Vùng Thất Sơn có loài rắn bí ẩn, cực độc mà dân gian gọi là rắn tre hay thanh xà, bạch xà, sống trong thân tre.
Trùn hổ là vị thuốc - Ảnh: T.D
“Sát thủ” vô hình
Ông Lương Văn Hội (62 tuổi, nguyên Phó chủ tịch HĐND thị trấn Nhà
Bàng, H.Tịnh Biên, An Giang) kể hồi xưa vùng Thất Sơn tre rừng dày bịt
nên có loài rắn lạ là rắn tre. Ông Hội kể cây tre nào có lỗ thủng nhỏ cỡ
đầu chân nhang thì thường có rắn sống trong đó.
Rắn tre to hơn đầu đũa, dài khoảng 4 tấc hơn, có màu xanh hoặc trắng
tùy theo chúng sống trong mắt tre mọc ở trên cao hay sâu dưới đất nên
người dân gọi là thanh xà, bạch xà. Vì không biết rắn tre nên lúc xưa
người dân đốn tre làm bộ vạt hay giường ngủ, không chú ý đến chúng. Ông
Hội nhớ lại: “Thỉnh thoảng có người chết, thân thể tím tái như trúng
độc, các thầy rắn đoán bị trúng nọc rắn độc nhưng kiểm tra không thấy
dấu răng nên hồ nghi, không biết đó là rắn gì”.
Sau này, khi phá bộ giường nằm của người chết, người ta mới phát hiện
có con rắn nhỏ chậm chạp bò quanh, bèn đập chết. Thấy rắn lạ, người dân
đem xác cho các thầy rắn xem, từ đấy bí mật về “sát thủ” vô hình mới
dần lộ diện. Các thầy rắn đoán, do rắn sống trong thân tre, ăn bọng tre,
uống giọt sương nên cực độc. Ai vô phúc đốn tre làm giường, vô tình gối
đầu nằm gần mắt tre có rắn ở thì chỉ hít phải hơi thở của chúng cũng
thấm độc chết. Ông Hội kể tiếp:“Biết rõ sự việc nên sau này đốn tre làm
giường, ai cũng xem kỹ trong thân tre có rắn hay không”.
Bù rầy nay thành món ăn lạ miệng - Ảnh: T.D
Theo ông Hội, đây là loài rắn bí ẩn, không biết chúng do loài rắn nào
sinh ra nên người dân đặt tên là rắn tre. Người già dự đoán, lúc rắn đẻ
trứng, một số trứng bị lọt vào trong lỗ mắt tre, đến lúc nở ra, rắn con
không chui lọt được do mắt tre quá nhỏ. Cũng có người suy luận, có thể
lúc rắn đẻ trứng vùi dưới đất không lâu sau có bụi tre phá đất mọc lên
và trứng hay rắn con bị lọt nằm kẹt trong bọng tre. Do chỉ sống trong
tăm tối nên gặp ánh sáng rắn tre trở nên chậm chạp. Có khi trong bọng có
cả một cặp rắn tre. Ban đầu lo sợ rắn độc, sau đó người dân phát hiện
rắn tre ngâm rượu uống mát lạnh, sảng khoái nên tìm ống tre bắt rắn ngâm
rượu.
Ông Huỳnh Thái Hùng, Phó chủ tịch HĐND thị trấn Nhà Bàng vẫn còn tiếc
nuối hũ rượu rắn tre bị bể. Ông Hùng kể, hôm đó ngồi bổ mấy ống tre
mục, không ngờ thấy con rắn tre nằm ngọ ngoạy. Mừng rỡ vì loài rắn này
đang hiếm nên ông Hùng lật đật đeo khẩu trang, bịt kín mũi đề phòng hơi
độc rồi đập rắn chết, đem ngâm rượu. Ông Hùng kể giữa trưa nắng, uống
rượu rắn xong mát mẻ như nằm phòng máy lạnh nên bạn bè hay đến xin. Rồi
hôm đó, lúc cao hứng cầm hũ rượu rót cho bạn, ông Hùng lỡ tay làm rớt
bể, xác rắn vừa văng ra thì con chó nhà chạy đến ăn mất.
Ông Nguyễn Văn Lê (65 tuổi, ngụ thị trấn Ba Chúc, H.Tri Tôn, An
Giang) kể Thất Sơn có nhiều rắn độc như hổ chuối, hổ hùm, hổ lông, hổ
sơn, hổ bướm... Rắn hổ sơn sau khi cắn chết người thì vài ngày sau chúng
trở lại ngay nơi đó, như để tìm lại nọc, nên bị đập chết, người ta gọi
là rắn một mạng đổi một mạng. Rắn hổ lông nhìn như hổ đất nhưng ngay rốn
có túm lông, thịt rất độc, ai không biết ăn thịt rắn xong là hết thuốc
cứu. Rắn hổ bướm là rắn độc, nhìn giống con trăn, nếu gọi là trăn thì nó
vô hại, còn gọi trúng tên hổ bướm, nó trở nên dữ tợn. Những món ăn kỳ dị
Vùng Thất Sơn có nhiều đồi núi gò cao, là nơi bù kẹp (bọ cạp), rắn,
rết, mối chúa sinh sống và nay chúng trở thành món ăn khoái khẩu của
nhiều người. Mới đây, miệt Thất Sơn lại xảy ra chuyện lạ khi một số
người thỉnh thoảng hay đi gom mua con cuốn chiếu núi. Anh Lê Văn Cường
(ấp Vĩnh Hạ, xã Vĩnh Trung, H.Tịnh Biên) nói 1 con cuốn chiếu bán được
500 đồng, nhưng anh không hiểu họ mua để làm gì. Anh Cường cho biết, do
đặc thù đồi núi, nên cuốn chiếu núi to hơn đầu đũa, gồm cuốn chiếu màu
đen và màu đỏ nhưng người ta chỉ mua cuốn chiếu đen. Còn cuốn chiếu đỏ
rất độc, đi chân không vô tình đạp lên chúng thì lòng bàn chân ngứa ngáy
và in hằn một vết đỏ, vài ngày sau mới phai.
Ông Nguyễn Thiện Chung, Chủ tịch Hội Đông y H.Tịnh Biên nói đây là
chuyện lạ vì trong sách thuốc không đề cập nó là vị thuốc. Theo ông
Chung, trước đây, một số người bị bù kẹp chích đau nhức quá bèn bắt cuốn
chiếu núi giã nát đắp lên vết thương, rất hiệu nghiệm. Ông Chung ngẫm
nghĩ, người bị bù kẹp chích không nhiều nên có khả năng họ mua cuốn
chiếu làm chuyện khác.
Nhưng dưới cái nhìn của ông Hai Tấn (73 tuổi, ngụ xã An Hảo, H.Tịnh
Biên) thì biết đâu họ mua về ăn hay làm thuốc. Ông Tấn dẫn chứng, trước
đây, vùng núi có loài côn trùng là bù rầy, nhìn rất xấu xí, chẳng ai dám
nghĩ đến chuyện ăn chúng nhưng nay, chúng thành món ăn lạ, ngon miệng,
được khắp nơi biết đến.
Nhắc đến chuyện côn trùng trị bệnh, ông Lương Văn Hội nói ngày xưa
Thất Sơn muỗi còn nhiều hơn ở U Minh nên dân xứ núi hay bị sốt rét. Lúc
đó thuốc men làm gì có như bây giờ nên người ta bắt trùn hổ uống làm
thuốc. Ông Hội kể: “Chỉ vùng này mới nhiều trùn hổ. Để chế thuốc, người
dân chặt ống trúc rồi bỏ một đống trùn vào, lấy miếng chanh tươi đậy lên
miệng rồi đem ống trúc hơ lửa nóng thật lâu cho trùn bị nóng, chảy ra
thành nước thì lấy nước đó ra uống, vậy mà giảm bệnh”.
Ông Bảy Phong, người sưu tầm các cây thuốc núi ngụ ở H.Tịnh Biên giải
thích, trùn hổ còn gọi là địa long, từng được dùng trị bệnh viêm tai
giữa. Ông Phong còn xác nhận, ăn cháo trùn hổ xong thấy khỏe, bớt căng
thẳng. Ngư dân mua trùn giăng câu vì cá tôm mê mồi trùn, còn người nuôi
gà độ hay chim thì mua trùn cho chim, gà ăn để chúng lên màu lông đẹp và
đá dữ hơn. Thanh Dũng
Thất Sơn truyền kỳ - Kỳ 5: Bí ẩn bia đá và hồ không cạn nước
Cối đá khổng lồ
Núi Cô Tô, còn gọi là Phượng Hoàng Sơn, ở xã Cô Tô, H.Tri Tôn (An
Giang), là một trong những ngọn núi đẹp của Thất Sơn. Người già kể rằng
ngày xưa núi có nhiều chim phượng hoàng nhưng nay đã tuyệt tích.
Theo dân gian truyền tụng, ngày xưa tiên hay bay xuống núi chơi nên
trên đỉnh núi đến nay vẫn còn lưu lại dấu chân tiên. Ông Võ Xên, người
được mệnh danh “thần đèn núi Sập” do có biệt tài chống nhà cao tầng
nghiêng lún, kể: “Do hiếu kỳ tôi đi xem. Đó là một dấu hài khổng lồ, tôi
thử đo nó dài khoảng 1,03 m, mỏm hài rộng 0,3 m và dấu bị lõm hằn xuống
phiến đá khoảng 0,3 m. Sau đó, tôi nghe người dân kể núi Ba Thê, núi
Cấm, núi Két cũng có dấu chân tiên nên đi kiểm tra nhưng các dấu chân
này rất mờ như có bàn tay con người tác động”.
Ông Xên nói tất nhiên không thể có người khổng lồ hay tiên xuống trần
gian chơi để lại dấu chân nhưng ông đã kiểm tra kỹ thì đấy là vết hài
lõm tự nhiên, không phải do con người đục phá, gây chuyện hiếu kỳ. Vì
thế, ông suy luận có khả năng khi xưa núi vừa trồi lên là lớp đá non rồi
có người bước lên đã để lại dấu hài. Sau đó núi mọc lớn lên nên dấu hài
bị kéo giãn ra thành dấu chân khổng lồ.
Nói về những điều kỳ lạ của Thất Sơn, ông Lê Văn Hơn (64 tuổi, ở ấp
Ba Xoài, xã An Cư, H.Tịnh Biên) bổ sung chuyện lạ: cối đá khổng lồ nằm
trên đồng ruộng. Đấy là cối đá nằm vùi dưới đất ruộng, do bị nhiều tác
động đã trồi lên. Ông Hơn lại ôm thử cối đá nhưng vòng tay không giáp.
Ông ước lượng cối đá nặng cả tấn, được làm bằng đá tốt. Ông Hơn nói: “Ai
cũng ngạc nhiên, không biết cối đá to như vầy để xay cái gì? Sức người
chắc chắn không thể nào xay được cối đá này”.
Còn gần núi Ba Thê (thị trấn Óc Eo, H.Thoại Sơn) có cặp bia cổ ngàn
năm nằm ở chùa Phật Bốn Tay, đến nay dòng chữ trên đó vẫn chưa được giải
mã. Những người già cho biết do trúng bom đạn nên một trong hai tấm văn
bia có vài chỗ bị bể. Tiến sĩ Ngô Quang Láng, Trưởng ban Quản lý khu di
tích Óc Eo - Ba Thê, xác định hai bia đá trên thuộc văn hóa cổ Phù Nam,
mỗi tấm bia làm bằng đá gan gà có chiều cao 1,8 m và dày khoảng 20 cm,
bề ngang chừng 80 cm. Ông Láng nói: “Các tỉnh thành khác khai quật được
bia cổ của nền văn hóa Phù Nam thì các nhà khảo cổ đều dịch được hết
dòng chữ ghi trên bia đá đó. Còn hai văn bia này tới nay các nhà khảo cổ
trong nước vẫn chưa giải mã được chữ viết. Chúng tôi đã mời nhiều
chuyên gia thông thạo chữ cổ, chữ Phạn ở Ấn Độ và các nước khác tới giúp
giải mã. Họ đã sao chép lại đem về nước nhưng đến nay vẫn chưa dịch
được dòng chữ trên văn bia là gì”. Hồ “Thạch Sanh”
Khách du lịch đến tham quan các núi đá trên Thất Sơn đều tranh thủ
lấy nước trong các “giếng tiên” rửa mặt hay uống một ngụm để cầu khấn sự
an lành.
Hồ Cây Đuốc, nước không bao giờ cạn - Ảnh: T.D
Các “giếng tiên” đều nằm trên đỉnh núi, miệng giếng rộng từ 0,5 - 1
m; ăn sâu xuống lòng núi thì miệng giếng nhỏ dần. Ông Nguyễn Sơn Đào
(ngụ núi Két) kể: “Ngày xưa, vào mùa khô hạn, nguồn nước trên các núi
Thất Sơn khan hiếm nên nước trong giếng tiên rất quý đối với người dân.
Kỳ lạ lắm, nhìn nước trong giếng rất ít nhưng vừa múc hết nước thì không
lâu sau nước lại trào lên. Vì vậy người dân trên núi gọi là giếng tiên
hay giếng trời sanh”.
Không thể thống kê hết trên Thất Sơn có bao nhiêu “giếng tiên” nhưng
ngày xưa, lúc chưa có nước máy xài, người và thú ở trên núi phải tranh
nhau trong mùa khô hạn. Tùy theo mùa, tùy theo ngọn núi mà nước giếng
trong hay đục.
Chúng tôi đi sâu trong cánh đồng xã An Cư, H.Tịnh Biên và bất ngờ
thấy một hồ nước nằm trơ trọi giữa cánh đồng lộng gió. Bà Lê Thị Lệ,
người được Xí nghiệp điện - nước Tịnh Biên thuê giữ hồ, kể: “Hồ này tên
là hồ Cây Đuốc, còn gọi là hồ Thạch Sanh vì nước trong hồ xài hoài không
hết, dù mỗi ngày cấp cho mấy ngàn hộ ở xã này”.
Bà Lệ giữ hồ đề phòng, không cho trâu bò, thú rừng hay trẻ nít đến
phá vì đây là nguồn nước sinh hoạt cho người dân nấu nướng, tắm rửa.
Theo bà Lệ, điều kỳ lạ là nước trong hồ trong xanh và sạch quanh năm.
Vào mùa khô hạn dữ dội, người dân sử dụng nước nhiều thì nước hồ chỉ
giựt xuống nhưng vài giờ sau lại đầy trở lại. Bà Lệ nói người ta thiết
kế 2 đường ống xả cấp nước, chỉ cần mở khóa tay là nước theo đường ống
chảy vào nhà dân. Nước hồ sạch nên người dân không cần xài các hóa chất
lọc lại nước.
Về nguyên cớ phát hiện hồ này cũng hết sức tình cờ. Năm 1980, có nhóm
trẻ chăn trâu vô tình phát hiện vũng nước bùn nên cho trâu tới nằm. Lúc
đó, để có nước xài người dân phải túc trực đi vét từng giọt nước ở các
giếng. Nên khi nghe lũ trẻ mách lại, một số người đã âm thầm tới, lấy
nước đem bán. Sau đó, dân trong vùng phát hiện, không mua nữa mà kéo đến
lấy nước. Nhưng lạ làm sao, cái vũng nước rất nhỏ càng múc nước càng
trào lên. Người ta lấy làm lạ, suy đoán vũng nước này là mạch nước ngầm,
nối với các sông lớn.
Chuyện hồ nước không cạn được loan nhanh, lúc này ngành chức năng
H.Tịnh Biên hay tin đã cho người xuống khảo sát mẫu nước, xem đó là nước
sạch hay ô nhiễm để khuyến cáo người dân sử dụng. Huyện đã mời các nhà
khoa học của Trường ĐH Cần Thơ đến khảo sát mẫu nước và quan trắc lòng
đất. Sau khi có kết quả, xác định đây là nước sạch với trữ lượng khổng
lồ, ngành chức năng đã nạo vét vũng bùn, xây lại thành hồ rồi thiết kế
đường ống kéo nước sạch đến nhà dân...
Thất Sơn truyền kỳ - Kỳ 1: Con vua Quang Trung ở Thất Sơn ?
Không những kỳ bí từ tên gọi, Thất Sơn
(An Giang) luôn hấp dẫn nhân gian với bao câu chuyện nửa hư nửa thực về
vùng đất của các kỳ nhân dị sĩ, các ông đạo, kho báu, cùng các loài ác
thú như rắn khổng lồ, hổ báo...
Mộ Phật thầy Tây An ở chùa Tây An, P.Núi Sam, TP.Châu Đốc - Ảnh: T.D
Bí ẩn chưa được giải mã
Thất Sơn và Bảy Núi là hai tên riêng. Địa danh Thất Sơn xuất hiện
trong quyển Đại Nam nhất thống chí của Quốc sử quán triều Nguyễn biên
soạn năm 1865, gồm 7 ngọn: núi Tượng, núi Tô, núi Cấm, núi Ốc Nhâm, Nam
Vi, Tà Biệt, Nhân Hòa (hiện các núi này thuộc huyện Tịnh Biên và Tri
Tôn). Còn Bảy Núi là tên huyện thành lập năm 1977, đến năm 1979 thì tách
thành 2 huyện Tri Tôn và Tịnh Biên.
Theo thống kê, Thất Sơn có 37 núi, đồi nhưng vì sao từ xa xưa lại
chọn 7 ngọn núi này? Sự kỳ thú này làm tốn bao bút mực đời sau nhưng bức
màn bí ẩn tên gọi Thất Sơn vẫn chưa lộ. Nhà văn Hồ Biểu Chánh, khi làm
thơ ký ở Long Xuyên, rồi nhà nghiên cứu văn học, văn hóa và lịch sử Việt
Nam Nguyễn Văn Hầu sưu khảo viết quyển Nửa tháng trong vùng Thất Sơn đã
liệt kê 7 ngọn núi nhưng tên núi đều khác so với đời xưa. Sau đó, cuốn
Việt Nam tự điển do Lê Văn Đức biên soạn, xuất bản năm 1970, đã chú giải
tên 7 ngọn núi lại khác so với sưu khảo của ông Hầu, ông Chánh.
Năm 1984, Trần Thanh Phương viết Những trang sử về An Giang nêu Thất
Sơn gồm núi Cấm, núi Dài Năm Giếng (Ngũ Hồ Sơn), núi Cô Tô (Phụng Hoàng
Sơn), núi Dài (Ngọa Long Sơn), núi Tượng (Liên Hoa Sơn), núi Két (Anh Vũ
Sơn), núi Nước (Thủy Đài Sơn) và các tên này gần đúng với quan niệm của
dân gian nên được dùng phổ biến. Nhưng năm 2000, một kỹ sư ở An Giang
cho rằng Thất Sơn phải là núi Phụng Hoàng Sơn, Ngọa Long Sơn, Liên Hoa
Sơn, núi Cấm, núi Phú Cường, núi Nam Qui và khối núi Trà Sư (gồm núi
Két, Trà Sư).
Vị kỹ sư này giải thích đời xưa xem rồng, kỳ lân, rùa, phụng, voi, hổ
là các con vật tín ngưỡng cao quý tượng trưng cho tầng lớp vua chúa,
mãnh tướng, hiền nhân. Vì thế, các ngọn núi với tên của các con linh thú
này bao quanh, bảo vệ lấy núi Cấm là ngọn núi cao nhất làm trung tâm.
Nhà văn Sơn Nam nhận định: Đời Tự Đức chọn đó là 7 điểm linh huyệt nhưng
sau này mỗi người giải thích một cách, quan lại địa phương sưu tầm, vội
vã chép vào sử. Nhà văn Sơn Nam lập luận gọi tên Thất Sơn để đối xứng
với sông Cửu Long, tạo ra âm dương hài hòa trong thuật số. Đoàn Minh Huyên là hoàng tử nhà Tây Sơn ?
Núi Két ở xã Thới Sơn, H.Tịnh Biên cao 225 m, là ngọn núi độc đáo
trong quần thể Thất Sơn, với khối đá khổng lồ nằm cheo leo trên vách đá
nhìn như đầu chim két. Các cựu lão vùng này đều kính trọng gọi là núi
ông Két và tin rằng khi mỏ ông xê dịch, nhân gian sẽ gặp chuyện bất ngờ.
Các cựu lão kể, do bị bom đạn tàn phá nên mỏ ông Két bị gãy bể, sau này
nhìn khối đá giống như đầu con ngựa hơn đầu chim.
Gần núi Két là trại ruộng Thới Sơn, nơi Đức Phật thầy Tây An (1807 -
1856), tức Đoàn Minh Huyên dẫn theo chúng đệ và 12 vị hiền thủ khai phá
rừng rú, thu phục ác thú, lập nên trại ruộng, mở ra công cuộc khẩn hoang
ở Nam bộ. Cụ đã lập đạo Bửu Sơn Kỳ Hương, tu tâm giúp đời. Do thân thế
cụ thần bí nên nhiều suy luận Đức Phật thầy Tây An có thể là hoàng tử
Nguyễn Quang Mục, sinh năm 1789, là con vua Quang Trung và Ngọc Hân công
chúa. Các trang mạng và một số tờ báo giải trí hay đăng tải ngôi mộ
Phật Mẫu ở Cái Nai, H.Chợ Mới, An Giang chính là ngôi mộ Ngọc Hân công
chúa (?!). Nhiều giả thuyết suy luận Ngọc Hân và 2 hoàng tử đã trốn
thoát trong cơn loạn tru di, vào phương nam thay tên đổi họ ẩn dật.
Mới đây, Hội Khoa học lịch sử An Giang đã tổ chức hội thảo khoa học
Nhân vật lịch sử Đoàn Minh Huyên, nhằm làm sáng tỏ thân phận bí ẩn cũng
như công khai phá vùng đất hoang hóa của cụ và các chúng đệ tử. Các đại
biểu nhận định, năm 1849, ở các làng quê bùng lên dịch tả làm người chết
vô số và Đoàn Minh Huyên lúc ấy sống ở làng Tòng Sơn, Sa Đéc đã trị dứt
bệnh nhiều người không lấy tiền nên được dân tôn thờ. Tiếng lành đồn
xa, người bệnh kéo tới ngày càng đông, gây nghi ngại cho quan tỉnh nên
Đoàn Minh Huyên bị đưa qua Châu Đốc tu hành trong chùa Tây An, nhưng
thực chất để giam lỏng, giám sát.
Trong hội thảo, một số bài nghiên cứu lại đề cập đến thân phận thế tử
lưu vong. Thạc sĩ Mai Thị Thanh, Trường ĐH Đồng Tháp và thạc sĩ Nguyễn
Hữu Hiếu, nhà nghiên cứu lịch sử văn hóa Đồng Tháp dựa vào các câu sấm
giảng đặt nghi vấn: Đoàn Minh Huyên là con vua Quang Trung. Thạc sĩ Hiếu
lý giải đạo Bửu Sơn Kỳ Hương là ẩn dụ của chữ Tây Sơn tức là Bửu Sơn và
tên thật của vua Quang Trung là Hồ Thơm, tức Kỳ Hương.
Ông Đặng Hoài Dũng, Chủ tịch Hội Khoa học lịch sử cho
rằng giả thuyết đặt ra vua Quang Trung và Ngọc Hân công chúa là cha mẹ
ruột của Đoàn Minh Huyên quá mơ hồ, phi lịch sử. Ông Dũng nhận định công
lao của cụ rất lớn trong khai khẩn đất hoang, lập làng cũng như khai
sáng truyền bá chúng đạo Bửu Sơn Kỳ Hương, tu tâm giúp đời, yêu nước
chống Pháp. Trong đó, Quản cơ Trần Văn Thành là một trong những đệ tử
của cụ đã khởi nghĩa chống Pháp ở căn cứ Bảy Thưa...
Thanh Dũng
Thất Sơn truyền kỳ - Kỳ 2: Dị nhân và ông bác vật
Vùng Thất Sơn còn lưu truyền về sự biến đổi lạ thường của dị nhân Năm Cao, hay hang sâu huyền bí mang tên ông bác vật.
Dị nhân ở Nhà Bàng
Mộ dị nhân Cao Nhà Bàn - Ảnh: Thanh Dũng
Ở thị trấn Nhà Bàng (H.Tịnh Biên, An Giang), người ta hay nhắc đến
ông Cao Nhà Bàn, còn gọi là Năm Cao, là người dị tướng. Ông Lê Thanh
Phong (55 tuổi, ngụ thị trấn Nhà Bàng) kể ông Cao Nhà Bàn tên thật là Lê
Văn Thùy (sinh năm 1849, ngụ ở Tiền Giang), do vợ con bị dịch bệnh chết
nên buồn rầu bỏ vào Thất Sơn. Ông Phong nói: “Ông nội của tôi là Lê Văn
Sóc đã kết nghĩa huynh đệ cùng cụ Thùy nên tụi tôi gọi cụ là ông nội
nuôi. Ông bà nội tôi kể, cụ Thùy lúc đó tướng mạo bình thường nhưng sau
lần bệnh chết đi sống lại thì lạ làm sao, cơ thể ông biến đổi dài thượt,
cao như người khổng lồ”.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Hầu và nhà nghiên cứu Liêm Châu đã sưu khảo
các nhân vật kỳ lạ, đều đề cập đến dị nhân này. Cụ Hầu nay là người
thiên cổ, còn cụ Liêm Châu năm nay đã bước vào tuổi 90. Cụ Châu kể, lúc
đó do mê sưu khảo nên thời trai trẻ, cụ đã đến phần mộ cụ Thùy gặp các
nhân chứng sống viết về cuộc đời kỳ lạ của cụ trong tập sách Biên Thùy
truyện ký.
Các lão ông kể lại lúc cụ Thùy bắt được con cá trê vàng trên suối đem
nấu với canh bầu ăn thì xảy ra chuyện lạ thường. Trước đó, cụ đã mắc
trận mưa lớn nên ăn xong canh cá vàng thì ngã bệnh. Đến khi hết bệnh, cơ
thể cụ như kéo giãn ra, cao hơn 2,75 m, sự lạ lùng này làm người xung
quanh kinh ngạc. Do thấy cụ kỳ hình dị tướng lại hốt thuốc giúp người
nên dân chúng rất hiếu kỳ đến xem và xin thuốc. Pháp tình nghi cụ phá
rối trị an nên năm 1903 đưa cụ về Châu Đốc điều tra nhưng cho phép cụ
được đi lại trong Châu Đốc. Lúc cụ dạo phố, người dân thấy người khổng
lồ nên hiếu kỳ xúm lại hỏi chuyện, gây ách tắc đường nên cảnh sát đưa cụ
về bót quản thúc.
Năm 1904, chủ tỉnh Châu Đốc là Doceuil tổ chức hội thi “người khổng
lồ” và cụ Thùy đoạt giải quán quân. Vì cụ ở Nhà Bàn (sau này đổi tên là
Nhà Bàng), lại cao quá khổ nên người ta gọi là Cao Nhà Bàn. Lúc này,
thấy dân chúng mến mộ cụ Cao nên Doceuil e ngại cho ngấm ngầm chích
thuốc làm cụ tê liệt tứ chi rồi mới thả. Cũng chưa yên tâm, Pháp tiếp
tục theo dõi, sau đó thấy cụ bại liệt nằm một chỗ mới thôi. Có lần Phó
tham biện Châu Đốc và Chánh án Tòa sơ thẩm Châu Đốc tới thăm, buông lời
khuyên cụ đi trị bệnh để họ đưa cụ đi thi người cao nhất thế giới. Cụ
Cao bình thản đáp: “Nhờ mấy lọ thuốc nhiệm màu của các ông chích lúc
trước mà tôi từ người khỏe mạnh đã thành bại liệt suốt 20 năm qua, ơn
đức ấy còn hơn giam giữ tôi trong khám”.
Theo ông Phong, cụ Cao mất năm 1925, phần mộ chôn ở gần núi Trà Sư,
lúc ấy là mộ đất, không để ngày tháng năm sinh hay mất, sau này mới xây
lại mộ đá.
Ông Phong cho biết lúc sống cụ Cao không xỏ vừa các dép, guốc thường
do đôi chân quá khổ nên hay đi chân trần. Khi cụ mất, do khổ người quá
lớn nên không quan tài nào vừa. Hang ông bác vật
Núi Cấm (xã An Hảo, H.Tịnh Biên) là ngọn núi cao nhất Thất Sơn, với
chiều cao 720 m, có nhiều hang động sâu thẳm. Một trong những hang động
còn lưu truyền sự bí ẩn là hang ông bác vật Lang với câu vè: “Đàn kêu tích tịch tình tang /Đố ai biết được trong hang là gì?/Đàn kêu tích tịch tì tì /Đố ai biết được cái gì trong hang?”.
Ngôi trường mang tên ông bác vật
Ông bác vật Lang tên thật là Lưu Văn Lang, quê ở Sa Đéc, nay thuộc
tỉnh Đồng Tháp. Ông Nguyễn Nhứt Thống, Trưởng ban Tuyên giáo TP.Sa Đéc,
Đồng Tháp kể cụ Lang xuất thân gia đình trung nông, năm 17 tuổi được học
bổng sang Pháp du học. Năm 1904, cụ tốt nghiệp loại ưu, xếp thứ hạng
8/250 sinh viên du học ở Pháp. Pháp biết cụ giỏi muốn giữ lại nhưng cụ
từ chối. Pháp muốn triệt tiêu ý chí, làm nhục cụ nên giao cụ xây dựng
đường sắt xuyên Việt Nam - Trung Quốc, dù lúc này cụ mới bước qua tuổi
20. Họ muốn cụ chết ở môi trường khắc nghiệt hoặc nản do khổ cực mà quay
lại cầu cạnh.
Ông Thống nói cái tên bác vật do người dân Sa Đéc kính trọng đặt, bởi
cụ giỏi như bác học. Sau này, có nhiều nhà bác vật nhưng không tên tuổi
nào qua được cụ Lang. Người già vùng An Giang, Đồng Tháp vẫn xem cụ như
là nhân vật huyền thoại với biệt tài gõ đất. Họ kể cụ Lang cầm cây gậy
ba toong gõ đất vài cái là biết vùng đó sẽ bị lở hay không mà khuyên
người dân lo trước.
Như vùng đất Mũi Cần Dố ở Sa Đéc, cụ Lang xem xong nói nơi này bị sạt
lở nặng. Người dân nghe, tin nhưng các quan chức Pháp cười cợt vì cụ
Lang học ở Pháp thì tài năng không thể giỏi hơn kỹ sư của họ. Nhưng
không lâu sau đất lở sâu vào cả chục thước nên người Pháp cũng rất nể
cụ. Cụ Lang còn có tài gõ cầu, nghe tiếng dội lại biết cầu xây yếu chỗ
nào nên Pháp nhiều lần mời cụ đến khắc phục. Vì cụ quá giỏi địa chất nên
Pháp đã chỉ định cụ thám hiểm hang động trên núi Cấm với mục đích xem
trong hang có khoáng sản, kho tàng như dân gian đồn đoán không.
Câu chuyện ly kỳ ấy được cụ Ba Lưới (98 tuổi, ngụ trên núi Cấm) kể
lại. Do chưa biết miệng hang sâu thế nào nên đoàn người cột một con khỉ
thả xuống hang nhưng kéo lên thì con khỉ biến mất. Đoàn người lấy làm lạ
bèn cột con chó thả xuống nhưng chó cũng biến mất. Ai nấy hãi hùng, sợ
sệt không biết dưới hang có bí ẩn gì nhưng cụ Lang vẫn điềm tĩnh buộc
dây vào người chui xuống hang. Đoàn người thả dây quá cả trăm thước, họ
cứ chờ đợi trong mỏi mòn lẫn lo sợ. Đến rạng sáng hôm sau mới thấy ông
bác vật bò lên, hỏi có gì dưới đó, cụ không nói, chỉ ú ớ lắc đầu... Đến
nay, chưa ai chui xuống thám hiểm hang động này nên bí ẩn trong lòng
hang vẫn bao trùm cùng ông bác vật.
Cụ Lang rất có khí phách, làm cho Pháp nhưng lại chống Pháp đến cùng,
tên cụ Lang được đặt tên đường và tên trường ở Sa Đéc. Ông Thống nói,
hiện trong văn khố Pháp còn lưu giữ lại tư liệu cụ Lang, cho thấy họ
cũng xem trọng cụ.
Thanh Dũng
Thất Sơn truyền kỳ - Kỳ 3: Lão tướng 'độc nhãn' và bùa chú đua bò
Đua xe bò, đua bò
chỉ có riêng ở vùng Thất Sơn. Người ta cho rằng để thắng cuộc nhiều
người đã dùng huyền thuật, bùa chú yểm bò cho đối thủ bại trận.
Đua bò ở Thất Sơn - Ảnh: T.D
Trù yểm bò đua
Hằng năm, đến lễ Donta là đồng bào Khmer vùng Thất Sơn lại sôi nổi
đua bò truyền thống. Ở các cuộc đua bò vẫn hay xảy ra các chuyện như đôi
bò đang chạy băng băng gần tới đích bỗng nhiên lồng lên, chạy tạt
ngang, bị phạm quy, thua cuộc. Nhiều người xì xầm đôi bò đã trúng bùa
nên đang chạy đột nhiên thấy cọp dữ hoặc thấy hầm hố thì chúng hoảng sợ
lồng lên chạy hoảng.
Ai thắng cuộc được trầm trồ ngưỡng mộ, đôi bò đua lọt vào mắt các
“tuyển trạch” viên nên cuộc đua nào cũng mang tính chất quyết liệt không
kém gì đua ngựa. Người ta còn truyền nhau rằng để chống lại bùa chú,
huyền thuật, trước thi đấu vài ngày, chủ bò dùng máu chó mực, quần của
phụ nữ lúc có kinh nguyệt yểm lên bò trừ tà. Sau đó khi ra trường đua,
dù đối phương có làm bùa chú thì đôi bò nhà cũng không giật mình chạy
bậy.
Nhà văn Sơn Nam thời trai trẻ nghiên cứu về vùng đất Thất Sơn đã được
các bạn hữu cung cấp tư liệu về đua xe bò. Từ đấy, Sơn Nam đã viết nên
truyện Đua xe bò Thất Sơn với các tình tiết ly kỳ cùng những cuộc đua
ngoạn mục... Nhân vật chính và có thật là ông Năm Đắt, đua xe bò quá
giỏi, cuộc đua nào cũng thắng, làm nhiều tay cá cược phía bên kia thua
cuộc nên họ yểm bùa lên bò của ông nhưng không thành. Không lâu sau, Năm
Đắt bị bệnh chết đột ngột và người ta nghi ngờ ông bị yểm chết.
Truyện ngắn ấy được đăng trên báo Dân Tộc trong năm 1968,
sau đó NXB Lúa Trời đã in tái bản kèm lời giới thiệu của nhà văn Bình
Nguyên Lộc, như sau: “NXB Lúa Trời đã làm công việc vô cùng hữu ích này,
chúng tôi hoan nghênh, khoa học văn minh là cái này đây, là những cuộc
đua xe bò, những trận đá gà, đá cá lia thia, lúa trời, những chiếc
nóp... Những cái tối tăm không tên tuổi ấy vậy mà nó họp lại thành nền
văn minh riêng biệt của ta đó, mà trên thế giới này không có nơi nào có
hết…”. 'Độc nhãn thần ngưu'
Ông Nguyễn Văn Tấn, năm nay 73 tuổi, đã có hơn 50 năm say mê đua bò,
huấn luyện bò đua. Ông Tấn bị chột mắt, đi đua bò đoạt nhiều giải nên
được gọi là “độc nhãn thần ngưu”. Nơi Hai Tấn đang ở là căn nhà đơn sơ,
nằm lọt thỏm trong chốn thâm u, gần chân núi Cấm thuộc ấp Tà Lọt, xã An
Hảo, H.Tịnh Biên.
Hồi ức lại chuyện xưa, lão tướng kể, hồi đó gọi là đi bo bò, sau này
mới gọi là đua. Bo bò xuất hiện từ lúc nào không ai nhớ đích xác, chỉ
ước chừng trong khoảng năm 1920, đi bo bò rất phổ biến. Ông Tấn nói ngày
xưa đua bò vẫn có đua bằng xe, nghĩa là hai cặp bò kéo xe chạy trên
đường đua dài 200 m. Cách đua này người và bò đều mệt vì điều khiển vất
vả nhưng đua xe bò vừa giải trí vừa có cá cược ngầm. Ông Hai Tấn nói:
“Lúc đó, ông Năm Đắt nổi tiếng là người đua giỏi, tay nghề ổng rất siêu
nên bò tuyển lựa đều là bò chiến”.
Lão cao thủ nhớ lại, ngày xưa, sau khi thu hoạch lúa xong, các chủ bò
rủ nhau mang bò đến các sân rộng trong chùa Khmer để bừa đất thí công
nhằm thư giãn và cầu mùa lúa sau trúng vụ, rồi chủ bò hứng lên rủ bo bò
đua. Những đôi bò chiến thắng được các sư cả, à cha tặng phần thưởng, có
khi là cái ách, cái bừa, sợi dây nài, vòng lục lạc... Ông Tấn nói, bò
đi bo là bò giỏi nên các “tuyển trạch” viên bò đều kéo về theo dõi cuộc
đua để chọn mua bò chiến. “Bò giỏi bo từ 3 - 4 vòng sân đua dài 200 m
xong, chúng cũng không mệt, không thở đứt hơi, không chạy bậy. Đôi bò
thắng cuộc giá mua bằng 2 - 4 cặp bò thường”.
Ông Tấn nói ngày xưa bò rất có giá trị, lúc trục đất cấy lúa phải
đánh bò trục cho đất ruộng nát nhừ ra mới cấy được lúa nên cần bò giỏi,
bò khỏe. Mà đất vùng Thất Sơn lại khô cứng hơn các ruộng đất vùng dưới
nên bò Thất Sơn phải khỏe mới bừa trục nổi, lái bò mua chúng về vùng
dưới sức chúng làm bằng 3 đôi bò thường. Kỳ thú tuyển bò
Lão tướng tiết lộ, để lựa được bò đua giỏi phải có con mắt tinh
tường, phải nhìn xoáy lông của chúng mới xác định đó là bò giỏi hay phản
chủ. Bò đua chiều cao khoảng 1,3 - 1,4 m là đúng tiêu chuẩn, bò cao lớn
quá cày bừa có thể giỏi nhưng đua chạy chậm chạp. Ông Tấn nói thường
người ta mua bò từ bé nuôi dưỡng rồi huấn luyện dần cho chúng quen với
đường đua, nếu nó là bò giỏi thì đem đổ tiếp ra mẻ bò chiến. Ông Tấn kể:
“Bò không có xoáy lông người ta không thích vì loại này ngổ ngáo lắm,
hay chạy quàng, chạy tạt nên còn gọi là bò tạt hay bò lôi, đem đua là
thua chắc”.
Hỏi chuyện yểm bùa bò đua, ông Tấn xác nhận có nhưng ai sợ bùa thì
sợ, riêng ông thì không. Ông nói bùa chú chỉ dọa được những người yếu
vía, còn người đua bò giỏi vững tin vào đôi bò của mình thì người vật
như hiểu nhau, bùa chú vô tác dụng. Đôi bò được huấn luyện đến nơi đến
chốn, chủ ra lệnh chạy đường nào là không dám chạy quàng đường khác. Ông
Tấn tiết lộ, người điều khiển bò phải có chiêu riêng vì trên đường đua
khi quẹo cua cần những kỹ xảo riêng để trong cách đứng ngồi thúc bò chạy
không “sượng” chân.
Ông nói, ngày xưa đua bò phải là hai vòng hô một vòng thả mới chứng
tỏ được giá trị sức bền, sức dẻo của đôi bò, nhưng nay thể lệ đua bị cắt
hết, chỉ còn một vòng thả nên đôi bò chiến thắng chưa hẳn là bò giỏi...
Ông tâm sự, cùng với nhiều nguyên nhân khác, chất lượng bò đua ngày
càng giảm sút là điều rất đáng tiếc.
Ngược dòng lịch sử khoảng một triệu năm trước, trong thời kỳ
Pleistocene, hàng loạt các hoạt động tân kiến tạo đã làm vỏ trái đất ở
khu vực Bảy Núi bị nức nẻ, lún sụt hoặc nhô cao nhiều nơi. Sau đó là
những đợt biển tràn ngập cả vùng Nam Bộ
khoảng 10.000 đến 11.000 năm thì chấm dứt. Dấu tích của những thời biển
tiến này còn để lại các bậc thềm biển cổ ở những vùng quanh núi Cấm,
núi Dài, núi Phú Cường... của huyện Tịnh Biên, tỉnh An Giang.
Phần nhô cao tức đồi núi ở An Giang gồm nhiều đỉnh có hình dạng, độ
cao và độ dốc khác nhau, phân bố theo vành đai cánh cung kéo dài gần
100 km. Khởi đầu từ xã Phú Hữu (huyện An Phú) qua xã Vĩnh Tế (thị xã Châu Đốc), bao trùm lên gần hết hai huyện Tri Tôn và Tịnh Biên, về tận xã Vọng Thê, Vọng Đông rồi dừng lại ở thị trấn Núi Sập của huyện Thoại Sơn.
Đứng trên góc độ địa hình, có thể chia đồi núi An Giang thành hai dạng chính:
Dạng núi dốc: được hình thành trong thời kỳ tạo sơn mãnh liệt
như đã nói trên, nên chúng thường cao và có độ dốc lớn trên 25 độ và
phần lớn là đá cứng với nhiều pha tạp khác nhau (đá núi lửa và đá
Granitoit có tuổi Jura thượng, đá Granite có tuổi Creta), như núi Cấm, núi Cô Tô, núi Dài...
Dạng núi thấp và thoải: được hình thành từ các thành tạo trầm
tích và phun trào có tuổi trias và Creta nên có độ dốc nhỏ dưới 15 độ,
độ cao thấp, ít khe suối và bề mặt có khi là đất, như núi Nam Qui, núi
Sà Lon, núi Đất...
Và vùng Bảy Núi khi xưa là đất của Chân Lạp. Rồi trong một cuộc tranh giành quyền lực, Nặc Tôn được chúa Nguyễn giúp đỡ đã trở lại ngôi vua. Để tạ ơn, Nặc Tôn hiến đất Tầm Phong Long, trong đó có Bảy Núi, vào năm 1757.
Giới thiệu
Bảy Núi
Từ đỉnh núi Cấm (trong Bảy Núi) nhìn xuống phía dưới
Bảy Núi là 7 ngọn núi tiêu biểu trong số 37 ngọn núi, ở hai huyện vừa kể trên. Tên Thất Sơn lần đầu được biên chép trong Đại Nam Nhất Thống Chí (phần An Giang tỉnh, mục Sơn Xuyên), và gồm các núi: Tượng, Tô, Cấm, Ốc Nhẫm, Nam Vi (南為山), Tà Biệt và Nhân Hòa (人和山). Sau đó, Hồ Biểu Chánh trong Thất Sơn huyền bí và Nguyễn Văn Hầu trong Thất Sơn mầu nhiệm, cho rằng đó là các núi: Tượng, Tô, Cấm, Trà Sư, Két, Dài, Bà Đội Ôm.
Còn theo Việt Nam tự điển của Lê Văn Đức, xuất bản tại Sài Gòn vào năm 1972; được Vương Hồng Sển dẫn lại trong Tự Vị Tiếng Nói Miền Nam, thì đó là các núi: Tượng, Tô, Cấm, Sam, Két, Dài, Tà Béc...
Đến năm 1984, Trần Thanh Phương cho xuất bản Những Trang sử về An Giang, đã kể tên bảy Núi là:
Theo Địa chí An giang...., ở hai huyện Tri Tôn và Tịnh Biên có 37 ngọn núi đã có tên, nhưng con số 7 (bảy núi) vẫn không hề thay đổi.
Mặc dù Đại Nam Nhất Thống Chí của Quốc sử quán nhà Nguyễn
đã đề cập đến bảy điểm "linh huyệt" của vùng Thất Sơn, rồi chọn ra
những núi đã nêu trên, nhưng so sánh lại những tên núi, vẫn có khác
biệt.
Lý giải cho điều này, hiện nay vẫn chưa có lời giải thích nào ổn
thỏa. Nhưng điều dễ thấy trong việc sắp xếp núi non này, đã chịu ảnh
hưởng rất nhiều những yếu tố thần bí, siêu nhiên, phong thủy...
Tuy vẫn còn có những ý kiến khác, nhưng hiện nay những núi do Trần Thanh Phương liệt kê, được khá nhiều người đồng thuận.
Tài Nguyên
Khoáng sản
Bảy Núi rất phong phú về khoáng sản, như:
Nhóm vật liệu xây dựng: Đá granit ở núi Cô Tô, núi Ba Thê, núi Két, núi Tượng, núi Sập, núi Trà Sư...Cát xây dựng nằm theo triền hoặc nơi các trũng giữa núi Cấm và núi Dài.
Nhóm vật liệu trang trí: Đá ốp lát ở núi Cấm, núi Dài Nhỏ...
Đá aplite, một thành phần quan trọng để sản xuất ra gạch ceramic, để
làm hạ nhiệt nóng chảy của cát, trong các lò chế tạo thủy tinh, được tìm
thấy nhiều nơi ở Bảy Núi.
Ngoài ra, còn có các khoáng sản khác, như: than bùn ở các xã Núi Tô,
Châu Lăng, Lương Phi, Ba Chúc, An Tức...; mỏ vỏ sò ở núi Chóc; mỏ đất
sét cao lanh, đá quý và ngọc ở Nam Qui, Tà Pạ; quặng kim loại molipden ở
núi Sam, núi Két, núi Trà Sư; quặng mangan ở vùng Tà Lọt; nước khoáng
thiên nhiên ở núi Dài, núi Cô Tô, núi Cấm và bột Diatomite ở núi Cấm,
núi Dài...
Thực vật
Khi xưa, vùng Bảy Núi phần lớn là rừng rậm nguyên sinh với nhiều loại
gỗ quý. Đến thế kỷ thứ 17, nơi đây hãy còn hoang vu. Thái Văn Trừng đã
xếp các quần thể rừng của Bảy Núi trong kiểu rừng kín nửa rụng lá, ẩm nhiệt đới
với cấu trúc 3 tầng rõ rệt: tầng cây gỗ như dầu, căm xe, lăng ổi, bời
lời, quế, gõ mật, nính..., tầng cây bụi như sâm ngọt, sâm núi, mua lông,
bưởi, chanh…, tầng thân thảo và quyết thực vật như sa nhân, gừng dại,
giềng rừng…
Động vật tự nhiên
Trước đây, vùng Bảy Núi có nhiều loại chim muông và thú rừng. Trịnh Hoài Đức trong Gia Định thành thông chí viết: Ở núi Nam Vi cây cối um tùm, khe sâu cỏ rậm, rất nhiều hươu, nai, hổ, báo...Còn ở núi Khe Săn (Khê Lạp) có cây tùng, cây trúc tốt tươi, hươu nai tụ tập…nhân dân thường đến núi này để tìm mối lợi..
Ngoài ra, Trịnh Hoài Đức còn cho biết về thú rừng có hổ, báo, nai,
hươu, cáo, vượn, khỉ; về chim có phượng hoàng, quạ... Ngày nay, chỉ còn
một số ít loài, như heo rừng, khỉ, nhím, rắn...còn phần nhiều những loài
mà Trịnh Hoài Đức kể trên gần như không còn nữa.
Đặc điểm
Một phần núi Cô Tô (trong Bảy Núi) đang bị khai thác đá.
Nói về mặt tự nhiên của vùng Bảy Núi, sách Gia Định thành thông chí mô tả: Hang
núi ngậm mây, suối cong nhả ngọc, lại có những cây giáng hương, tóc
hương, cây cối xanh um, cầm thú béo mập. Phía đông có ruộng đồng bằng
phẳng, phía tây có hồ nước... Ngoài ra, còn nghe gà gáy dưới bóng trăng,
chó sủa trong hang động, cảnh huống yên hà ngoài thế giới vậy
Ở trong sách trên còn cho biết sự hiện diện của những người Việt đến sinh sống, hòa nhập với người Khmer,
ở vùng Bảy núi vào mấy thế kỷ trước. Họ đến để khai thác nguồn lợi
thiên nhiên, lập vườn cây ăn trái, trồng hoa màu, tìm dược thảo, làm
ruộng ở chân núi, bắt cá vào mùa hạn ở các ao đìa...
Sau này, vùng Bảy Núi còn là nơi hội tụ của những sĩ phu yêu nước trong phong trào Cần Vương. Vì nơi đây vừa có đồng bằng thuận lợi cho việc canh tác, vừa có núi rừng trú ẩn, có lối trốn sang nước Campuchia,
nếu bị đối phương lùng sục... Cho nên rất nhiều người đã tìm đến đây,
mỗi người mang mỗi tâm trạng, đến để chuẩn bị chiến đấu, để chờ thời cơ
hay chỉ để lãng quên thực tế.... Vì vậy, vùng đất này gắn liền tên tuổi
của nhiều danh nhân như: Đoàn Minh Huyên, Thủ Khoa Huân, Trần Văn Thành, Ngô Lợi, Phan Xích Long, Trương Gia Mô v.v...
Đây cũng là nơi hội tụ nhiều ông đạo, bởi vậy có câu: Tu Phật Phú Yên, tu tiên Bảy Núi.
Vùng Bảy Núi còn là nơi có nhiều lễ hội, phong tục... đặc thù của đồng bào dân tộc KhmerNam Bộ, như lễ Chol Chnam Thmay, lễ Pisat bo chia, lễ Pha Chum Bênh (tức lễ Đôn Ta)...và đặc biệt hơn cả là lễ hội Đua bò Bảy Núi được diễn ra vào cuối tháng 9, đầu tháng 10 hằng năm...
Ngoài ra, Bảy Núi còn là phên dậu nơi chốn biên thùy. Vua Gia Long đã từng nói: Địa thế Châu Đốc, Hà Tiên cũng không kém Bắc Thành...
Và là nơi có vô số danh lam, thắng cảnh... Nam Kỳ phong tục nhơn vật diễn ca, có câu:
Thất Sơn, hòn dọc dãy ngang,
Nói sao cho hết cả ngàn phong cương.
Trang này được sửa đổi lần cuối lúc 01:08, ngày 20 tháng 6 năm 2014.
Jimi Hendrix (27 tháng 11 năm 1942 - 18 tháng 9 năm 1970) là một nghệ sĩ ghi tangười Mỹ gốc Phi. Hendrix được đánh giá là một trong những nghệ sĩ âm nhạc có ảnh hưởng nhất trong lịch sử nhạc rock and roll Sau khi đã thành danh ở Anh, ông trở nên nổi tiếng thế giới với buổi biểu diễn âm nhạc tại Monterey Pop Festival năm 1967. Ông cũng đã được Rolling Stone bình chọn là nghệ sĩ ghi ta vĩ đại nhất trong lịch sử và là nghệ sĩ thứ 5 trong danh sách 100 nghệ sĩ của mọi thời đại. Hendrix đã tự học chơi đàn ghita điện, ông thường chơi đàn Fender Stratocaster để ngược và luôn tự lên dây đàn để phù hợp với cách chơi của mình.
Tiểu sử
Jimi Hendrix sinh ra tại Seattle, Washington vào ngày 27 tháng 11 năm 1942. Ông mất ngày 18 tháng 9 năm 1970 tại London.
Hendrix được đặt tên khi sinh là Johnny Allen Hendricks. Sau đó, Hendrix được bố mẹ đổi tên thành James Marshall Hendrix. Bố mẹ li dị năm ông 9 tuổi, mẹ mất năm ông 16 tuổi.
Trường học
Hendrix học hết cấp hai nhưng ông không tốt nghiệp cấp ba, trường
Garfield High School. Hendrix nói với các nhà báo rằng vào cuối thập niên 1960 ông bị đánh trượt do mọi người vẫn còn phân biệt chủng tộc.
Ảnh hưởng phong cách
Khi Hendrix còn trẻ, ông là một fan hâm mộ của Elvis Presley. Ông đi xem Elvis biểu siễn tại Sick’s Stadium vào 1 tháng 9 năm 1957 và đã vẽ một bức tranh màu hình mình ôm một chiếc ghi ta (xem ở đây). Bức tranh gốc này giờ đây được lưu giữ tại Rock and Roll Hall of Fame ở Cleveland, Ohio. Khi lớn lên, Elvis vẫn là thần tượng và là người có ảnh hưởng đến phong cách chơi nhạc của ông.
Sự nghiệp
Phong cách chơi ghi ta bằng tay trái của Hendrix đã mang lại cho
những khán giả thuận tay phải và các nghệ sĩ tự do khác sự quan tâm tích
cực. Buổi hòa nhạc chính thức đầu tiên của ông là với một ban nhạc nhỏ
vô danh chơi tại synagogue.
Hendrix bị đuổi việc sau đó vì 20 phút độc diễn của mình. Sau đó, ông
tham gia một ban nhạc tên là The Velvetones, chơi tại Yesler Terrace.
Sau khi ra khỏi quân đội, Hendrix và Billy Cox chuyển về Clarksville tại Tennessee,
nơi họ chơi trong một nhóm nhạc là The King Kasuals. Ông và Cox biểu
diễn tại một quán ba nhỏ và Hendrix không kiếm được nhiều tiền, sau đó
họ chuyển đến Nashville, Tennessee. Tháng 11 năm 1962,
Hendrix thực hiện buổi biểu diễn đầu tiên trong phòng thu. Hendrix cũng
tham gia nhiều nhóm nhạc khác với vai trò ghi ta và hát chính. Ông
không kiếm được nhiều tiền, nhưng đã thu thập được nhiều kinh nghiệm
biểu diễn.
Về sau Hendrix rời Nashville và chuyển đến phía Bắc New York. Tháng 1 năm 1964, ông tới Harlem và chơi ở các quán bar. Hendrix đoạt giải nhất trong một cuộc thi ghi ta không chuyên tại Apollo Theatre.
Sau đó, Hendrix gặp may mắn. Ông trở thành bạn của bạn gái Keith Richards, nghệ sĩ ghi ta của The Rolling Stones, Linda Keith. Bà quan tâm đến âm nhạc của Hendrix’ và giới thiệu ông với Chas Chandler, người quản lý của The Animals.
Chandler bảo Hendrix biết bản nhạc rock cho bài "Hey Joe", đưa ông tới
London và ký với Hendrix một bản hợp đồng. Ông thành lập một ban nhạc
tên là The Jimi Hendrix Experience.
Ông còn là người đã đưa ra câu nói nổi tiếng "Khi sức mạnh của tình
yêu vượt qua được tình yêu vào quyền lực, thế giới sẽ biết tới hòa
bình." (When the power of love overcomes the love of power, the world will know peace.)
Vào ngày 18 tháng 9 năm 1970, Jimi Hendrix bị phát hiện tại tầng trệt khách sạn Samarkand tại London.
Ông bị mất sau khi đã uống nhiều rượu và uống quá nhiều thuốc ngủ và
bất tỉnh. Nhiều giả thiết nghi vấn đã được đặt ra xung quanh việc này.
Đám tang
Hendrix được đưa tang tại in Seattle
trong Greenwood Memorial Park. Bức bia đá của ông bị sai vì nó thể hiện
hình Hendrix chơi Stratocaster bằng tay phải trong khi Hendrix luôn
chơi đàn tay trái. Vì ông co rất nhiều fan, nhiều người lo lăng ràng cac
fan của ông sẽ làm ảnh hưởng đến các ngôi mộ khác, Al Hendrix, bố ông,
đã xây dựng mộ ông cách xa những ngôi mộ khác.
Trang này được sửa đổi lần cuối lúc 21:30, ngày 1 tháng 10 năm 2014.
Tào Tháo (chữ Hán: 曹操; 155 – 220); tự là Mạnh Đức (孟德), là nhà chính trị, quân sự kiệt xuất cuối thời Đông Hán trong lịch sử Trung Quốc. Ông là người đặt cơ sở cho thế lực quân sự cát cứ ở miền Bắc Trung Quốc, lập nên chính quyền Tào Ngụy thời Tam Quốc. Ông được con trai truy tôn là Thái tổ Vũ Hoàng Đế.
Tào Tháo là người đã có công lớn trong việc dẹp loạn khăn vàng và Đổng Trác.
Tuy nhiên, hình ảnh về ông không được các nhà nho học ưa thích và
thường được mang ra làm biểu tượng cho sự dối trá, vô liêm sỉ.
Ông còn là một nhà thơ xuất sắc. Ông và hai con trai Tào Phi, Tào Thực được đời sau gọi là Tam Tào, cùng với nhóm Kiến An thất tử và nữ sĩ Thái Diễm hình thành nên trào lưu mới trong văn học thời Hán mạt, gọi chung là Kiến An phong cốt.
Thân thế
Tào Tháo là con trai của Tào Tung.
Cha ông vốn xuất thân trong gia đình bình thường, không có tiếng tăm,
gia thế không được sử sách nêu rõ. Có ý kiến cho rằng Tào Tung nguyên có
tên là Hạ Hầu Tung, sau làm con nuôi hoạn quanTào Đằng nên lấy họ Tào.
Tào Đằng là một trong những Thái giám có thế lực trong triều đình Đông Hán, lần lượt phục vụ 5 đời vua Hán An Đế, Hán Thuận Đế, Hán Xung Đế, Hán Chất Đế, Hán Hoàn Đế và được phong chức Phí Đình hầu.
Tào Tung là con nuôi Tào Đằng, nhờ cha nên từng được giữ các chức vụ
Tư Lệ hiệu uý, Đại Tư nông, Đại hồng lư. Vì triều đình hủ bại của Hán Linh Đế cho mua quan bán tước nên sau đó Tào Tung còn mua được chức quan Thái uý trong vài tháng.
Thời niên thiếu
Tào Tháo sinh ra tại huyện Tiêu, nước Bái
trong gia đình giàu có, từ bé là người rất thông minh, ít để ý đến cái
nhỏ, tính tình phóng đãng nhưng rất ham đọc sách, đặc biệt là binh
thư,là người có quyền biến, nhiều mưu mẹo. Người chú ruột thấy Tào Tháo
như vậy thường mách với Tào Tung về các việc làm của cháu. Tào Tháo biết
vậy nghĩ cách, một lần giả bị trúng gió ngã lăn ra. Người chú chạy đi
gọi Tào Tung, nhưng khi thấy cha đến thì Tào Tháo lại tươi tỉnh như bình
thường. Tào Tung hỏi nguyên do, Tào Tháo nói rằng:
Vì chú không thích con nên bày đặt điều xấu thôi
Do đó Tào Tung không tin lời người chú mách tội của Tào Tháo nữa.
Về điểm này, Mao Tôn Cương khi bình Tam Quốc Diễn Nghĩa cho rằng Tào Tháo "từ nhỏ đã gian xảo cơ mưu", còn Nguyễn Tử Quang trong Tam Quốc bình giảng
lại cho rằng: khuyết điểm cũng do ông chú của Tào Tháo vốn có thành
kiến không tốt và ít tình cảm với cháu; nếu thấy cháu ngã mà ông chú bế
ngay lên mang vào nhà gặp cha thì Tào Tháo không có cách gì lừa cha dối
chú được.
Khi lớn, Tào Tháo vẫn thích chơi bời, khác hẳn với những sĩ phu trọng
danh tiết, tuy vậy vẫn có những người kính trọng ông như Kiều Huyền,
Hứa Tử Tương. Hứa Tử Tương đánh giá Tào Tháo là năng thần (quan giỏi) thời trị và gian hùng thời loạn.
Năng thần thời trị
Năm 20 tuổi, Tào Tháo thi đỗ Hiếu liêm. Ông được quan Kinh Triệu doãn là Tư Mã Phòng (cha của Tư Mã Ý) tiến cử giữ chắc Bắc bộ Uý (coi giữ phía bắc) ở kinh thành Lạc Dương
đã nổi tiếng là người nghiêm túc. Sau khi đến nhiệm sở, ông cho đặt roi
ngũ sắc trước cửa công đường, hễ ai phạm tội đều trị thẳng tay. Chú của
đại thần Kiển Thạc
là Kiển Thúc phạm tội vác dao đi đêm, ông sai bắt vào phủ đánh roi
thẳng thừng không vì nể. Vì gia thế Tào Tháo rất lớn nên vụ việc này ông
không gặp rắc rối, tiếng tăm ông cũng từ đó vang khắp kinh thành.
Sau đó, Tào Tháo giữ chức tướng quốc nước Tế Nam,
ông lại liên tiếp đứng ra tố cáo các quan tham phạm pháp; sau đó lại
phá hơn 600 ngôi miếu thờ mà triều đình không cho phép thờ cúng.
Hiệp lực đánh Đổng Trác
Bỏ trốn
Năm 184, cuộc khởi nghĩa Khăn Vàng do Trương Giác lãnh đạo bùng nổ. Tào Tháo cùng các quân phiệt địa phương cùng các tướng trong triều đình đàn áp thành công, nên được Hán Linh Đế phong làm Điển quân hiệu uý trong triều.
Khi đó mâu thuẫn giữa phe ngoại thích do Hà Tiến đứng đầu và hoạn quan
ngày càng gay gắt. Tào Đằng đã mất, Tào Tháo tuy xuất thân trong gia
đình hoạn quan nhưng lại đứng về phía ngoại thích Hà Tiến. Năm 189, Hà
Tiến bị hoạn quan lừa giết, Tào Tháo hợp sức với một thủ hạ khác của Hà
Tiến là Viên Thiệu đánh vào cung, giết chết các hoạn quan.
Sau đó Thứ sử Tây Lương là Đổng Trác
- vốn trước được Hà Tiến triệu về kinh - khống chế triều đình, tự xưng
là Thái sư. Năm 190, Tào Tháo được Đổng Trác phong lên chức Kiêu kỵ hiệu
uý. Sau đó không rõ lý do gì ông bỏ trốn khỏi Lạc Dương.
Khi chạy tới Thành Cao phía bắc Trịnh Châu, Tào Tháo ghé vào nhà
người quen là Lã Bá Sa. Do hiểu lầm, thấy nhà Lã Bá Sa mài dao định giết
lợn, Tào Tháo tưởng là họ giết mình nên đã giết cả nhà Bá Sa.
Sau đó Tào Tháo chạy về phía đông tới huyện Trung Mâu. Có viên Bảo
trưởng thấy ông có vẻ lén lút, cho rằng ông là đinh tráng trốn binh dịch
bèn bắt giữ. Nhưng sau đó Tào Tháo được một viên Công tào cứu giúp,
thuyết phục được Huyện lệnh Trung Mâu thả ông ra.
Tam Quốc Diễn Nghĩa
tường thuật việc Tào Tháo ám sát Đổng Trác không thành mới bỏ trốn;
được Trần Cung thả ở Trung Mâu trước và giết Lã Bá Sa khi đi cùng Trần
Cung xảy ra sau; nhưng thực ra việc giết Bá Sa không có mặt Trần Cung và
sử không chép rõ viên huyện lệnh Trung Mâu có phải Trần Cung hay không.
Hợp binh với chư hầu
Tào Tháo từ Trung Mâu chạy về phía đông Trần Lưu. Đúng lúc đó Viên
Thiệu phát hịch đi các trấn kêu gọi đánh Đổng Trác. Ông bàn mưu với Thái
thú Trần Lưu là Trương Mạo khởi binh chống Đổng Trác. Bản thân Tào Tháo
được Vệ Tư tặng tiền bạc để mộ quân. Con cháu họ Tào và họ Hạ Hầu đi
theo Tào Tháo rất đông. Ông mộ được 5000 người, đi đánh Đổng Trác dưới quyền Trương Mạo; cùng đi theo Trương Mạo còn có Bão Tín cũng mộ được 2 vạn quân.
Tam Quốc Diễn Nghĩa kể rằng Tào Tháo chính là người hiệu triệu chư hầu chống Đổng Trác và không ở dưới quyền ai trong các lộ chư hầu.
Các chư hầu hội binh chống Đổng Trác khi đó có 10 lộ quân: Viên Thiệu (đứng đầu), Viên Thuật, Hàn Phức, Khổng Do, Lưu Đại, Trương Mạo, Trương Siêu, Vương Khuông, Viên Di, Kiều Mạo. Thái thú Ngô quận là Tôn Kiên không đến hội binh cũng hưởng ứng tự ra quân. Tào Tháo được Viên Thiệu cử làm Phấn Vũ tướng quân, ông lại xin với Viên Thiệu cử Bão Tín làm Phá lỗ tướng quân.
Trong khi Tôn Kiên đi tiên phong đánh Đổng Trác thì Viên Thiệu vẫn
họp các chư hầu ở Hoài Khánh không hề tiếp ứng, chỉ mở tiệc uống rượu. Đổng Trác sợ uy thế các chư hầu nên tháng 3 năm 191 cũng bỏ Lạc Dương, mang Hán Hiến Đế chạy sang Tràng An, để Từ Vinh ở lại đóng quân cạnh Lạc Dương yểm hộ.
Thấy Đổng Trác đốt kinh thành bỏ chạy, Tào Tháo kiến nghị Viên Thiệu
ra quân truy kích nhưng Thiệu không dám ra quân. Tào Tháo làm ầm lên
trong hội nghị chư hầu
đòi đi đánh. Trương Mạo cũng đồng tình, trách cứ Viên Thiệu trước chư
hầu. Viên Thiệu bất đắc dĩ cho Tào Tháo vài ngàn quân đi. Khi chưa tiến
đến Thành Quần, vì ít quân nên ông bị Từ Vinh đánh bại, quân chết quá nửa.
Tào Tháo chạy về Toan Táo
tìm các chư hầu. Ông kiến nghị chư hầu chia quân: Viên Thiệu thống suất
đại quân đánh Thành Cao, bao vây Lạc Dương; còn Viên Thuật thì ngầm
đánh từ Nam Dương đánh úp vào cửa Vũ Quan, chiếm lấy Tràng An, cắt đứt
đường tiến lui của Đổng Trác. Nhưng Viên Thiệu và các chư hầu bỏ ngoài
tai lời kiến nghị của ông. Tào Tháo tức giận bỏ đi, chiêu mộ được thêm
4000 quân mã đi đánh Lạc Dương. Tuy nhiên giữa đường quân mới mộ làm
phản. Dù Tào Tháo ra sức trấn áp, tuốt gươm giết chết vài chục người
nhưng số đông vẫn tản đi, chỉ còn lại 500 quân theo ông.
Tào Tháo đành bỏ việc đánh Đổng Trác để xây dựng lại lực lượng. Các
chư hầu do Viên Thiệu đứng đầu cũng chia rẽ và tan rã, đánh giết lẫn
nhau.
Trước khi liên minh đánh Đổng Trác tan vỡ, Tào Tháo đã mang tàn quân về quê, ra sức chiêu nạp hào kiệt. Khi đó dù 3 anh em Trương Giác đã chết nhưng lực lượng Khăn Vàng vẫn còn thế lực khá mạnh, có hơn 10 vạn người tụ tập ở Hắc Sơn, chiếm lĩnh Đông quận, triều đình chưa dẹp được.
Năm 191, Tào Tháo mang quân đánh nhau với quân Khăn Vàng tại Hắc Sơn.
Quân khởi nghĩa tuy đông nhưng ô hợp, bị Tào Tháo dùng kế đánh bại,
song lực lượng còn mạnh.
Năm 192, quân khởi nghĩa tổ chức phản công. Tào Tháo dùng số quân nhỏ
cố thủ ở phía đông Vũ Dương, tự ông mang quân chủ lực tập kích căn cứ
Đông quận của địch. Ông đánh chiếm Đông quận và đây trở thành nơi căn cứ
đầu tiên của họ Tào.
Không lâu sau, quân khởi nghĩa từ Thanh châu tấn công Duyện Châu,
giết chết thứ sử Lưu Đại. Theo lời đề nghị của Bão Tín, Tào Tháo mang
quân đến cứu Duyện châu. Nhân sĩ ở Đông quận là Trần Cung
đến theo Tào Tháo, thuyết phục được các thủ hạ của Lưu Đại nhất trí tôn
Tào Tháo thay Lưu Đại quản lý Duyện châu. Ông cùng quân Khăn Vàng quyết
chiến tại Thọ Dương.
Bão Tín giao chiến bị tử trận. Tào Tháo mang 1000 quân tập kích doanh
trại địch nhưng quân Khăn Vàng đã đề phòng khiến ông suýt bị bắt sống.
Thấy không thể dùng chiến thuật đánh nhanh, Tào Tháo đổi hướng, đánh
chắc từng phần. Ông áp dụng chiến thuật tiêu hao từng bước, quân Khăn
Vàng phải lùi dần. Sau cùng, Tào Tháo dồn quân địch vào Tế Bắc
và bao vây. Khi đó phía sau lưng quân Khăn Vàng là Thanh châu và Ký
châu do Viên Thiệu chiếm giữ. Sau một thời gian, quân Khăn Vàng bị tuyệt
lương, không còn đường chạy nên phải đầu hàng. Tào Tháo thu hàng 30 vạn
người, chọn ra 10 vạn người đưa vào quân đội của mình. Từ đó lực lượng
của ông mạnh lên đáng kể.
Tào Tháo làm chủ Duyện châu. Chủ cũ của ông là Trương Mạo làm thái
thú quận Trần Lưu là một quận thuộc Duyện châu cũng rất ủng hộ ông.
Viên Thiệu ở Ký châu, thù Trương Mạo mắng mình trong hội nghị chư hầu,
bèn gửi thư cho Tào Tháo khuyên ông giết Trương Mạo để trừ hậu họa. Tào
Tháo không nghe, mang việc đó nói lại với Trương Mạo, vì vậy Mạo rất cảm
phục ông.
Đánh Từ châu báo thù cha
Giữa năm 193, cha Tào Tháo là Tào Tung từ Lạc Dương tới Lang Nha định dưỡng lão, mang theo hơn 100 xe hành lý chứa nhiều vàng bạc châu báu; khi đi ngang qua Từ châu thì bị bộ tướng của Đào Khiêm
- thứ sử Từ châu – là Trương Cương giết chết và cướp hết đồ. Đào Khiêm
vốn trước không tham gia liên quân chống Đổng Trác; khi Trác bị giết
(tháng 4 năm 193), Đào Khiêm vẫn ủng hộ triều đình Tràng An do thủ hạ của Trác là Lý Thôi và Quách Dĩ
nắm quyền. Vừa lúc đó ở huyện Hạ Bì thuộc Từ châu có quân khởi nghĩa
của Khuyết Tuyên nổi dậy xưng đế, Đào Khiêm lại có liên hệ qua lại.
Tào Tháo nghe tin cha bị hại ở Từ châu, cho rằng Đào Khiêm đồng mưu
sai khiến thủ hạ, lại lấy cớ Khiêm ủng hộ Lý Thôi và ngụy hoàng đế
Khuyết Tuyên, bèn cất vài chục vạn quân đi đánh Từ châu để hỏi tội. Ông
cũng muốn nhân đó chiếm luôn địa bàn Từ châu liền kề với Duyện châu để
mở rộng thế lực nên thúc quân tấn công mạnh mẽ. Quân Tào chiếm lĩnh hơn
10 thành, sau đó đánh bại quân Đào Khiêm ở Bành Thành, chém hơn 1 vạn quân Từ châu, nước sông Tứ Thủy vì vậy không chảy được.
Đào Khiêm rút vào thành Đan Dương cố thủ, sai người đi cầu cứu thứ sử
Thanh châu là Điền Khải. Điền Khải lúc đó đang bị Viên Thiệu đánh, đã
cầu cứu tướng giữ Bình Nguyên là Công Tôn Toản - người có mâu thuẫn với Thiệu. Toản sai Lưu Bị cùng Quan Vũ và Trương Phi đi cứu Thanh châu. Nghe Đào Khiêm cầu cứu, Khải lại sai Lưu Bị cầm quân đi cứu Từ châu trước.
Tam Quốc Diễn Nghĩa
mô tả đoạn Lưu Bị cứu Từ châu khá ly kỳ. Tác giả không nhắc việc Điền
Khải đánh nhau với Viên Thiệu mà kể rằng Đào Khiêm cầu cứu Điền Khải và
Khổng Dung; Dung sắp đi cứu lại bị quân Khăn Vàng của Quản Hợi vây đánh,
lại phải cầu cứu Lưu Bị. Lưu Bị mượn quân Công Tôn Toản giải vây cho
Khổng Dung rồi 2 người cùng Điền Khải đến cứu Đào Khiêm.
Lưu Bị có 4000 quân, chiêu hàng được vài ngàn nạn dân Ô Hoàn, rồi lại
được Đào Khiêm cấp 4000 quân nữa, có hơn 1 vạn người, cùng Đào Khiêm
thế thủ ở Đan Dương. Tào Tháo vây đánh nhiều ngày không sao phá được,
bèn trút tức giận lên dân thường để trả thù cho cha. Ông ra lệnh tàn sát
hơn 10 vạn người ở 5 thành Thủ Lự, Tuy Lăng, Hạ Khâu, Bành Thành, Phó
Dương cùng các hương trấn sở thuộc. Không chỉ bản dân 5 thành mà nhiều
người dân ở Thiểm Tây vì tránh nạn Lý Thôi, Quách Dĩ kéo về đó cũng bị hại.
Nghe tin Lã Bố đánh chiếm hậu phương Duyện châu, Tào Tháo đành mang quân trở về cứu.
Giao tranh với Lã Bố
Năm 194, Trần Cung và Trương Mạo
ở Đông quận nghe tin Tào Tháo có hành động tàn sát, hại người vô tội,
không phục ông nữa, quyết định phát động binh biến ở hậu phương ở Duyện
châu và theo Lã Bố để chống lại ông. Lã Bố sau khi giết Đổng Trác ở Trường An, bị Lý Thôi và Quách Dĩ đánh bật khỏi kinh thành, phiêu bạt qua chỗ Viên Thuật, Trương Dương và Viên Thiệu
đều không được dung nạp, bèn chạy đến Duyện Châu. Trương Mạo và Trần
Cung đón Lã Bố về tôn làm thứ sử Duyện châu, giao cho 10 vạn quân.
Lã Bố lấy Bộc Dương làm bản doanh, mang quân chiếm các thành trì của
Tào Tháo ở Duyện châu. Chỉ còn 3 thành còn trung thành với Tào Tháo là
Yên Thành do Tuân Úc giữ, Đông A do Cức Đê giữ và Phạm Huyện do Cận Long giữ, Lã Bố chưa đánh chiếm được.
Tào Tháo mang quân về lấy lại Duyện châu. Thấy Lã Bố chỉ chiếm lấy
Bộc Dương mà không đóng quân ra các nơi hiểm yếu như Kháng Phụ, Tế Ninh
và bến đò Hoàng Hà, Tào Tháo cho rằng Lã Bố vô mưu, có ý coi thường. Ông
dẫn quân tấn công Bộc Dương.
Quân Tào Tháo phần đông là người Thanh châu mới theo hàng, không địch
nổi quân Lã Bố. Lã Bố theo kế của Trần Cung đánh tan quân Tào ở Bộc
Dương. Đại quân Tào Tháo bị thua lớn, doanh trại bị đốt cháy, bản thân
ông bị bỏng cánh tay trái và suýt bị Lã Bố bắt sống. Trong bóng đêm,
quân kỵ của Lã Bố đuổi đến nơi nhưng không biết mặt ông bèn hỏi Tào Tháo
ở đâu, ông nhanh trí chỉ tay phía trước bảo rằng:
Người cưỡi ngựa vàng chỗ kia là Tào Tháo
Quân Lã Bố tiến lên phía trước truy đuổi, nhờ vậy Tào Tháo quay đầu chạy thoát nạn.
Sự kiện Tào Tháo gặp nguy cấp ở Bộc Dương được La Quán Trung mô tả tương tự trong Tam Quốc Diễn Nghĩa, nhưng chiến sự lại diễn ra chủ yếu trong thành khi Lã Bố dùng mưu dụ Tào Tháo tiến vào.
Sau đó Tào Tháo thu quân trở lại, cùng Lã Bố giữ nhau hơn 100 ngày ở
Bộc Dương không đánh. Đến mùa thu năm 194, ở Duyện châu có nạn châu chấu hại lúa nên bị mất mùa, cả hai bên đều bị thiếu lương. Tào Tháo phải rút quân về Yên Thành, còn Lữ Bố thu quân về Sơn Dương.
Mùa đông năm 194, Tào Tháo mang quân về Đông A. Trong tình thế khó khăn, ông định phục tùng Viên Thiệu theo lời dụ nhưng mưu sĩ Trình Dục khuyên can không nên nghe theo mà nên tự lập.
Đầu năm 195, Tào Tháo quyết định thay đổi chiến thuật đánh Lã Bố,
dương đông kích tây khiến Lã Bố mệt mỏi. Ông chia quân làm nhiều ngả,
một mặt điều một cánh quân đi đánh Định Đào. Lã Bố đi cứu; đến mùa hạ ông lại tấn công Cự Dã,
bao vây hai tướng của Bố là Tiết Lan và Lý Phong. Trần Cung và Lã Bố
mang 1 vạn quân từ Định Đào đi cứu. Tào Tháo lợi dụng địa hình dùng kế
mai phục đánh bại Lã Bố trên đường rồi thúc quân lấy Định Đào. Lã Bố và
Trần Cung rút quân về Đông Mân. Tào Tháo hạ thành Cự Dã, giết chết Phong
và Lan. Trong khi Lã Bố và Trần Cung còn lúng túng chưa biết cử động ra
sao thì Tào Tháo đã điều các cánh quân đánh chiếm các thành trì nhỏ ở
Duyện châu. Lã Bố nghe tin mấy thành xung quanh bị hạ, hoang mang tột độ
bèn chạy về Từ châu theo Lưu Bị.
Ở Duyện châu chỉ còn anh em Trương Mạo, Trương Siêu ở Ung Khâu và Tang Hồng
ở Đông quận. Trương Mạo biết không thể chống được Tào Tháo, bèn gửi gia
quyến cho Trương Siêu, sai giữ Ung Khâu, còn mình đi Thọ Xuân cầu cứu
Viên Thuật. Giữa đường, Trương Mạo bị thủ hạ giết chết. Tào Tháo mang
quân vây đánh Ung Khâu. Tang Hồng
được Viên Thiệu cử làm thái thú Đông quận thay Tào Tháo, sức yếu không
cứu được Trương Siêu nên ngày đêm sai người đến Ký châu xin Viên Thiệu
cứu Ung Khâu. Viên Thiệu nhất định không cứu Trương Siêu. Sau 4 tháng,
Tào Tháo hạ được Ung Khâu, Trương Siêu tự sát. Tào Tháo giết hết gia
quyến họ Trương. Tang Hồng vì việc này cũng tuyệt giao với Viên Thiệu và
bị Viên Thiệu cử binh giết chết.
Tào Tháo tái chiếm được Duyện châu.
Giữ lấy thiên tử, củng cố thế lực
Rời giá về Hứa Đô
Sau khi Đổng Trác bị Vương Doãn và Lã Bố giết (192), thủ hạ là Lý Thôi và Quách Dĩ mang quân đánh báo thù, đánh chiếm Tràng An, giết Vương Doãn và đuổi Lã Bố. Hai người chia nhau nắm quyền ở Tràng An, vua Hán Hiến Đế vẫn bị khống chế như trước.
Năm 194,
trong khi các chư hầu ở Sơn Đông giao tranh kịch liệt thì Lý Thôi và
Quách Dĩ cũng phát sinh mâu thuẫn đánh nhau ở Tràng An. Chiến sự kéo dài
sang năm 195, nhân dân bỏ kinh thành chạy, lực lượng cả hai đều bị yếu
đi. Hán Hiến Đế trốn khỏi chỗ Lý và Quách cùng các cận thần chạy về phía
đông. Từ đầu năm 196 đến tháng 7 năm đó, sau hành trình dài, Hiến Đế
được đưa trở về Lạc Dương từng bị Đổng Trác đốt phá, ở vào hoàn cảnh rất thiếu thốn và có nguy cơ bị các chư hầu tranh đoạt.
Trong khi Hán Hiến Đế đi từ Tràng An sang Lạc Dương thì Tào Tháo lại
mang quân tấn công quân Khăn Vàng ở Dự châu, đánh bại quân địch và làm
chủ thêm Dự châu. Thấy ông có thực lực lớn mạnh, một vị Vệ tướng quân
dưới quyền Hiến Đế ngầm sai người đến Duyện châu gọi Tào Tháo đến Lạc
Dương bảo giá.
Tào Tháo lập tức sai người nghênh đón vua Hiến Đế. Vì Lạc Dương đã đổ
nát, ông bèn đưa Hiến Đế đến Hứa Xương, sai xây dựng lại nơi này cho
vua ở. Đây là một bước chuyển rất quan trọng trong sự nghiệp của Tào
Tháo vì nhà Hán tuy suy nhưng trong lòng mọi người vẫn tôn trọng, việc
Tào Tháo nắm được thiên tử sẽ có cớ nhân danh vua ban ra chính lệnh để
sai khiến chư hầu.
Hán Hiến Đế đến Hứa Xương, phong Tào Tháo làm Vũ Bình hầu, giữ chức
Tư không kiêm Hành Xa kỵ tướng quân. Hiến Đế vốn muốn phong cho ông chức
cao hơn là Đại tướng quân nhưng vì Tào Tháo còn e ngại thế lực của Viên Thiệu, muốn tránh xung đột ngay với Thiệu, vì vậy ông đề nghị Hiến Đế phong chức Đại tướng quân cho Thiệu. Mưu sĩ của ông là Tuân Úc
được phong làm Thị trung kiêm Thượng thư lệnh, trông nom về văn thư.
Phủ Tư không của Tào Tháo từ đó trở thành nơi thực sự ban ra mọi sắc
lệnh của triều đình nhà Hán.
Phát triển nông nghiệp
Chiến tranh liên miên nhiều năm khiến nông nghiệp bị đình đốn, ảnh hưởng rất lớn đến việc cung cấp lương thực cho quân đội trong các cuộc giao tranh giữa các chư hầu. Trong hoàn cảnh kinh tế
bị tàn phá, Tào Tháo đã nhận thức được tầm quan trọng của việc khôi
phục nông nghiệp. Ngay từ khi làm chủ Duyện châu, Tào Tháo đã rất tán
thành ý kiến của Mao Giới và Hàn Hạo về vấn đề này, bắt đầu mang ra thảo
luận trong nội bộ.
Tư Mã Lãng đề nghị khôi phục chế độ "tỉnh điền" thời Tây Chu, Tào Tháo không tán thành vì cho đó là phục cổ, thụt lùi. Cức Đê đề xuất với Tào Tháo nên tổ chức đồn điền; sau khi thảo luận kỹ ông quyết định cho thi hành. Phương pháp của Cức Đê là chiêu mộ những nhóm nông dân đang lang thang về tập trung lại, xây dựng đồn điền. Họ sẽ được cấp nông cụ, trâubò, hạt giống để tự canh tác rồi dựa vào số thu hoạch để thu tô của họ. Nhờ áp dụng chính sách này, vùng Duyện châu mà ông cai quản có lương thực
đủ dùng. Năm 194, khi đại quân Tào Tháo từ Từ châu trở về đánh Lã Bố,
hoàn toàn nhờ vào thành Đông A do Cức Đê trấn thủ cấp quân lương.
Sau khi đưa Hán Hiến Đế về Hứa Đô, Tào Tháo tiếp tục thực hiện chính
sách này. Ông nhân danh Hiến Đế công bố "Lệnh đồn điền", trong đó nhấn
mạnh:
“
Đối với thuật giữ vững quốc gia thì trước tiên phải làm cho quân
đội mạnh lên và lương thực đủ ăn. Xưa nước Tần nghiêm khắc thực hiện vừa
canh tác vừa tác chiến nên mới có thể thôn tính cả thiên hạ; sau Hán Vũ đế cũng dựa vào chính sách đồn điền để bình định Tây Vực. Đó là biện pháp hay mà đời trước đã làm.
”
Ông áp dụng chính sách đồn điền trong toàn bộ vùng ông cai quản, cử Nhâm Tuấn làm Điển Nông trung lang tướng chủ quản việc chấn hưng nông nghiệp, Cức Đê làm Đồn điền đô uý, chủ quản việc xây dựng đồn điền ở Hứa Xương. Từ đó đồn điền trở thành "quốc sách" với tập đoàn họ Tào.
Chế độ đồn điền mà ông áp dụng có 2 loại: đồn điền quân sự và đồn điền dân sự
Đồn điền dân sự là hình thức chủ yếu, như mô hình đề xướng của Cức
Đê: huy động nông dân mất ruộng, tù binh chiến tranh qua các cuộc xung
đột; cứ 50 hộ ghép thành 1 Đồn, do Đồn điền Tư mã quản lý. Các hộ nông
dân trong đồn điền gọi là Đồn điền khách, canh tác từ 30-50 mẫu
ruộng, nếu dùng trâu bò của triều đình thì phải nộp 6/10, nếu dùng trâu
bò của mình thì nộp 5/10. Ban đầu, việc lao động trong đồn điền bị cưỡng
bách và địa vị của các Đồn điền khách rất thấp kém nên nhiều người bỏ
trốn. Tào Tháo theo kiến nghị của Viên Hoán, bỏ lệnh chiêu mộ Đồn điền
khách bằng cưỡng chế.
Đồn điền quân sự ra đời muộn hơn, được Tào Tháo cho áp dụng theo
kiến nghị của Tư Mã Ý: Cứ cách 5 dặm có 1 đội 60 người vừa làm ruộng vừa
canh phòng khu vực của mình. Người quản lý là các tướng trong quân đội.
Thực thi chính sách đồn điền đã những thành quả quan trọng. Hàng năm, khu vực Cức Đê quản lý cung cấp hàng triệu hộc quân lương. Đời sống của nông dân được giải quyết, góp phần ổn định khu vực mà ông cai quản để lo việc chinh phạt những khu vực khác.
Bá chiếm trung nguyên
Địa bàn của Tào Tháo khi đó là đất tứ chiếng nằm giữa trung nguyên, tiếp giáp với các chư hầu: phía bắc có Viên Thiệu ở Ký châu, phía tây có Hàn Toại và Mã Đằng ở Lương châu, phía nam có Trương Tú ở Nam Dương, phía đông nam có Viên Thuật ở Hoài Nam, phía đông có Lã Bố và Lưu Bị ở Từ châu.
Để làm chủ trung nguyên, Tào Tháo tính từng bước thôn tính các chư
hầu. Ông tránh xung đột với Viên Thiệu là lực lượng mạnh nhất ở Hà Bắc,
chủ trương diệt các lực lượng yếu trước. Ông chú tâm dẹp Trương Tú
là lực lượng ở gần Hứa Xương, có khả năng uy hiếp ông; kế đó tính đến
các chư hầu phương đông và đông nam. Đối với Mã Đằng và Hàn Toại ở xa,
ông sai mưu sĩ Chung Do
đến Tây Lương thuyết phục hai người trung thành với triều đình nhà Hán.
Nhờ vậy ông có thể rảnh tay thực hiện các tính toán của mình.
Dẹp Trương Tú
Đầu năm 197, Tào Tháo đích thân mang quân tấn công Nam Dương. Trương Tú
liệu thế không chống nổi nên đầu hàng. Tào Tháo vui mừng triệu tập các
tướng của Tú đến uống rượu. Trong tiệc, Tào Tháo đi mời rượu, mãnh tướng
Điển Vi đi cầm rìu lớn đằng sau, uy hiếp mọi người, vì vậy không ai dám ngẩng mặt nhìn ông.
Được hơn 10 ngày, Trương Tú bất mãn với Tào Tháo bèn bất ngờ dấy binh
làm phản, tập kích doanh trại Tào. Sự việc quá đột ngột, ông không kịp
trở tay. Quân Trương Tú sấn đến trại, lúc đó Điển Vi khỏe mạnh một mình
trấn giữ, giết rất nhiều quân của Tú. Nhờ Điển Vi chẹn cửa trước nên Tào
Tháo dẫn khinh kỵ bỏ chạy thoát bằng cửa sau. Điển Vi cuối cùng bị quân
Trương Tú giết chết, con cả Tào Tháo là Tào Ngang cùng cháu là Tào An
Dân cũng bị chết trong loạn quân.
Tam Quốc Diễn Nghĩa kể rằng Trương Tú trở mặt đánh Tào Tháo vì ông đã ăn nằm với bà thím goá họ Châu của Tú.
Tào Tháo thu quân về Hứa Xương. Rất may trong thời gian đó Viên Thuật đang tranh giành với Lã Bố ở phía đông nên không gây khó khăn gì cho ông.
Sau đó Tào Tháo lại mang quân đánh Trương Tú. Sau 2 lần giao chiến, Tú không địch nổi, bỏ chạy về Kinh châu theo Lưu Biểu. Tào Tháo bèn lấy danh nghĩa Hán Hiến Đế phong cho Tôn Sách
ở Giang Đông - địa bàn liền kề với Lưu Biểu - làm Ngô hầu, Thảo nghịch
tướng quân, gợi ý Tôn Sách kiềm chế Lưu Biểu, không cho Biểu dốc toàn
lực chi viện cho Trương Tú.
Sau vài năm, khi Tào Tháo tập trung lên chiến trường phía bắc với
Viên Thiệu thì Trương Tú thế yếu, nhận ra việc Lưu Biểu dung nạp mình
chỉ để làm vùng đệm với Tào Tháo; do đó sau khi phân tích lợi hại, Tú
trở lại đầu hàng Tào. Tào Tháo chấp nhận cho Tú hàng, không kể lại thù
cũ.
Thu Lưu Bị, bắt Lã Bố
Năm 195, Lã Bố bị Tào Tháo đánh thua chạy sang Từ châu nương nhờ Lưu Bị. Được một thời gian, Lã Bố cướp thủ phủ Từ châu là Hạ Bì của Lưu Bị, Bị thế yếu phải ra đóng ở Tiểu Bái, hai bên tạm hòa hoãn với nhau.
Năm 196 khi Tào Tháo nắm được Hiến Đế, Lã Bố đã sai sứ đến lấy lòng ông và xin làm Thứ sử Từ châu nhưng ông không đồng ý.
Năm 197, Viên Thuật xưng đế ở Thọ Xuân,
ngang nhiên chống lại nhà Hán. Lã Bố muốn kết thông gia, giao con gái
cho sứ của Thuật là Hàn Dận mang về Thọ Xuân. Nhưng nửa chừng thì Lã Bố
đổi ý, đuổi theo cướp con lại rồi bắt Hàn Dận mang đến Hứa Xương nộp Tào
Tháo. Ông bèn sai chém Hàn Dận và nhân danh Hán Hiến Đế phong Lã Bố làm
Tả tướng quân.
Tào Tháo muốn đánh Viên Thuật trước, nên sai người đến giao hảo với Tôn Sách,
đề nghị không chi viện cho Thuật. Sách vừa ly khai khỏi Thuật nên đồng
lòng với Tào Tháo. Ông mang quân đánh Thọ Xuân, đánh cho Thuật thua to,
giết chết tướng của Thuật là Kiều Dị.
Trong lúc Tào Tháo định đánh tiếp thì ở Từ châu lại có biến. Năm 198,
Lã Bố muốn bá chiếm cả Từ châu, từ Hạ Bì sai bộ tướng Cao Thuận mang
quân đánh Lưu Bị ở Tiểu Bái. Lưu Bị cầu cứu Tào Tháo. Ông sai Hạ Hầu Đôn
đến cứu nhưng hai đạo quân không địch nổi Cao Thuận. Lưu Bị chạy về Hứa
Xương nương nhờ ông.
Tháng 9 năm 198, Tào Tháo đích thân cùng Lưu Bị mang quân tới đánh Từ
châu. Tháng 10 năm đó quân Tào đến Bành Thành, giết chết tướng giữ
thành là Hầu Giai và lại tàn sát dân Bành Thành. Sau đó Tào Tháo tiến
đến Hạ Bì, Lã Bố mang quân kỵ ra nghênh chiến. Tào Tháo bắt sống được
viên mãnh tướng của Bố là Thành Quảng, Bố thua trận phải rút vào thành
Hạ Bì cố thủ và sai người cầu cứu Viên Thuật và Trương Dương.
Quân Tào vây đánh 1 tháng không hạ được, bắt đầu mệt mỏi. Tào Tháo
muốn lui quân nhưng Tuân Du và Quách Gia khuyên nên đánh gấp. Tào Tháo
theo kế, sai quân khơi sông Nghi Thủy và sông Tứ Thủy đổ nước vào thành
Hạ Bì. Thành ngập nước, Lã Bố nguy khốn phải lui dần vào trong rồi rút
lên cố thủ ở lầu Bạch Môn, thế cùng lực kiệt. Viên Thuật không mang quân
lại cứu.
Đúng lúc đó Trương Dương ở Hà Nội phát binh cứu Lã Bố. Nhưng Dương bị
thủ hạ là Dương Xú giết chết để hàng Tào Tháo. Thủ hạ của Trương Dương
là Khuê Cố giết Xú báo thù cho chủ. Tào Tháo bèn sai Sử Hoán mang quân
đón đánh, giết Khuê Cố và thu hết thủ hạ của Trương Dương.
Thủ hạ của Lã Bố là Hầu Thành bị trách phạt nên oán hận, bèn trói
Trần Cung và Cao Thuận mang nộp và mở cửa ra hàng Tào Tháo. Ông cùng Lưu
Bị thúc quân vào. Lã Bố trên lầu Bạch Môn bị dồn vào đường cùng, phải
bó tay chịu trói.
Lã Bố muốn hàng nhưng Tào Tháo theo lời khuyên của Lưu Bị, sai mang
Lã Bố giết chết. Sau đó ông giết cả Cao Thuận và Trần Cung. Trong các
thủ hạ của Lã Bố, ông thu dụng Trương Liêu và Tang Bá.
Tam Quốc Diễn Nghĩa chép: Ngụy Tục và Tống Hiến đồng mưu với Hầu Thành trói Lã Bố lại rồi mở cửa cho quân Tào vào.
Diệt Viên Thuật, đuổi Lưu Bị
Tào Tháo cùng Lưu Bị thu quân về Hứa Xương. Ông không trả lại Từ châu
vốn của Lưu Bị được Đào Khiêm (chết năm 194) giao cho mà sai thủ hạ là
Xa Trụ trấn thủ. Ông giữ Lưu Bị ở lại Hứa Xương để kiềm chế, phong làm
Tả tướng quân (thay chức của Lã Bố).
Việc Tào Tháo nắm trọn quyền hành khiến quốc cữu Đổng Thừa bất mãn,
có ý định trừ khử Tào Tháo. Năm 199, Đổng Thừa ngầm liên kết với Lưu Bị
để hại ông. Khi chưa có cơ hội cho Đổng Thừa hành động thì Viên Thuật
sức cùng lực kiệt đã bỏ Hoài Nam định lên Hà Bắc nhường ngôi cho Viên Thiệu. Tào Tháo phái Lưu Bị mang 1 vạn quân đi chặn đánh. Thuật bị thua trận phải quay trở lại và kiệt sức ốm chết.
Ạm mưu lật đổ Tào Tháo của Đổng Thừa ở Hứa Xương bị bại lộ, Thừa bị Tào Tháo giết cả họ. Tào Tháo tra ra việc Lưu Bị đồng mưu với Thừa. Cùng lúc, Lưu Bị đuổi được Thuật bèn chính thức ly khai khỏi Tào Tháo, mang quân chiếm lại Từ châu, giết chết Xa Trụ.
Tào Tháo nổi giận chia quân đi chuẩn bị đánh Từ châu. Lưu Bị biết
mình thế yếu bèn sai người đi cầu cứu Viên Thiệu. Tào Tháo cũng sắp quân
ở Quan Độ để chờ quân Hà Bắc. Tuy nhiên, sau một thời gian không thấy
Viên Thiệu cử động, Tào Tháo quyết định đánh Lưu Bị trước. Có người
khuyên ông nên cảnh giác kẻo bị hai bên địch đánh kẹp, nhưng ông quả
quyết rằng Viên Thiệu trù trừ không quyết đoán sẽ không ra quân gấp để
cứu Lưu Bị.
Tào Tháo gấp rút tiến đánh Từ châu. Vài vạn quân của Lưu Bị không
chống nổi, bị thua tan tác. Lưu Bị bỏ chạy sang Hà Bắc theo Viên Thiệu, Trương Phi trốn về Nhữ Nam, gia quyến Lưu Bị đều bị bắt; Quan Vũ không có đường chạy phải đầu hàng Tào Tháo.
Tào Tháo chiếm lại Từ châu. Sau khi dẹp được 4 chư hầu Trương Tú, Lã
Bố, Viên Thuật, Lưu Bị, ông đã làm chủ địa bàn rộng lớn ở trung nguyên,
chính thức ở thế đối mặt với Viên Thiệu hùng mạnh ở Hà Bắc. Khi ông đánh
đuổi được Lưu Bị thì Viên Thiệu vẫn chưa chính thức phát binh.
Đánh bại cha con Viên Thiệu
Trận Bạch Mã, Diên Tân
Trong khi Tào Tháo đánh dẹp các chư hầu phía nam và phía đông thì Viên Thiệu cũng tập trung tiêu diệt Công Tôn Toản
ở Bình Nguyên, thôn tính U châu, Thanh châu và Tinh châu. Làm chủ địa
bàn rộng lớn, có nhiều quân sĩ và hào kiệt, Viên Thiệu trở thành thế lực
mạnh mẽ ở phía bắc mà Tào Tháo chưa từng dám đối địch khi mới đến Hứa
Xương.
Năm 200, Lưu Bị thua trận đến chỗ Thiệu xin hàng. Thiệu bèn phát binh
giao tranh với Tào Tháo. Viên Thiệu mang theo Lưu Bị đi đánh Tào Tháo,
đóng đại quân ở Lê Dương, sai Trần Lâm thảo hịch kể tội ông. Bài hịch
vừa điển nhã vừa hùng kiện, được coi là bài văn nổi tiếng trong văn học
cổ điển.
Sau đó Viên Thiệu chia quân, một mặt đánh thành Bạch Mã, mặt khác
đóng ở bến Diên Tân. Tháng 4 năm 200, Tào Tháo dẫn Trương Liêu và Quan
Vũ đi cứu Bạch Mã và cũng chia quân ra Diên Tân để phân tán sự chú ý của
Thiệu. Quả nhiên Thiệu tăng cường thêm quân cho Diên Tân mà không chú ý
Bạch Mã. Tào Tháo nhân đó đột ngột thúc quân đánh mạnh ở Bạch Mã, sai
Quan Vũ ra trận giết chết mãnh tướng của Thiệu là Nhan Lương, giải vây thành Bạch Mã.
Tháng 5 năm 200, ông cùng Quan Vũ và Trương Liêu
đi men theo sông Hoàng Hà về phía tây đến cứu Diên Tân. Viên Thiệu cùng
Lưu Bị và Văn Xú mang quân đuổi theo. Tào Tháo đánh bại Viên Thiệu một
trận nữa tại đây, giết chết Văn Xú. Vì lực lượng ít hơn địch nên sau đó
ông lui quân về phía nam Tế Thủy, tức là bến Quan Độ đóng đồn, còn Viên
Thiệu đóng lại ở Diên Tân.
Trận Quan Độ
Sau trận Diên Tân, hai bên tạm hưu chiến. Lưu Bị thấy Viên Thiệu không đủ tài năng để chống Tào Tháo nên bỏ đi tìm cách xây dựng lại lực lượng. Quan Vũ ở bên Tào sau khi lập công trả ơn ông cũng lẻn trốn đi tìm Lưu Bị và sau hai người tái ngộ với Trương Phi ở Nhữ Nam.
Sau vài tháng ngưng nghỉ điều quân, hai bên tái chiến trong trận thư hùng ở Quan Độ ngay từ tháng 8 năm đó, kéo dài hơn 100 ngày.
Tam Quốc Diễn Nghĩa kể rằng sau trận Diên Tân, hai bên lại thu binh về chỗ. Tào Tháo rút về Hứa Xương, Viên Thiệu trở về Ký châu; La Quán Trung tập trung mô tả việc Quan Vũ lén đi khỏi chỗ Tào Tháo, ông còn đi ra tiễn Vũ ở Hứa Xương. Viên Thiệu còn sai Trần Chấn đến Giang Đông lôi kéo Tôn Sách liên minh đánh Tào Tháo nhưng Tôn Sách đột ngột qua đời, Tôn Quyền lên thay theo chính sách của Trương Chiêu, Gia Cát Cẩn,
theo Tào mà không theo Viên. Viên Thiệu thấy sứ giả trở về không cầu
được họ Tôn bèn tự mình khởi bình lần thứ hai đi đánh. Diễn biến trong
tiểu thuyết khá nhiều sự kiện và thư thả nhưng trên thực tế hai bên Viên
- Tào đối luỹ từ tháng 5 và cả Viên Thiệu lẫn Tào Tháo đều bám sát
không rời chiến trường, tiếp tục điều động binh lực.
Bị thua và mất hai tướng, Viên Thiệu điều đại quân đến Dương Vũ, phía
tây bắc Trung Mâu, men theo đồi cát dọc bờ sông, dựng vài chục doanh
trại kéo dài từ đông qua tây, định triển khai hai cánh bao vây quân Tào
rồi tiêu diệt.
Tào Tháo không lui binh, cũng chia quân làm nhiều nhóm chống cự,
nhưng vì ít quân hơn nhiều nên không đủ phân ra các vị trí có địch.
Viên Thiệu mang quân ra khỏi luỹ, giao chiến với quân Tào. Quân Tào
thua trận phải lùi lại mấy lần. Tào Tháo ra lệnh tướng sĩ cố giữ vững
trận địa, quân địch khiêu chiến nhiều lần nhưng không ra đánh.
Viên Thiệu bèn bày trận trên dãy núi đất, dựng nhiều chòi gỗ, đứng
trên đó bắn xuống doanh trại quân Tào. Quân Tào mỗi người phải dùng
thuẫn gỗ che đỡ tên bắn. Sau đó Tào Tháo dùng xe bắn đá bắn sang, phá
nát các chòi gỗ của địch.
Viên Thiệu lại cho quân đào nhiều địa đạo vào doanh trại quân Tào.
Ông phát hiện bèn sai quân đào đường hầm theo chiều ngang nằm phục sẵn,
hễ quân Viên đến thì bắn chết.
Hai bên giữ nhau lâu ngày, Tào Tháo sắp hết lương, muốn rút lui, bèn hỏi ý kiến Tuân Úc
đang trấn thủ Hứa Xương. Tuân Úc viết thư trả lời, khuyên ông kiên trì
giữ, nhất định không được rút lui, nếu không hậu quả sẽ rất xấu. Tào Tháo nghe theo, lệnh cho các tướng sĩ cố sức giữ thế trận.
Đánh lâu ngày không hạ được, Viên Thiệu chưa nghĩ ra kế nào khác.
Thiệu sai Thuần Vu Quỳnh mang 1 vạn quân đi về nhận lương để chở ra mặt
trận. Đúng lúc đó một thủ hạ của Thiệu là Hứa Du có người nhà bị tội vào
ngục, xin Viên Thiệu tha không được nên bất mãn, bỏ sang hàng Tào Tháo.
Được tin báo của Hứa Du về việc Thuần Vu Quỳnh, Tào Tháo đích thân
mang 5000 quân mã đuổi đến kho lương của Viên Thiệu ở Ô Sào. Đang đêm,
quân Tào bất ngờ tập kích, Nhạc Tiến
chém chết Quỳnh. Tào Tháo đốt sạch kho lương của Viên Thiệu. Trong hơn 1
vạn quân của Quỳnh thì hơn 1000 bị giết, số còn lại đầu hàng. Tào Tháo
sai cắt hết mũi xác chết, lưỡi của bò ngựa giao cho quân đầu hàng mang
về doanh trại Viên Thiệu để uy hiếp tinh thần, làm nhụt ý chí quân địch.
Viên Thiệu thấy lửa cháy từ xa, biết tin Ô Sào bị đánh, một mặt điều quân cứu Quỳnh, mặt khác sai Trương Cáp,
Cao Lãm đi cướp doanh trại Tào. Nhưng Tào Tháo đã bố trí quân phòng bị
trước, đúng như dự liệu của Cáp và Lãm. Cáp và Lãm không hạ được trại
Tào, lại nghe tin Tào Tháo phá tan Ô Sào trở về, bèn quyết định đầu hàng
ông.
Viên Thiệu liên tiếp nghe tin thua trận, kho lương bị mất, tướng sĩ
náo loạn, kéo nhau bỏ chạy. Tào Tháo thừa cơ dẫn quân tập kích khiến
quân Thiệu đại bại tan nát. Thiệu hốt hoảng, cùng con là Viên Đàm dẫn
800 quân kỵ chạy một mạch, qua sông Hoàng Hà mới dám dừng lại nghỉ.
Hơn 7 vạn quân của Viên Thiệu không theo kịp chủ, đều xin hàng Tào
Tháo. Trong số đó có một vài người không hoàn toàn quy thuận, có biểu
hiện trá hàng. Tào Tháo sợ phát sinh hậu hoạ bèn ra lệnh chôn sống cả 7
vạn hàng binh.
Những diễn biến chính của trận Quan Độ như dựng chòi, đào địa đạo, cướp lương Ô Sào... được Tam Quốc Diễn Nghĩa mô tả khá sát với sử sách.
Trừ anh em họ Viên
Sau một thời gian ngơi nghỉ, Tào Tháo mang quân truy kích Viên Thiệu. Tháng 4 năm 201, hai bên gặp nhau ở Thương Đình (ven sông Hoàng Hà). Tào Tháo đánh bại Viên Thiệu một trận lớn nữa. Viên Thiệu thu quân về, tinh thần suy sụp, mắc bệnh nằm một chỗ.
Trong lúc họ Viên suy yếu, Tào Tháo kịp mang quân về Hứa Xương (tháng 6 năm 201) rồi điều quân tấn công Lưu Bị
đang liên kết với tướng Khăn Vàng là Cung Đô ở Nhữ Nam. Ban đầu ông sai
Sái Dương đi đánh nhưng Dương bị Lưu Bị giết chết. Tào Tháo bèn tự cầm
đại quân đi đánh. Quân Tào giết chết Cung Đô, Lưu Bị không chống nổi,
phải bỏ chạy về Kinh châu theo Lưu Biểu.
Tam Quốc Diễn Nghĩa kể việc Sái Dương do Quan Vũ giết trong quá trình "qua 5 ải chém 6 tướng"
sau khi chia tay Tào Tháo trước trận Quan Độ.Lúc quay về gặp Trương
Phi,Quan Vũ bị Trương Phi nghi ngờ theo hàng Tào.Do đó,nhân lúc Sái
Dương vừa đến,Quan Vũ đã giết chết.Trương Phi không còn nghi ngờ gì về
ông.
Tạm yên mặt nam, Tào Tháo quay trở lại đánh Hà Bắc. Tháng 5 năm 202,
Viên Thiệu ốm không khỏi, qua đời. Khi quân Tào sắp đánh, các con Viên
Thiệu là Viên Đàm (con cả) và Viên Thượng (con thứ 3) chia nhau chống
giữ. Tào Tháo đánh Viên Đàm ở Lê Dương từ tháng 2 đến tháng 9 năm 203
không hạ được.
Nắm được nội tình anh em họ Viên đang tranh giành quyền thừa kế, Tào
Tháo bèn rút đại binh để Đàm và Thượng đánh nhau, tự suy yếu lực lượng.
Quả nhiên hai anh em mang quân đánh nhau, Viên Đàm bị thua chạy lên Bình
Nguyên. Tào Tháo bèn mang đại quân trở lại, để chia rẽ họ Viên, ông lấy
danh nghĩa cứu Viên Đàm. Viên Thượng hoảng sợ bỏ đánh Bình Nguyên rút
về Nghiệp Thành, hai tướng của Thượng là Lã Khoáng, Lã Tường đầu hàng
ông. Sau khi hứa kết thông gia với Viên Đàm, ông lại rút về nam cho anh
em họ Viên đánh nhau. Nội tộc họ Viên lại tái chiến.
Đầu năm 204, Tào Tháo mang quân đánh Nghiệp Thành. Lúc đó Thượng lên Bình Nguyên đánh Đàm chưa về, thành do Thẩm Phối
giữ. Quân Tào tấn công không nổi. Tháng 5 năm đó, Tào Tháo sai đào một
hào lớn, dẫn nước sông Chương Hà vào thành. Nghiệp Thành bị nước bao vây
cô lập, đến tháng 8 thì dân trong thành chết đói quá nửa.
Viên Thượng nghe tin vội về cứu, Tào Tháo điều quân chặn đánh. Quân
của Thượng tan vỡ, các tướng dưới quyền chạy sang hàng Tào. Thượng bỏ
chạy về Trung Sơn.
Thẩm Phối vẫn kiên cường phòng thủ, sai người mang nỏ cứng ra ngoài
thành, phục ở chỗ Tào Tháo hay đi tuần qua, có lần ông suýt bị nỏ bắn
trúng.
Nhưng sau đó cháu Phối là Thẩm Vinh phản họ Viên, mở cửa thành cho quân
Tào. Tào Tháo hạ được thành, dụ hàng Thẩm Phối không được bèn sai mang
chém để bảo toàn danh tiết cho Thẩm Phối.
Trong khi đó họ Viên vẫn đánh lẫn nhau. Viên Đàm đến Trung Sơn đánh
Thượng, chiếm luôn Ký châu. Thượng bỏ chạy tới U châu theo anh hai là
Viên Hy.
Tào Tháo gửi thư tuyên bố cắt đứt thông gia với Viên Đàm, trả lại con
gái Đàm và tiến đánh Bình Nguyên. Đàm bỏ chạy về Nam An. Tháng 1 năm
205, Tào Tháo tiến đánh Nam An. Đàm bị thủ hạ giết chết để hàng Tào.
Anh em Viên Hy, Viên Thượng ở U châu không lâu thì thủ hạ của Hy là
Tiêu Xúc, Trương Nam làm phản, hai anh em phải bỏ chạy sang Liêu Tây,
nương nhờ thủ lĩnh Ô Hoàn là Đạp Đốn. Tháng 10 năm 205, Tào Tháo mang
đại quân tấn công Liêu Tây, đánh đuổi bộ lạc Ô Hoàn ở 3 bộ Liêu Tây,
Liêu Đông và Hữu Bắc Bình ra khỏi Trường Thành. Anh em Hy và Thượng cùng
Đạp Đốn chạy sang Liêu Đông với Công Tôn Khang.
Cháu Viên Thiệu là Cao Cán
trấn thủ Tinh châu, trước nghe tin họ Viên bại trận bèn đầu hàng Tào
Tháo. Thấy ông đi đánh Ô Hoàn, Cán lại làm phản. Tháng 1 năm 206, ông
dẫn quân trở về đánh Cán. Cán thua chạy đi cầu cứu Hung Nô không được, trở về đến Thượng Lạc thì bị giết.
Đầu năm 207, anh em họ Viên đến Liêu Đông. Tào Tháo đi chiêu hàng đến
Liễu Thành (Liêu Tây), không mang quân truy đuổi anh em họ Viên đến
Liêu Đông. Ông đoán biết nếu tiến đánh, Công Tôn Khang sẽ liên hợp với
họ Viên, vì vậy ông chủ ý lui quân về phía nam, tỏ ý không truy bức,
Khang sẽ thanh trừng họ Viên.
Tào Tháo không chờ động tĩnh từ phía Khang mà chủ động rút lui khỏi
Liễu Thành về nam trong hoàn cảnh rất gian khổ. Khi đó ở phía bắc rất
lạnh, quân đội của ông bị rét cóng; toàn quân đi 200 dặm không có nước;
sau đó phải đào giếng sâu tới 39 trượng mới có nước. Lương thực hết,
quân Tào phải giết ngựa chiến để ăn. Quân Tào ăn hết vài ngàn con ngựa
mới về tới khu vực có lúa
của người Hán. Các nhà sử học Trung Quốc nêu giả thiết, nếu anh em họ
Viên biết được tình cảnh thê thảm đó của quân Tào mà dẫn tàn quân truy
kích thì chưa biết tình hình sẽ ra sao.
Đúng như dự liệu của Tào Tháo, Công Tôn Khang lập tức bắt chém anh em
Hy, Thượng và Đạp Đốn ngay lúc đến ra mắt, sai người mang 3 thủ cấp nộp
Tào Tháo - khi đó ông đã về đến Nghiệp Thành. Ông phong chức Tương Bình
hầu cho Khang để thưởng công.
Nam tiến
Sau khi diệt họ Viên, Tào Tháo hoàn toàn làm chủ trung nguyên, trở
thành lực lượng mạnh nhất Trung Quốc khi đó. Ông tiến hành cải cách
triều đình Đông Hán, khôi phục lại chức Thừa tướng và tự mình đảm nhiệm,
đưa hàng loạt người thân tín nắm những chức vụ quan trọng trong triều
đình cũng như những nơi hiểm yếu.
Các lực lượng chư hầu có địa phận liền kề với ông khi ông mới về Hứa Xương đều đã bị dẹp. Khi đó trong toàn quốc còn lại Lưu Biểu và Lưu Bị ở Kinh châu, Tôn Quyền ở Giang Đông, Trương Lỗ ở Đông Xuyên, Lưu Chương ở Tây Xuyên, Hàn Toại và Mã Đằng
ở Tây Lương. Tào Tháo quyết định nam tiến diệt Lưu Biểu và Tôn Quyền là
những lực lượng đáng kể nhất trong số các chư hầu còn lại.
Lấy Kinh châu
Lưu Bị từ khi thua Tào Tháo ở Nhữ Nam chạy về Kinh châu theo Lưu Biểu, được sai trấn giữ ở Tân Dã.
Tháng 7 năm 208, Tào Tháo khởi binh nam tiến, đánh Kinh châu. Tháng 8 năm đó, khi quân Tào chưa đến nơi thì Lưu Biểu đã ốm chết. Tháng 9, Tào Tháo tiến đến Tân Dã. Lưu Bị từ khi nghe tin đại quân Tào Tháo kéo đến đã bỏ Tân Dã về Giang Hạ.
Quân Tào áp sát, con nhỏ của Lưu Biểu là Lưu Tông
- người được quyền thừa kế - sợ hãi đầu hàng Tào Tháo. Lưu Bị nghe tin
Lưu Tông đầu hàng bèn mang hơn 1 vạn dân chạy đến Giang Lăng - nơi chứa
lương thảo và vũ khí của Kinh châu - để thế thủ. Tào Tháo chọn 5000 quân
kỵ khoẻ ngày đêm đuổi theo, một ngày đi 300 dặm. Khi quân Tào tới Đương
Dương - Tràng Bản thì bị mãnh tướng Trương Phi đánh chặn, tạm thời phải
dừng lại.
Vừa lúc đó sứ giả của Tôn Quyền là Lỗ Túc đến Tràng Bản, gặp được Lưu Bị. Theo lời khuyên của Lỗ Túc, Lưu Bị quyết định liên minh với Tôn Quyền để chống Tào, sai Gia Cát Lượng sang Đông Ngô; bản thân Lưu Bị hợp binh với Quan Vũ về cố thủ ở Giang Hạ với con lớn của Lưu Biểu là Lưu Kỳ.
Tào Tháo thúc quân đuổi tiếp đến Giang Lăng nhưng không thấy Lưu Bị,
bèn chiếm lấy kho lương và vũ khí ở đó. Sau đó ông tập hợp đại quân
chuẩn bị tiến đánh Tôn Quyền.
Thua trận Xích Bích
Tào Tháo cùng các tướng Tào Nhân, Nhạc Tiến, Tào Thuần, Lý Thông, Mãn Sủng và tướng cũ của Lưu Biểu là Văn Sính dẫn khoảng 22 vạn quân
áp sát Giang Đông. Với lực lượng hùng hậu, ông tỏ ra coi thường lực
lượng nhỏ yếu của Tôn Quyền, rất tin tưởng vào thắng lợi ở trận này nên
không mang theo các danh tướng khác. Ông gửi thư cho Tôn Quyền nói:
Ta vâng mệnh hoàng đế, điếu dân phạt tội, tiến quân xuống nam, Lưu
Tông con Lưu Biểu đã trói tay xin hàng; hiện đã chỉnh đốn 80 vạn quân
thủy, chuẩn bị đánh nhau với ngươi ở Ngô quận.
Tôn Quyền liên kết với Lưu Bị, sai Chu Du mang 3 vạn quân ra phối hợp với Lưu Bị chống lại.
Thủy quân Tôn-Lưu ngược dòng Trường Giang từ Hán Khẩu-Phàn Khẩu
tới Xích Bích, giao tranh với tiền quân của Tào Tháo. Quân Tào đi đường
xa, không hợp thủy thổ, bị bệnh dịch hành hạ nên không thể giành được
lợi thế trong những trận giao tranh nhỏ ban đầu và buộc phải lui về đóng
quân ở Ô Lâm (phía Bắc Trường Giang).
Để giảm sự tròng trành của thuyền chiến (quân Tào không quen thủy
chiến hay bị say sóng), Tào Tháo ra lệnh dùng xích sắt nối nhiều thuyền
lại với nhau. Quan sát động thái này của Tào Tháo, tướng Hoàng Cái
bên Đông Ngô kiến nghị Chu Du dùng kế trá hàng và được Chu Du tán đồng.
Hoàng Cái sai người gửi thư trá hàng và Tào Tháo tin theo.
Theo thời gian đã hẹn, đội "hàng binh" của Hoàng Cái đến giữa sông
thì các hỏa thuyền bắt đầu được châm lửa và chúng theo gió Đông Nam lao
thẳng vào hạm đội của quân Tào. Các thuyền chiến của Tào Tháo nhanh
chóng bắt lửa khiến một số lớn binh mã chết cháy trên thuyền hoặc chết
đuối dưới sông. Trong lúc quân Tào đang hoảng hốt vì đám cháy thì liên
quân Chu Du đã chiếm lĩnh trận địa và chia cắt lực lượng của Tào Tháo,
buộc ông phải ra lệnh rút lui sau khi phá hủy một phần số thuyền chiến
còn lại.
Tào Tháo cùng bại binh rút lui về phía đường cái Hoa Dung xuyên qua vùng đầm lầy lớn phía Bắc hồ Động Đình. Chu Du và Lưu Bị không ngừng đuổi theo ông cho tới tận Nam Quận. Cuối cùng, thiệt hại nặng nề khiến Tào Tháo phải bỏ miền Nam rút về Nghiệp Quận, để lại Từ Hoảng và Tào Nhân giữ Giang Lăng, Nhạc Tiến giữ Tương Dương và Mãn Sủng giữ Đương Dương.
Củng cố thế đứng phương bắc
Bài Thủ sắc
Sau trận Xích Bích, về cơ bản thế đứng của ba họ Tào, Tôn và Lưu khá
vững, lực lượng khá cân bằng nên Tào Tháo không còn thời cơ nam tiến
thuận lợi để thống nhất Trung Hoa như trước nữa. Thế chân vạc hình
thành.
Trong khi Tôn Quyền và Lưu Bị ra sức giành lấy những vùng đất đai
phía nam thì Tào Tháo án binh bất động trong 2 năm 209 - 210. Ông đóng
quân ở Nghiệp Thành, huy động người xây đài Đồng Tước để hưởng thụ lúc
tuổi già. Con thứ 4 của ông là Tào Thực vì sự kiện này mới làm bài phú Đài Đồng Tước.
Để củng cố thực lực phương bắc, ông hạ lệnh chiêu mộ nhân tài; sau đó
ban bố tờ "Thủ sắc" để tự trần tình. Bài Thủ sắc đại ý nói bản ý ban
đầu ông chỉ hy vọng lập chút công danh, nhưng vì gặp thời loạn nên từng
bước lên địa vị Thừa tướng; "nếu không có ta thì nhà Hán đã mất". Cuối
bài ông nhấn mạnh việc những người nghi ngờ ông muốn cướp ngôi nhà Hán
đều là nghĩ sai; ông cũng muốn rời bỏ chức vụ hiện tại cũng không thể,
vì đã kết oán với nhiều người, sợ bị hãm hại.
Để cho mọi người thấy điều mình nói không phải dối trá, ông trả lại 3
huyện 2 vạn hộ được phong, chỉ giữ lại huyện Vũ Bình 1 vạn hộ.
Chinh phạt Tây Lương
Tây Lương tuy ở xa nhưng Tào Tháo luôn quan tâm đúng mức. Ngay thời Lý Thôi và Quách Dĩ cầm quyền, Hàn Toại và Mã Đằng từng mang quân đánh vào kinh thành Tràng An với danh nghĩa cứu vua Hán (194), vì vậy Tào Tháo rất cảnh giác với lực lượng này.
Trước khi ra tay đánh dẹp chư hầu ở Trung nguyên, ông từng sai Chung
Do viết thư trấn an Đằng và Toại khiến hai người không gây hấn. Trước
khi xuống miền nam đánh Kinh châu, năm 208, Tào Tháo đã nhân danh Hán
Hiến Đế triệu Mã Đằng
về Hứa Xương bổ nhiệm làm Thái uý, ngoài mặt là phong chức nhưng kỳ
thực để chia cắt với Hàn Toại; đồng thời ông phong con Đằng là Mã Siêu làm Thiên tướng quân, Đô Đình hầu, cho thay cha quản lý quân đội dưới quyền.
Năm 211, Tào Tháo phái Tư Lệ hiệu uý Chung Do và Chinh tây Hộ quân Hạ
Hầu Uyên đi đánh Trương Lỗ ở Đông Xuyên. Các tướng ở Tây Lương thấy ông
không đánh họ ở chỗ gần mà đánh Trương Lỗ ở xa, nghi ngờ rằng Tào Tháo
dùng kế "mượn đường Quắc diệt Ngu".
Do đó, 10 tướng lĩnh Tây Lương gồm Hàn Toại, Mã Siêu, Hầu Tuyển, Trình
Ngân, Dương Thu, Mã Ngoạn, Trương Hoành, Lương Hưng, Thành Nghi, Lý Kham
cất 10 vạn quân làm phản. Mã Siêu và Hàn Toại cầm đầu trong số này,
chiếm cứ Đồng Quan.
Tháng 7 năm 211, Tào Tháo đích thân mang quân đánh Mã Siêu. Đến Đồng Quan, ông bí mật phái Từ Hoảng
và Chu Linh mang 4000 quân vượt bến Bồ Bản, đóng trại ở Hà Tây để chặn
đường lui của Mã Siêu. Siêu bàn với Hàn Toại chia quân ra chặn ở bờ bắc
ngăn quân Tào nhưng Toại không nghe theo. Siêu bèn tự mình hành động.
Tào Tháo cho đại quân vượt sông sang bờ bắc. Khi quân Tào đang qua
sông thì Mã Siêu bất thần mang 1 vạn quân đến đánh úp, bắn tên đến như
mưa. Người chèo thuyền của Tào Tháo bị trúng tên chết, tướng Hứa Chử
một tay cầm yên ngựa che cho Tào Tháo, tay kia chèo thuyền. Cùng lúc đó
Huyện lệnh Vị Nam là Đinh Phỉ sai thả hết trâu ngựa ra đường khiến quân
Mã Siêu tranh nhau đi bắt, sao nhãng việc truy kích Tào Tháo. Vì vậy
ông được thoát nạn, qua bờ bên kia.
Theo kế của Giả Hủ,
Tào Tháo quyết định dùng kế ly gián Toại và Siêu. Ông vốn quen biết với
Toại từ trước, khi ra trận gặp Toại không có mặt Siêu, ông tìm cách bắt
chuyện, nói với nhau khá thân mật. Vì vậy Siêu bắt đầu nghi ngờ Toại.
Sau đó Tào Tháo lại viết thư gửi Hàn Toại, cố ý gửi nhầm bản nháp, có
gạch xoá sửa chữa những chỗ quan trọng. Siêu thấy Toại có thư, đến đòi
xem. Thấy thư bị gạch xoá, Siêu càng nghi ngờ là do Toại tự gạch đi.
Biết nội bộ quân Tây Lương đã nghi ngờ nhau, Tào Tháo ra quân tiến
đánh. Ông dùng khinh binh nhử trước cho địch đuổi theo rồi mới dùng quân
tinh nhuệ giáp công. Quân Tây Lương dao động, bị đánh đại bại. Hàn Toại
bỏ chạy về Kim Thành;
Mã Siêu thua chạy sang bộ lạc của người Nhung. Tào Tháo dẫn quân truy
kích Siêu đến tận Yên Định nhưng chưa bắt được Siêu thì có tin Tôn Quyền
mang quân đánh trung nguyên nên ông rút đại quân về phía Đông, để Hạ Hầu Uyên ở lại trấn giữ.
Năm 212, Tào Tháo về đến Hứa Xương, nhân danh Hiến Đế hạ lệnh giết chết Mã Đằng, tru di tam tộc, giết hết những người cùng họ ở kinh thành.
Tam Quốc Diễn Nghĩa
kể rằng do Tào Tháo dụ Mã Đằng về kinh giết chết nên Mã Siêu mới khởi
binh báo thù. Việc ông xoá thư ly gián Siêu và Toại được kể tương tự
trong sử sách.
Về sau, Mã Siêu tập hợp người Khương, người Hồ quay trở lại tấn công các quận huyện Lũng Thượng trong trận Kí Thành, giết Thứ sử Lương châu là Vi Khang. Thủ hạ của Vi Khang là Dương Phụ khởi binh báo thù cho chủ, hợp binh với Hạ Hầu Uyên đánh bại Mã Siêu. Siêu phải chạy sang đầu hàng Trương Lỗ ở Hán Trung. Vùng Tây Lương cơ bản thuộc quyền kiểm soát của Tào Tháo.
Đánh chiếm Đông Xuyên
Sau trận giao tranh với Tôn Quyền bất phân thắng bại năm 213, Tào Tháo nhận thấy thế chân vạc đã vững, chưa thôn tính Giang Đông hiểm yếu được. Sang năm 214, Lưu Bị từ Kinh châu tiến vào đánh chiếm Tây Xuyên của Lưu Chương khiến ông phải gấp rút hành động. Ông dự định đánh chiếm Hán Trung (Đông Xuyên) của Trương Lỗ, sau đó xuôi theo sông Hán Thuỷ xuống phía nam đánh Ích châu để trừ Lưu Bị.
Tháng 3 năm 215, Tào Tháo xuất phát qua Trần Thương,
không tiến ngay về phía nam mà trước hết ra khỏi Tản Quan phía tây trừ
nốt Hàn Toại đang liên minh với vua người tộc Chi (Đê) là Đậu Mậu. Tháng
5, quân Tào đánh tan Đậu Mậu ở Hạ Trì, Hàn Toại bỏ chạy từ Kim Thành
tới Tây Bình thì bị thủ hạ giết chết, mang đầu nộp cho Tào Tháo.
Tam Quốc Diễn Nghĩa
chép: Hàn Toại bị Mã Siêu nghi ngờ thông đồng với Tào Tháo, chém đứt
một cánh tay, thành người tàn phế. Khi Tào Tháo đánh bại Siêu năm 211,
Hàn Toại đầu hàng.
Trừ xong Hàn Toại, Tào Tháo mới quay trở lại đánh Hán Trung. Thấy
quân Tào thế mạnh, Trương Lỗ muốn hàng nhưng em là Trương Vệ phản đối.
Lỗ cho Vệ mang vài vạn quân ra địch.
Trương Vệ ra trấn giữ ải Dương Bình, Tào Tháo đánh 3 ngày không hạ
được. Nhưng sau đó bất ngờ quân Tào chiếm được cửa ải. Sử sách chép về
sự kiện này không giống nhau. Tam Quốc Chí chép rằng Tào Tháo cho quân tập kích ban đêm và chiếm được ải. Ngụy Tấn thế ngữ
chép rằng: Tào Tháo nản chí muốn lui binh, Quách Kham khuyên nên kiên
trì; đúng đêm hôm đó có chuyện phát sinh bất ngờ: hàng ngàn con hươu
tràn vào trại quân Trương Vệ nên quân Vệ náo loạn; cùng lúc đó tiền quân
của Tào Tháo lại đi lạc đường, tiến vào trại của Vệ. Viên trung
hộ quân của Tào Tháo là Cao Tộ sợ quân chạy rải rác trong trại địch sẽ
bị tiêu diệt, vội gióng trống thổi tù và làm hiệu; không ngờ điều đó
khiến Trương Vệ sợ hãi, tưởng quân Tào đã vào đông nên hốt hoảng bỏ
chạy, sau bị quân Tào bắt giết.
Nghe tin Trương Vệ thua trận, Trương Lỗ muốn hàng nhưng lại nghe theo
thủ hạ Diêm Phố khuyên, chưa hàng ngay mà chạy ra núi Đại Ba, dựa vào
các thủ lĩnh bộ tộc cố thủ, sau đó mới sai người đến xin Tào Tháo xin
giảng hoà. Trước khi đi, Trương Lỗ không nghe theo lời khuyên đốt kho
tàng khiến quân Tào đói mà khoá hết kho tàng, niêm phong lại.
Tào Tháo khen ngợi việc Trương Lỗ không đốt kho tàng, chấp nhận cho
Trương Lỗ đầu hàng, phong làm Trấn Nam tướng quân, Lãng Trung hầu; 5 con
trai của Lỗ và Diêm Phố cũng được phong làm liệt hầu. Sau đó ông còn
kết thông gia với Trương Lỗ, lấy con gái Lỗ cho con trai mình.
Tướng Tây Lương cũ là Mã Siêu bất mãn với Trương Lỗ đã bỏ sang Tây Xuyên theo hàng Lưu Bị từ trước, bộ tướng của Siêu là Bàng Đức ốm nằm lại Đông Xuyên nên lúc đó theo hàng Tào Tháo.
Thấy quận Hán Trung rộng lớn, ông chia làm 3: Trung tâm vẫn gọi là Hán Trung, đặt thêm 2 quận Tây Thành và Thượng Dung. Ông để Hạ Hầu Uyên tổng quản trấn thủ cả 3 quận, có thêm Trương Cáp và Đỗ Tập trợ giúp, còn mình cất đại quân về Nghiệp Thành. Hai viên chủ bạ là Tư Mã Ý
và Lưu Hoa đã khuyên ông nên thuận đường đánh sang Tây Xuyên, chiếm Ích
châu khi Lưu Bị chưa vững chân nhưng Tào Tháo không nghe theo, bỏ mất
cơ hội tốt.
Trong khi Tào Tháo đánh chiếm Hán Trung thì tướng Trương Liêu được ông sai trấn thủ Hợp Phì đã tự mình đẩy lui được 10 vạn quân của Tôn Quyền đến xâm phạm trong trận Hợp Phì.
Có ý kiến cho rằng Tào Tháo bỏ cơ hội đánh Tây Xuyên vì ông không
đánh giá cao tài năng quân sự của Lưu Bị và trở về để lo dọn đường cho
việc xưng vương.
Xưng vương
Ban đầu, Tào Tháo được Hán Hiến Đế phong làm Vũ Bình hầu, ăn lộc 1 vạn hộ ở huyện Vũ Bình. Sau trận Xích Bích,
Tào Tháo chú trọng xây dựng Nghiệp Thành là thủ phủ cũ của Viên Thiệu,
thường đóng đại quân tại đây, ít coi trọng Hứa Xương như thời kỳ đầu.
Do tự mình chuyên quyết việc triều đình, ông đã gặp phải sự chống đối
ngấm ngầm từ các lực lượng ủng hộ Hán Hiến Đế. Tuy nhiên, các lực lượng
này không đủ mạnh và bị Tào Tháo đàn áp thẳng tay, kể cả những người
thân thích của Hiến đế cũng bị giết như: Phục hoàng hậu, Đổng Quý phi,
Đổng Thừa, Phục Hoàn.
Năm 213, ông ép Hiến Đế phong mình làm Ngụy Công, ban cho Cửu
tích gồm: xe ngựa, y phục, nhà son, đội nhạc, nạp bệ, cung tên, hổ bôn,
việt vàng. Ông cắt Ngụy quận và 9 quận khác ở Ký châu vào lãnh thổ nước
Ngụy làm đất ăn lộc. Nước Ngụy của Tào Tháo với tư cách là một nước chư
hầu nằm trong lãnh thổ nhà Hán bắt đầu hình thành.
Tháng 11 năm 213, ông thiết lập một bộ máy triều đình nước Ngụy riêng biệt, có Thượng thư lệnh, Thị trung và 6 viên khanh.
Năm 216, sau khi đánh bại Trương Lỗ trở về, Tào Tháo sai Hoa Hâm chuẩn bị và ép Hán Hiến Đế ra chiếu phong mình làm Ngụy Vương. Ông lập con thứ hai là Tào Phi làm thế tử.
Mất Hán Trung
Tào Tháo giao Hán Trung cho Hạ Hầu Uyên, Trương Cáp
và Đỗ Tập trấn giữ. Năm 216, Trương Cáp mang quân vượt núi Đại Ba, tiến
sâu vào 2 quận Ba Đông, Ba Tây, dời vài vạn dân về Hán Trung. Khi Cáp
tiến đến Đãng Cừ thì gặp quân của Lưu Bị do Trương Phi
chỉ huy chặn lại. Hai bên giữ nhau 50 ngày, cuối cùng Cáp bị Trương Phi
đánh bại, chạy về Nam Trịnh. Nghe tin Trương Cáp bại trận, Tào Tháo
không trị tội, vẫn phong làm Đãng khấu tướng quân để khuyến khích.
Tháng 11 năm 217, Lưu Bị sai Trương Phi đóng đồn ở Cố Sơn, Ngô Lan đóng ở Hạ Bị. Tào Tháo sai Tào Hồng
và Tào Hưu ra đối địch. Hồng và Hưu không mắc mưu theo tin đồn của
địch, đánh bại Ngô Lan khiến Trương Phi phải rút lui khỏi Cố Sơn. Lan bỏ
chạy và bị người tộc Chi giết chết.
Nghe tin bại trận, Lưu Bị cùng mưu sĩ Pháp Chính khởi 10 vạn quân, kéo đến ải Dương Bình. Quân Tào giữ ải yếu nên không giữ nổi.
Đầu năm 219, Lưu Bị qua sông Miện Thuỷ, dựa vào sườn núi Định Quân
đóng quân. Hạ Hầu Uyên không biết là kế, mang toàn quân đến vây đánh, bị
phục binh của tướng Hoàng Trung từ trên núi đổ xuống đánh ngang sườn. Uyên và Thứ sử Ích châu là Triệu Ngung cùng tử trận. Lưu Bị chiếm được Hán Trung.
Ngụy vương Tào Tháo được tin, đích thân mang đại quân từ Tràng An
qua hang Tà Cốc vào Xuyên để quyết chiến. Lưu Bị giữ thế phòng thủ
không ra giao chiến. Qua hơn 1 tháng khiêu chiến không đánh được trận
nào, quân Tào mệt mỏi. Lưu Bị lại sai người lọt vào hàng ngũ quân Tào
làm nội ứng, phao tin đồn khiến quân Tào chán nản.
Tào Tháo lúc đó tuổi đã cao, sức lực không còn tráng kiện; ông liệu
thế không thể thắng được Lưu Bị, đành hạ lệnh lui quân. Trước khi rút
lui, ông nói với các tướng:
“
Ta vốn không tin là Lưu Bị có tài cán tới như thế. Nhưng bên cạnh y hiện đã có người tài (chỉ Pháp Chính).
”
Các sử gia Trung Quốc đánh giá câu nói này là lời tự trấn an tinh thần cho mình theo kiểu A.Q.
Tào Tháo không những triệt thoái khỏi Hán Trung, mà lệnh cho các cánh
quân trong 3 quận Tây Thành và Thượng Dung mà ông mới đặt ra cùng rút
về. Quận Thượng Dung và Tây Thành đầu hàng Lưu Bị. Toàn Đông Xuyên mà
Tào Tháo đánh chiếm năm 215 mất về tay Lưu Bị.
Tam Quốc Diễn Nghĩa mô tả Tào Tháo và Lưu Bị giao tranh ở Hán Trung có khá nhiều trận đánh. Tào Tháo bị Ngụy Diên bắn gãy răng cửa.
Mặt trận phía đông và phía nam
Từ sau trận Xích Bích,
địch thủ mà Tào Tháo giao tranh tại chiến trường phía đông chủ yếu là
Tôn Quyền chứ không phải Lưu Bị, dù không phải lần giao tranh nào ông
cũng trực tiếp ra trận.
Năm 209, Tôn Quyền sai Chu Du tấn công ráo riết vào Giang Lăng, buộc Tào Nhân
phải bỏ thành này chạy về Tương Dương. Năm 213, Tào Tháo đích thân dẫn
liên quân thuỷ lục giao tranh với Tôn Quyền tại cửa Nhu Tu
bất phân thắng bại. Sang năm sau, hai bên đánh nhau một trận nữa ở Nhu
Tu cũng không ngã ngũ. Năm 214, quân Đông Ngô chiếm được Hoãn Thành. Năm 215 khi Tào Tháo đi đánh Trương Lỗ, Tôn Quyền đánh Hợp Phì bị Trương Liêu đẩy lui. Năm 216, Tào Tháo phát động quân thuỷ và quân bộ ồ ạt từ Cư Sào tấn công nhưng đến tháng 3 sang năm 217 vẫn không hạ được, phải lui về bắc.
Trong nhiều năm, Tôn Quyền và Lưu Bị duy trì sự liên kết để chống lại
ông, giữ thế chân vạc cân bằng. Nhưng sau khi Tào Tháo mất Hán Trung
thì phát sinh biến cố mới. Lưu Bị và Tôn Quyền ngoài mặt là em rể và anh vợ nhưng vẫn tranh chấp nhau vùng Kinh châu mà Lưu Bị mang tiếng “mượn” lâu ngày không trả. Khi vào Tây Xuyên, Lưu Bị giao cho Quan Vũ
giữ các quận Kinh châu. Để yên mặt đông, Lưu Bị phải nhân nhượng Tôn
Quyền, trả cho Đông Ngô 3 quận để hoà hoãn, đổi lại Tôn Quyền cắt 2 quận
cho Quan Vũ. Quan Vũ sau đó vẫn gây bất hòa với Đông Ngô khiến Tôn
Quyền quyết định ngả theo Tào Tháo để lấy toàn bộ Kinh châu.
Tháng 6 năm 219, sau khi chiếm được Hán Trung, Lưu Bị xưng làm Hán
Trung Vương, đứng ngang hàng với Tào Tháo. Trên đà thắng lợi, Lưu Bị sai
Quan Vũ đang trấn thủ Kinh châu đem quân bắc tiến, vây hãm Tương Dương,
sau đó lại vây đánh Phàn Thành do Tào Nhân trấn thủ. Phàn Thành nguy
cấp. Tào Tháo ở Nghiệp Thành rất lo lắng, toan tính thiên đô, rời Hán
Hiến Đế từ Hứa Xương về cùng ông ở đất Nghiệp. Nghe lời Tư Mã Ý phân tích lợi hại, Tào Tháo quyết định không thiên đô, sai Vu Cấm và Bàng Đức mang quân đi cứu Phàn Thành. Nhạc Tiến hỗ trợ Tào Nhân cố giữ lấy Thanh Nê.
Đúng lúc đó thì Tôn Quyền sai người dâng thư đến xin quy phục, giúp
ông giáp công đánh Quan Vũ ở mặt đông. Tào Tháo mừng rỡ, nhưng vẫn dùng
quyền thuật: một mặt ông nhận cho Tôn Quyền đầu hàng, phong làm Nam
Xương hầu, lĩnh chức Kinh châu mục; mặt khác ông lại mang thư đầu hàng
của Quyền buộc vào tên, sai quân bắn vào trại của Quan Vũ. Việc làm đó
của ông đẩy Quan Vũ và Tôn Quyền vào thế không đội trời chung khiến ông
có thể ngồi nhìn hai bên đánh nhau mà vẫn có thể giải vây cho Phàn
Thành, giữ yên được mặt nam.
Tuy nhiên, Quan Vũ không hoàn toàn tin vào thư đó, cho rằng Tào Tháo
lắm mưu mô, phao tin sai để lung lạc mình. Nhân lúc nước sông Hán Thuỷ
lên cao, Quan Vũ khơi nước sông đổ vào ngoài thành. Bảy đạo quân Vu Cấm
và Bàng Đức đóng đồn ở phía bắc Phàn Thành bị nước dìm chết gần hết, số
ít bỏ chạy thoát. Cả hai tướng đều bị bắt, Vu Cấm đầu hàng Quan Vũ, còn
Bàng Đức không chịu hàng nên bị giết. Tào Tháo nghe tin đó thở dài than:
Ta và Vu Cấm biết nhau 30 năm, không ngờ lúc nguy cấp thì ông ta không bằng Bàng Đức!
Viện binh cứu Phàn Thành bị tiêu diệt, Tào Tháo vội sai Từ Hoảng mang quân đi cứu. Trong khi Quan Vũ mải đánh Vu Cấm thì Tôn Quyền đã sai Lã Mông mang quân đánh úp Kinh châu.
Từ Hoảng mang quân đến cứu viện, dương đông kích tây, phao tin đánh
đồn Vi Trủng nhưng kỳ thực đánh đồn Tứ Trủng. Quan Vũ mắc mưu nên bị
thua nặng, quân chết rất nhiều; khi thua trận chạy về mới biết Kinh châu
đã mất. Quan Vũ cùng đường chạy ra Mạch Thành, cuối cùng bị quân Tôn
Quyền bắt sống mang về giết chết.
Tôn Quyền giết Quan Vũ, sai người mang đầu đến Lạc Dương nộp cho Tào Tháo. Ông không mang đầu Quan Vũ đi bêu mà sai làm lễ tang trọng thể theo nghi thức an táng chư hầu. Các nhà nghiên cứu cho rằng: Tào Tháo đã phụ nhiều người, nhưng chưa từng phụ Quan Vũ;
mặt khác việc làm đó còn mang ý nghĩa chính trị không nhỏ: Tôn Quyền
nộp đầu Quan Vũ cho ông để muốn thiên hạ biết rằng mình giết Vũ theo
lệnh Tào Tháo, khiến Lưu Bị chĩa mũi nhọn vào ông, nhưng Tào Tháo trọng
táng Quan Vũ lại cho ra thông điệp khác: Tôn Quyền tự ý giết Vũ. Tào
Tháo đã giải toả được sự hiềm nghi của mọi người và ông đã lái được mũi
nhọn của Lưu Bị trở lại phía Tôn Quyền. Sau này Lưu Bị vì mối thù Quan Vũ đã dốc toàn quân đi đánh Tôn Quyền.
Qua đời
Tào Tháo đã mắc bệnh đau đầu trong nhiều năm. Ông đã sai người triệu danh y Hoa Đà - là người đồng hương ở huyện Tiêu, nước Bái thuộc Dự châu - đến chữa trị. Do thuốc của Hoa Đà hiệu nghiệm, ông đã giữ Hoa Đà lại bên mình một thời gian. Những lúc bị đau, ông nhờ Hoa Đà châm cứu cho một vài mũi kim thì bệnh tình đỡ đi nhiều.
Sau này Tào Tháo có người nhà mắc bệnh, lại gọi Hoa Đà tới chữa. Được
một thời gian chưa xong, Hoa Đà xin về nhà thăm vợ có bệnh, lại xin
nghỉ thêm ít lâu nữa. Tào Tháo nghi ngờ, sai người đến dò xét thì thấy
vợ Hoa Đà không có bệnh gì, bèn hạ lệnh bắt Hoa Đà vào ngục hỏi tội. Bị
cai ngục tra tấn, Hoa Đà chết trong ngục.
Năm 219, Tào Tháo lại tái phát bệnh đau đầu. Ông giao lại bản doanh Nghiệp Thành của nước Ngụy cho thế tử Tào Phi quản lý, còn mình về Lạc Dương dưỡng bệnh. Hứa Xương lúc đó chỉ còn vua hư danh Hán Hiến Đế.
Bị bệnh đau đầu hành hạ không có ai chữa được, Tào Tháo rất ân hận vì đã giết Hoa Đà. Tháng giêng năm 220, Tào Tháo qua đời, thọ 66 tuổi. Ông ở ngôi Ngụy vương được 5 năm.
Tam Quốc Diễn Nghĩa kể rằng: Tào Tháo mở hộp đựng đầu Quan Vũ ra nhìn, thấy râutóc
dựng đứng lên, trừng mắt ra nhìn; vì vậy Tào Tháo hoảng sợ tới mức tái
phát bệnh đau đầu. Hoa Đà được triệu đến chữa bệnh, đề nghị bổ đầu ông
ra để phẫu thuật; ông nghi ngờ Hoa Đà muốn giết mình nên bắt giam Hoa Đà
vào ngục. Hoa Đà chết trong ngục không lâu sau thì Tào Tháo cũng chết.
Thế tử Tào Phi lên nối ngôi Ngụy vương. Vài tháng sau, Tào Phi ép vua Hán Hiến Đế nhường ngôi, lập ra nhà Ngụy, đóng đô ở Lạc Dương. Đó là vua Ngụy Văn đế. Tào Tháo được truy tôn là Thái Tổ Vũ Hoàng Đế, thường goi là Ngụy Vũ Đế.
Mộ Tào Tháo
Tào Tháo trước khi chết đã dặn người dưới trướng của ông ngoài việc
xây mộ cho ông, còn phải xây thêm 72 mộ giả (đề phòng những người có thù
oán vời ông đào mộ), do đó rất khó tìm được mộ thật của ông.
Cuối tháng 12 năm 2009, các nhà khảo cổ Trung Hoa tuyên bố vừa tìm thấy một ngôi mộ lớn, và cho rằng đây là nơi yên nghỉ của Tào Tháo.
Theo đài truyền hình trung ương Trung Quốc, Tào Tháo được chôn cất tại làng Xigaoxue, thành phố cổ An Dương, tỉnh Hà Nam.
Trong cuộc họp báo ở thủ đôBắc Kinh
vào tháng 12 năm 2009, giám đốc ủy ban học thuật của Viện Khoa học xã
hội Trung Quốc là Liu Qingzhu đã mô tả một số chi tiết về mộ: diện tích
của mộ là 740 m vuông, có gồm hai ngăn. Các chuyên gia còn phát hiện ba
quan tài chứa thi hài của một nam giới ở độ tuổi 60 (Tào Tháo qua đời
khi 66 tuổi) và hai phụ nữ. Đồng thời, các chuyên gia cũng tìm thấy văn
bia và một dòng chữ, mang nội dung ám chỉ Tào Tháo.
Theo Tân Hoa Xã,
các nhà khảo cổ đã khai quật được hơn 250 đồ vật làm bằng vàng, bạc,
gốm. Cũng theo ông Liu, họ đã đào được 59 đĩa đá khắc tên và số lượng
của những đồ vật trong mộ, trong số đó có 7 chiếc đĩa ghi tên của những
vũ khí mà "Ngụy vương thường sử dụng". Các nhà khải cổ cũng khai quật
được rất nhiều bức tranh tạc trên đá.
Trước khi qua đời, Tào Tháo đã viết di chúc: ông căn dặn rằng ông chỉ
mong muốn có một nơi yên nghỉ đơn giản. Theo Hao Benxing - giám đốc
Viện Khảo cổ Hà Nam - ngôi mộ cũng khá đơn giản. Trong mộ có những bức
vách không có tranh, đồng thời so với nhiều lăng mộ đế vương khác, số đồ
vật được chôn theo cũng ít hơn. Ngoài ra, ngôi mộ có vị trí trùng khớp với ghi nhận trong sử sách thời của Tào Tháo.
Guan Qiang - giám đốc phòng Khảo cổ thuộc Cục quản lý di sản văn hóa Trung Hoa - đã khẳng định.
Mặc dù công việc khai quật vẫn tiếp tục, song những bằng chứng mà
chúng tôi đã tìm thấy chứng tỏ rằng ngôi mộ là nơi yên nghỉ của Tào
Tháo
Theo Guan, trước khi các nhà khảo cổ bắt đầu khai quật nó vào tháng 12 năm 2008, mộ đã nhiều lần bị bọn cướp xâm nhập. Theo VnExpress,
cảnh sát đang nỗ lực thu hồi những thứ vật đã bị lấy đi, người dân tỉnh
Hà Nam và An Dương cũng sẽ được chính quyền ở đây cho phép tham quan
ngôi mộ.
Tranh cãi về lăng mộ
Một số học giả Trung Quốc cho rằng chưa có đủ bằng chứng để khẳng định ngôi mộ ở Hà Nam là nơi chôn cất Ngụy vương Tào Tháo.
Tờ Global Times dẫn lời Giáo sư Yuan Jixi, chuyên nghiên cứu văn học
cổ ở Đại học Nhân Dân cho rằng ngôi mộ từng bị đào xới nhiều trước khi
các nhà khảo cổ học bắt tay khai quật nó. Vì thế, những cổ vật được tìm
thấy có thể là giả và không đủ để thuyết phục đây là mộ của Tào Tháo.
Giáo sư cũng thêm rằng vị trí của ngôi mộ không giống như những ghi chép
lịch sử thời đó.
Giáo sư Gao Menghe của Đại học Phục Đán cũng có nghi ngờ do đó. Ông
có nói hiện giờ vẫn còn quá sớm để kết luận đây là mộ của nhà tướng lĩnh
lừng lẫy thời Tam Quốc. Ông đề xuất lấy mẫu thí nghiệm ADN từ sọ được khai quật để so sánh với dòng dõi hậu duệ của Tào Tháo để xem thật hư thế nào.
Tuy nhiên, Pan Weibin, người đứng đầu nhóm khai quật mộ, bác bỏ những
nghi ngờ trên. Ông khẳng định ý kiến của hai vị Giáo sư kia không mang
tính chuyên nghiệp vì họ không phải nhà khảo cổ học.
Ngày 14 tháng 1 năm 2010, Viện Khảo cổ Trung Quốc khẳng định ngôi mộ cổ được tìm thấy ngày 27/12/2009 ở làng Xigaoxue, thành phố cổ An Dương, tỉnh Hà Nam chính xác là mộ của Tào Tháo.
Nhà thơ lớn
Khái quát
Tào Tháo không chỉ là nhà chính trị, nhà quân sự mà còn là nhà thơ.
Hiện nay còn hơn 20 bài thơ của ông để lại, toàn dùng thể cổ nhạc phủ nhưng có phong cách sáng tạo riêng độc đáo. Là một nhà thơ kiệt xuất, ông đã nói rõ lý tưởng chính trị của mình trong nhiều tác phẩm.
Ông phản đối "những ông vua làm khổ dân, bắt dân đi phu đóng thuế nặng" (bài Độ quan sơn - Vượt quan sơn); hy vọng có những ông vua hiền sáng suốt (bài Đối tửu - Cùng uống rượu); cảm thông với những nỗi đau của dân chúng thời loạn Đông Hán (bài Cảo lý hành
- Bài hành theo điệu Cảo lý) mà nội dung bài cho người đọc thấy một
hình ảnh thu nhỏ sinh động của hiện thực với thảm cảnh chiến tranh,
chiến trường phơi xương trắng, ruộng đồng hoang vắng. Bài Giới lộ hành (bài hành theo điệu Giới lộ) cũng được truyền tụng ngang với bài Cảo lý hành miêu tả cảnh hoang tàng của Lạc Dương sau khi bị Đổng Trác đốt phá, thể hiện một niềm bi ai.
Thơ của Tào Tháo còn biểu lộ ý chí quật cường và tinh thần tiến thủ tích cực của ông. Bài Quy tuy thọ (Rùa tuy thọ) là tiếng nói lạc quan, tuy biết rõ đời người hữu hạn và kẻ anh hùng nào rồi cũng về với cát bụi. Bài Quan thương hải
(ngắm biển xanh) nổi tiếng với việc lồng cảnh vật thiên nhiên để thể
hiện ý chí tung hoành của bản thân. Tuy nhiên, không phải bài nào cũng
có tinh thần lạc quan. Trong sự nghiệp của mình, tuy nhiều thắng lợi
nhưng Tào Tháo cũng gặp không ít thất bại. Ngồi nhìn tuổi tác ngày càng
cao mà chí lớn chưa thỏa, ông viết trong tác phẩm nổi tiếng Đoản ca hành
(Bài hành theo điệu đoản ca) để lộ nỗi buồn "như sương buổi sớm, ngày
qua ngày thấy khổ nhiều hơn" khiến bài thơ mang âm điệu u uất. Bài Thu hồ hành (Bài hành theo điệu Thu hồ) thể hiện tình điệu sầu thảm còn rõ rệt hơn nữa.
Thơ Tào Tháo về căn bản học tập Nhạc phủ đời Hán nhưng cũng thể hiện cá tính sáng tạo của thi nhân rất rõ rệt nên được coi là lão tướng đất U Yên, khí vận trầm hùng
Những bài thơ hay nhất của ông sử dụng lời lẽ thuần phác, ít dụng từ
hoa mĩ, hình ảnh thơ rõ ràng và giọng thơ bi tráng, hùng hồn, khiến độc
giả cảm thấy phấn chấn như được cổ vũ khích lệ. Dù vậy, Tào Tháo cũng có
một số bài thơ du tiên, tin vào số mệnh, nội dung và nghệ thuật tương
đối ít sức hấp dẫn.
Đánh giá sự nghiệp thơ Tào Tháo, Nguyễn Hiến Lê viết:
“
Tào Tháo dùng binh giỏi mà văn thơ cũng hay. Bài Đoản ca hành (Bài hát ngắn) của ông, lời cực kỳ bi tráng. Từ thời Xuân Thu tới đây, ta mới lại gặp một bài thơ tứ ngôn cảm khái như vậy.
”
Theo học giả Dịch Quân Tả, người Trung Quốc, thì:
“
Ông là người có tài cao, hùng khí. Đời ông là một cuộc chiến đấu
trường kỳ, nên văn chương của ông cũng từ đó mà ra. Những bài hay nhất
như Khổ hàn hành, cũng là tác phẩm viết trong hoàn cảnh chiến đấu. Bài Đoản ca hành, sáng tác ngay trong đêm xảy ra trận Xích Bích. Có điều đáng chú ý là ông muốn dùng cái hùng tài của mình về mặt
chính trị vào văn học, cho nên ông cố gắng sáng tác nhiều bài thơ tứ
ngôn. Thế nhưng, văn học phải diễn biến theo thời đại, tức là phải đi
vào giai đoạn ngũ ngôn và thất ngôn, Tào Tháo đành chịu thua vậy.
”
Tác phẩm tiêu biểu
Danh sách các bài thơ của Tào Tháo
Nguyên văn
Dịch âm
Dịch nghĩa
對酒歌
Đối tửu ca
Bài hát ngồi trước rượu
度關山
Độ quan san
Vượt quan san
短歌行其二
Đoản ca hành kỳ 2
Bài hát ngắn kỳ 2
步出夏門行其一-艷
Bộ xuất Hạ Môn hành kỳ 1 - Diễm
Bài ca đi qua cửa Hạ Môn kỳ 1 - Tự
步出夏門行其二-觀滄海
Bộ xuất Hạ Môn hành kỳ 2 - Quan thương hải
Bài ca đi qua cửa Hạ Môn kỳ 2 - Ngắm biển khơi
步出夏門行其一-冬十月
Bộ xuất Hạ Môn hành kỳ 3 - Đông thập nguyệt
Bài ca đi qua cửa Hạ Môn kỳ 3 - Tháng mười mùa đông
Khách quan nhìn nhận, Tào Tháo là một chính trị gia lỗi lạc, một nhà
lãnh đạo giỏi, nhà quân sự có tài. Ông là người luôn hoạt động, dám nói
dám làm. Nhà lãnh đạo Đảng Cộng sản Trung QuốcMao Trạch Đông khâm phục Tào Tháo nhất trong các đế vương Trung Quốc và gọi ông là "vua của các vua". Trần Thọ, tác giả Tam quốc chí, đã đánh giá về Tào Tháo như sau:
“
Cuối thời Hán, thiên hạ đại loạn, anh hào cùng nổi dậy, mà Viên Thiệu như hổ vồ bốn châu, mạnh mẽ chẳng ai chống nổi. Thái Tổ tính kế bày mưu, đánh dẹp trong nước, tỏ phép hay của Thân, Thương, bày kế lạ của Hàn, Bạch,
chọn dùng người hiền tùy vào tài năng, quyền biến ngang dọc, không hiềm
thù cũ, rút cuộc nắm giữ mệnh vua, làm nên nghiệp lớn, riêng Thái Tổ có
mưu lược sáng suốt hơn cả. Hoặc có thể nói là người khác thường, bậc
hào kiệt hơn đời vậy.
”
Đánh giá về tài năng chính trị của Tào Tháo, nhà nghiên cứu Tào Hồng Toại viết:
“
Tào Tháo là
nhà chính trị kiệt xuất thời phong kiến, xứng đáng được gọi bằng hai
chữ "anh hùng", mà tính cách nhiều mặt thể hiện ra bằng sự tàn nhẫn
thiếu tính nhân ái, đó chính là sự bổ sung hiệu quả cho thuộc tính gian
hùng của ông.
”
“
Trong hoạt
động chính trị, Tào Tháo đã vận dụng khá nhiều tư tưởng Pháp gia, đề cao
tài trí, coi trọng năng lực mà không quá quan tâm đến đạo đức phẩm chất
của người được sử dụng. Đây là một liều thuốc rất công hiệu, có hiệu
quả vô cùng lớn trong việc cai quản, sửa đổi cục diện lỏng lẻo từ cuối
thời Đông Hán trở lại.
”
“
Tào Tháo
hùng tài đại lược, dũng cảm mưu trí hơn người nhưng cũng là người đa
nghi, nham hiểm và tàn nhẫn... Ông đã dung hợp được 3 loại Pháp - Thuật -
Thế trong tranh giành quyền lực, đồng thời có thể vận dụng linh hoạt,
hay thay đổi. Đây là một tính cách đặc trưng... Chính vì tính cách con
người Tào Tháo rất nhiều mặt nên đời sau cũng có những đánh giá về ông
rất khác nhau.
”
Hoàn cảnh chính trị đương thời khiến những hành động như bức hiếp vua
Hiến Đế, xử tử những người chống lại như Đổng Thừa, Phục Hoàn, Đổng Quý
phi, Phục hoàng hậu... là một lẽ tất nhiên, không tránh được. Đây không
phải là việc lạ trong thời phong kiến. Tào Tháo là con người của chế độ
phong kiến và không vượt ra ngoài khuôn khổ đó được.
Đối với tài quân sự của ông, Mao Tôn Cương, nhà phê bình tác phẩm Tam Quốc Diễn Nghĩa, dù có thành kiến không tốt với Tào Tháo cũng thừa nhận rằng:
“
Việc binh
của Tôn Quyền do Đại đô đốc quyết đoán. Việc quân của Lưu Huyền Đức do
quân sư quyết đoán. Chỉ có Tào Tháo là tự tay nắm quyền hành quân, một
mình quyết đoán. Tuy rằng có các mưu sĩ giúp mưu, nhưng phần quyết định
cuối cùng bao giờ cũng do Tháo. Tháo rỏ ra xuất sắc hơn hẳn bề tôi. Thế
thì Lưu Bị, Tôn Quyền không thể ví được với Tháo vậy. Cứ xem mỗi lần
Tháo dự định mật kế, ban đầu các tướng đều không hiểu, sau khi thành
công, các tướng mới thán phục. Đường Thái Tông có đề trên mộ Tháo rằng: "Nhất tướng chi trí hữu dư. Lương nhiên! Lương nhiên" Khen như thế thật đúng.
”
Tào Tháo đã vận dụng linh hoạt các phép tắc quân sự của Trung Hoa cổ
đại. Trong thời gian 25 năm (196-220), Tào Tháo đã bình định hết các lộ
chư hầu phương bắc, xây dựng chính quyền Tào Ngụy. Để có được như vậy,
ông đã sáng suốt chọn người tài, rộng lượng không tính đến thù riêng.
Ngoài đóng góp về chính trị và quân sự, phải kể tới đóng góp trong
khôi phục nông nghiệp thời loạn lạc của Tào Tháo. Thời chiến loạn, nhiều
chư hầu không nghĩ tới sự sống chết của nông dân: khi cần lương thực
thì lùng sục để giành lấy, nhưng sau khi có được lại phung phí, đến nỗi
khi không còn lương thực để cướp đoạt thì tự suy yếu tan rã - điển hình trong số đó là Viên Thuật.
Trong khi nhiều quân phiệt chỉ dùng chính sách cướp đoạt của nông dân
thì chính sách đồn điền của Tào Tháo đã góp phần khôi phục nông nghiệp
bị tàn phá, vừa giải quyết đời sống nông dân, vừa đảm bảo lương thực cho
quân đội của ông. Chính điều đó là một trong những yếu tố quan trọng
làm nên chiến thắng của Tào Tháo ở trung nguyên. Đông Ngô, Thục Hán sở
dĩ cũng có đủ thực lực, giữ được thế cân bằng với Tào Tháo và con cháu
ông sau này nhờ sớm học tập chính sách phát triển đồn điền với mô hình
tương tự của Tào Tháo trong khu vực mà họ quản lý.
Tuy nhiên, cũng bởi Tào Tháo đi theo con đường bá đạo,
trọng lợi hơn trọng đức; dùng người cốt hiệu quả không tính đến phẩm
chất đã gây ra những "tác dụng phụ" có liên hệ mật thiết đến sự suy vong
nhanh chóng của triều đại Tào Ngụy sau này.
Mầm quyền lực của cha con họ Tư Mã nhen nhóm, không lâu sau đã lấy ngôi
của con cháu Tào Tháo như cách ông đã dần dần lấy ngôi của nhà Hán. Nhà Tấn thống nhất được toàn thiên hạ sau này, phần lớn là thụ hưởng cơ nghiệp mà Tào Tháo đã xây dựng.
Trong văn học
Tam Quốc diễn nghĩa
Vai trò lịch sử
Trong tiểu thuyết Tam Quốc Diễn Nghĩa, nhà văn La Quán Trung
ca ngợi Lưu Bị, và xem Tào Tháo là vai phản diện. Trong tiểu thuyết,
Tào Tháo được mô tả có hình dáng "cao 7 thước", "mắt nhỏ râu dài". Tam Quốc Diễn Nghĩa
mô tả Tào Tháo có những cá tính khá nổi bật: gian xảo, đa nghi, tàn bạo
nhưng cũng rất thông minh, nhiều mưu mẹo quyền biến. Dù không ủng hộ
Tào Tháo, coi ông là "giặc nhà Hán" nhưng La Quán Trung
- qua nhận xét của những nhân vật trong truyện - không phủ nhận vai trò
của ông đối với giai đoạn lịch sử loạn lạc, thậm chí thừa nhận ông được
nhân dân coi là ứng với "thiên mệnh":
Hứa Thiệu - một người giỏi tướng số nhận định Tào Tháo:
“
Thời trị, ông là bầy tôi giỏi; Thời loạn, ông là kẻ gian hùng.
”
Tào Hồng liều mạng hộ vệ cho Tào Tháo rút lui khi bị thua Đổng Trác, trong lúc nguy cấp nói với ông: "Thiên hạ có thể không có tôi nhưng không thể không có ông!"
Tào Tháo bình định Hà Bắc của Viên Thiệu, các bô lão ra đón xưng tụng rằng: "Thời
vua (Hán) Hoàn Đế có người giỏi xem thiên văn là Ân Quỳ đoán rằng: sau
50 năm sẽ có vị chân nhân nổi lên ở vùng Lương Bái, cứu giúp thiên hạ,
tính thời gian đến nay thì người đó chính ứng với thừa tướng. Từ nay
thiên hạ thái bình rồi"...
Quan điểm
Tào Tháo có quan điểm:
“
Thà ta phụ người chứ không để người phụ ta.
”
Quan điểm này hoàn toàn trái ngược với chủ trương của Lưu Bị: "thà chết chứ không làm điều bất nghĩa", chính vì vậy Tào Tháo luôn e dè và xem Lưu Bị là kẻ thù nguy hiểm nhất của mình.
Với quan niệm này, sau khi giết nhầm người nhà Lã Bá Sa vì thấy họ
mài dao giết lợn thì tưởng họ định giết mình, ông đã nhẫn tâm giết nốt
Bá Sa vì sợ Bá Sa đi tố cáo.
Quyền thuật về chính trị
Dùng tóc thay thủ cấp
Do phải hành quân qua một ruộng lúa nên Tào Tháo căn dặn không ai
được làm tổn hại dù chỉ là một nhành lúa trên cánh đồng. Nhưng con ngựa
của Tào Tháo sau đó lại bị bầy chim đang ăn trên ruộng lúa chợt bay vút
lên khiến nó hoảng sợ giẫm đạt nát một góc ruộng, Tào Tháo rút gươm kề
cổ mình trong tư thế chuẩn bị tự sát thì quan quân xúm lại can ngăn, ông
bèn cắt chỏm tóc trên đầu và nói "ta tạm tha tội cho mình, nhưng dùng
tóc để thay đầu". Đây cũng là một trong những kỹ xảo chính trị của Tào
Tháo.
Mượn thủ cấp để mua lòng quân
Đây là một việc làm bá đạo, trong một lần đánh chiếm thành trì, do
không đủ lương thực nên ông đã sai người cấp phát lương thực làm cái đấu
đong gạo nhỏ lại để đong ít số gạo kéo dài thời gian, sau đó ông đổ tội
cho viên quan trông coi việc cấp phát là Vương Hậu rồi đổ tội cho Hậu,
chém đầu để trấn an lòng quân. Vì việc làm trên Tào Tháo đã trả công cho
sự hy sinh oan uổng của viên quan ngày đó bằng cách nhận phụng dưỡng
suốt đời gia đình của ông ta.
Không nhắc lỗi lầm của thủ hạ
Trong trận Quan Độ, Tào Tháo phá tan đại quân Viên Thiệu. Thiệu thu tàn quân bỏ chạy qua sông Hoàng Hà,
trong lúc vội vã hoảng sợ, công văn giấy tờ bỏ lại hết. Tào Tháo kéo
tới, bắt được đống công văn đó. Nghe báo cáo của cấp dưới, ông biết
trong đống công văn có nhiều thư từ của những người cấp dưới mình từng
tư thông với Viên Thiệu. Các thuộc hạ của ông đề nghị nên đối chiếu tên
từng người để về Hứa Xương sẽ bắt trị tội. Nhưng Tào Tháo xua tay, ra
lệnh hãy đốt cả đi. Mọi người ngạc nhiên hỏi vì sao, ông bảo:
“
Khi Viên Thiệu mạnh, ta yếu, ngay cả ta lo giữ mình còn không xong, huống chi là người khác?
”
Sự độ lượng của Tào Tháo khiến những người cấp dưới vô cùng khâm
phục, những người từng manh tâm phản ông cũng hết sức cảm kích. Về điểm
này, nhiều chính trị gia đương thời và sau ông chưa thể so sánh được.
Chọn điểm dừng thích hợp
Năm 216, Tào Tháo gần như lùi hẳn về Bắc củng cố thế lực rồi dâng
biểu ép vua phải phong mình là Ngụy Vương để có đủ uy quyền mà trấn áp
quân Đông Ngô. Có tướng hỏi sao ông "không lập quốc và xưng đế"? Tào
Tháo chỉ nói:
“
Trải qua bao năm chiến chinh hy vọng giữ vững giang sơn bờ cõi nhà
Hán. Nay được làm đến chức Ngụy Vương, đã mãn nguyện lắm rồi, nếu có
thì chỉ mong được như Chu Văn Vương ngày xưa thôi chứ nào ham gì chức vị đế vương?.
”
Việc Tào Tháo so mình với Tây Bá Hầu Cơ Xương đời nhà Chu vì ông
không muốn mang tiếng soán ngôi nhà Hán, nhưng đã sắp đặt cho con cháu
mình sẽ là người kế tục sự nghiệp đế vương sau này.
Lấy lòng tướng sĩ
Một trong những ưu điểm của Tào Tháo là biết nhìn người và rất biết
cách dùng người. Trong quá trình chinh chiến, Tào Tháo đã thu phục được
nhiều hào kiệt cả văn lẫn võ làm người hỗ trợ đắc lực cho sự phát triển
cơ nghiệp của mình. Sở dĩ như vậy vì ông khéo lấy lòng họ. So với Tôn Quyền và Lưu Bị, hàng ngũ tướng sĩ của Tào Tháo đông và mạnh hơn. Ngoài những tướng trong họ có tài như Hạ Hầu Đôn, Hạ Hầu Uyên, Tào Nhân, Tào Hồng; còn những người ngoài họ, trong đó bên văn có Tuân Úc, Tuân Du, Trình Dục, Quách Gia, Lưu Hoa, Giả Hủ, Mãn Sủng, Mao Giới, Hứa Du, Chung Dao; bên võ có Điển Vi, Hứa Chử, Lý Điển, Nhạc Tiến, Vu Cấm, Trương Liêu, Trương Cáp, Từ Hoảng... Lực lượng hùng hậu đó giúp Tào Tháo luôn ở thế mạnh hơn trong những trận giao tranh với phe Lưu Bị và Tôn Quyền.
Trong bài Tam Quốc diễn ca cuối tác phẩm, La Quán Trung viết về ông:
Tào Tháo mới gian hùng quỷ quyệt
Khéo dùng người, thu hết anh hào
Đường đường tướng phủ ngôi cao,
Uy quyền hống hách ai nào dám đương?
Một việc điển hình là trong trận Uyển Thành, Tào Tháo mất con cả Tào Ngang, cháu Tào An Dân và tướng Điển Vi; nhưng tới khi nhớ tới trận này, ông khóc Điển Vi nhiều hơn cả. Trong trận Quan Độ, khi Hứa Du bỏ Viên Thiệu sang theo hàng, ông không kịp xỏ giày mà đi chân đất ra đón.
Ảnh hưởng từ tác phẩm
"Tam Quốc Diễn Nghĩa" (bản dịch của Phan Kế Bính) có lối hành
văn theo chủ nghĩa "ủng Lưu phản Tào", tức Lưu Bị là tốt - còn Tào Tháo
là giặc, ngày nay người ta nhìn Tào Tháo với cái nhìn khách quan hơn và
có rất nhiều nhận định về ông:
Tiểu thuyết Tam Quốc Diễn Nghĩa bản đầy đủ từ đời nhà Minh
trở đi (bản của Mao Tôn Cương) có xu hướng ủng hộ Lưu Bị và nước Thục
cũng như quá đề cao Gia Cát Lượng mà quên đi vai trò chính của Tào Tháo
trong việc ngăn chặn cục diện đại loạn cuối thời Đông Hán. Tào Tháo đã
dồn nhiều tâm huyết vào đó, ông tuyển chọn nhân tài, chiêu đãi kẻ hiền,
thậm chí làm nhiều việc tàn bạo như "chèn ép vua Hiến Đế", "giết thái y
Cát Bình", "treo cổ Đổng Quý Phi đang mang long thai", "đánh Phục Hoàng
Hậu đến chết",... tuy tàn ác nhưng đứng về góc độ chính trị thì những
việc này không thể tránh khỏi đối với Tào Tháo khi ông muốn củng cố
quyền lực của mình.
Tào Tháo được rất nhiều người tôn sùng, xem như thần tượng, nhiều
doanh nhân trên thế giới vận dụng tư tưởng của ông trong kinh doanh,
chẳng hạn như hiện tượng "Tam Quốc trong ngành công nghệ thông tin", sự
cạnh tranh của ba hãng vi xử lý dành cho máy tính là Intel, AMD và Cyryx
(đánh giá của Bill Gates về công nghệ phần cứng những năm cuối thập niên 1990).
Trọng Tương vấn Hán
Trọng Tương vấn Hán (仲襄問漢) là tác phẩm văn học khuyết danh tác giả, kể theo thuyết tiền căn báo hậu kiếp hay luân hồi quả báo từ thời Hán Sở tranh hùng cho đến thời Tam Quốc.
Tác giả xây dựng nội dung để hàng loạt nhân vật thời Hán Sở tái sinh, trong đó danh tướng Hàn Tín nhiều chiến công bị Lưu Bang
giết oan đầu thai làm Tào Tháo tung hoành thiên hạ, lập nhiều chiến
công ở trung nguyên; còn Lưu Bang bị đầu thai làm Hán Hiến Đế, kiếp sau
bị Tào Tháo chèn ép.
Thành ngữ
Trong dân gian có câu thành ngữ:
Đa nghi như Tào Tháo
Bị Tào Tháo đuổi
Hễ nhắc Tào Tháo là Tào Tháo đến.
Trang này được sửa đổi lần cuối lúc 11:03, ngày 23 tháng 10 năm 2014.