cũng như ký số thiết
lập nên những phương trình, biểu thức (những biểu diễn toán học) nhằm “cô đọng”
định luật ấy dưới dạng định lượng. Như vậy, không phải “điều gì đã thổi sức
sống vào các phương trình?” mà chính các nhà nghiên cứu đã gửi gắm nhận thức
khoa học của họ vào trong đó. Đối với những “người trần mắt thịt” hoặc thất học
thì những phương trình toán - lý chỉ là những hiện hữu vô hồn, những dòng ký
hiệu vô tri, chứ không hề có chút sức sống nào cả. Mặt khác, đành rằng những
phương trình toán - lý “có thể mô tả Vũ Trụ” (bởi chúng được sinh ra vì mục
đích đó mà!) thì thử hỏi sự mô tả đó đã thỏa đáng chưa? Trả lời được câu hỏi
này thì vấn đề toán - lý hoàn hảo hay chưa hoàn hảo cũng được làm sáng tỏ.
Nói chung, bản thân các phương trình,
biểu thức toán - lý, do đã được xác minh và tỏ ra vững vàng qua thử thách ứng
dụng nên đó là những kết quả đúng, diễn tả thích đáng các hiện tượng, phù hợp
với những gì mà các nhà nghiên cứu quan sát, đo lường được. Tuy nhiên sự diễn
tả ấy chỉ là hình thức, có tính suy diễn phi thực hoặc trực giác bản năng. Bản
chất của hiện tượng là do các nhà nghiên cứu chủ quan suy ra trên cơ sở nhận
thức khoa học về tự nhiên đã được thừa nhận và đóng vai trò là kiến thức chính
thống của đương thời. Một khi nhận thức về tự nhiên của thời đại chưa hoàn hảo
thì sự suy lý về bản chất hiện tượng đang nghiên cứu cũng chưa hoàn hảo và
đương nhiên phương trình đã thiết lập, đóng vai trò như “phát ngôn viên” của
các nhà nghiên cứu, cũng chưa thể hoàn hảo. Nói cách khác, các nhà nghiên cứu
đã chưa thấy được đích xác ý nghĩa mà các phương trình, các biểu thức hàm chứa. Có
lẽ, bức tranh về thực tại khách quan vốn dĩ đơn giản lắm. Nó phức tạp,
trở nên rắm rối, sai lạc là do sự tưởng tượng thái quá của con người, và
phải chăng, chỉ khi nào con người xác định được các hằng số Vũ Trụ đều
là hữu tỷ, thì thực tại khách quan mà con người vẽ ra mới thực sự đích đáng!? Có lẽ, con đường đi tới chân lý khoa học có nhiều ngã rẽ và toán học là kẻ tiên phong, đóng luôn vai trò là bảng chỉ đường. Vì toán học vẫn chưa chân chính nên đã dẫn vật lý lạc đường, đến với quan niệm về điểm kỳ dị, vụ nổ Big Bang, và một Vũ Trụ dãn nở!?.
Trước đây, kể cũng rất lâu rồi, chúng ta
đã từng suy nghĩ rất nhiều đối với quan niệm của toán - lý về Tự Nhiên Tồn
Tại và dù còn mờ nhạt, cũng đã thấy hiện lên không ít những ngộ nhận tồn tại
trong hệ thống quan niệm ấy. Lúc đó, chúng ta tự cười mình vì nghĩ rằng toán -
lý không thể sai được mà chính bản thân chúng ta đã sai khi “nhìn gà hóa cuốc”.
Thế rồi, trong một lần cố hiểu cho được
thuyết tương đối hẹp, chúng ta đã phát hiện ra cái sai của Anhxtanh chỉ bằng
một thao tác đơn giản với phương tiện là toán học phổ thông. Lúc đầu tưởng mình
phạm sai lầm ấu trĩ ở khâu nào đó, nhưng thử đi thử lại mãi vẫn đúng. Dù sao
thì chúng ta cũng không hề tin rằng đã tìm ra được “gót chân Asin” của nhà vật
lý vĩ đại nhất thế kỷ XX, nhất là khi thấy toán - lý cao cấp (phép toán tenxơ)
cũng không hề phát hiện ra cái sai ấy…
Sự
hạn chế về kiến thức toán - lý đã buộc
chúng ta quay về với triết học Mác - triết học mà chúng ta đã từng cho
là nói
đúng nhất về tự nhiên, đã từng đặt niềm tin tuyệt đối vào nó thuở thiếu
thời, để cố tìm ra một hướng đường thực hiện khát vọng tìm
hiểu căn nguyên Vũ Trụ. Vô vọng! Té ra, khi đã có ít nhiều “kinh nghiệm”
về
nhận thức thì mới thấy triết học này cũng y hệt như một tôn giáo, như
Phật giáo chẳng hạn: mê lầm trong
cực đoan, cuồng tín và ru ngủ!
Biết rằng nguồn cội của triết học châu Âu
là triết học Hi Lạp cổ đại, chúng ta về đó mong tìm ra một sự gợi mở nào đó dù
nhỏ nhoi. Và đúng là chúng ta đã tìm được cái gợi mở nhỏ nhoi ấy: ý niệm về tồn
tại và sự cần thiết phải phân biệt giữa tồn tại và sự hiện hữu. Ít ỏi thế thôi
nhưng cực kỳ quan trọng!
Người ta cho rằng triết học Hi Lạp cổ đại
rực rỡ được là nhờ công lao không nhỏ của triết học phương Đông cổ đại. Tin
theo nhận định đó nên chúng ta quay sang triết học Ấn Độ cổ đại. Chính ở đây đã
bật lên trong chúng ta một ý tưởng hoàn toàn mới mẻ, vô cùng khác lạ, nhưng có
vẻ không đến nỗi vô lý lắm: không gian có tính thực thể và là cội nguồn của tất
cả, kể cả thời gian. Ý niệm ấy tất nhiên bày ra câu hỏi: vậy thời gian là gì?
Lúc đó chúng ta không trả lời nổi, nhưng đã hiểu rằng: ai thấy được bản chất của
không gian và thời gian, người đó mới có cơ may thấu tỏ được căn nguyên Vũ Trụ. (Còn tiếp) -------------------------------------------------------------------------
Nguyên CSGT Nguyễn Tùng Dương bình tĩnh hút điều thuốc cuối trước giờ THI HÀNH ÁN - GCG
Vụ mất tích bí ẩn của góa phụ máu lạnh
MỹSharon Hall bị cáo buộc liên quan cái chết của ba người, nhưng trong thời gian chờ thụ án, cô ta đột nhiên mất tích.
Ngày 19/3/1960, tổng đài cứu trợ 911 của bang Missouri
tiếp nhận cuộc gọi báo án từ Sharon Hall, thông báo chồng mình bị bắn
trọng thương, yêu cầu cứu hộ giúp đỡ.
Khi cảnh sát
và cứu thương tới biệt thự sang trọng của vợ chồng Sharon, họ thấy cô
con gái Danna, 3 tuổi, đang ngồi trên giường ngủ của bố mẹ, bên cạnh là
thi thể của James bị bắn từ phía sau.
Sharon khóc
nức nở, khai rằng trong lúc đang tắm, con gái nghịch súng của bố và vô
tình cướp cò, bắn chết James. Để xác minh liệu bé Danna có khả năng bóp
cò, giết bố hay không, cảnh sát đã tìm những dấu vân tay trên khẩu súng.
Tuy nhiên, khẩu súng mới được tra dầu nên trên báng không lưu lại dấu
vân tay.
Theo lời khai của Sharon, James rất hay để
con gái cầm súng chơi. Cả bố mẹ, người thân của James đều xác nhận
thường xuyên thấy James cho con gái chơi với súng và cũng đã nhiều lần
nhắc nhở anh không nên làm chuyện nguy hiểm như vậy. Bên cạnh đó, cảnh
sát cũng cho Danna làm một bài kiểm tra với khẩu súng và cho thấy cô bé
hoàn toàn có khả năng bóp cò.
Vì không có nhiều nghi vấn trong cái chết của
James nên cảnh sát nhanh chóng kết luận nạn nhân chết do con gái vô
tình bóp cò súng. Vụ án khép lại, Sharon nhận khoản tiền bảo hiểm 29.000
USD cho cái chết của chồng.
Song những tin đồn
không hay về Sharon bắt đầu lan từ khu phố đến tai các nhà điều tra. Một
số hàng xóm nói với các thám tử rằng Sharon vốn ham vinh hoa phú quý,
lấy chồng chỉ vì muốn thừa hưởng khối tài sản kếch xù nhà chồng. Gần
đây, việc làm ăn kinh doanh của James gặp khó khăn, Sharon không còn
được chi tiêu thoải mái như trước nên họ thường xuyên cãi nhau.
Theo
điều tra của cảnh sát, James đã phát hiện vợ ngoại tình với John
Boldizs, người bạn học cũ của cô. Tức giận vì bị phản bội, James yêu cầu
ly hôn. Sharon đồng ý với điều kiện James cho cô ngôi biệt thự và chu
cấp nuôi con hàng tháng 1.000 USD. Cảnh sát bắt đầu nghi ngờ Sharon
nhưng không có bằng chứng.
Vài tháng sau cái chết của chồng, Sharon gặp gỡ một người đàn ông khác, Walter
Jones, ông chủ giàu có của đại lý xe hơi danh tiếng. Ngay từ lần đầu
gặp, khi Sharon tới mua xe ở cửa hàng mình, Walter đã nhanh chóng để mắt
tới cô gái xinh đẹp, quyến rũ. Họ nảy sinh tình cảm.
Sau
khi qua lại được vài tháng, Sharon thông báo với Walter đã có thai và
yêu cầu anh ta chịu trách nhiệm. Cô thường xuyên hối thúc nhân tình sớm
ly dị vợ để chăm sóc cho cô và đứa bé trong bụng. Thế nhưng anh ta trở
mặt, nói Sharon chỉ là thú vui qua đường, sẽ không bao giờ có việc bỏ vợ
con để chung sống với cô. Walter lạnh lùng đưa tiền cho Sharon, bắt cô
đi phá thai, cũng như cấm tiết lộ chuyện này với bất kỳ ai.
Đêm 26/5/1960, Walter báo cảnh sát việc vợ
mình, Patricia Jones, bỗng mất tích, không trở về nhà sau một ngày làm
việc. Đồng nghiệp của Patricia nói rằng buổi chiều cùng ngày, cô nghe
Patricia nói chuyện qua điện thoại với một người phụ nữ không hề quen
biết, nhưng cô ta lại hẹn Patricia sau giờ làm hãy gặp nhau để bàn
chuyện hệ trọng.
Đối chiếu với lời khai của đồng
nghiệp, một số người dân bên dưới tòa nhà Patricia làm việc cũng nói
thấy vợ Walter đã vào xe của một phụ nữ. Tuy nhiên, vì người phụ nữ đó
đeo kính râm to bản, trùm kín mặt bằng khăn và áo khoác nên không ai
biết cô ta trông thế nào.
Chỉ với thông tin mô tả
ít ỏi, Walter ngay lập tức nghĩ đến khả năng người phụ nữ hẹn vợ mình ra
ngoài chính là Sharon. Khi Walter được triệu đến sở cảnh sát để thẩm
vấn, anh ta cũng thừa nhận việc mình đang ngoại tình với Sharon. Anh ta
suy đoán, Sharon có thể liên quan tới vụ mất tích của vợ. Song khi anh
ta đến tận nhà nhân tình để hỏi chuyện, Sharon chối quanh co.
Một
ngày sau, cảnh sát tìm thấy thi thể Patricia trong một khu nhà bỏ hoang
gần nơi làm việc của cô. Cô bị bắn nhiều nhát vào đầu và bụng ở cự ly
gần, và có thể bị bắn chết ở một nơi khác trước khi thi thể bị vứt lại ở
đây.
Khẩu súng giết chết Patricia có cỡ nòng 22
ly, trùng khớp với khẩu súng đã giết chết chồng của Sharon. Nhưng cảnh
sát lại loại bỏ nghi ngờ này bởi khẩu súng đó vẫn thuộc sự quản lý của
cảnh sát.
Sau khi Sharon trở thành kẻ tình nghi
hàng đầu cho cái chết của Patricia, một lệnh khám xét được thực hiện tại
ngôi biệt thự của Sharon. Các nhà điều tra tìm thấy hộp đựng súng rỗng
còn mới, nhưng Sharon khai rằng đó là chiếc hộp đựng khẩu súng giết chết
chồng mình.
Trong khi cảnh sát tiếp tục tìm kiếm
bằng chứng nhưng chưa có kết quả thì một người làm công nhà Sharon tới
đồn cảnh sát khai rằng Sharon đưa tiền nhờ mua khẩu súng cỡ nòng 22 ly
đứng tên anh ta. Khi biết cảnh sát đang điều tra Sharon, vì sợ bị liên
lụy phải vào tù, anh ta đã quyết định tới gặp cảnh sát.
Tuy
nhiên, Sharon khai rằng đã đánh mất súng trong khi đi nghỉ mát. Do
không có bằng chứng thuyết phục nên Sharon được trắng án trong vụ sát
hại Patricia ở phiên tòa vào tháng 6/1961.
Mặc dù
thoát tội trong vụ án Patricia, giới điều tra đã quyết định lật lại hồ
sơ cái chết của James. Khi các điều tra viên tìm gặp John Boldizs, bạn
học cũ và là nhân tình của cô ta, anh này khai nhận Sharon từng nói muốn
giết chết James để đoạt tiền bảo hiểm. Cô nhờ anh giết chết James với
giá 1.000 USD nhưng John từ chối.
Công tố viên cao
buộc, tối 9/3/1960, Sharon đã lén đợi lúc James đang chợp mắt, vào phòng
ngủ và lấy khẩu súng 22 ly, bắn một phát đạn chí mạng vào phía sau đầu
anh rồi đổ lỗi cho bé Danna.
Tháng 1/1962, Sharon
bị tuyên án tử hình nhưng khi đó đang mang thai nên được giảm xuống mức
tù chung thân. Sau khi ngồi tù, Sharon đệ đơn kháng án.
Trong lúc chờ phiên tòa tiếp theo, Sharon
được thả bảo lãnh ra khỏi nhà giam. Theo các điều khoản pháp lý trong
việc bảo lãnh, Sharon được phép rời khỏi đất nước nên cô đã cùng người
yêu mới đến Mexico dự định kết hôn.
Tuy nhiên, tại
đây Sharon đã bị cảnh sát Mexico bắt giữ vì tội dùng súng bắn chết người
yêu mới nhưng may mắn anh này sống sót. Tháng 10/1965, Sharon bị kết án
từ 10 đến 13 năm tù vì tội Cố ý giết người.
Tuy
nhiên, năm 1969, Sharon đã biến mất khỏi nhà tù nữ Ixtapalapa ở Mexico
không để lại bất kỳ dấu vết nào, đưa cô trở thành một trong những kẻ tội
phạm đáng chú ý nhất lịch sử nước Mỹ, được mệnh danh là "góa phụ bí ẩn
nhất".
Kể từ đó cho đến nay, dù cảnh sát đã áp dụng
nhiều biện pháp từ truy nã, theo dõi nhà người thân vẫn không thể nào
bắt được cô ta.
Sharon là một trong những người có
lệnh truy nã dài nhất trong lịch sử nước Mỹ và cuộc đời đã được khắc họa
trong chương trình truyền hình Unsolved Mysteries - Những bí ẩn chưa được giải đáp.
Bình ThuậnCông an đã truy tìm được thủ phạm giết người phụ nữ 42 năm trước, khiến ông Võ Tê (hiện đã chết) bị bắt oan.
Ngày 14/1, đại tá Phạm Thật (Phó giám đốc Công an tỉnh
Bình Thuận) cho biết, quá trình điều tra lại vụ án, cơ quan công an đã
tìm được thủ phạm giết bà Phan Thị Khanh (lúc đó 26 tuổi) là Trương Đình
Chi - tức Trần Đình Khôi. "Chi đã ít nhất ba lần thay đổi tên, tuổi.
Tuy nhiên quá trình xác minh, giám định và lấy lời khai đều xác định
những tên này đều cùng một người", ông Thật nói.
Về
việc xử lý hung thủ thực sự của vụ án, Phó thủ trưởng Cơ quan cảnh sát
điều tra Công an Bình Thuận - thượng tá Vũ Xuân Tiếu, cho biết pháp luật
hiện hành không thể xử lý Chi do đã hết thời hiệu xử lý.
Ngay sau khi bắt được hung thủ, Công an Bình Thuận đã ra quyết định đình chỉ điều tra bị can đối với ông Võ Tê -
bị cho là thủ phạm giết bà Khanh 42 năm trước. Cơ quan điều tra xác
định, hành vi của ông Tê "không cấu thành tội phạm" theo quy định tại
Điều 157 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.
"Sắp tới,
Công an Bình Thuận sẽ tiến hành các bước xin lỗi công khai, bồi thường
oan sai theo quy định của pháp luật cho gia đình ông Tê", thượng tá Vũ
Xuân Tiếu cho hay.
Ông Võ Ngọc (54 tuổi, con trai ông Võ Tê) cho
biết, gia đình rất vui mừng khi nhận được quyết định đình chỉ bị can
đối với người cha. "Nỗi oan ức của cha tôi và gia đình cuối cũng cũng
được giải tỏa. Chỉ tiếc cha tôi đã không còn", ông Ngọc nói và cho biết
đang tính toán mức yêu cầu bồi thường oan sai.
Theo
nội dung vụ án, 19h ngày 31/7/1980, trên địa bàn xã Tân Minh, huyện Hàm
Tân, xảy ra vụ án bà Khanh trên đường đi bẻ bắp về bị sát hại, cướp 1,6
lượng vàng (gia đình cho là bà vẫn mang theo người mỗi ngày).
Công an huyện Hàm Tân sau đó khởi tố, bắt tạm giam ông Võ Tê, sống cách hiện trường khoảng 300 m với cáo buộc Giết người, Cướp tài sản.
Ông Tê được di lý về Công an tỉnh Thuận Hải (nay là Bình Thuận) để điều
tra. Tuy nhiên, 5 tháng sau, ông Tê được công an tỉnh trả tự do vì
"không đủ chứng cứ kết tội". Năm 1994, ông Tê qua đời khi còn mang thân
phận bị can.
Hai năm trước, khi nghe tin con trai bà Khanh
có đơn gửi Công an tỉnh Bình Thuận tố cáo hung thủ giết mẹ mình, ông Võ
Ngọc (54 tuổi, con trai ông Tê) được một số luật sư, người từng trợ
giúp pháp lý cho ông Huỳnh Văn Nén hướng dẫn thủ tục để làm đơn kêu oan cho cha.
Cuối năm ngoái, ông Ngọc tiếp tục gửi đơn đến các cơ quan tố tụng đề nghị giải oan cho người cha đã mất .
Sau
khi tiếp nhận đơn của ông Ngọc và con trai bà Khanh, Công an tỉnh Bình
Thuận đã phối hợp với Cục cảnh sát Hình sự (C02) Bộ Công an xác minh,
truy tìm thủ phạm.
Trước đó, ông Đỗ Thanh An (con
trai bà Khanh) đã làm nhiều đơn tố cáo gửi Công an tỉnh cho rằng hung
thủ thực sự giết mẹ mình chính là ông Trương Đình Chi, sau đổi tên thành
Trần Đình Khôi và Lê Minh Sơn. Ông Chi là anh em cột chèo với cậu của
anh An.
Hai ngày trước khi xảy ra vụ án, ông Trương
Đình Chi cùng vợ từ miền Tây ra Bình Thuận ở nhờ nhà người anh em cột
chèo, kế bên nhà bà Khanh. Lúc đó, ông Chi mang theo bao phân Urê 30 kg
bán để mua thuốc trị bệnh cho con.
Sau khi bà Khanh
vị giết, ông Chi cùng vợ bỏ về miền Tây rồi đi nhiều nơi sinh sống.
Nhận đơn tố cáo, Công an tỉnh Bình Thuận nhiều lần truy tìm, nhưng không
bắt được nghi phạm do người này và gia đình liên tục thay đổi chỗ ở.