Chủ Nhật, 31 tháng 8, 2014

CHIẾN TRANH THẾ GIỚI I/b

(ĐC sưu tầm trên NET)

 

Chiến tranh thế giới thứ nhất

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia (tiếptheo)

Nguyên nhân, bản chất chiến tranh

Nguyên nhân trực tiếp

Sự việc Đại công tước (tiếng Đức: Erzherzog, tiếng Anh: Archduke) Franz Ferdinand của Áo – Hung bị một phần tử dân tộc chủ nghĩa người Serbia tên là Gavrilo Princip ám sát tại Sarajevo vào ngày 28 tháng 6 năm 1914 được coi là khởi nguồn của cuộc thế chiến này, nhưng thực ra đó chỉ là "giọt nước tràn ly". Chiến tranh là "phải nổ ra" do mâu thuẫn giữa các quốc gia của các bên đã chín muồi và các bên tham chiến từ lâu đã chuẩn bị chiến tranh để giải quyết các mâu thuẫn đối kháng với nhau và phân chia lại thế giới.
Nguyên nhân và bản chất của chiến tranh này là rất phức tạp, đa diện, nhưng có thể được tổng kết như sau:

Chủ nghĩa đế quốc

Lenin và những người Bolshevik, cùng một phần lớn những người xã hội chủ nghĩa của châu Âu phân tích có cơ sở và cho rằng chiến tranh là mâu thuẫn của sự phát triển của các nước chủ nghĩa đế quốc cầm đầu ở châu Âu và chiến tranh có tính chất chiến tranh đế quốc: đó là sự phân chia lại thế giới của các đế quốc, là cuộc chiến tranh phi nghĩa đối với tất cả các phe tham chiến.
Nguyên nhân theo phân tích của Lenin: sự lớn mạnh của Đế quốc Đức sau Chiến tranh Pháp-Phổ đã đẩy mạnh những tham vọng chiếm lĩnh thuộc địa và chia lại thị trường thế giới của nước này, nhưng tham vọng này gặp phải sự phản kháng của các "đế quốc già" là Anh Quốc, Pháp và Nga. Các "đế quốc già" này về cơ bản đã chiếm lĩnh những thuộc địa bao la khắp thế giới và muốn duy trì quyền thống trị của mình, không muốn "chia phần" cho những thế lực mới nổi như Đức. Đế quốc Áo – Hung và Đế quốc Ottoman từ lâu đã suy yếu không còn đủ "tư cách" và vai trò để có ảnh hưởng trong khu vực Trung Âu, BalkanKavkaz. Các cường quốc khác can thiệp vào khu vực đó để tranh giành ảnh hưởng với nhau... Sự mâu thuẫn mang tính chất đế quốc chủ nghĩa đòi hỏi một cuộc "chém giết lớn" để phân ngôi thứ và lập lại trật tự thế giới có lợi cho kẻ thắng trên cơ sở chiếm mất phần của kẻ thua.

Liên minh quân sự, chạy đua vũ trang, quân phiệt

Một nhóm nguyên nhân khác cũng được các nhà nghiên cứu chỉ ra là hệ thống các liên minh quân sự, sự chạy đua vũ trang và chủ nghĩa quân phiệt của các đế chế:
  • Liên minh quân sự theo khối: Trong các mâu thuẫn và tương đồng quyền lợi, các quốc gia tìm kiếm lôi kéo thành lập các hiệp ước liên minh quân sự để tăng cường thế lực, bành trướng ảnh hưởng. Việc này làm cho tình hình thế giới càng trở nên cực kỳ căng thẳng vì bất cứ một xung đột quốc gia nào đều có thể trở thành xung đột quốc tế, điều này là rất điển hình cho Thế chiến I. Và thực tế cho thấy từ một sự kiện ám sát có tính dân tộc trong một Đế chế Áo – Hung, mâu thuẫn đã được cộng hưởng, khuếch đại và trở thành chiến tranh thế giới.

Lính Áo trên chiến trường
  • Chạy đua vũ trang: điển hình là trước thế chiến Anh Quốc cho hạ thuỷ lớp chiến liệt hạm Dreadnought với các tính năng chiến đấu cách mạng trên biển, tạo nên chạy đua vũ trang quyết liệt giữa Anh Quốc và Đức. Việc các quốc gia chạy đua vũ trang để duy trì và giành ưu thế quân sự trên bộ và trên biển dẫn đến sự phản ứng tương ứng của phía đối địch. Kết quả là cả hai phe đều cảm thấy bị đe doạ từ phía bên kia và lại càng chạy đua vũ trang và lại bị đe doạ ở mức độ mới cao hơn. Đây cũng là một nguyên nhân gây nên chiến tranh.
  • Chủ nghĩa quân phiệt: tại các quốc gia quân chủ chuyên chế như Đế quốc Nga, Đế chế Đức, Đế quốc Áo – Hung và Đế quốc Ottoman và cả ở các quốc gia khác thì tầng lớp quân nhân, tướng lĩnh có một thế lực và ảnh hưởng rất lớn. Họ không hề bị kiểm soát bởi các thiết chế dân chủ, lại rất gần gũi Hoàng đế và luôn có xu hướng hiếu chiến và tinh thần ái quốc mãnh liệt của chủ nghĩa Sôvanh (chauvinism).

Chủ nghĩa dân tộc

Sau thế kỷ 19 tại châu Âu khi những giá trị tự do cá nhân và quyền tự quyết của cá nhân được nhận thức thì hiển nhiên nhận thức về quyền dân tộc tự quyết của các dân tộc đang bị điều khiển bởi các dân tộc cường quốc sẽ trỗi dậy và gặp phải sự ngăn trở của các dân tộc khác. Sự thức tỉnh tình cảm dân tộc thường đi kèm với chủ nghĩa xô-vanh và trên con đường tìm vị thế của mình các dân tộc nhỏ thường tìm sự bảo trợ của các đồng minh lớn để chống lại các kẻ thù cận kề. Điều đó dẫn đến các xung đột được tích luỹ và chiến tranh là cách giải toả cuối cùng.
Chủ nghĩa dân tộc là nguyên nhân chính của vụ ám sát hoàng tử Áo-Hung tại Bosnia. Đế quốc NgaĐế chế Ottoman đã đi đến chiến tranh tại Balkan năm 1878. Sau cuộc chiến, Nga có ảnh hưởng lớn ở Balkan. Áo-Hung lại điều khiển chính phủ ở Bosnia và năm 1908 thì gạt Thổ Nhĩ Kỳ ra khỏi đây, nắm toàn bộ ảnh hưởng ở Bosnia. Nga vận động các nước còn lại trên bán đảo Balkan lập ra Liên minh Balkan hi vọng khối này sẽ đẩy lùi Áo-Hung. Nhưng do những mâu thuẫn trước kia đối với Đế chế Ottoman, khối này đã không chống lại Áo-Hung mà gây Chiến tranh Balkan lần thứ nhất năm 1912-1913 với Thổ Nhĩ Kỳ. Song do sự phân chia quyền lợi không đều, Chiến tranh Balkan lần thứ hai năm 1913 lại bùng phát, và Bulgaria là nước bại trận. Đến năm 1914, Thổ Nhĩ Kỳ gần như chỉ có một ít ảnh hưởng ở bán đảo này, chủ yếu ở Albania. Áo-Hung lại trở thành kẻ thù lớn của Liên minh Balkan. Serbia, nước theo chủ nghĩa dân tộc mạnh mẽ nhất tại Balkan lúc này đã vận động chủ nghĩa dân tộc Bosnia là nước có chung đường biên giới với Serbia để đánh đuổi Áo-Hung ra khỏi Balkan. Một phần tử được trợ giúp bởi tổ chức dân tộc Bàn tay đen của Serbia đã ám sát hoàng tử Áo-Hung vào 28 tháng 6 năm 1914. Sau đó, Áo-Hung đe dọa Serbia và một tháng sau, Áo-Hung tuyên bố chiến tranh với Serbia vào ngày 28 tháng 7 năm 1914.

Chiến tranh là tất yếu?

Trong các học giả thế giới khi đề cập nguyên nhân chiến tranh có xuất hiện câu hỏi: Liệu có thể tránh được cuộc chiến tranh này không? Với những nguyên nhân khách quan và chủ quan như vậy thì ở tầm quốc tế và lịch sử nhân loại có thể nói: với trình độ giác ngộ chính trị của nhân loại vào đầu thế kỷ 20, khi tư duy chính trị vẫn là tư duy nước lớn, tư duy đế quốc chủ nghĩa, khi cách tiếp cận các vấn đề quốc tế luôn theo nguyên tắc "tối đa quyền lợi cho mình, tối thiểu cho đối phương" thì Thế chiến thứ nhất là "phải xảy ra và không thể tránh được". Cuộc chiến này sẽ cùng với Thế chiến thứ hai sẽ tập cho nhân loại phải suy nghĩ theo kiểu tư duy mới là "cùng tồn tại hoà bình, các bên cùng có lợi". Để nhận thức được như vậy nhân loại phải trả giá gần trăm triệu mạng người trong hai cuộc đại chiến và các cuộc chiến khác trong thế kỷ 20. Đó là bài học chính trị quý giá nhất của đại chiến mà nhiều khi nơi này hay nơi khác bài học đó vẫn còn bị "quên".

                                         
                                          

Các quan tâm quyền lợi

Các nước tham chiến

  • Anh: Chặn đứng tham vọng tranh giành thuộc địa, chia lại thị trường của Đế chế Đức. Ngăn cản ảnh hưởng của nước này, cố gắng giới hạn Đức trong phạm vi châu Âu không để nước này thành cường quốc đại dương đe dọa quyền lợi thương mại thuộc địa của mình. Hạ cấp Đế quốc Ottoman và Đế quốc Áo - Hung xuống thành những cường quốc hạng hai để chiếm lĩnh quyền lợi tại khu vực Trung Cận Đông rất nhiều dầu mỏ.
  • Pháp: Cũng giống như Anh nhưng ngoài ra còn để phục thù Chiến tranh Pháp – Phổ (1871) quyết giành lại hai tỉnh AlsaceLorraine từ Đức. Hạ bậc Đế quốc Đức để trừ mối hoạ sau này (sau chiến tranh phía Pháp đề nghị trong Hội nghị Versailles một hình thức bồi thường chiến phí khủng khiếp để Đức không bao giờ ngóc đầu dậy được).
  • Nga: Loại bỏ sự can thiệp và ảnh hưởng của Đức tại Ba Lan, Ukraina và vùng Baltic, loại bỏ sự cản trở của Đế quốc Ottoman khỏi các vùng KavkazBalkans và loại bỏ sự xuất hiện của Áo-Hung tại Balkan. Xâm chiếm các vùng ảnh hưởng của Ottoman và Áo-Hung.
  • Đức: Thoát khỏi sự kiềm tỏa của Anh-Pháp, đòi hỏi một thị trường, thuộc địa tương xứng với tiềm lực cường quốc thế giới của mình. Mở rộng vùng ảnh hưởng của mình về phía Đông tại Ba Lan, Ukraina, Baltic, sau đó là Phần Lan.
  • Áo – Hung: Nỗ lực cuối cùng chứng tỏ mình còn là một cường quốc, cố giữ lại những gì còn giữ được trước sự nhòm ngó của các cường quốc khác. Hai địch thủ trước mắt của Áo – Hung là Nga và Ý.
  • Ý: Một cường quốc đang lên nhưng chưa định hình, muốn có một vai trò và tiếng nói lớn hơn ở châu Âu và đặc biệt tại Balkans. Trở lực chính của nước này đầu tiên là Anh sau đó định hướng lại chĩa mũi nhọn đấu tranh vào Áo – Hung.
  • Ottoman: Đây là một đế chế lâu đời và lạc hậu ở Trung Cận Đông bị Anh, Pháp, Nga chèn ép ở Cận Đông (Anh, Pháp) và tại Kavkaz và Balkans (Nga). Đây là nỗ lực cuối cùng để duy trì đế chế.
  • Nhật Bản: Cũng là một cường quốc đang lên. Sau chiến tranh Nga-Nhật, Nhật Bản trở thành cường quốc và có tham vọng được xâm chiếm cả Trung Quốc, gây ảnh hưởng ở Đông Nam Á. Sau khi ký kết Hiệp ước Anh-Nhật năm 1902, Nhật Bản chĩa súng vào Đức và Áo-Hung.
Ngoài ra các đế quốc quân chủ Nga, Đức, Ottoman, Áo-Hung, Nhật Bản muốn dùng chiến thắng trong chiến tranh với tinh thần yêu nước dâng cao để trì hoãn cải cách dân chủ, xã hội trong nước.

Các nước đồng tham chiến khác

  • Hoa Kỳ: Giống như Ý và Nhật, Hoa Kỳ cũng là một cường quốc đang nổi. Hoa Kỳ muốn có ảnh hưởng lớn hơn trên thế giới, và yêu cầu các nước tôn trọng quyền lợi của Hoa Kỳ trên toàn cầu, trong đó có cả châu Âu, châu Á và châu Phi. Đức và Anh không ủng hộ lắm về việc này.
  • Brazil: Từng là một đế quốc, song Brazil vẫn không từ bỏ tham vọng được gây ảnh hưởng trên thế giới. Brazil đã có ý định can thiệp vào chiến tranh từ năm 1914, nhưng phải chờ khi Hoa Kỳ tuyên chiến, thì Brazil mới vào cuộc.
  • Romania: Là một quốc gia được Nga giải phóng khổi ách cai trị của người Thổ, Romania có tham vọng được tham chiến cùng Nga trong chiến tranh. Romania muốn có ảnh hưởng ở vùng Transilvania vốn đang bị kiểm soát bởi Áo-Hung và gây ảnh hưởng lên các nước Balkan khác. Romania còn muốn giành lấy vùng Wallachia khỏi tay người Áo-Hung.
  • Bulgaria: Là nước mạnh nhất vùng Balkan. Bulgaria nung nấu tham vọng phục thù sau chiến tranh Balkan lần 2 bằng việc đòi lại quyền lợi ở Macedonia và bán đảo Tiểu Á.
  • Hy Lạp: Muốn chiếm lại những vùng đất đã mất dưới tay người Thổ. Chiếm đảo Síp và chiếm lại cố đô Constantinople.
  • Bồ Đào Nha: Theo Anh, không muốn chia thị trường cho Đức.
  • Bỉ: Giống Anh nhưng do ít thuộc địa, nên chấp nhận trung lập. Song sau khi Đức xâm lược Bỉ, nên Bỉ tuyên chiến. Ngoài ra Bỉ còn muốn giành lấy phần còn lại của vùng Wallonie khỏi tay người Đức.
  • Serbia: Là nước mang nặng chủ nghĩa dân tộc nhất vùng Balkan. Serbia muốn giải phóng toàn bộ Balkan, chủ yếu là Bosnia, CroatiaSlovenia khỏi tay Áo-Hung.

Các nước trung lập có liên quan

  • Tây Ban Nha: Là một cựu đế quốc đã suy yếu và khủng hoảng trầm trọng, thậm chí nặng hơn Nga, Tây Ban Nha đã vậy còn thua trận trong chiến tranh với Hoa Kỳ. Khi cận kề chiến tranh, vua Alfonso XIII đã quyết định trung lập. Tuy vậy, Tây Ban Nha dường như khá ủng hộ Đức để phục thù Anh và Hoa Kỳ, những nước có mâu thuẫn gay gắt với Tây Ban Nha trong lịch sử.
  • México: Là quốc gia có biên giới chung với Hoa Kỳ. Sau chiến tranh Hoa Kỳ-México, México đã bị Hoa Kỳ cướp mất một phần lãnh thổ lớn ở phía Bắc mà ngày nay đã sáp nhập vào Hoa Kỳ. México có tham vọng trả thù Hoa Kỳ nên đã dẫn đến xung đột. Tuy nhiên, cuộc Cách mạng Mexico đã khiến Mexico lục đục, dẫn đến hai phe phái thân Mỹ-Anh và thân Đức, trong đó, Pancho Villa, một người theo chủ nghĩa dân tộc, đã ủng hộ Đức chống lại Hoa Kỳ trong khi phe chính phủ của Porfirio Díaz và sau đó là Victoriano Huerta thì ủng hộ Anh-Mỹ.
  • Hà Lan: Là một đế quốc già và ốm yếu, nhưng Hà Lan đã tránh xung đột thành công với Đức và sau đó là Anh. Khi gần xảy ra xung đột giữa Anh và Đức, Hà Lan, bất chấp được Anh mời chào, vẫn tuyên bố trung lập.
  • Thụy Điển: Giống Brazil, Thụy Điển là một cựu đế quốc, song lại thiếu tham vọng. Tuy nhiên, khi gần chiến tranh, Thụy Điển cũng tuyên bố trung lập, song thái độ của Thụy Điển, cùng với Tây Ban Nha, lại khá ủng hộ Đức vì một lí do: thù địch dai dẳng với Nga trong lịch sử, chủ yếu về lãnh thổ Phần Lan. Thụy Điển đã cho các tàu chiến và tàu ngầm Đức đóng quân tại các căn cứ hải quân của Thụy Điển.
  • Đan Mạch: Khi còn mang tên Phổ, Phổ đã đưa quân tấn công Đan Mạch và thắng lớn trong chiến tranh Schleswig. Từ đó, Đan Mạch liên tục thù hằn Phổ và sau đó là Đức, nên tuy tuyên bố trung lập, song Đan Mạch vẫn ngầm ủng hộ Anh. Thêm nữa là xích mích với Thụy Điển cũng khiến Đan Mạch thêm thù địch với Đức.
  • Na Uy: Là một vương quốc độc lập nhưng lệ thuộc Thụy Điển, Na Uy tỏ ra ủng hộ Thụy Điển hơn so với các nước khác. Khi xảy ra nguy cơ chiến tranh, Na Uy và Thụy Điển tuyên bố trung lập, nhưng ủng hộ Đức.
  • Ba Tư: Ba Tư, dưới sự lãnh đạo của triều đại Pahlavi, đã liên tục bị châu Âu chèn ép. Tuy nhiên, triều đình ở đây lại bị chính phủ Thụy Điển, một nước thân Đức, khống chế. Ba Tư muốn đòi lại quyền lợi chính đáng, song do bị Thụy Điển kiểm soát nên liên tục gặp khó khăn.
(còn tiếp) 
Xem tiếp...

CHIẾN TRANH THẾ GIỚI I/a

 (ĐC sưu tầm trên NET)

Chiến tranh thế giới thứ nhất

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Entente Flag of Russia 12 triệu
Cờ của Đế quốc Anh 8.841.541
Cờ của Pháp 8.660.000
Cờ của Vương quốc Ý (1861-1946) 5.093.140
Cờ của Hoa Kỳ 4.743.826
Cờ của Brasil 2.930.000
Cờ của Vương quốc Romania 1.234.000
Flag of the Empire of Japan 80 vạn
Cờ của Vương quốc Serbia 70.3430
Cờ của Bỉ 38 vạn
Cờ của Vương quốc Hy Lạp 25 vạn
Cờ của Bồ Đào Nha 20 vạn
Cờ của Vương quốc Montenegro 5 vạn
Tổng cộng: 45.889.850
Liê
 
n minh Trung Tâm Cờ của Đế quốc Đức 13.250.000
Cờ của Đế chế Áo-Hung 7.800.000
Ottoman flag 2.998.321
Cờ của Vương quốc Bulgaria 1.200.000
Tổng cộng: 25.248.321
Tổn thất
Binh lính chết:
5.525.000
Binh lính bị thương:
12.831.500
Binh lính mất tích:
4.121.000
Tổng cộng:
22.477.500 chết, bị thương và mất tích 
Binh lính chết:
4.386.000
Binh lính bị thương:
8.388.000
Binh lính mất tích:
3.629.000
Tổng cộng:
16.403.000 chết, bị thương và mất tích 
.
Chiến tranh thế giới thứ nhất, còn được gọi là Đại chiến thế giới lần thứ nhất, Thế chiến thứ nhất hay Đệ nhất thế chiến, diễn ra từ tháng 8 năm 1914 đến tháng 11 năm 1918, là một trong những cuộc chiến tranh quyết liệt, quy mô to lớn nhất trong lịch sử nhân loại; về quy mô và sự khốc liệt nó chỉ đứng sau Chiến tranh thế giới thứ hai.
Cuộc chiến tranh này là một trong những sự kiện lịch sử có ảnh hưởng lớn nhất trong lịch sử thế giới. Đây là cuộc chiến tranh có chiến trường chính bao trùm khắp châu Âu và ảnh hưởng ra toàn thế giới, lôi kéo tất cả các cường quốc châu Âu và Bắc Mỹ vào vòng chiến với số người chết trên 20 triệu người với sức tàn phá và ảnh hưởng về vật chất tinh thần cho nhân loại rất sâu sắc và lâu dài. Khác với các cuộc chiến tranh trước đó, người Âu châu phải chiến đấu cả trên chiến trường lẫn ở hậu phương. Phụ nữ phải làm việc thay nam giới, đồng thời sự phát triển của kỹ nghệ cũng có ảnh hưởng đến tính chất chiến tranh; có thể thấy sự hiệu quả của xe tăng trong chiến đấu kể từ cuộc Đại chiến này. Chiến tranh chiến hào gắn liền với cuộc Đại chiến thế giới lần thứ nhất trong thời gian đầu của nó.
Đây là cuộc chiến giữa phe Hiệp Ước (chủ yếu là Anh, Pháp, Nga, Ý và sau đó là Hoa Kỳ, Brasil) và phe Liên Minh (chủ yếu là Đức, Thổ Ottoman, Áo-HungBulgaria). Cuộc Đại chiến mở đầu với sự kiện Hoàng thái tử Áo-Hung bị ám sát, dẫn đến việc người Áo - Hung tuyên chiến với Serbia. Sự kiện này được nối tiếp bởi việc Hoàng đế Đức là Wilhelm II truyền lệnh cho các tướng xua quân tấn công Bỉ, Luxembourg, và Pháp, theo kế hoạch schlieffen. Hơn 70 triệu quân nhân được huy động ra trận tiền, trong số đó có 60 triệu người Âu châu, trong một trong những cuộc chiến tranh lớn nhất trong sử sách. Trong cuộc chiến tranh kinh hoàng này, Pháp là nước chịu tổn thất nặng nề hơn cả và hoàn toàn bị khánh kiệt, dẫn tới đại bại của bọn họ trong các cuộc chiến tranh về sau. Những trận đánh khốc liệt nhất trong cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ nhất cũng diễn ra trên đất Pháp. Một trận đánh đáng nhớ của cuộc Đại chiến là tại Verdun cùng năm đó, khi quân Đức tấn công thành cổ Verdun của Pháp, nhưng không thành công. Song, trận chiến đẫm máu nhất là tại sông Somme (1916), khi liên quân Anh - Pháp đánh bất phân thắng bại với quân Đức.
Tất cả những Đế quốc quân chủ đều sụp đổ trong cuộc chiến tranh này, nó tạo điều kiện cho đảng Bolshevik lên nắm quyền tại nước Nga, và mở đường cho Adolf Hitler lên nắm quyền tại Đức. Tuy nước Đức thua cuộc nhưng về thương mại và công nghiệp họ không bị tổn hại gì lớn (ít ra còn hơn hẳn Pháp), vì thế về những mặt này họ đã chiến thắng cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ nhất. Không có một nước nào thật sự chiến thắng cuộc chiến tranh này. Sau chiến tranh, châu Âu lâm vào tình trạng khủng hoàng và những cao trào dân tộc chủ nghĩa trỗi dậy ở các nước bại trận. Điển hình là ở Thổ Nhĩ Kỳ, bão táp phong trào Cách mạng Giải phóng Dân tộc rầm rộ, đưa dân tộc này dần dần hồi phục, và buộc phe Entente phải xóa bỏ những điều khoản khắc nghiệt sau khi cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ nhất chấm dứt.
Trước đây ở các nước nói tiếng Anh dùng từ "Đại chiến" (Great War). Vài thập kỷ sau, tên gọi Chiến tranh thế giới lần thứ nhất (World War I) mới được áp dụng để phân biệt với cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai. Chính những vấn đề liên quan tới Hiệp định Versailles (1918) đã khiến cho cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ.

Mục đích

Đây là một cuộc chiến để lập lại trật tự thế giới mới, nó làm sụp đổ bốn đế chế hùng mạnh của châu Âu và thế giới lúc đó là Đế quốc Nga, Đế chế Đức, Đế quốc Áo-HungĐế quốc Ottoman, làm thay đổi sâu sắc bộ mặt của châu Âu và thế giới. Tuy nhiên mặc dù là cuộc chiến đẫm máu và khốc liệt như vậy nhưng cuộc chiến này đã không giải quyết được các mâu thuẫn gốc rễ và "thế giới mới" mà nó tạo ra còn đặt châu Âu và thế giới trước các vấn đề và mâu thuẫn khác còn trầm trọng hơn như phát sinh nhà nước theo chủ nghĩa cộng sản tại Nga, chủ nghĩa quân phiệtchủ nghĩa phát xít tại Ý, ĐứcNhật, sự chia cắt, xâm phạm quyền tự quyết của các dân tộc... Những vấn đề đó sẽ dẫn đến bùng nổ Chiến tranh thế giới thứ hai. Đó là lý do một số nhà nghiên cứu cho rằng Chiến tranh thế giới thứ hai chỉ là sự nối tiếp của Chiến tranh thế giới thứ nhất sau 20 năm tạm nghỉ lấy sức.
Chiến tranh thế giới thứ nhất xảy ra giữa hai khối liên minh quân sự được hình thành sau thế kỷ 19: một bên là liên minh ba đế quốc Anh - Pháp - Nga, hay được gọi là khối hiệp ước Entente ba bên (trong tiếng Pháp entente có nghĩa là sự đồng thuận, hiệp ước) sau này còn thêm Hoa Kỳ và một số nước khác tham gia; bên kia là phe Liên minh Trung tâm (Central Powers, hay còn gọi là Liên minh ba nước) gồm Đức, Áo – Hung và Ý. Tuy nhiên sau đó Ý chiến đấu bên phía Entente ba bên nhưng Liên minh Trung tâm lại có thêm đồng minh là Đế quốc Ottoman, Bulgaria. Trong khi vai trò của các đồng minh chính trong Entente ba bên khá đồng đều trong việc gánh vác sức nặng chiến tranh thì ở bên phía Liên minh Trung tâm vai trò các đồng minh chính là mờ nhạt hơn, chỉ Đức có vai trò trụ cột vì thực tế mâu thuẫn chủ yếu gây nên chiến tranh là gắn liền với tham vọng chính trị kinh tế của đế quốc Đức lúc đó. Lúc bấy giờ, hai cường quốc quân sự hùng mạnh nhất của châu Âu là Đức và Anh.

Quy mô, tính chất


Các nước tham chiến tại châu Âu. Hình dáng tiểu bang Illinois nằm ở bên trái để có thể so sánh diện tích.
   Khối Trung tâm (Central Powers)
   Khối Liên minh (Entente Powers)
   Các nước trung lập
Về khía cạnh chính trị – quân sự đây là lần đầu tiên thế giới biết đến một kiểu chiến tranh tổng lực, chiến tranh toàn diện. Chiến tranh diễn ra không những ác liệt trên bộ, trên không, trên biển mà các bên thực hiện bao vây bóp nghẹt kinh tế của nhau, đánh vào ý chí và bản lĩnh chịu đựng của dân tộc, thử thách tiềm lực kinh tế và sức mạnh tinh thần của đối phương. Các cường quốc như Đế quốc Nga và đặc biệt là Đế quốc Đức đã thất bại và sụp đổ khi quân đội của họ còn đang trên đất đối phương, khi quân địch còn chưa xâm phạm lãnh thổ của mình, mà họ đã thua trận vì xã hội kiệt sức không thể kham nổi chiến tranh – một kiểu chiến tranh tiêu hao với cường độ cực cao.
Chiến tranh thế giới thứ nhất diễn ra theo một kiểu chiến lược chiến tranh hiện đại. Trước đây châu Âu đã từng có các cuộc chiến theo liên minh nhiều nước như Chiến tranh Kế vị Tây Ban Nha, Chiến tranh Kế vị Áo, Chiến tranh Bảy năm, Chiến tranh Napoléon, v.v... Nhưng những cuộc chiến đó có kết quả chiến tranh phụ thuộc vào một hoặc vài trận đánh lớn có tính quyết định diễn ra trong 1–2 ngày tại một điểm quyết chiến hoặc một vài chiến dịch trong vài tuần hoặc một vài tháng, các hoạt động chiến sự xen kẽ với hoà bình. Kết cục chiến tranh không triệt để: thua trận thì ký hoà ước nhượng bộ, chờ vài năm hồi phục tiềm lực rồi lại tham chiến tiếp (điển hình như các cuộc chiến thời Napoléon I). Các cuộc chiến đó phụ thuộc rất nhiều, nếu không nói là phần lớn, vào tài thao lược của nhà cầm quân. Còn từ nay, kể từ Thế chiến I, lần đầu tiên nhân loại chứng kiến một kiểu chiến tranh lâu dài, quy mô, huỷ diệt. Chiến sự dàn trải trên khắp chiến trường, khắp cả châu lục. Vai trò cá nhân của thống soái trong chiến tranh bị hạn chế mà tiềm lực kinh tế và ý chí, sức mạnh tinh thần của quốc gia nổi lên là yếu tố quyết định.
Trên chiến trường về khía cạnh thuần tuý quân sự đây là một cuộc chiến tranh đã có các đặc trưng hiện đại: quân đội là quân đội đông đảo. Lần đầu tiên trên thế giới chiến tranh theo chiến thuật đội hình tản mát không còn các khối quân lực xếp hàng tấn công và phòng thủ theo đội hình ô vuông dày đặc rất đặc trưng của mọi cuộc chiến tranh trước đây. Cuộc chiến tranh này đặc trưng áp đảo bởi hình thức chiến tranh trận địa mà điển hình nhất là hệ thống chiến hào trở thành phương tiện phòng thủ chính yếu, thành quách pháo đài đã không còn vai trò phòng ngự quan trọng nữa. Các bên phòng thủ trong chiến hào với hệ thống ụ súng máy, dây thép gai, bãi mìntrận địa pháo dày đặc với chiến tuyến ngăn đôi giữa hai phía đối địch. Chiến tranh trận địa hay chiến tranh chiến hào ở thời kỳ đó thường có tính chất là rất khó tấn công và rất dễ phòng thủ nên chiến tranh có diễn biến chậm chạp ít năng động ít có các chiến thắng quân sự dứt khoát. Kết cục chiến tranh phụ thuộc vào sự chịu đựng dẻo dai của các bên đối kháng đối với gánh nặng chiến tranh tiêu hao tổng lực.
Trong lực lượng Hiệp Ước, Anh-Pháp và Nga chia sẻ gánh nặng chiến tranh tương đối đồng đều trong khi phe Liên Minh chỉ có thể trông cậy vào nước Đức là chủ yếu.
(còn tiếp)
Xem tiếp...

THUNG LŨNG HOANG VẮNG (Phim VN)

(ĐC sưu tầm trên NET)

Xem lại Thung lũng hoang vắng trên VTV1

Tuổi Trẻ - 

    TT - Bộ phim là câu chuyện cảm động về ba thầy cô (thầy Tành hiệu trưởng, cô Giao, cô Minh) sống và làm việc tại một trường học ở miền núi.


    Phim Thung lũng hoang vắng - Ảnh: T.L.
    Khó khăn gian khổ nhưng các thầy cô vẫn tận tụy trong việc trồng người... Phim do nữ đạo diễn Phạm Nhuệ Giang thực hiện, với các diễn viên Hồng Ánh, Tuyết Hạnh, Nguyễn Hậu... phát sóng trong chương trình phim truyện cuối tuần lúc 21g30 ngày 15-6 trên VTV1.
    H.LÊ
    Xem tiếp...

    Thứ Bảy, 30 tháng 8, 2014

    NHỮNG BỨC THƯ TRONG CHAI

    (ĐC sưu tầm trên NET)

     

    Lá thư trong chai – Nicholas Sparks

    Hai con người – hai số phận – hai tính cách, sống ở hai nơi cách xa nhau hàng trăm cây số.
    Theresa Osborne, người phụ nữ của công việc, sau khi trải qua đổ vỡ khủng khiếp trong hôn nhân đã cố gắng lấy lại cân bằng và dồn hết tình yêu thương vào đứa con trai 12 tuổi để tiếp tục sống.
    Garrett  Blake , người đàn ông không còn mơ màng gì về tình yêu kể từ khi người vợ yêu dấu của anh ra đi trong một tai nạn. Anh có thói quen viết những lá thư cho Catherine – người vợ đã mất và đặt vào trong những chiếc chai thủy tinh rồi  đem thả xuống biển để phần nào nguôi ngoai đi nỗi nhớ. Cả hai đều trải qua cảm giác mất đi người mình yêu thương nhất hay những đổ vỡ khó có thể hàn gắn nổi. Những tưởng cuộc đời hai con người đó cứ mãi tẻ nhạt như thế cho đến một ngày…
    la_thu_trong_chai_1
    Như một định mệnh, một sự sắp đặt  của số phận, những lá thư trong chai đã đưa họ đến với nhau.
    Những trải lòng tràn ngập xúc cảm, những lá thư ám ảnh yêu thương của “ người đàn ông không nghĩ rằng sẽ thấy lại tình yêu lần nữa”  đã trôi dạt theo dòng biển và đến tay  “ người phụ nữ không còn tin vào tình yêu” .
    Theo sự chỉ dẫn của con tim, Theresa đã tìm và gặp Garrett, một mối tình đẹp chớm nở khi họ nhận ra sự đồng cảm, chia sẻ ở nhau. Nhưng, khoảng cách địa lí, cuộc sống riêng tư của mỗi người đã dần kéo họ ra xa nhau, giữa họ bắt đầu nảy sinh những hiểu lầm đáng tiếc. Garret bắt đầu nhận ra anh yêu Theresa nhưng anh cũng vẫn  còn yêu Catherine- người vợ xấu số khi xưa rất nhiều. Xung đột, giằng co giữa hiện tại và quá khứ, giữa tình yêu và những lo toan cuộc sống đời thường. Rạn nứt tình cảm đã lên tới đỉnh điểm khi Garrett phát hiện ra những lá thư Thersea nhặt được trên bờ biển và cho rằng cô đang lợi dụng anh. Mâu thuẫn không thể giải quyết được, họ quyết định chia tay nhưng thực ra trong thâm tâm mỗi người ngọn lửa tình yêu chưa bao giờ lụi tắt.
    Mất đi Theresa, Garrett bắt đầu nhận ra anh đã sai lầm quá nhiều. Anh đi đến quyết định đi thuyền ra biển để gửi lá thư cuối cùng cho Catherine và sau đó sẽ tìm Theresa để xin cô tha thứ. Anh giương buồm ra khơi vào một ngày giông bão, và đó cũng là lần cuối cùng anh ra khơi, lần cuối cùng anh ném cái chai thủy tinh chứa lá thư xuống dòng nước biển và mãi mãi không bao giờ trở về nữa.
    Một cái kết đầy ám ảnh khiến người đọc không khỏi xót xa, ngậm ngùi cho tình yêu không trọn vẹn của hai con người cô đơn.
    Cuộc sống không cho con người ta nhiều quyền chọn lựa. Đấu tranh với quá khứ để sống với hiện tại hay chỉ đơn giản chôn vùi tâm trí trong lớp bọc quá khứ ấy là quyền lựa chọn của mỗi người.
    Giữa cuộc sống xô bồ, nhộn nhịp, một chút lãng mạn nên thơ, một chút hoài cổ vấn vương với “Lá thư trong chai” sẽ là dư vị tươi mới trong bữa ăn tinh thần: sách của bạn.
    FTU Zone tổng hợp.

    Tìm thấy lá thư trong chai lênh đênh trên biển 98 năm

    (Dân trí) - Một lá thư đựng trong chiếc chai thuỷ tinh lênh đênh trên đại dương trong suốt một thể kỷ vừa được tìm thấy và giữ kỷ lục là lá thư cổ nhất từng được gửi đi bằng… đường biển.

    Chiếc lọ đựng thư 98 tuổi vừa được tìm thấy

    Chiếc lọ đựng thư 98 tuổi vừa được tìm thấy
    Một ngư dân người Scotland, anh Andrew Leaper đã tìm thấy chiếc chai đựng thư mắc vào lưới đánh cá của mình khi đang thả lưới ở bờ biển phía Bắc Scotland. Hôm qua, thứ Năm 30/8, đại diện của tổ chức Kỷ lục Guinness Thế giới đã khẳng định đây là bức thư “đóng chai” cổ nhất thế giới với tuổi thọ 98 năm. Bức thư cổ từng lập kỷ lục trước đó có tuổi thọ 93 năm.
    “Khi tôi kéo lưới vào thì thấy cổ chai mắc vào mắt lưới và nhanh chóng nhấc cái chai ra trước khi nó rơi trở lại mặt biển. Thực là thú vị khi tìm thấy chiếc chai có mảnh giấy bên trong, tôi không thể nén tò mò nên ngay lập tức đã mở nút chai ra”, Leaper, người bắt được chiếc chai chia sẻ.
    Điều đáng ngạc nhiên là người lập kỷ lục trước đó với chiếc chai đựng thư 93 tuổi cũng từng là thuỷ thủ làm việc trên tàu này - con tàu đặc biệt mang tên Copious thường hoạt động quanh quần đảo Shetland.
    Đại diện của tổ chức Kỷ lục Guinness Thế giới chia sẻ: “Chúng tôi rất vui khi phát hiện ra điều trùng hợp ngẫu nhiên này. Con tàu Copious đã được nhắc đến trong sách Kỷ lục Guinness Thế giới hai lần. Đây quả là một kỷ lục thú vị và ấn tượng, xét về cả mặt khoa học lẫn lịch sử.”
    Năm 1914, thuyền trưởng người Scotland C.H. Brown ở trường đào tạo Hải quân Glasgow đã thả 1.890 chiếc lọ xuống biển. Đây là một thí nghiệm của chính phủ nhằm lập ra bản đồ chi tiết các dòng hải lưu ngầm dưới biển chảy xung quanh Scotland. Mỗi một chiếc lọ đều chứa một tấm thiệp với lời nhắn người tìm thấy lọ này hãy ghi lại chi tiết nơi chiếc lọ được tìm thấy. Tấm thiệp cũng hứa rằng người nào gửi lại chiếc lọ sẽ nhận được một phần thưởng nhỏ trị giá 6 xu.
    Đối với chàng thuỷ thủ Leaper, sự kiện tình cờ này khiến anh cảm thấy vui như trúng xổ số.
    Những kỷ lục như thế này vẫn còn chờ đợi những chiếc tàu cá khác phá vỡ bởi mới chỉ có 350 chiếc chai đựng thư được tìm thấy trong tổng số 1.890 chiếc từng được thả xuống biển.
     
    Hồ Bích Ngọc
    Theo Yahoo News

    Lá thư kỳ lạ trong chai khiến tất thảy người đọc phải sững sờ

    theo Người lao động | 29/08/2014 20:42

    Lá thư được tìm thấy trong chiếc chai lênh đênh trên biển gần California – Mỹ. Tuy nhiên, câu chuyện này hoàn toàn không giống bất cứ câu chuyện lá thư trong lọ nào chúng ta từng biết

      Câu chuyện thú vị được chia sẻ trên trang mạng xã hội Reddit khiến nhiều người cảm động. Lá thư cũng chưa có thời gian lênh đênh trên biển lâu, nó mới chỉ được viết 11 ngày trước khi được tìm thấy.
      (Picture: Imgur)
      Chiếc chai dạt vào bãi biển được tin là xuất phát từ phía bờ biển California.
      (Picture: Imgur)
      Công đoạn mở nút chai cũng khá vất vả...
      (Picture: Imgur)
      Bức thư trong chai ghi rõ ngày viết 17-8-2014
      (Picture: Imgur)
      Nội dung bức thư khiến người ta sững sờ hơn cả...
      Nội dung bức thư khiến người ta sững sờ hơn cả. Nó không phải những lời cầu cứu hay thư ngỏ từ thế hệ trước... như người ta hay tưởng tượng về những bức thư trong chai. Đó là lời từ biệt ngọt ngào một người đã khuất. "Tên tôi là Mel. Tôi có 3 đứa con tuyệt vời và người vợ xinh đẹp đầu ấp tay gối với tôi suốt 54 năm. Tôi yêu biển, thích câu cá trên đại dương và đi săn với 2 đứa con trai yêu dấu, ngắm thủy triều lên cùng cả gia đình. Hôm nay, gia đình tôi đưa tôi về nghỉ ngơi ở nơi tôi yêu quý nhất. Đó là hành trình mới của tôi. Nếu bạn tìm thấy lá thư này trong chai, xin hãy truy cập trang Facebook của tôi và đăng tải bức hình của mình cũng như nơi bạn tìm thấy chiếc chai, rồi trả tôi lại với hành trình biển xanh" - Bức thư viết.
      Theo lời trăn trối, người nhặt được chiếc chai đã thực hiện ý nguyện của người đã khuất và cất lại lá thư vào trong chai và thả xuống biển.
      (Picture: Imgur)
      (Picture: Imgur) 
      Trả lại Mel về với hành trình biển xanh
       
      Xem tiếp...

      THỰC TẠI VÀ HOANG ĐƯỜNG 12/h

                                 THỰC TẠI VÀ HOANG ĐƯỜNG

                                                                                                        ĐẠI CHÚNG

                                                          ____________________________

      CHƯƠNG IX: NHÌN LẠI
                                                                  (Tiếp theo TT&HĐ 12/g)

           Thôi, huyên thuyên nhiều quá rồi, chúng ta làm một "tường thuật" đơn giản để...giải lao và coi như cũng đưa ra được...thực chứng...cho vui vậy! Có ba thằng "nhà báo" (ở nhà báo vợ, tức thất nghiệp, vô công rồi nghề) "hơi bị" thông thái, tên lần lượt là A, B, C, ngồi khề khà "trà dư tửu hậu" với nhau. Cả ba thằng đều có máu "tám", nhất là khi đã sương sương thì...thôi rồi! Nhưng cà kê dê ngỗng kiểu gì thì kiểu, bao giờ đề tài cuối cùng cũng là về đàn bà và cứ thế rề rà cho đến khi hết rượu mới "tan hàng". Cuộc nhậu lần này hơi khác, "tám" đủ thứ chuyện "thời sự" trên trời dưới biển xong thì hình như đã chán chuyện "các má", ba thằng "hết đường binh", xoay sang "tào lao" chuyện thuộc hàng "rỗi hơi" bậc nhất thế giới, đó là "Hiện thực là gì?". Thằng A "nổ" tiếng khai mào:
           - Đố chúng mày, "thực hiện" có phải "hiện thực" không?
           Thằng B "đòm" luôn:
           -Ơ, thằng này điên à!? Thực hiện không là hiện thực thì là cái giống gì?
           -Trong thực tế, "hiện thực xã hội chủ nghĩa" và "thực hiện xã hội chủ nghĩa" đâu có thể dùng thay thế nhau được. Vậy chúng phải khác nhau chứ? - Thằng A "nổ" thêm.
           -Vẫn thay thế được, bởi có cái gì ngăn cấm, không cho phép thay thế đâu nào? - Thằng B "đòm" lại.
           Thằng A đâu chịu thua, tiếp tục nổ:
           -Mày đéo biết gì! Nói cứ ngang như cua ấy!...Thay vì nói "thực hiện công việc cho xong" lại nói "hiện thực công việc cho xong", nghe không "điếc con ráy", không nghịch lỗ tai à?
           -Kể ra cũng không bùi tai thật! Nhưng đó là do cách nói đã thành quen hay chưa quen mà thôi - Thằng B đòm chống chế.
           Đến lúc này thằng C mới "lảy cò" tham gia cuộc "đấu khẩu":
           -Moi móc to chuyện ra thì có mà cãi đến tám kiếp chưa chắc đã xong! Theo tao, có lẽ chỉ cần hiểu đơn giản thế này: nếu không bị ràng buộc thì hai từ ấy đồng nghĩa, nhưng quá trình sử dụng đã làm cho "hiện thực" trở thành danh từ và "thực hiện" trở thành động từ. Do đó, "thực hiện" là làm cho cái gì đó chưa "hiện thực" trở thành "hiện thực", còn "hiện thực" là cái gì đó chưa được "thực hiện" đã được "thực hiện" xong...Thôi nào, cụng ly!...
           Một tiếng "cờ...ốp" và ba tiếng "ực" vang lên nghe thật... "phồn thực"!
           Chúng nó tợp xong ly rượu của mình thì đặt ly xuống (chứ không lẽ quăng đi?). Thằng C tiếp tục rót rượu cho cả bọn, miệng cười cười ý nhị. Thằng B cúi đầu gật gù ra vẻ thấm thía. Còn thằng A thì ngồi ưỡn lưng, mím mồm, hết nhòm thằng C cười cười đến nhòm thằng B gật gù. Nhìn mồm nó, biết chắc có viên đạn đã "lên nòng" ở họng nó. Đúng vậy! Nó lại nổ thách thức:
            -Ê C, mày giải thích thế, dù chưa biết đúng sai cỡ nào, thì cũng phải nói rõ "hiện thực" cụ thể là cái của nợ gì chứ?!
            -Đéo ai mà không biết! Thằng nhiều chuyện dễ nể (đã "tám" mà còn chê nhiều chuyện mới lạ!?)!...Thì "hiện thực" là cái mày đang thấy xung quanh mày ấy - Thằng B "nhân danh công lý" đòm trả chát chúa.
            -Là toàn bộ cảnh vật-hiện tượng đang hiển hiện quanh chúng ta...Nói thế có lẽ chuẩn hơn, B ơi! - Thằng C lảy cò theo ngay, "củng cố" cho thằng B.
            Hình như chỉ đợi có thế, thằng A cười ré lên, nổ luôn một tràng "to tát" như tiếng trung liên RPD:
            -Hé, hé...hé...hé!...Hai "lính" đéo biết gì ráo! "Hiện" thì đồng ý là "hiện" rồi, nhưng "thực" thì làm gì có "thực"? Phật bảo tất cả những gì hiện ra trước "người trần mắt thịt" đều là giả hợp, nghĩa là không phải thực. Hơn nữa, bản thân cái sự "đang hiện" cũng có vấn đề. Nói cái gì đó hiện ra thì chỉ có thể là hiện ra trong thời gian chứ không thể ngoài thời gian được. Mà thời gian thì chúng mày cũng biết, là một "xâu chuỗi" đéo phải vật chất, lại còn vô thủy vô chung và cực kỳ phù phiếm, được người ta phân ra một cách cực kỳ mơ hồ thành ba khoảng kế tiếp nhau là quá khứ, hiện tại, tương lai, hay (thời gian) "đã", (thời gian) "đang" và (thời gian) "sẽ", nghĩa là "hiện tại"="đang". Sự vô thủy vô chung của thời gian làm cho không thể xác định được "đã" và "sẽ", nhưng sự phân khoảng lại làm cho phải xác định được "đang" vì nó bị khóa hai đầu bởi "đã" và "sẽ". Thế thì "đang" là bao nhiêu? Bao nhiêu chưa biết nhưng biết chắc "hôm qua" không phải "đang", thậm chí cách đây một "tích tắc" cũng không phải "đang" mà "đã", rốt cuộc, có lẽ "đang" chỉ có độ dài thời gian chính xác bằng một thời điểm. Vậy thời điểm là bao nhiêu thời gian? Trả lời được "bao nhiêu" một cách cụ thể bằng con số thì thời điểm đéo còn là thời điểm nữa, nghĩa là phải cho rằng thời điểm hay "đang" là không xác định được, cực tiểu vô hạn, "tiến tới" O nhưng không bao giờ bằng O. Ha,ha...ha!...Dị thường quá, đúng không? Người đời cứ "xoen xoét" nào là "hiện đại", "hiện tại", "hiện nay", "hiện thực", "hiện hữu"... thực ra chỉ là theo thói quen cảm giác chủ quan vớ vẩn và qui ước khiên cưỡng tùy tiện, chứ khoảng thời gian được gọi là "đang" ấy chỉ có mỗi một thời điểm vô cùng ngắn và bất định đúng là "đang" thôi, còn tất tật đều là "đã" hết, nên cũng có thể nói, thực tế là không có "đang". Mà "đang" đã không có thì làm thế đéo nào cho có "hiện thực" được!? Kết lại, nói "hiện thực" là sai, nói "hiện giả" mới đúng! Hé, hé...hé...hé!...Cạn ly đê!
           Thằng B như bị trúng đạn, cầm ly lên mà không uống, mắt cứ trờn trợn ngó thằng A. Có lẽ nó sững sờ vì không ngờ thằng A đột xuất nổ "dòn dã" quá. Thằng C thấy thế tội nghiệp, lảy cò phá đám:
           -Ồi dào ơi, uống vui đi B, có ghê gớm quái gì đâu! Nó dựa hơi câu "Không ai tắm hai lần trên một dòng sông" của Hêraclit để nổ bạt mạng ấy mà...Tao hỏi mày này A: "Mày có bao giờ "đang" đói không hay toàn "đã" đói và "sẽ" đói? Nếu mày nói không thì vì cũng phải nói không với "đang" không đói, nghĩa là chỉ ừ với "đã" không đói và "sẽ" không đói, nên mày đừng bao giờ ăn nữa, chỉ vô ích! Nếu mày nói có thì vì "đang đói" là "hiện giả" như mày nói, nghĩa là thực ra mày cũng "đang" không đói, vậy cũng không cần ăn làm gì! Dù mày có "đang" nhậu với chúng tao hay không, không cần biết, nhưng đừng cầm ly lên mà nốc nữa! Mày bỏ ra một đống tiền "mua" vợ về làm gì khi mày chẳng bao giờ được "đang" sướng với vợ mày mà toàn thằng khác "đang" sướng với vợ thằng khác?". Đấy, mày trả lời tao đi!...
           Khoái chí ra mặt, thằng B làm bộ xun xoe bắt tay bắt chân thằng C, rồi quay sang thằng A đòm "bồi", khiêu khích thêm:
           -Đấy, mày trả lời nó đi!...
           Có vẻ đã hết đạn nên thằng A ngồi im khe, so vai, rụt cổ, hai tay chống đùi, còn mắt thì lom lom vào đĩa thịt gà luộc trên bàn cứ như cố moi móc cho ra những viên đạn "nấp" ở đó vậy. Mặt nó nổi đanh, thấy thương hơn ghét!...Bạn nhậu thân thiết với nhau, "tám" cho vui đời, ai dè hóa ra chọc quê cho nhau buồn, lỗi không? Thằng B nghĩ vậy, đòm phát ân huệ:
          -Mình chuyển đề tài đi anh em!...Tìm chuyện nào nhè nhẹ thôi chứ chuyện này nặng như đá đeo, oải quá!...A ơi,...mà thôi, C ơi, đến lượt mày đấy, "đề pa" đi!...
           -Hượm đã nào!...Chuyện này không hay thì còn chuyện nào hay? - Hóa ra thằng A chưa hết đạn (hay đã tìm được đạn trong đĩa thịt?). Nó trỗi dậy nổ dù không còn "hung hăng" như nãy - ...Thằng C hỏi đúng là hiểm thật và tao đang...bí thật. Nhưng đâu phải vì tao sai...Mày có thấy tao sai chỗ nào không hả B? Nếu thấy thì chỉ ra cho tao biết đi! Nếu không, chúng mình phải tiếp tục câu chuyện cho ra ngô ra khoai chứ cứ để ấm ức, lát hồi hết nhậu, cả lũ về đéo ngủ được, vợ nó lại tưởng...
          -Đèo mẹ! Mày và cả thằng C, tao nhắc, hôm nay đéo nói chuyện "các má" đâu nhé! - Thằng B đòm ngắt tiếng nổ đì đẹt của thằng A.
           Đâu có hiền, thằng C lảy cò lia lại liền:
          -Đéo đéo gì mà cứ đéo hoài, chuyện nào cũng chêm đéo vào được, chuyện gái, đéo, chuyện lừa đảo cướp giật, đéo, ừ, thôi thì ba cái chuyện đó...đéo đã đành, chuyện quốc gia đại sự cũng đéo, bàn luận văn thơ cũng đéo, thông báo tin tức khám phá khoa học cũng đéo, giao lưu triết học cũng đéo, đéo lung tung, đéo tuốt tuồn tuột, đéo vung xích chó, đéo oang oang mà đéo biết ngượng mồm...Thôi, đéo nhậu với chúng mày nữa, tao về!...
           Thằng C rục rịch chưa kịp đứng dậy đã bị thằng A tóm áo ghì xuống, nổ cuống quít:
           -Thôi mà!...Đừng nóng thế! Ở lại nhậu với bạn bè cho vui đi mà!...Tao năn nỉ đấy!...
           -Ừ, ở lại nhậu vui C ơi! Mày là cây chuyện mà bỏ về thì chúng tao chán chết...Ở lại đi! Chúng tao đéo, xin lỗi, không văng tục nữa đâu, thề đấy!- Thằng B đòm tăng cường thêm.
           Thằng C cương chưa kịp cứng đã xìu liền. Nghe tiếng lảy cò của nó là biết nó thực lòng còn muốn nhậu tiếp:
          -Nhậu đang ngon trớn mà chúng mày...Được rồi, tao ở lại!... Nói thật, tục tĩu hay không tục tĩu chưa cần biết, nhưng tao nghe chói tai lắm...Nếu còn nghe một tiếng "đéo" nữa, tao sẽ về đấy và xin chúng mày đừng giận tao làm gì...
           Cuộc nhậu lại tiếp tục nhưng xuống trầm. Xoay thêm hai tuần rượu rồi mà khí thế không bốc lên được. Cả ba thằng cứ như mất hồn, toàn bắn chim, cũng "nổ" cũng "đòm" cũng "lảy cò" mà sao nghe rời rạc, vu vơ, lãng nhách...
           Mãi đến khi bước vào tuần rượu thứ tư, không khí cuộc nhậu mới có phần thay đổi theo hướng bớt vô duyên, bớt nhạt nhòa, không còn rôm rả như trước nhưng cũng không đến nỗi quá trầm lắng, mặt khác, thay cho "nổ", "đòm", "lảy cò" là những đối đáp nghe có tình có lý hơn, "hợp quần" hơn, và ba "thằng bợm rượu" vụt hóa thành ba "nhà hiền tửu". Có lẽ vì thế mà cuộc chuyện trò mới trở nên "chính luận" hơn, hấp dẫn hơn chăng?
           Cuộc đổi hướng đó bắt đầu từ thằng B:
           -C này, ban nãy bạn hỏi A, nếu A không trả lời được thì bây giờ bạn trả lời được không?
           -Được chứ B, dù có thể không gãy gọn lắm...Mà bạn đang muốn nói gì hả A? Bạn nói trước đi.
           Thằng A ậm ừ rồi lên tiếng:
           -Trước khi C luận giải, tớ muốn hai cậu lưu ý dùm là, tớ chỉ cho rằng "hiện tại" cũng có nghĩa là "đang hiện" nên mới nói "hiện tại"="đang". Mặt khác, tớ cũng cho rằng "hiện tại" hay "đang hiện" có thể là "hiện thực", nhưng "hiện thực" không phải là "hiện tại" hay "đang hiện". Dù xét ở góc độ khách quan nhất (hay có lẽ gọi đúng hơn là "góc độ hêraclit"), cả ba thứ "hiện" ấy đều chỉ là "đã hiện", thì vì một cách tương đối (theo cảm giác, theo qui ước) coi như vẫn tồn tại khoảng thời gian (và cả khoảng không gian) gọi là "đang hiện", nên rõ ràng là phải có hai loại "hiện thực", đó là "hiện thực trong quá khứ" và "hiện thực trong hiện tại", hay gọn hơn, "hiện thực đã" và "hiện thực đang"...Tớ chỉ lưu ý có vậy thôi. Mời C!
           Thằng B vụt giơ tay kiểu "xin phát biểu", rồi nói:
           -Cho mình có ý kiến một tý...Trong thực tế, cái gì đã hiện ra thì cái đó, vì có nguyên nhân tạo thành nên phải là thực, có thực, dù nó là cầu vồng, ảo ảnh trên sa mạc..., hay cả những thứ gọi là "hàng giả", "đồ giả"... Nếu thừa nhận như thế, cũng phải thừa nhận ngay cả những gì hiện ra trong giấc mơ của một người cũng phải là thực đối với người đó. Nghĩa là đến đây cần phải cho rằng ngoài hai loại "hiện thực" mà A nêu, còn có một loại "hiện thực" nữa gọi là "hiện thực ảo" ("hiện thực" trên mạng internet, trong phim, hay trận bóng đá được truyề hình trực tiếp chẳng hạn!). Như thế, về mặt thực tế và chỉ thực tế khách quan thôi, thì dù là hiện thực "đã", "đang" hay "ảo", đều không thể giả được, hoặc quá lắm, có thể chủ quan "gắn nhãn mác" là "giả" nhưng trước hết vẫn phải là thực cái đã, và do đó làm gì có "hiện giả" hả A? Hơn nữa...Hơn nữa....Ủa, mình định nói gì nhỉ?...Quên béng rồi!
            Thằng C nâng ly rượu đầy lên, hai thằng kia nâng lên theo. Lại "cờ...ốp" và "ực"! Xong, thằng C rít một hơi thuốc lá rõ dài, ngửa mặt lên trời phà ra một cuộn khói đặc quánh, rồi cúi nhìn xuống đất. Hình như nó đang lựa lời để mở đầu nội dung mà nó định nói. Tuy nhiên, thằng A đã lại lên tiếng:
            -Vừa rồi B nói cũng có lý đấy. Nhưng tớ vẫn có cái cảm giác ngờ ngợ bất ổn thế nào ấy. Đúng là mọi thứ trong hiện thực, hợp thành hiện thực, từ vật thể đến hiện tượng đều phải có nguyên nhân tạo thành và thực sự được tạo thành nên xét theo cách nhìn này, không thể nói "hiện giả" mà phải nói "hiện thực". Hơn nữa, phải thừa nhận rằng, sự hiện ra, tồn tại và mất đi của vạn vật-hiện tượng nhất thiết phải tuân theo qui luật tự nhiên, do đó, bản thân chúng đều phải có tính duy nhất, nghĩa là tính "phải thế này chứ không thể thế khác" (dù chúng ta có tác động đến hay không, không cần biết!), hay còn gọi là "tính khách quan". Cho nên, khi nói đến hiện thực thì phải hiểu ngầm một cách đầy đủ đó là, như người ta vẫn thường nói, "hiện thực khách quan". Tuy nhiên, đây chính là điều gây cho tớ cái cảm giác ngờ ngợ bất ổn: nếu xét theo cách nhìn khác, không chú ý tới quá trình sinh-tồn-vong mang tính duy nhất của hiện thực, mà chỉ chú ý tới sự thể hiện của nó thôi, thì vì sự thể hiện ấy hình như không nhất quán, không trung thực, nên có vẻ như nó không khách quan hay chí ít, có thể nói tính khách quan vốn dĩ của nó đã bị "lu mờ" đi, không hoàn toàn thực sự nữa, và như thế, coi như hiện thực nhiều ít gì cũng đã bị giả hóa. Chẳng hạn, không cần lấy ví dụ đâu xa, hoạt cảnh chúng mình đang ngồi nhậu đây là một hiện thực. Chắc rằng hai cậu và cả tớ nữa đều thừa nhận hiện thực này là khách quan. Nó khách quan ở chỗ các sự kiện xảy ra trong nó có tính tự nhiên, tuyệt đối duy nhất, chỉ một lần chứ không lặp lại, và nói chung, mỗi chúng ta, người này thấy thì hai người kia cũng thấy về sự hiện hữu của các đồ  vật cũng như sự diễn tiến của các hiện tượng trong cuộc nhậu. Thế nhưng ngẫm nghĩ kỹ hơn một chút sẽ thấy cuộc nhậu hiện ra trước mỗi chúng ta là không đồng nhất, nghĩa là có ba hiện thực không hoàn toàn giống nhau về cuộc nhậu. Nếu ngay bây giờ tớ và B cùng nhìn bàn nhậu thì đều cùng thấy cái bàn, bình rượu, đĩa thịt gà, ly, chén...và qua đó mà cho rằng bàn nhậu hiện ra trước tớ và B là như nhau. Nhưng không những nhìn mà tớ và B còn chụp ảnh nữa và đem so hai bức ảnh đó thì sẽ thấy đó là hai hiện thực không trùng nhau về cảnh vật- về vị trí, vóc dáng, màu sắc...của các sự vật hiện hữu trong đó. Như thế, có thể kết luận, sự thể hiện khách quan của một hiện thực chỉ ở mức tương đối, không hoàn hảo...Điều cuối cùng mà tớ băn khoăn nhất ở đây là làm sao đánh giá được trong số hai hiện thực về cùng một khoảng khắc của bàn nhậu ấy (hai bức ảnh), cái nào thể hiện đúng khách quan hơn cái nào?
            -Khá lắm!-Thằng B búng tay cái "pách", thốt lên.
            Cả ba thằng "không hẹn mà nên", cùng nâng ly cụng cái "cờ...ốp", uống cái "ực" và lần này còn thêm ba cái "khà" đầy hỉ xả. Những âm thanh ấy, lúc thường, chẳng có gì phải "ầm ĩ", nhưng trong bầu lắng đọng đầy bao dung của đêm muộn, nghe sao mà "tròn vành rõ tiếng" đáo để!
            Rồi thằng B lại giơ tay xin phát biểu. Tưởng nó định tham luận gì ghê gớm lắm, té ra chỉ là một câu hỏi gọn lỏn:
            -Bạn thấy thế nào, C?
           -Vấn đề mà bạn và A vừa trình bày rất hấp dẫn. Trong đó có nhiều điều rất thú vị để mà đào sâu suy nghĩ. -Thằng C từ tốn nói- Thú thực ra, mình từ trước đến nay vẫn cứ đinh ninh "hiện thực" có gì đâu phức tạp, trái lại là đơn giản và đã rất rõ ràng, chẳng còn gì phải bận lòng suy nghĩ, tìm hiểu. Đến đây, sau khi nghe hai bạn biện giải mới thấy mình còn rất lơ mơ về bản chất của "hiện thực"...Kỳ lạ thật! Cuộc chuyện trò nãy giờ làm mình sực nhớ đến chuyện này. Số là cách nay hơn hai tuần, mình với thằng em trai nhậu bia ở quán gần nhà nó. Vừa chọn bàn xong, ngồi chờ nhân viên phục vụ tới thì nghe tiếng: "Tính tiền đi em ơi!" ở bàn bên cạnh. Mình nhìn sang thấy hai ông khách có vẻ đã "thấm đòn", một ông mắt lờ đờ ngồi rụt cổ nghe, một ông mắt long lanh ngồi chồm tới nói liên hồi. Chẳng biết ông ta nói gì nữa. Mãi khi họ trả tiền xong, đi qua bàn chúng mình để ra về, mình mới nghe được lõm bõm một đoạn đại ý là: "thực tại" và "hiện thực" là hai thứ khác nhau, con người không thể thấy được toàn bộ và đích xác "thực tại" mà chỉ thấy được một phần nhỏ dưới dạng đã "biến hóa" của nó gọi là "hiện thực", cho nên "hiện thực khách quan" chỉ tương đối, "thực tại khách quan" mới tuyệt đối. Lúc đó em mình cũng nghe được, nhe răng cười: "Uống nhiều quá thành "chiết ra" rồi!". Mình cũng cười, đế thêm: "Sự thông thái nhảm nhí!"...Bây giờ có ông ta ở đây thì tuyệt! Tiếc thật đấy!
          -Ừ, tiếc thật đấy! Hì,hì...hì!...Tiếc thật!...Tiếc vì - Thằng A cười, giơ bình rượu lên lắc lắc - hết...gụ...gồi! Hì,hì...hì! 
          -Ủa! Hết thật à? Sao mình còn tỉnh thế nhỉ? - Thằng B thảng thốt.
          Thằng C đùa:
          -Nói hăng quá hả hết rượu chứ thắc mắc gì nữa!...Mà thôi cũng đã khuya, chúng mình nên tản..., suýt nói bậy(!), giải tán đi, có gì bàn tiếp vào cuộc nhậu lần sau...
          -Đúng đấy!- Thằng A ủng hộ.
          Thế là cuộc nhậu, thú vị nhưng có phần vô hậu, tan hàng.
          Vì thế mà bài tường thuật của chúng ta cũng kết thúc.
          Nhưng không phải câu chuyện lớn của chúng ta kết thúc... 
          Và chúng ta tiếp tục nhé!
          Trước hết, chúng ta cho rằng ba anh chàng A, B, C, vì chưa thấy được sự "thiểu năng" của khái niệm cũng như chưa thấy được mối quan hệ uyển chuyển, sinh động, có thể chuyển hóa qua lại nhau một cách hình thức giữa tính khách quan và tính chủ quan, nên đã làm cho cuộc trao đổi trở nên "hoang mang giao động".
          Tiện đà, chúng ta đặt lại câu hỏi: "Hiện thực là gì?". Muốn nhận thức đúng đắn được bản chất của hiện thực thì phải "chú ý" đến thực tại, nghĩa là cần phân biệt dứt khoát sự khác nhau giữa hai khái niệm "hiện thực" và "thực tại". Chúng ta cho rằng thực tại cũng phải được hiểu là thực tại khách quan, và sự khách quan này là khách quan tuyệt đối. Vậy, một thực tại khách quan là một vùng (khoảng) không-thời gian với bao gồm toàn bộ sự vật-hiện tượng thuộc về nó và vốn dĩ tồn tại, tự nhiên tồn tại. Ở tầm sâu rộng nhất, cùng cực nhất về không-thời gian thì thực tại khách quan chính là Vũ Trụ tổng thể các sự vật-hiện tượng mà chúng ta còn gọi theo tên khác là Tự Nhiên Tồn Tại để nêu bật tính khách quan tuyệt đối (tính tự nhiên) của Nó. Còn hiện thực thì được chúng ta hiểu là phần "hiện ra" của thực tại khách quan. Đã "hiện ra" thì phải hiện ra trước cái gì hay những cái gì chứ không thể hiện ra trước Hư Vô được, và như thế, (những) cái gì đó chính là (những) thực thể, cũng có nghĩa là (những) giác hay cảm giác. Nói cách khác, hiện thực là một phần nào đó của thực tại khách quan "lộ ra" trước một thực thể sau khi thực thể tiếp nhận, cảm nhận, nhận thức thông qua giác, cảm giác, cảm thức. Mức độ "lộ ra" về qui mô sâu-rộng cũng như về tính chân thực (hay nói ngược lại là tính giả tạo) hoàn toàn tùy thuộc vào khả năng, cách thức, trình độ cũng như trạng thái, vị trí của giác, cảm giác, cảm thức, hay nói gọn lại là tùy thuộc vào "chủ quan" của thực thể tri-giác. Xét cho đến cùng thì sự "chủ quan" của thực thể tri-giác có nguyên nhân khách quan, nhưng ở mức độ, phạm vi nhìn nhận nào đó cũng có nguyên nhân chủ quan, và như vậy,  có thể phân tương đối sự chủ quan thành hai loại là chủ quan tuyệt đối (có tính mặc định, ổn định, do phương thức cấu tạo và vận động nội tại đặc thù của thực thể tri-giác qui định) và chủ quan tương đối (có tính bất định, biến đổi theo tình thế, trạng thái của thực thể tri-giác). Vì có nguồn gốc khách quan, được tự nhiên qui định nên tuyệt đối không thể loại trừ sự chủ quan "ra khỏi" quá trình tri-giác của thực thể, mà chỉ có thể hạn chế, khắc phục phần nào. Suy ra từ những lẽ đó, chúng ta cho rằng, một cách tuyệt đối, không thể có hiện thực khách quan mà chỉ có hiện thực chủ quan, hơn nữa, nói đến hiện thực thì phải là hiện thực của một thực thể tri-giác xác định, và như vậy, từ cùng một thực tại khách quan không thể hiện ra hai (hay nhiều) hiện thực chủ quan giống hệt nhau, trùng khít nhau. Chắc như bắp, hiện thực của cây cối phải khác "xa lắc" hiện thực của động vật, hiện thực của con vi khuẩn mà giống hiện thực của con người thì thật là "ghê hồn bạt vía"! Hai hiện thực của hai con người về cùng một thực tại khách quan dù có vẻ rất giống nhau cũng không thể trùng khít nhau được, bởi "ít nhất" cũng tại điều rất đơn giản này: tương tự như hai hệ thiết bị quan sát thiên văn, được chế tạo giống hệt nhau một cách lý tưởng, đồng thời quan sát cùng một khoảng Vũ Trụ, thì vì không có bất cứ cách nào làm cho góc độ quan sát của chúng tuyệt đối trùng nhau được, nên hai hiện thực của hai hệ vẫn là hai hiện thực khác nhau (dù có nhiều nét tương đối (hay "tưởng rằng") giống nhau).
           Tuy nhiên, chính hiện tượng dù tuyệt đối khác nhau nhưng cũng tương đối giống nhau của hai hiện thực trong ví dụ nêu trên đã gợi ý cho chúng ta về một hiện thực tương đối khách quan, hay có thể gọi là "hiện thực khách quan của những thực thể có cùng chủ quan tuyệt đối về tri-giác". Hiện thực khách quan tương đối đó cũng chính là hiện thực chủ quan tuyệt đối của những thực thể tri-giác chưa có nhận thức hoặc chưa qua nhận thức (hiện thực của một đài quan sát thiên văn, bản thân nó, là hiện thực chủ quan tuyệt đối, nhưng khi đã bị con người "bình giảng" rồi thì tính chủ quan của nó không còn tuyệt đối nữa vì đã bị sự nhận thức xâm phạm, lũng đoạn, và thậm chí coi như đã chuyển hóa thành hiện thực khách quan của con người!). Thực ra, chỉ vì mục đích cố tỏ rõ bản chất của hiện thực mà chúng ta nói đến cái gọi là hiện thực của vật vô tri-vô cảm, chứ khó lòng mường tượng được cách thức tồn tại của cái hiện thực ấy, dù nó...có thật(!). Phải chăng vì ở vật vô tri-vô cảm không có hồi ức nên nó cũng tuyệt nhiên "không biết" quá khứ và do đó hiện thực của nó chỉ là hiện thực "đang xảy ra thực sự"? Nhưng phải hiểu thế nào về cái khoảng thời gian "đang xảy ra thực sự" ấy? Trong khi chờ đợi một hình dung "kín kẽ" nhất, có lẽ "đành" tạm thời hình dung rằng, mỗi một thực thể đều có cái gọi là "đơn vị thời gian riêng", có độ dài lâu được qui định bởi cách thức cấu tạo-vận động nội tại thực thể (như thế, những thực thể có nội tại giống nhau thì có đơn vị thời gian riêng giống nhau), và đó cũng chính là khoảng thời gian hiện thực "đang xảy ra thực sự" của thực thể(?)...Thôi, để bớt phần rắm rối, phải "rào trước đón sau" nhiều quá làm lan man thêm câu chuyện vốn đã lan man đến...phát sợ (!), chúng ta sẽ thu hẹp "sự kể lể" về hiện thực trong phạm vi hiện thực của con người nhận thức.
            Không có cảm giác và hồi ức, thực thể chỉ có được một hiện thực biến đổi, hoàn toàn bất ổn, phiến diện, manh mún và...mù tịt. Ở con người, một mặt do chỉ cảm giác tự nhiên được một khoảng ở tầng Vũ Trụ vĩ mô mà thiên nhiên "qui định", mặt khác nhờ sở hữu được một năng lực cảm giác sinh học ở tầm cao nhất là trực-gián giác, một hồi ức sinh học dài lâu và bền vững nhất trong thế giới sinh vật, chưa kể còn được hỗ trợ đắc lực bởi sự nhận thức ngày một tăng tiến cũng như bởi những công cụ, thiết bị giác và lưu nhớ nhân tạo ngày một hiện đại, mà hiện thực của nó có tính ổn định, tổng thể, sáng tỏ, tồn tại lâu dài theo thời gian, đồng thời cũng có tính ngày một thấu suốt, ngày một sâu rộng, ngày một khách quan Như đã nói, thiên nhiên, một cách trực tiếp, chỉ có khả năng ban cho loài người một cách hạn định về năng lực cũng như số loại hình cảm giác phù hợp với lối sống trong thiên nhiên của nó, sao cho vừa đủ đáp ứng những đòi hỏi trong hoạt động sinh tồn của nó. Nghĩa là con người chỉ có thể cảm giác trong phạm vi (tạm gọi là) "tầm sinh học", hay có thể nói, chỉ cảm giác trực tiếp được theo cách đặc thù, mang tính thực dụng (nên cũng có hạn độ) những thứ cần cảm giác nhằm mục đích duy nhất và sát sườn là phục vụ đời sống (trước hết) cho bản thân nó trong thiên nhiên. Theo qui định của cảm giác ấy cũng như thông qua cảm giác ấy mà thực tại khách quan trình diễn ra một cách hạn chế (nghĩa là chỉ một phần, một bề, một tầng nấc qui mô...) và "biến dạng" thành hiện thực của chủ quan con người, "giành riêng" cho con người. Vì hiện thực là sự thể hiện một phần thực tại khách quan dưới dạng đặc thù (biến dạng) theo chủ quan cảm giác, mà sự tồn tại chủ quan cảm giác này, xét cho cùng là có nguyên nhân khách quan (ở đây, chủ quan cảm giác không bao hàm chủ quan đánh giá, nhận định...-những "thứ" được cho là thuộc chủ quan có nguồn gốc chủ quan!), cho nên dù phần thực tại khách quan ấy có "biến dạng" thì chỉ là biến dạng mang tính hình thức, nghĩa là mọi sự vật-hiện tượng trong hiện thực ấy, dù tồn tại-vận động dưới bất cứ hình thức nào, theo bất cứ kiểu cách gì, cũng đều phải tuân theo tuyệt đối các qui luật - những dạng đặc thù đã được mặc định một cách trực tiếp hay gián tiếp bởi ba nguyên lý  tương tác, nhân quả, bảo toàn đóng vai trò là ba hệ quả cơ bản của nguyên lý Tự Nhiên. Như vậy, hiện thực của con người có tính luôn luôn hàm chứa sự thật khách quan tuyệt đối. Mặt khác, do nguyên lý cấu tạo sinh học làm xuất hiện sự cảm giác ở mọi con người là như nhau, cho nên nếu bỏ qua những sai lệch sinh ra từ sự chủ quan có nguyên nhân chủ quan (như góc độ, cự ly, trạng thái chuyển động, trạng thái tâm sinh lý, trình độ nhận thức...khi cảm giác, ở từng con người-chủ thể cảm giác), thì tất cả hiện thực của mỗi con người về cùng một thực tại khách quan, trong cùng một thời gian, đều giống nhau, trùng khít nhau. Đó được gọi là tính khách quan tương đối của hiện thực ở con người. Với hai sự thể hiện khách quan ấy, có thể nói không sai rằng, nếu bỏ qua những chủ quan có nguyên nhân chủ quan thì hiện thực của con người là một hiện thực hoàn toàn khách quan đối với chủ quan cảm giác con người, và vì thế, đến mức độ toàn bích, cũng chính là hiện thực tuyệt đối khách quan đối với chủ quan cảm giác-nhận thức của loài người và chỉ cho "riêng" loài người. Nghĩa là thông thường, có thể nói "hiện thực khách quan của chúng ta", nhưng hiểu rằng đó là một hiện thực khách quan tương đối-một phần thực tại khách quan được cảm nhận theo cách chủ quan "chưa thực sự sáng tỏ" của loài người. Khi loài người đã nhận thức đến tuyệt đích đúng đắn và tuyệt cùng triệt để về Tự Nhiên Tồn Tại thì cũng là lúc hiện thực khách quan đó chuyển biến thành hiện thực khách quan tuyệt đối đối với chủ quan cảm thức của loài người, hay "mạnh miệng" hơn nữa, là thực tại khách quan theo cách cảm thức, hình dung riêng có của con người nhận thức...Ôi! "Loạn lạc" quá đi! Thật là...điên rồ!...Nhưng...biết đâu chừng!...Đã ai đếm xuể trong lịch sử phát triển tri thức nhân loại, bao nhiêu sự điên rồ bị lãng quên vụt hóa thành chân lý?...Thế thì, xin nghe lời Trịnh Công Sơn: "Tôi ơi, đừng tuyệt vọng!"...
           Nếu sự trình bày nên trên là hợp lý thì đó cũng có thể được coi là minh chứng hùng hồn rằng con người không thể tiếp cận trực diện để "thấy" đích xác được thực tại khách quan vốn dĩ cũng như thứ mà nhà triết học I. Kant gọi là "vật tự nó", nghĩa là con người không tài nào nhận thức trực tiếp được thực tại khách quan, mà chỉ có thể bằng cách gián tiếp thông qua nhận thức hiện thực của nó, cũng chính là chỉ có thể bằng cách trên cơ sở cảm giác trực-gián giác và thông qua hệ thống khái niệm mà nó sáng tạo ra. Điều đó cũng đồng thời đưa ra lời giải thích đầy sức thuyết phục rằng vì sao quá trình nhận thức thực tại khách quan của loài người lại nhiều khúc khuỷu quanh co, chướng ngại gập ghềnh gây biết bao nhiêu lầm lạc, và vất vả, gian lao đến thế, nhất là trong suốt thời kỳ đầu, khi mà loài người chưa hề hay biết tí gì về bản chất của hiện thực. Có lẽ trường hợp xuất hiện (vào thế kỷ II-SCN) và tồn tại lâu dài (đến cuối thế kỷ XVI) của thuyết Địa Tâm (Trái Đất là trung tâm, mọi thiên thể, kể cả Mặt Trời, quay quanh nó) do Ptôlêmy đề xướng cũng như sự phủ định nó là ví dụ điển hình của điển hình làm sáng tỏ nhận định đó. 
           Trước thời Ptôlêmy đã có không ít những hình dung thiên văn mà về đại thể phân thành hai loại là Địa Tâm và Nhật Tâm (Mặt Trời là trung tâm, Trái Đất và mọi thiên thể quay quanh nó). Vì thiếu hẳn bằng chứng khoa học, hầu như chỉ dựa vào suy đoán từ cảm giác hay niềm tin thần thánh, nhưng kinh nghiệm trực giác có phần gây ấn tượng mạnh hơn hẳn, mà quan niệm Địa Tâm luôn ở thế thượng phong. Rõ ràng, nếu không nhờ nhận thức khoa học chỉ ra thì khó lòng mà bác bỏ được thực tế quan sát là các thiên thể chuyển động quanh Trái Đất. Nói sâu xa hơn, sự "mù mờ" của hiện thực thời đó đã "không ủng hộ" con người suy ra điều ngược lại. Có như thế là vì con người đã "dùng" kinh nghiệm cảm giác cũng như quan sát có tầm hiệu dụng cho hoạt động sinh tồn trong phạm vi thiên nhiên và vẫn còn ở tình trạng "nặng nề trực giác" làm "công cụ" tìm hiểu Vũ Trụ. Ptôlêmy, trên cơ sở tiến bộ trong thu thập quan sát thiên văn và về toán học, đã là người đầu tiên nêu ra mô hình Địa Tâm có tầm vóc lý thuyết mang tính khoa học thực sự. Điều làm cho mô hình này được thừa nhận nhanh chóng và trở thành chân lý khoa học, thành sự thật "hầu như" hiển nhiên không cần bàn cãi, đứng "vững như bàn thạch" suốt hơn một ngàn năm là nhờ không những "cảm tính hiện thực" của nó mà còn, quan trọng hơn, có thể dựa vào nó tính toán, xác định được vị trí biểu kiến của các hành tinh (đã phát hiện được vào thời đó) trên bầu trời. Dù thế cũng nên nói cho ngay, vào thế kỷ III-TCN có Aristarchus, người xứ Samos, đưa ra một mô hình Nhật Tâm (người đời sau không biết cụ thể nó như thế nào vì đã thất lạc từ lâu), nhưng nó chỉ như ngọn nến trước gió, thắp lên le lói rồi vụt tắt. Khoảng hai-ba trăm năm sau, một người tên là Aryabhata ở Ấn Độ hình dung ra một mô hình Nhật Tâm với những ý chính là Trái Đất xoay quanh trục của nó, Mặt Trời đứng yên, các hành tinh quay theo quĩ đạo elíp. Tuy nhiên mô hình này cũng có số phận hiu hắt tương tự. Mãi đến thế kỷ XIV, trong thiên văn học Ả Rập mới thấy xuất hiện những khám phá, nghiên cứu khoa học có ý nghĩa đến việc xây dựng mô hình Nhật Tâm, và nhiều khả năng nó đã gây ảnh hưởng sâu sắc đến sự nghiệp nghiên cứu thiên văn  của Côpécnic sau này. Kể từ thời Ptôlêmy, càng về sau, tài liệu thu thập trong thực tiễn quan sát thiên văn càng phong phú, chính xác hơn đã làm cho công việc tính toán chính xác vị trí các hành tinh trên bầu trời càng ngày càng trở nên phức tạp, khó khăn và đầy nặng nhọc. Đó cũng là một "kích thích" quan trọng tác động đến Côpecnic, tạo điều kiện chín muồi cho mô hình Nhật Tâm ra đời. Theo từ điển mở Wikipedia thì: "Năm 1543 hệ địa tâm lần đầu tiên bị thách thức thực sự khi Côpecnic xuất bản cuốn Về chuyển động quay của các thiên thể (De revolutionibus orbium coelestium), ấn định rằng Trái Đất và các hành tinh khác đều quay quanh Mặt Trời. Hệ địa tâm vẫn còn tồn tại nhiều năm sau đó, bởi vì ở thời ấy hệ Côpecnic không đưa ra được các tiên đoán tốt hơn về vị trí các hành tinh so với hệ địa tâm, và nó đặt ra các vấn đề đối với cả triết học tự nhiên và kinh thánh. Với sự phát minh ra kính viễn vọng năm 1609, những cuộc quan sát đầu tiên do Galileo tiến hành (như Sao Thổ có các Mặt Trăng) đặt ra một số nghi vấn đối với những giáo lý của thuyết địa tâm nhưng không đe dọa nghiêm trọng tới vị trí của nó. Tháng 12 năm 1610, Galileo Galilei đã sử dụng kính viễn vọng của mình chứng minh rằng Sao Kim có trải qua các tuần, giống như các tuần Mặt Trăng. Đây là một bằng chứng cho thấy sự không chính xác của hệ Ptôlêmy. Ptôlêmy đặt Sao Kim bên trong mặt cầu của Mặt trời (giữa Mặt trời và Sao Thuỷ), đây là hành động tùy tiện; ông chỉ có thể đơn giản đổi vị trí Sao Kim và Sao Thủy rồi đặt chúng vào phía bên kia của Mặt trời, hay đặt chúng ở bất cứ vị trí nào, khi chúng luôn nằm gần đường thẳng từ Trái Đất tới Mặt trời. Trong trường hợp này nếu Mặt Trời là nguồn gốc của mọi ánh sáng, thì theo hệ Ptolemy, khi Sao Kim nằm giữa Trái Đất và Mặt Trời, pha của Sao Kim phải luôn là hình lưỡi liềm hoặc hoàn toàn tối, và khi Sao Kim ở phía bên kia Mặt trời, pha của Sao Kim phải luôn khuyết hoặc hoàn toàn tròn. Nhưng Galileo quan sát thấy ban đầu Sao Kim nhỏ và tròn đầy nhưng sau đó lớn lên và có hình lưỡi liềm. Các nhà thiên văn học thời kỳ này cho rằng nếu các kết quả được chấp nhận là đúng thì đó là một bằng chứng không thể phủ nhận cho thấy sự sai lầm của vũ trụ học Ptôlêmy". Điều rất đáng chú ý là, có thể một phần cũng sợ những hệ lụy đến từ giáo hội Thiên Chúa Giáo, nhưng phần lớn hơn có thể bản thân Côpecnic, vào khoảng thời gian trước và khi công bố lý thuyết của mình, thực sự vẫn còn do dự, lưỡng lự về tính hiện thực của học thuyết Nhật Tâm mà mình đề xướng, nên một cách công khai, ông chỉ coi nó như một giả thuyết, một công cụ toán học cho phép có được những tính toán thiên văn đơn giản và chính xác hơn so với sự tính toán dựa trên thuyết của Ptôlêmy. Theo nhìn nhận trong Wikipedia: "Về mặt thực nghiệm, hệ của Côpecnic không tốt hơn kiểu của Ptôlêmy. Côpecnic nhận thức được điều này và không thể đưa ra "bằng chứng" quan sát trong cuốn sách của mình, thay vào đó ông lại dựa vào những tranh luận về một hệ chính xác và đúng đắn hơn. Từ khi cuốn sách được xuất bản tới khoảng năm 1700, rất ít nhà thiên văn tin vào hệ của Côpecnic, mặc dù cuốn sách đó được truyền bá khá rộng (khoảng 500 bản sách được cho là vẫn còn tồn tại, đó là một con số lớn so với tiêu chuẩn khoa học của thời đó). Tuy nhiên, nhiều nhà thiên văn học, đã chấp nhận một số khía cạnh của lý thuyết so với những thuyết khác, và hệ của ông đã có ảnh hưởng lớn đối với những nhà khoa học về sau này như Galileo và Johannes Kepler, những người đã chấp nhận, đấu tranh cho nó và (đặc biệt là trường hợp của Kepler) tìm cách cải thiện nó. Những quan sát của Galileo về các tuần của Sao Kim chính là bằng chứng quan sát thực nghiệm đầu tiên cho lý thuyết của Côpecnic".
           Đánh giá công lao của Côpécnic đối với loài người, cũng trong Wikipedia, có viết: "Lý thuyết của Côpecnic có tầm quan trọng đặc biệt trong lịch sử văn minh loài người. Nhiều tác giả cho rằng chỉ hình học của Euclid, vật lý của Isaac Newton và Thuyết tiến hoá của Charles Darwin là có thể có ảnh hưởng ở mức so sánh được với lý thuyết đó đối với văn hoá loài người nói chung và khoa học nói riêng. Nhiều ý nghĩa đã được gán cho lý thuyết của Côpecnic một phần từ ý nghĩa khoa học đúng đắn của nó. Tác phẩm của ông ảnh hưởng tới cả tôn giáo và khoa học, giáo điều cũng như tự do của vấn đề khoa học. Vị trí của Côpecnic với tư cách là một nhà khoa học thường được so sánh với Galileo Galilei. Công trình của Côpecnic phản đối giáo điều tôn giáo được chấp nhận sau đó. Nó có thể cho thấy rằng không cần thiết phải có một (Đức Chúa) tuyệt đối trao linh hồn, quyền lực và cuộc sống cho thế giới và con người, vì khoa học có thể giải thích mọi điều được cho là của Chúa. Tuy nhiên, chủ nghĩa của Côpecnic cũng mở một lối đi cho tính nội tại, quan điểm cho rằng một lực lượng siêu nhiên, hay một vị thần thánh, thâm nhập vào mọi vật tồn tại - một quan điểm từ đó được phát triển thêm trong nhiều triết học hiện đại. Chủ nghĩa nội tại cũng dẫn tới chủ nghĩa chủ quan với lý thuyết cho rằng có thể nhận thức được những tạo vật thực tế, rằng không có thực thể tồn tại độc lập với nhận thức (thực ra là với giác hay cảm giác-ĐC). Vì thế một số người cho rằng Chủ nghĩa Côpecnic đánh đổ những nền tảng của khoa học Trung Cổ và siêu hình học. Một hệ quả của Chủ nghĩa Côpecnic là quy luật khoa học không cần thiết phải phù hợp với thực tế. Sự đối nghịch này với hệ của Aristoteles vốn đặt cao tầm quan trọng về nguồn gốc của hiểu biết thông qua các giác quan. Khái niệm của Côpecnic đánh dấu một sự cách mạng khoa học. Thực vậy, một số nhà tư tưởng cho rằng nó đứng ngang bằng với sự khởi xướng của một "cuộc cách mạng khoa học". Immanuel Kant mang tính biểu tượng của cách mạng do Côpecnic khởi xướng - chủ nghĩa duy lý ưu việt của nó - công nhận rằng chính sự hợp lý của con người là cách làm sáng tỏ về những hiện tượng quan sát được. Những nhà triết học gần đây cũng tìm thấy những giá trị triết học trong chủ nghĩa Côpecnic". Còn Gớt, người Đức, được thừa nhận là một trong những thiên tài bậc nhất của nền văn chương thế giới, thì ca ngợi: "Trong tất cả các khám phá và ý kiến, không có cái nào có ảnh hưởng đến tinh thần hơn học thuyết của Côpecnic. Thế giới mới được biết là tròn thì phải bị đòi hỏi từ bỏ đặc quyền lớn lao của địa vị trung tâm vũ trụ. Có lẽ không bao giờ nhân loại bị đòi hỏi lớn lao như thế - vì khi chấp nhận điều này thì nhiều việc bị tan tành mây khói! Việc gì sẽ xảy ra với Eden (Vườn Địa Đàng) của chúng ta, thế giới của sự ngây thơ, lòng mộ đạo, và thi ca; bằng chứng từ giác quan; sự tin tưởng đến một niềm tin thơ - đạo? Không đáng ngạc nhiên khi những người đương thời không muốn từ bỏ những ý niệm này và chống đối bằng mọi cách một học thuyết mà những người tin tưởng cho phép và đòi hỏi một tầm nhìn tự do và ý tưởng vĩ đại chưa bao giờ được biết, hay tưởng tượng nổi". Và đây là những dòng tâm sự nổi tiếng, còn lưu lại của Côpecnic: "Vì tôi không say mê lắm với những quan điểm của riêng mình nên tôi không coi trọng suy nghĩ của người khác về chúng. Tôi biết rằng những ý kiến của một nhà triết học không phải là chủ đề cho sự phán xét của những người bình thường, bởi vì đó chính là sự nỗ lực của ông ta nhằm tìm kiếm sự thực trong mọi vấn đề, trong phạm vi sự cho phép của Chúa Trời với loài người. Tuy vậy, tôi cho rằng cần xa lánh những quan điểm hoàn toàn sai trái. Những người biết rằng sự kết luận của nhiều thế kỷ đã đưa tới việc thừa nhận quan điểm rằng Trái Đất đứng yên ở trung tâm Vũ Trụ, như trung tâm của nó là trung tâm của Vũ Trụ. Tôi phản đối, coi đó là một tuyên bố điên cuồng nếu tôi đưa ra điều xác nhận rằng Trái Đất chuyển động. Khi một con thuyền chuyển động êm đềm về phía trước, các thủy thủ thấy chuyển động của nó được phản ánh qua mọi sự vật bên ngoài, tuy nhiên mặt khác họ cũng có thể cho rằng mình đang đứng yên, cùng với mọi vật trên thuyền. Theo một số cách, chuyển động của Trái Đất có thể là điều không thể nghi ngờ, đưa lại cảm giác rằng toàn thể Vũ Trụ đang chuyển động. Vì thế cùng với những lý thuyết cổ đại, vốn không còn chính xác nữa, chúng tay hãy cho phép các lý thuyết mới đó được xuất hiện, đặc biệt khi chúng tỏ ra rất chính xác, đơn giản và mang lại nhiều thông tin quan sát quý báu. Khi các lý thuyết còn được quan tâm, không ai có thể chờ đợi một sự chính xác hoàn toàn từ thiên văn học, thiên văn học không thể cung cấp điều đó, ít nhất anh ta chấp nhận các ý tưởng chính xác được đưa ra cho một mục đích nào khác, và việc quay lưng lại với nó chính là điều ngu xuẩn lớn hơn việc quan tâm tới nó. Tạm biệt!".
           Như vậy là suốt hơn một ngàn năm, khoa học loài người "đứng trước" một "hiện thực thiên văn" sai lầm và "hồn nhiên" tiến hành các quan sát, nghiên cứu thiên văn trên cơ sở hiện thực ấy mà (nói chung) không hề hay biết. Chỉ mãi đến khi phát hiện ra tính tương đối của chuyển động thì các nhà khoa học mới "té ngửa" ra rằng sự thấy một vật đứng yên hay chuyển động là không chắc chắn. Điều thú vị là ở chỗ trước một hiện thực thiên văn "lộn ngược" như thế, những tính toán của họ vẫn phù hợp với thực tế quan sát. Nhưng tại sao? Chúng ta nêu ra một ví dụ để trả lời câu hỏi đó.
           Có hai con thuyền giữa đại dương bao la tuyệt đối "sóng yên biển lặng", không thấy bến bờ nào, phía trên chỉ một màu xanh thẳm của bầu trời. Hai con thuyền đó đối đầu nhau và khoảng cách giữa chúng dần rút ngắn lại một cách đều đặn rồi cuối cùng đâm xầm vào nhau. Theo quan điểm của các thủy thủ trên hai thuyền đó thì thuyền nào gây ra va chạm? Nếu đã biết đến tính tương đối của chuyển động thì họ sẽ đồng thanh: "Không xác định được!". Còn nếu chưa biết và dựa trên kinh nghiệm cảm giác thì đoàn thủy thủ trên thuyền nào cũng sẽ cho rằng thuyền họ đứng yên và thuyền kia chủ động đâm vào thuyền họ. Hơn nữa, nếu đó là va chạm (hoàn toàn) đàn hồi, thì cảm giác quán tính làm cho đoàn thủy thủ trên thuyền nào cũng "thấy" thuyền của họ đã từ trạng thái đứng yên chuyển sang trạng thái chuyển động theo hướng rời xa con thuyền kia và khoảng cách giữa hai thuyền tăng dần một cách đều đặn (bỏ qua hiện tượng ma sát và giai đoạn tăng tốc!). Giả sử có con thuyền thứ ba ở gần đó và đoàn thủy thủ trên con thuyền này quan sát được toàn bộ quá trình vừa kể của hai con thuyền kia thì họ sẽ thấy như thế nào? Tùy trạng thái chuyển động (đều!) của con tàu thứ ba mà đoàn thủy thủ trên đó sẽ thấy như thế nào! Nhưng nói chung, một cách đại thể, sẽ thấy một trong ba hoạt cảnh này: thứ nhất, một thuyền đứng yên bị thuyền kia chuyển động đâm vào, thứ hai, một thuyền "lùi" một thuyền "tiến" cùng phương chiều và thuyền "tiến" đâm vào thuyền "lùi", thứ ba, hai thuyền cùng chuyển động hướng vào nhau và đâm nhau, trong cả ba trường hợp ấy đều thấy sau khi va chạm, cả hai thuyền đều biến đổi trạng thái chuyển động. Vậy là từ cùng một diễn biến trong thực tế dẫn đến ba hiện thực khác nhau ở ba đoàn thủy thủ. Vậy thì trong ba hiện thực đó, hiện thực nào sát thực nhất? Đó là câu hỏi thiếu điều kiện nên...chào thua! Tuy nhiên, dễ hình dung rằng tại "hiện trường" sau khi xảy ra va chạm, nếu yêu cầu ba đoàn thủy thủ đưa ra nhận xét về ba hiện thực ấy, thì đoàn nào cũng khẳng định thuyền của họ đứng yên trước khi va chạm (riêng đối với thuyền thứ ba thì cả sau khi va chạm) và diễn biến va chạm mà họ quan sát được là sự thực "không thể chối cãi", "đúng là" hiện thực khách quan, hơn nữa, họ còn có thể đo và tính toán ra được các giá trị tốc độ của hai con thuyền trước và sau khi va chạm hoàn toàn phù hợp với "thực tế".
           Bây giờ, cũng ví dụ ấy với ba con thuyền ấy và diễn biến va chạm ấy, nhưng thêm dữ kiện là cả ba đoàn thủy thủ đều thấy một ngọn hải đăng trên một bến bờ. Rõ ràng, từ kinh nghiệm cảm giác mà cả ba đoàn thủy thủ đều phải thừa nhận sự đứng yên tuyệt đối (!) của ngọn hải đăng trong môi trường thiên nhiên. Do đó, cả ba đoàn thủy thủ đều phải lấy ngọn hải đăng làm chuẩn mốc (gốc tọa độ) để xác định các giá trị tốc độ của hai con thuyền trước và sau khi xảy ra va chạm, và tất nhiên kết quả tính toán của ba đoàn thủy thủ về các giá trị tốc độ ấy phải trùng nhau, cũng có nghĩa là hiện thực về diễn biến hai con thuyền va chạm của ba đoàn thủy thủ lúc này là như nhau, hay có thể nói rộng ra, với việc lấy ngọn hải đăng (hay bất cứ thứ gì đứng yên trên mặt đất) làm chuẩn mốc xác định trạng thái (cũng như) phương chiều chuyển động thì ba đoàn thủy thủ có cùng một hiện thực và hiện thực đó cũng được coi là hiện thực khách quan đích thực (trong môi trường thiên nhiên!) của họ.
           Từ ví dụ trên có thể suy ra vài điều sau đây. Thứ nhất, chỉ xét trong khoảng thời gian diễn tiến va chạm, nếu coi con thuyền thứ ba là Trái Đất và hai con thuyền kia là hai hành tinh, và dù người quan sát từ Trái Đất tưởng Trái Đất đứng yên hay biết Trái Đất đang chuyển động, thì kết quả đo đạc và tính toán nhằm xác định vị trí (biểu kiến) tại thời điểm nào đó của hai hành tinh so với Trái Đất là không đổi (!). Đó là lời giải thích sự tương đồng nhau về kết quả tính toán giữa hệ Ptôlêmy và hệ Côpécnic, cũng như vì sao thực tế những tính toán đó không thể chỉ ra được Trái Đất đứng yên hay chuyển động. Thứ hai, trong hiện thực khách quan đích thực (lấy ngọn hải đăng làm chuẩn mốc), việc tính toán chuyển động của hai con thuyền va chạm sẽ cho ra kết quả: hai tốc độ tổng hợp (tính theo giá trị tuyệt đối) trước và sau va chạm của hai con thuyền đó có giá trị bằng nhau nhưng tương phản nhau (trong trường hợp này, vì va chạm trực diện nên "gọi là" đồng phương, ngược chiều), không những thế, còn có thể suy ra, đó cũng là kết quả rút ra được từ đo đạc và tính toán trong hiện thực khách quan "riêng" của bất kỳ đoàn thủy thủ nào có mặt tại hiện trường không có ngọn hải đăng (!). Việc từ mọi quan sát-tính toán về cùng một sự kiện đều dẫn tới kết quả tối hậu duy nhất đã "tiết lộ" ra rằng kết quả tối hậu đó phải có tính khách quan tuyệt đối, nghĩa là nó phải là sự thể hiện nào đó về bản chất của thực tại khách quan. Đúng vậy! Hoàn toàn có thể rút ra được từ kết quả tối hậu ở đây (ít ra là) ba trong số các định luật cơ bản về chuyển động cơ học mà nhà vật lý thiên tài I. Niutơn đã thiết lập được, đó là định luật quán tính, định luật tác dụng tương hỗ, định luật bảo toàn động lượng, và theo quan niệm của chúng ta thì ba định luật đó chính là những thể hiện dưới dạng đặc thù hay cũng có thể được coi là  những hệ quả của ba nguyên lý tổng quát và tuyệt đối khách quan (nhắc lại: nguyên lý tương tác, nguyên lý nhân quả và nguyên lý bảo toàn) về (của) Tự Nhiên Tồn Tại. Thứ ba, suy lý mở rộng, triết học Mác về tự nhiên phát biểu ba luận điểm gồm "sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập", "lượng đổi chất đổi và ngược lại", "phủ định của phủ định", và cho rằng đó là ba qui luật cơ bản, phổ quát nhất, đóng vai trò nền tảng của vận động vật chất. Nếu đúng thế thì vì Vũ Trụ là thống nhất và duy nhất nên ba qui luật ấy phải có mối quan hệ bản chất với nhau, hơn nữa, không trực tiếp thì cũng gián tiếp, chúng phải có tác dụng mang tính "khống chế nghiêm ngặt" đến mọi sự vật-hiện tượng, mọi quá trình vận động, nghĩa là "hình bóng" hay "dấu vết" của chúng phải xuất hiện khắp nơi, cho nên dứt khoát không những chúng không thể vắng mặt mà còn phải ở vị trí hàng đầu trong vật lý học, đóng vai trò "đầu mối" trong việc làm kim chỉ nam cho nghiên cứu vật lý nói riêng và khoa học nói chung, dù có thể dưới dạng phát biểu này hay dạng phát biểu khác. Do đó, từ trường hợp ví dụ đang xét hay từ ba định luật cơ học đã nhắc tới ở trên, cũng phải suy ra được sự tồn tại ba quy luật cơ bản của Mác. Ai suy ra được? Chúng ta thì...không! Nghĩa là chúng ta không thừa nhận sự tồn tại khách quan ba qui luật tự nhiên của triết học Mác, hay nói đúng hơn, chỉ có thể coi chúng là ba hình thức biểu hiện tương đối nổi trội của tồn tại và vận động được thấy (cảm giác) trong hiện thực ở phạm vi nhất định. Nếu lập luận đó là hợp lý, thì phải đi đến nhận định rằng, dù quan niệm về tự nhiên-xã hội của triết học duy vật biện chứng có đúng đến đâu chăng nữa thì vì phần triết học về tự nhiên của nó đã có sự ngộ nhận nghiêm trọng và sự ngộ nhận này gây không ít hệ lụy đến phần triết học về xã hội của nó, cho nên phải đặt nó, tức toàn bộ triết học duy vật biện chứng, vào tầm nghi vấn và nhận thức lại xem mức độ đúng-sai của nó tới đâu, với bước đầu tiên dĩ nhiên là phải rà soát lại khái niệm "vật chất" mà nó nêu ra. Thứ tư, cũng là suy lý mở rộng, trong thực tại khách quan nhưng "ngoài" hiện thực (!), vì không tồn tại sự hồi ức nên cũng không tồn tại thứ gọi là "thời gian" (để mà "có" "sự trôi thời gian" cũng như "quá khứ" hay "tương lai"), và do đó, biến cố va chạm của hai con thuyền phải được nhận thức (một cách đúng đắn) là sự thực tuyệt đối và duy nhất đối với chính nó về không-thời gian. Hiện thực là biểu hiện của thực tại cho nên sự va chạm đó trong hiện thực cũng chính là biến cố xảy ra thực sự trong thực tại khách quan ( dưới dạng tạm gọi là "sự tương tác giữa hai thực thể năng lượng"!) và vì thế, nếu không có sự "che khuất" (cả chủ quan lẫn khách quan) nào ngăn cản, và đồng thời nếu có thể loại trừ tất cả những sai lạc do chủ quan cảm giác và nhận thức (dù có nguyên nhân chủ quan hay khách quan) gây ra, thì trong mọi hiện thực đều phải thấy nó xảy ra theo cùng qui luật và tại cùng một thời điểm, sao cho kết quả cơ học của chúng, khi qui về hiện thực khách quan đích thực chung thì như nhau. Trong ví dụ trên, giả sử quan sát từ thuyền thứ ba thấy rằng hai thuyền kia tiến đến nhau với tổng giá trị tuyệt đối về tốc độ (tốc độ rút ngắn khoảng cách giữa hai con thuyền) lớn hơn tốc độ truyền sáng trong chân không (tốc độ cực đại trong Vũ Trụ). Trên cơ sở đó đoàn thủy thủ ở thuyền thứ ba, trong hiện thực khách quan riêng của họ, sẽ tính ra được một tổng giá trị tuyệt đối về động lượng của hai con thuyền, mà nếu đem so với kết quả xác định trong hiện thực khách quan đích thực (có mốc không-thời gian là ngọn hải đăng), thì như nhau. Trong khi đó, đoàn thủy thủ ở một trong hai con thuyền tham gia va chạm xác định tốc độ rút ngắn khoảng cách giữa hai con thuyền và tổng giá trị tuyệt đối về động lượng là bao nhiêu? Theo Anhxtanh, tốc độ đó chỉ có thể nhỏ hơn hoặc (xấp xỉ) bằng tốc độ truyền sáng. Vì thời điểm va chạm là sự thực khách quan mang tính bất biến trong mọi hiện thực (vì đã loại trừ sự nhiễu loạn thời gian của hiệu ứng xa-gần!), cho nên để tương đồng về thời gian với quan sát trong hiện thực của đoàn thủy thủ trên thuyền thứ ba, thì khoảng cách giữa hai con thuyền tham gia va chạm, trong hiện thực của đoàn thủy thủ ở một trong hai con thuyền này phải bị "co rút" ngắn lại một cách tương ứng theo "sự giảm" tốc độ. Mặt khác, trong hiện thực khách quan riêng của đoàn thủy thủ này, tổng khối lượng của hai con thuyền cũng phải được thấy khác đi sao cho giá trị động lượng "ở đó" khi qui về trong hiện thực khách quan đích thực chung thì phải bằng giá trị động lượng được xác định trong hiện thực khách quan riêng của đoàn thủy thủ trên thuyền thứ ba. Nhưng sự "co rút" và "biến đổi" làm sao lại tự nhiên xảy ra được khi khoảng cách và tổng khối lượng không hề chịu bất cứ tác động nào từ bên ngoài chúng? Chỉ có thể là do sự "lũng đoạn" của tính chủ quan trong hiện thực và do đó, sự "co rút" cũng như "biến đổi" nói trên cũng chỉ là hình thức (nhưng là thứ hình thức có tính khách quan tương đối nên "tự nhiên tồn tại" trong quá trình nhận thức, không thể loại trừ được!). Tương tự như thế, không thể tin được trong thực tại khách quan, tính bất biến và cực đại của tốc độ truyền sáng lại như một lực lượng tồn tại thực sự, tác động gây co-giãn không-thời gian được, cho nên phải suy ra rằng sự co-giãn không-thời gian ấy chỉ có thể "xảy ra" trong hiện thực và cũng chỉ là kết quả của cảm giác, mang tính "tất yếu hình thức". Vậy phải chăng cũng nên "nhốt" luôn thuyết tương đối hẹp của Anhxtanh vào vòng nghi vấn để nỗ lực nhận thức lại?...(Kính thưa Mác và Anhxtanh, thời tuổi trẻ, chúng tôi vì tin tưởng hầu như tuyệt đối vào nhận thức của quí vị nên cũng kính phục quí vị. Giờ đây, khi đã về già, coi như đã trải qua một đời chiêm nghiệm và gặp không ít "trục trặc" khi tìm cách giải thích những hiện tượng xảy ra trong hiện thực, trên cơ sở quan niệm tự nhiên-xã hội của quí vị, nên trong chúng tôi đã bắt đầu nảy sinh những hoài nghi. Dù niềm tin vào quí vị đã có những rạn nứt thì lòng kính phục của chúng tôi đối với quí vị vẫn nguyên vẹn như ngày nào. Trong thời đại của quí vị, phải là bậc thiên tài mới có được quan niệm về tự nhiên mang tầm vượt thời đại như thế. Chúng tôi, xét về trí tuệ, chỉ là lũ nhà quê có tầm học vấn...nông choẹt, nhưng lại có thuận lợi là "kẻ hậu sinh" trong tình thế "cờ ngoài, bài trong", vừa được quí vị dạy dỗ vừa thấy được nhiều điều mà quí vị không thể thấy vì bị...thời đại của quí vị che khuất! Sự đam mê tìm hiểu vì sao Vũ Trụ lại phải như thế này chứ không thể như thế khác, trong điều kiện khó khăn và thuận lợi đó đã dần hun đúc trong chúng tôi một nhận định rằng, đã là chân lý khách quan thì phải hiển hiện ở khắp nơi chứ không phải chỉ "trú ngụ" ở những nơi phức tạp và cao siêu trong triết-khoa mà đám "hạ tiện" chúng tôi không thể với tới được, và rằng chân lý là giản dị và phải giản dị mới là chân lý đích thực. Nhận định đó đã trở thành niềm tin sắt đá làm nhẹ bớt sự sợ hãi trong chúng tôi nên chúng tôi mới dám "tả xung hữu đột" và mạo muội nêu ra ý kiến "phản nghịch" (dù có thể sai bét nhè!) như vậy. Biết làm sao được?! Thành thật xin lỗi quí vị, và đồng thời cảm ơn Arixtốt bởi câu nói bất hủ: "Thầy đã quí, chân lý còn quí hơn" !!!...
           Đến đây, có lẽ chúng ta đã "thấm thía" cái quan niệm "nắm bắt" chân lý nhờ cảm giác trực giác thuần túy của Charvaka là như thế nào rồi. Nhưng đúng là chẳng cái dại nào giống cái dại nào, đúng là "tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa"! Vì quá tò mò mà chúng ta tạm rời xa hiện tại-cuộc "ăn chơi" ở thế kỷ XXI, để "phi" về hiện thực thời cổ đại "nhòm ngang ngó ngửa", "bươi móc lung tung" cho thỏa chí tang bồng, nào ngờ những bí ẩn trong "đống tro tàn triết học" phát lộ ra, tỏa sức nóng hầm hập làm chúng ta...phát sốt đến độ "lảm nhảm hãnh tiến" và "hùng hục cắm đầu" cứ như nhà triết-vật (triết học kiêm vật lý học!) thứ thiệt, nên "vô tình" đã tự dựng lên một chướng ngại khổng lồ không thể có chướng ngại nào khổng lồ hơn trước mũi mình, "mở ra" nguy cơ nhãn tiền chấm dứt cuộc hành trình đi tìm cái gì đó của riêng mình. Nói toạc móng heo ra, chúng ta đã tự tạo ra tình huống thách thức, đối đầu với "cột sống" tri thức đương đại của loài người! Thế có "chết tiệt" không cơ chứ!...Làm sao vượt qua đây nếu không muốn quay về? Một lũ nhà quê lang thang lếch thếch, hở cơ là lại say mèm rồi mà đòi  qua "đỉnh olympia" (của Đài truyền hình Việt Nam!) sừng sững về sự bảo thủ đến...gàn rở, ngất ngưởng "mút mùa lệ thủy" về sự khinh mạn đến mức...ương ngạnh, bất chấp tất cả (!), thì thật là điều quái lạ của những điều quái lạ! Không, chúng ta không thể chinh phục theo cách "leo trèo" đó, vì muốn thế phải cần đủ bốn "chi", trong khi chúng ta chỉ có mỗi một "chi" để "nhảy lò cò" theo kiểu kenguru thôi! Cũng không thể theo cách "liều mình như chẳng có", chỉ tổ "nực cười châu chấu đá voi", "lấy trứng chọi đá" vô ích, hay "điên" hơn, theo kiểu "tráng sĩ ra đi đầu không mọc tóc" để rồi uổng mạng lãng nhách như...Kinh Kha! Đối với những kẻ kém mọn về trí tuệ, có vấn đề về tâm thần và yếu bóng vía như chúng ta mà muốn chinh phục được khối thành trì triết-toán-lý "chắc cú" thực chứng và "hùng hồn" suy lý gợi liên tưởng đến gã phì đại "vai u thịt bắp"...Himalaya, thì cách chinh phục "siêu" nhất là...đừng chinh phục gì cả, mà hãy len lỏi tìm lối "cưỡi ngựa xem hoa" vòng qua nó, bỏ nó lại phía sau, "tỉnh bơ" tiếp tục "lang thang" lên phía trước, cầu may có ngày diện kiến...Đấng Tạo Hóa, để hỏi "cho da nhẽ" tử huyệt hay "gót chân asin" của "ló"!...
           Nói nôm na, trong khi loài vật chỉ phải (và chỉ biết!) đấu tranh sinh tồn trong môi trường thiên nhiên đơn thuần, thì có thể coi loài người cùng lúc phải đấu tranh sinh tồn trong cả hai môi trường tự nhiên và xã hội, hay nói cách khác, con người phải tham gia cuộc đấu tranh sinh tồn tổng hợp trên hai "mặt trận" là môi trường thiên nhiên và môi trường xã hội. Thuở đầu tiên trong tiến trình hình thành và tồn tại xã hội, khi mối quan hệ gắn kết, vận động phụ thuộc lẫn nhau giữa các thành phần, các bộ phận nhân sinh hợp thành nội tại xã hội còn hời hợt, "lỏng lẻo", hoặc ''chỉ có'' tác động thuận, thì sự đấu tranh sinh tồn của con người trong môi trường xã hội cũng thể hiện nhạt nhòa, thiếu hẳn tính cạnh tranh, và hoạt động mưu sinh chính yếu vẫn là đấu tranh sinh tồn trong môi trường thiên nhiên. Quá trình vận động đi lên có tính xoay vần tự nhiên với các trạng thái thịnh-suy (trong mối so sánh tương đối với nhau) kế tiếp nhau, vừa (có lúc) là kết quả vừa (có lúc) là nguyên nhân của sự tồn tại tiến trình tinh tế hóa, sâu sắc hóa cảm giác hơn nữa ở con người, làm xuất hiện và duy trì hầu như thường xuyên trạng thái cảm giác cao độ gọi là tình cảm (như yêu-ghét, hạnh phúc-khổ đau, chê khinh-tôn vinh,...), coi như chỉ ở loài người mới có, nhất là khi đã xuất hiện sự tiêu dùng phi thực phẩm như một nhu cầu không thể thiếu trong xã hội, cũng như sự sản xuất, trao đổi và mua bán hàng hóa đã trở thành những ''nơi chốn'' mưu sinh thực sự của con người, đã làm cho cuộc đấu tranh sinh tồn trong môi trường xã hội dần trở nên nổi trội, thể hiện lấn át trong toàn cảnh mưu sinh của con người, và ngày nay như chúng ta cảm thấy, đấu tranh sinh tồn trong môi trường xã hội đã như một phương thức phổ quát và cơ bản trong việc duy trì cuộc sống ở mỗi con người nói riêng và đối với cả loài người nói chung, dù rằng trong sâu thẳm của thực tế, đấu tranh sinh tồn giữa loài người với thiên nhiên vẫn "âm thầm'' đóng vai trò nền tảng, cốt lõi,  giềng mối...
           Cùng trong một hiện thực khách quan, cùng bất mãn đối với hiện thực khách quan ấy, nhưng do có "khuôn khổ" hoàn cảnh và điều kiện sống tương đối khác nhau, nên nảy sinh ra hai cảm giác-nhận thức tương đối khác nhau, từ đó mà cũng xuất hiện hai mơ ước cụ thể, hai phản ứng về ''kiếp trần'', về ''quyền sống cơ bản'' tương đối khác nhau, tương phản nhau trước thời cuộc, dẫn đến hai thái độ, hai chủ trương sống đều có tính cực đoan nhưng ngược nhau. Trong khi chủ nghĩa duy vật-thực dụng Charvaka chủ trương: mục đích duy nhất của cuộc sống là hướng tới lạc thú trần tục cho nên hãy tận hưởng mọi niềm vui sướng ''trước mắt'' một khi có cơ hội, thì Kỳ Na Giáo chủ trương: tham sống là mù quáng, sát sinh và hưởng lạc là tội lỗi, hạnh phúc thực sự là sự giải thoát khỏi mọi cám dỗ, mê lầm nơi cõi thế, và chỉ có thể đạt được sau khi chết. Qua đó mà thấy, nếu Charvaka "kêu gọi" con người quay về lối sống thuần túy vật chất, phồn thực hồn nhiên, đáp ứng bản tính sinh vật (sự ham muốn) vốn có, do đó mà có vẻ dễ dãi tầm thường, tha hóa, ''vui đâu chầu đấy'', ích kỷ, thì Kỳ Na Giáo "kêu gọi" con người hướng tới lối sống thuần túy tinh thần, tiết thực khiên cưỡng, triệt tiêu bản tính sinh vật vốn có, do đó lại có vẻ khắc kỷ phi phàm, thánh hóa, vô cảm. Đến thời Ấn Độ cổ đại của những Charvaka hay Kỳ Na Giáo, tâm tư tình cảm trong đại chúng nhân quần nói chung đã tiềm ẩn những ý nghĩ hun đúc nên chuẩn mực khách quan lẫn chủ quan về đạo đức (sự ứng xử hữu tình, hay, đẹp!) trong quá trình mưu sinh giữa môi trường xã hội. Theo chuẩn mực đạo đức đó, con người ta sống đâu phải chỉ đơn giản là hưởng thụ vật chất một cách tầm thường, tha hóa, bất chấp, ''chỉ biết mình'' như con vật, mà phải còn có cái tình cao cả (tình người, nhân hậu!) đối với đồng loại nữa, nhưng đến mức phải hy sinh tất cả cuộc sống của riêng mình, trái ngược với chính đòi hỏi tự nhiên của sự sống một cách quá quắt, quá ư hà khắc thì cũng thật...vô cùng khó khăn. Nghĩa là hai chủ trương về lối sống đó đều ''vi phạm'' ước vọng và tình cảm hồn nhiên, trong sáng của kiếp đời con người bình dị. Vì thế, cả hai chủ trương đó về lối sống của con người đều đã tỏ ra có phần không phù hợp với yêu cầu của văn hóa đại chúng dân gian Ấn Độ ngay từ thời kỳ đó, đòi hỏi cần có một chủ trương sống trung dung, bình giản, hợp lý hợp tình hơn, như nhiên hơn, mà cũng thanh thoát hơn, cao khiết hơn...Đó chính là yếu tố quan trọng hợp thành nguyên nhân cơ bản của sự ra đời luân lý Phật Giáo.
            Theo truyền thuyết thì Đức Phật Thích Ca...Ô hô, mà...thôi!....Thông cảm nhé, anh em!...Con tàu vượt thời gian kia rồi!...Dù còn rất xa, dù hình thù con tàu vẫn khuất tất, thì ánh sáng ''hiện đại'' chói lói, phản chiếu từ thân con tàu trong buổi sáng thu cổ đại đang vào trưa, làm cho con tàu như đã lồ lộ trước ''thanh thiên bạch nhật''...Vào thời đoạn mịt mùng trong binh đao rối loạn này mà hớ hênh thế thì thật nguy hiểm quá!...Vì vậy và cũng vì sự sốt ruột bấy lâu bỗng dưng bùng phát không kìm lòng được, chúng ta vội chạy như ''ma đuổi'' về phía (chắc như bắp là!!!) con tàu đang đậu...
            Sau này, cứ nghĩ đến khuôn mặt nhăn nhó cùng với điệu bộ hối thúc, múa may loạn xạ của ông trưởng tàu, chúng ta lại bật cười khùng khục!...

      ***

      (Còn tiếp)
      Xem tiếp...