"Chín năm làm một Điện Biên Nên vành hoa đỏ nên thiên sử vàng" Tố Hữu
__________________________________
Thứ sáu, 11/10/2013 11:58 GMT+7
Tướng Giáp qua góc nhìn của nhà tình báo
"Võ Nguyên Giáp trước sau như một, là
vị tướng của hòa bình và nhân dân", nguyên Cục trưởng Tình báo và Quân
báo Lê Trọng Nghĩa, trợ tá thân cận cho tướng Giáp năm 1946-1968, bày
tỏ.
Ở
tuổi 92, mái tóc bạc trắng, giọng run run, ông Nghĩa vẫn có thể khiến
người đối diện ấn tượng bởi ánh mắt sắc lẹm, từng lời nói chắc nịch và
kiên cường. Nhắc đến cụ Hồ, tướng Giáp, về cách mạng Việt Nam, ông nhớ
đến từng chi tiết nhỏ.
Ông Nghĩa xuất thân là một sinh viên khoa Luật, thông thạo nhiều thứ
tiếng. Năm 23 tuổi (tức 1945) ông làm thuyết khách gặp gỡ Trần Trọng
Kim, thuyết phục chỉ huy Nhật ở Trại Bảo an binh và tham gia đàm phán
với Tổng chỉ huy quân đội Nhật ở Hà Nội. Chia
sẻ về công việc của mình, ông nói: "Tôi theo dõi tất cả các vấn đề có
quan hệ tới đối phương như Pháp, Mỹ, và các nước khác có liên quan đến
cách mạng Việt Nam. Dựa vào những tin tức đó, Bộ Chính trị đưa ra chủ
trương, quyết sách".
Đại tá Lê Trọng Nghĩa - Nguyên Cục trưởng Tình báo và Quân báo. Ảnh: Phan Dương.
Giai đoạn Cách mạng Tháng 8, ông Nghĩa đại diện chính quyền Việt Minh
liên hệ với quân đội Nhật. Chủ trương lúc đó của Việt Nam là chỉ huy
quân giải phóng đánh vào quân Nhật đang co cụm ở Thái Nguyên để mở đường
Nam tiến. Ngày 23/8/1945 cách mạng thành công, ông Nghĩa thôi nhiệm vụ
này, việc liên lạc do Đại tướng Võ Nguyên Giáp chịu trách nhiệm. Đại
tướng ra lệnh ngừng trận Thái Nguyên, giao hảo với Bộ chỉ huy tối cao
của quân đội Nhật, tạo điều kiện để nhân dân cả nước giành chính quyền.
Nhờ đó, giải phóng quân vào chiếm lĩnh Hà Nội và làm hậu thuẫn để chính
quyền cả nước công khai ra mặt quốc dân ngày 2/9 trong bầu không khí hòa
bình, không xung đột, đổ máu.
Ngày 22/8/1945, Đại tướng Võ Nguyên Giáp cùng các ông Khuất Duy Tiến và Dương Đức Hiền tiếp
xúc với phái bộ đồng minh do đại tá Archimedes Patti dẫn đầu. Theo ông
Nghĩa, thời điểm này không có chức vụ chính thức nhưng Tướng Giáp đã làm
nhiệm vụ của một Bộ trưởng Ngoại giao. Chính ông gặp gỡ với tướng
Patti, và sau đó đưa đại diện phái bộ đồng minh đến gặp Chủ tịch Hồ Chí Minh. Cuộc gặp gỡ này được xem là hội nghị ngoại giao đầu tiên của nước ta.
Trong cuốn hồi ký "Why Vietnam?" (Tại sao Việt Nam) của đại tá Patti
(do Lê Trọng Nghĩa dịch) có kể lại rằng sau cuộc họp này ông Giáp đã
nói: “Đây là lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam mà Quốc kỳ nước chúng
tôi được trương trong một nghi lễ quốc tế (sánh ngang hàng với cờ 4 nước
đồng minh Mỹ, Anh, Liên Xô và Trung Quốc) và Quốc ca của chúng tôi được
cử hành để chào mừng một người nước ngoài. Tôi sẽ mãi mãi không
quên...". Khi ấy, ông Nghĩa giải thích, Quốc kỳ nước Việt tung bay ngang hàng với cờ 4 nước đồng minh Mỹ, Anh, Liên Xô và Trung Quốc.
Bằng 2 sự kiện đó, nhà tình báo Lê Trọng Nghĩa nhìn nhận Đại tướng Võ Nguyên Giáp không chỉ là ông tướng đánh trận mà còn là người gìn giữ hòa bình trong lúc đất nước hỗn loạn. "Với
tôi, ông Giáp là người đóng góp có tính chất quyết định cho việc xây
dựng đất nước Việt Nam độc lập và thống nhất ngay từ những ngày đầu",
ông Nghĩa nắm tay chắc nịch, khẳng định.
Cuộc gặp mặt giữa Đại tướng Võ Nguyên Giáp và đại diện quân đồng
minh Đại tá Patti được xem như hội nghị ngoại giao đầu tiên của Việt
Nam. Lần đầu tiên Quốc kỳ, Quốc ca nước Việt sánh ngang với các nước
trên thế giới. Ảnh tư liệu.
Năm 1950, ông Nghĩa được phong hàm đại tá và giữ chức Cục trưởng Cục
tình báo và quân báo Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Ông trở thành trợ
tá đắc lực của Đại tướng, nhất là trong trận Điện Biên Phủ "lừng lẫy năm
châu, chấn động địa cầu".
Trong chiến dịch Điện Biên Phủ 1954, lúc đầu Bộ Chính trị đã quyết định
phương án "đánh nhanh giải quyết nhanh". Tuy nhiên, thông tin tình báo
của ông Nghĩa cho thấy thực dân Pháp đã "nằm lòng" kế hoạch của chúng ta
và đã lên phương án tác chiến chỉ chờ quân ta nổ súng sẽ dập tắt. Tổng
tư lệnh chiến dịch Võ Nguyên Giáp đã hạ "quyết định khó khăn nhất cuộc
đời" là chuyển sang "đánh chắc tiến chắc".
Ký ức của ông Nghĩa nhớ rõ thời kỳ ấy, kế hoạch ban đầu là quân chủ lực
308 sẽ tấn công vào lòng chảo Điện Biên Phủ. Cân nhắc tình hình kế
hoạch bại lộ, ta đang nằm ở thế bị động nên tướng Giáp cho rút pháo ra
khỏi Điện Biên, đồng thời quân chủ lực rút sang Lào, đánh nghi binh hòng
phân tán lực lượng của Pháp - Mỹ. Nhưng ngay sau đó, Đại tướng lại
quyết định không đánh nghi binh mà đánh thật xuống tận Luông Pha Băng.
Phía Pháp nghĩ quân đội Tướng Giáp định cắt đôi Điện Biên, chiếm cả miền
Bắc nên phải thay đổi kế hoạch, phân tán lực lượng đi các nơi. Nhờ đó
Tướng Giáp đã chuyển tình hình từ thế bị động sang chủ động, nắm chắc
được phần thắng.
"Cái độc đáo của ông Giáp là chuyển sang phương án mới. Quan trọng nhất là nổi bật được tính độc lập trong tư tưởng và trí tuệ của Việt Nam. Điều này phản ánh ông Giáp là người học trò tiêu biểu và được tín nhiệm nhất của Chủ tịch Hồ Chí Minh", ông Nghĩa nhận định.
Cục trưởng Quân báo Lê Trọng Nghĩa đang báo cáo với Chủ tịch Hồ
Chí Minh và Bộ Chính trị về chiến dịch Biên giới 1950. Ông Nghĩa đứng
giữa Phạm Văn Đồng và Hoàng Quốc Việt. Ảnh tư liệu.
Những năm 1967-1968, ông Nghĩa gặp
những biến cố lớn, sự nghiệp cách mạng của ông dừng từ đó. Tận 22 năm
sau, lúc về già ông mới có cuộc hội ngộ với người chỉ huy của mình. Ông
nói chỉ cần đôi bên nhìn nhau đã rõ tất cả những nỗi đau phải chịu đựng
Đại tướng Võ Nguyên Giáp từ trần là một
nỗi đau lớn với người trợ tá thân cận này. Ông nói từng tiếng mạnh mẽ:
"Ông Giáp mất tác động rất sâu sắc đến tâm hồn, tình cảm của tôi. Sự ra
đi của ông Giáp là tiếng chuông rất quan trọng để nhắc nhở tôi là phải
nhớ đến và làm theo tấm gương của ông suốt đời kiên trì vì nền hòa bình,
độc lập của nước nhà".
Nhà tình báo Lê Trọng Nghĩa chia sẻ
thêm, sự ra đi của Đại tướng Võ Nguyên Giáp mang hướng tích cực, nhất là
trong thời điểm Hội nghị Trung ương VIII vừa diễn ra. "Mọi người dân đừng chỉ có thương tiếc không, cần phải nhìn theo gương ông Giáp mà làm vì một nước Việt Nam có hòa bình, phát triển một cách sâu rộng và vững chắc", nhà tình báo 92 tuổi tha thiết.
Hình ảnh vị tướng gần gũi với người lính, nhân dân đã in sâu vào tâm
khảm ông Nghĩa từ cái thời Tướng Giáp đội mũ phớt thành lập Đội Việt Nam
tuyên truyền giải phóng quân. "Tôi gọi ông ấy là Đại
tướng đội mũ phớt. Vinh quang của ông ấy không phải thể hiện ở Cách
mạng tháng Tám, trận Điện Biên Phủ, dìu dắt cách mạng đi qua hai cuộc
chiến tranh vĩ đại..., mà vinh quang suốt đời của ông Giáp là vì nền hòa
bình của Tổ Quốc", người cựu trợ lý Tướng Giáp chia sẻ.
Nguyên Cục trưởng Cục tình báo và quân báo Lê Trọng Nghĩa sinh năm
1922, từng mang các tên Đoàn Xuân Tín, giáo sư Lê Ngọc và sau cùng là Lê
Trọng Nghĩa. Trong đó Lê Trọng là tên của người thầy giáo đầu tiên của
ông, còn Nghĩa với ý là khởi nghĩa. Ngày 10/3/1945 ông Nghĩa được giao
trách nhiệm bảo vệ "thượng cấp" Trần Đăng Ninh vượt ngục Hỏa
Lò. 19/8/1945 ông là Ủy viên Ủy ban Khởi nghĩa Hà Nội.
Ngày 20/8/1945, Ủy viên Ủy ban Nhân dân cách mạng lâm thời trung
ương, kháng chiến bùng nổ, ông là chánh văn phòng Bộ Quốc
phòng. Năm 28 tuổi (1950) ông Nghĩa mang quân hàm đại tá, giữ
chức Cục trưởng Cục Quân báo. Năm 1954, ông Nghĩa 32 tuổi phụ trách
quân báo cho Sở chỉ huy mặt trận Điện Biên Phủ.
Từ sáng sớm ngày 10-10-1954. Nhân dân Thủ đô quần áo chỉnh tề, mang cờ,
ảnh Bác Hồ và những bó hoa tươi thắm, thành đội ngũ trật tự theo từng
công sở, xí nghiệp, trường học, khu phố... kéo tới những con đường được
báo trước là bộ đội hành quân qua.
Đoàn xe đầu tiên do thiếu tướng Vương Thừa Vũ, Chủ tịch Uỷ ban quân
chính và bác sĩ Trần Duy Hưng, Phó chủ tịch Uỷ ban Quân chính Hà Nội dẫn
đầu.
8 giờ: Cánh quân phía Tây xuất phát từ Quần Ngựa. Đó là những chiến sĩ
bộ binh của trung đoàn Thủ đô, do Trung đoàn trưởng Nguyễn Quốc Trị, anh
hùng quân đội dẫn đầu. Các chiến sĩ diễu binh qua Kim Mã, Hàng Đẫy, Cửa
Nam, Hàng Bông, Hàng Đào, Hàng Ngang... Đến 9 giờ 45 tiến vào Cửa Nam,
thành Hà Nội.
8 giờ 45 phút. Cánh quân phía Nam xuất phát từ Việt Nam học xá, tiến qua
Bạch Mai, phố Huế, vòng quanh Hồ Gươm rồi vòng lại chiếm lĩnh toàn bộ
khu vực Đồn Thuỷ và Đấu Xảo.
9 giờ 30 : Đoàn Cơ giới và pháo binh xuất phát từ Bạch Mai, qua Phố Huế;
10 giờ 15 đến Bờ Hồ, qua Hàng Đào, Hàng Ngang, Chợ Đồng Xuân, rẽ sang
đường Cửa Bắc, tiến vào thành lúc 10 giờ 45 phút.
15 giờ: Còi Nhà hát thành phố nổi lên một hồi dài. Mấy chục vạn quân dân
Hà Nội, đã trang nghiêm dự lễ chào cờ do Uỷ an quân chính tổ chức tại
sân vận động Cột Cờ với sự tham gia của các đơn vị quân đội. Sau lễ chào
cờ, Chủ tịch Uỷ ban Quân chính Vương Thừa Vũ đã trân trọng đọc lời kêu
gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi đồng bào Thủ đô nhân ngày giải phóng.
Mở đầu lời kêu gọi Bác viết: "Tám năm qua, Chính phủ phải xa rời Thủ đô
để kháng chiến cứu nước. Tuy xa nhau, nhưng lòng Chính phủ luôn luôn gần
cạnh đồng bào.
Ngày nay do nhân dân ta đoàn kết nhất trí, quân đội ta chiến đấu anh
dũng, hoà bình đã thắng lợi, Chính phủ lại trở về Thủ đô với đồng bào.
Muôn dặm một nhà, lòng vui mừng không xiết kể". (Trích từ Báo điện tử Đảng CS Việt Nam)
(Trích lược bài viết từ trang "Người đưa tin")
59 năm về trước, khi Thủ đô Hà
Nội được giải phóng, quét sạch bóng quân xâm lược, vị Anh hùng của dân
tộc - Đại tướng võ Nguyên Giáp đã đọc Nhật lệnh trước toàn thể nhân dân
và tham gia trong Lễ diễu binh mừng giải phóng.
Ngày ấy, các đơn vị Quân đội Nhân dân Việt Nam tiến vào từ 5 cửa ô, tiếp quản Thủ đô Hà Nội sau 9 năm bị tạm chiếm.
Sau 9 năm tạm chiếm, quân Pháp đã buộc phải rút quân và bàn giao cho Bộ đội Việt Nam tiếp quản Hà Nội.
Niềm
vui của các chiến sĩ ta trong ngày Hà Nội được giải phóng, nhân dân lại
được sống trong hòa bình, xây dựng đất nước phát triển, khẳng định chủ
quyền, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Hình
ảnh Đại tướng Võ Nguyên Giáp - người học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ
Chí Minh, đọc bản Nhật lệnh trên Quảng trường Ba Đình trong ngày Thủ đô
giải phóng.
“Không
phải chỉ có những người ra đi nhớ về Hà Nội, người ở lại
cũng trông đợi từng ngày người ra đi mau chóng trở về. Chiến
thắng Đông Xuân 1953-1954 và đại thắng ở Điện Biên Phủ đã mang
lại cuộc trùng phùng lịch sử”.Trong tập hồi ức Điện Biên
Phủ - Điểm hẹn lịch sử, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã viết những dòng như
vậy về cuộc giải phóng Thủ đô ngày 10/10/1954.
Đơn
vị được giao nhiệm vụ tiếp quản Thủ đô là Đại đoàn 308 với trung đoàn
Thủ đô – những người 8 năm trước đã quần nhau với xe tăng Pháp trong
từng ngôi nhà, góc phố ở Hà thành. Đại đoàn trưởng Vương Thừa Vũ lãnh
trách nhiệm chủ tịch ủy ban quân quản Hà Nội bên cạnh đồng chí Trần Duy
Hưng là chủ tịch thành phố Hà Nội từ đầu kháng chiến.
Trên đường
về tiếp quản Hà Nội, một số đại diện của Đại đoàn 308 được triệu tập tới
gặp Bác ở Đền Hùng. Tại đây Bác căn dặn cán bộ, chiến sĩ đại đoàn phải
triệt để chấp hành 8 chính sách của Chính phủ, 10 điều kỷ luật trong
quân đội, “không được xâm phạm đến cái kim sợi chỉ của dân”. Bác nhấn
mạnh phải tôn trọng dân và giúp đỡ dân, thực hiện thật tốt nhiệm vụ tiếp
quản Thủ đô. Cũng ở đây, cán bộ, chiến sĩ đại đoàn 308 được nghe câu
nói nổi tiếng của Bác: “Các vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta
phải cùng nhau giữ lấy nước”.
Ngày
9/10/1954, một số đơn vị của đại đoàn 308 vào trước tiếp quản các công
sở, nhà máy từ tay quân Pháp. Thành phố lúc này đang bị đặt dưới lệnh
giới nghiêm, không một bóng người, các ngôi nhà đều đóng kín cửa. Nhưng
bên trong cái không gian im lìm đó, nhân dân đang nô nức chuẩn bị để đón
anh bộ đội cụ Hồ trở về sau 8 năm luồn rừng lội suối gian khổ hy sinh. Trong
ngày đoàn quân về tiếp quản Thủ đô, Đại tướng Võ Nguyên Giáp còn ở phía
sau và sáng 11/10 mới vào thành nhưng ông vẫn liên lạc và nắm tình hình
xát sao. Có lẽ qua các báo cáo từ bộ phận đi trước, tướng Giáp vẫn nhớ
chi tiết không khí buổi tiếp quản thủ đô năm ấy. Trong hồi ức ông
kể: “ Một đơn vị tới Cầu Giấy làm thủ tục bàn giao. Những chiếc xe bọc
thép của quân Pháp chưa kịp quay đầu thì từ ngôi nhà tranh xiêu vẹo bên
đường đã xuất hiện một lá cờ đỏ sao vàng, những tiếng hô không biết từ
đâu nổi lên: Hồ Chủ tịch muôn năm! … Hoan nghênh các anh bộ đội trở về
giải phóng Thủ đô! Rồi những cánh cửa bật mở, bà con ùa ra, xúm xít
chung quanh các chiến sĩ tủi tủi mừng mừng. Chỉ trong giây lát, cả dãy
phố nghèo ở ngoại ô đã đỏ rực màu cờ”.
Hà Nội ngày Giải phóng 10/10/1954. Trần Vũ
(Từ VnExpress) Lễ viếng Đại tướng sẽ kéo dài gần 14 giờ
Lễ viếng chính thức Đại tướng Võ Nguyên Giáp sẽ kéo dài liên tục từ 7h30 sáng tới 21h ngày 12/10.
Ngày 9/10, Ban tổ chức Lễ Quốc tang Đại tướng Võ Nguyên Giáp ra thông
báo về lễ viếng ở Hà Nội, Quảng Bình và TP HCM. Theo lịch trình, tại Nhà
tang lễ Quốc gia số 5 Trần Thánh Tông (Hà Nội), lễ viếng bắt đầu từ
7h30 đến 21h ngày 12/10.
Vào buổi sáng, thứ tự các đoàn viếng gồm Ban Chấp hành Trung ương, Ủy
ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Ủy ban Trung ương MTTQ
Việt Nam, Quân ủy Trung ương, gia quyến Đại tướng Võ Nguyên Giáp, các
lãnh đạo, nguyên lãnh đạo cấp cao của Đảng, Nhà nước.
Dòng người từ khắp mọi miền Tổ quốc xếp hàng vào viếng Đại tướng Võ Nguyên Giáp tại tư gia. Ảnh: Nguyên Anh.
Tiếp đó là các đoàn của lãnh đạo cấp cao nước ngoài; Thành ủy, HĐND,
UBND, UBMTTQ thành phố Hà Nội; Bộ Quốc phòng, Bộ Công an; các đoàn quốc
tế và ngoại giao. Đoàn viếng cuối cùng được xếp lịch vào buổi sáng là
Cựu chiến binh Việt Nam.
Vào buổi chiều, từ 12h đến 14h là các đoàn viếng của các tỉnh, thành
phố; 14h đến 15h các đoàn viếng của các ban, bộ, ngành đoàn thể Trung
ương.
Trong 6 giờ còn lại, 15h đến 21h là các đoàn viếng còn lại và các cá nhân.
Tại tỉnh Quảng Bình, lễ viếng được tổ chức tại trụ sở UBND tỉnh để các
cơ quan, đơn vị, cá nhân; các đoàn ngoại giao và quốc tế khu vực miền
Trung đến viếng và dự lễ truy điệu. Tại TP HCM, lễ viếng được tổ chức
tại Hội trường Thống Nhất để các cơ quan, đơn vị, cá nhân; các đoàn
ngoại giao và quốc tế khu vực miền Nam đến viếng. Thời gian tổ chức lễ
viếng ở hai địa điểm này đồng thời với Hà Nội.
Ngày 13/10, lễ truy điệu bắt đầu lúc 7h. Sau đó, linh cữu Đại tướng sẽ được đưa bằng máy bay từ Hà Nội về Quảng Bình an táng.
Để giúp tiếp nhận thông tin liên quan đến lễ tang và cung cấp thông tin
chính thức, Ban tổ chức Lễ tang thành lập bộ phận thường trực giúp việc
tiếp nhận thông tin tại số 51B, Phan Đình Phùng (Ba Đình, Hà Nội).
Nguyễn Hưng
VỀ QUÊ:
+ Thượng tướng Nguyễn Huy Hiệu cho biết Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã tiên liệu trước được ngày ra đi của mình: "Dịp tết Nguyên Đán năm
2008, tôi chúc Đại tướng sống lâu trăm tuổi. Đại tướng liền giơ tay ra
hiệu, tôi hiểu động tác đó tỏ ý chưa hài lòng với lời chúc. Tôi liền chúc lại rằng,
chúc Đại tướng sống trên trăm tuổi. Khi đó Đại tướng mới tỏ vẻ hài lòng,
tươi cười nhận bó hoa tôi tặng, rồi Đại tướng cùng chúng tôi chụp một
bức ảnh kỷ niệm. Lúc đó Đại tướng mới ghé vào tai tôi nói nhỏ: 'Có người nói tôi sẽ sống 103 tuổi. Đồng chí hãy nghiệm xem có đúng không nhé'. Sau hôm ấy tôi đã nhiều lần nói với mọi người về chuyện này. Vậy mà, Đại tướng ra đi đúng tuổi 103"
+ Đại tướng qua đờilúc 18h09 ngày 4/10 tại Viện quân y 108 (Hà Nội) khi ông vừa bước sang tuổi 103 chưa lâu.
+ Nơi an nghỉ cuối cùng:
Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã đích thân chọn nơi an nghỉ cho mình tại quê hương Quảng Bình từ năm 2006, đó là Vũng Chùa - Đảo Yến thuộc huyện Quảng Trạch.
Khu vực Vũng Chùa được bao bọc bởi đảo Hòn La, Hòn Gió và Hòn Nồm. Vũng Chùa là vũng biển nhỏ, có bờ cát trắng và bằng phẳng, sóng êm dịu,
được hình thành bởi một triền núi đá đâm ra biển, người dân địa phương
gọi là mũi Rồng.Vị
trí an táng có cao độ 110 m, trên núi Vũng Chùa; trước mặt là Đảo Yến
nằm cách bờ khoảng 500 mét; phía tây là điểm cao 136 (núi Sú); phía bắc
là dãy núi cao chắn giữ những cơn gió mùa Đông Bắc; phía đông là Mũi
Rồng nhô ra biển.
+ Vùng biển hoang sơ Đảo Yến.
+ Tháp chuông trong khu vực an táng, phía xa là đảo Yến
+ Điểm cao 130 - nơi chôn cất Đại Tướng
+Theo Trần Hữu Thắng (trên G+):
"(...). Rất may mắn, năm 2006 mình về quê theo chân gia đình Cụ (tướng Giáp) đi thăm Cảng Hòn La. Chắc Cụ đọc rất nhiều tài liệu, nên biết phong thủy ở đây rất thiêng
liêng vì là nơi dãy Hoành Sơn đâm ra biển với ba mũi, là nơi nhô
ra biển xa nhất của đất nước hình chữ S (mở bản đồ sẽ thấy). Nói
xa hơn, nơi đây cách cả ngàn năm trước, người Tàu đã xây miếu, chùa và có nhiều
mộ quân Tàu trấn yểm nhưng đã bị phá từ rất lâu. Sau đó, có một thầy địa
lý phán rằng chỉ có một người có công lao rất lớn với Dân Tộc mới được
an cư ở đây (và lúc đó, sẽ có điềm tốt cho Dân Tộc). Điều đó được truyền lại cho
các thế hệ nơi đây, nhưng họ chỉ biết đó là vùng đất linh thiêng, nên cũng chỉ
khuyên bảo con cháu khi đến vùng đất đó không được nói bậy, tiểu tiện
kẻo bị thần linh trách mắng. Cho nên dù là thung lũng đẹp, trù phú nhưng
không ai dám khai khẩn, đến cả đem gia súc vào đó cũng không dám. Chắc là thần linh đã mách bảo cho Cụ! (...) Đất ở đó rất lành, con người hiền hòa, trên núi đầy trái sim chín mọng,
phong cảnh rất nên thơ, gần đó lại có đền thờ và mộ của công chúa Liễu Hạnh, có cổng Hoành Sơn Quán nổi tiếng với bao nhiêu bài thơ trứ danh, ví như của Bà huyện Thanh Quan (...)".
+ Một góc cảng Hòn La:
+ Hoành Sơn (núi ngang) là một dãy núi ở phía nam tỉnh Hà Tĩnh, phía bắc tỉnh Quảng Bình. Hoành Sơn và sông Gianh là biểu trưng lịch sử, văn hóa, địa lý của tỉnh Quảng Bình. Hoành Sơn dài 50 km, chạy từ dãy Trường Sơn ở phía tây ra Biển Đông. Đỉnh cao nhất trong dãy núi có độ cao tuyệt đối là 1044 m.
Trước kia, muốn vượt qua dãy núi này, người ta thường phải đi lên đèo
Ngang cao tới 256 m và dài tới 6 km rất khó đi. Từ tháng 8 năm 2004, một
hầm đường bộ được hoàn thành giúp cho việc đi lại giữa Quảng Bình và Hà
Tĩnh trở nên thuận tiện hơn. Vào thế kỷ XVII, Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm đã nói với sứ của Nguyễn Hoàng rằng "Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân".
Hôn em, hôn em thật nhiều (Hôn em thật nhiều)
Khúc ca năm xưa em hát dành tặng anh
Hôn em, hôn em thật nhiều (Hôn em thật nhiều)
Như một câu chuyện tình yêu không phôi phai
Bài hát được cất lên nơi những con phố
Dưới bầu trời không tên và khắp nước Pháp
Lắm lúc tưởng đã bị lãng quên
Và khi ta yêu nhau bài hát lại được cất lên
Hôn em, hôn em thật nhiều (Hôn em thật nhiều)
Nếu trong một đất nước khác, đó có nghĩa là “Hôn em”
Hôn em, hôn em thật nhiều (Hôn em thật nhiều)
Suốt cuộc đời em, em sẽ hát khúc ca này cùng anh
Đôi ta không đòi hỏi gì ở tình yêu
Không phải những lời thề, không phải là những cảnh đẹp
Tình...
Bésame Mucho là một bài hát Mexico sáng tác bởi Consuelo
Velázquez năm 1940, trước sinh nhật thứ 16 của cô. Theo lời Velázquez,
cô lấy cảm hứng viết bài hát từ một đoạn trong vở opera Tây Ban Nha viết
bởi Enrique Granados- nhà soạn nhạc cổ điển, nghệ sĩ dương cầm, đồng
thời cũng là một hoạ sĩ.
Bài hát thoạt tiên được thu âm bởi Emilio Tuero, và sau đó được rất
nhiều nghệ sĩ khác biểu diễn, trong đó có cả The Beatles. The Beatles
chơi "Bésame Mucho" cùng 14 bài hát khác trong một lần thu âm không mấy
thành công (Paul McCartney hát chính) cho hãng Decca Records tháng 1 năm
1962 . Đến tháng 6 năm 1962, ban nhạc lại chơi "Bésame Mucho" cho lần
thu âm với hãng EMI. Chương trình biểu diễn tháng 6 với tay trống đầu
tiên Pete Best của The Beatles được đưa vào album tuyển tập Anthology 1.
Bài "Bésame Mucho" cũng được đưa vào phim tài liệu Let It Be.
Bản nhạc kể trên được sử dụng làm nhạc nền cho rất nhiều bộ phim như
Great Expectations, A toda máquina, Moon Over Parador, Sueños de
Arizona, Arizona Dream, Moscow Does Not Believe In Tears, The Naked Gun
2½: The Smell of Fear, In Good Company and Mona Lisa Smile. Bài hát cũng
được ca sĩ Sanjaya Malakar trình diễn trong cuộc thi tài năng âm nhạc
"American Idol" by Sanjaya Malakar ngày 10 tháng 4 năm 2007.
Bài hát cũng được biết tới với các tên dịch sang tiếng khác như "Kiss Me
Much", "Kiss Me a Lot", "Kiss Me Again and Again", "Embrasse-Moi" and
"Stale Ma Bozkavaj".
Yêu Nhau Đi (Lời Việt Trường Kỳ)
Yêu nhau đi, đời có nghĩa chi
Yêu nhau đi ta lo chi cho đôi mi thêm phai úa màu..
Ta yêu nhau... cớ sao em âu sầu?
Phút giây này có bao giờ
Đến với đời ta hai lần đâu...
Nơi đây đêm nay ta cùng vui say sưa
Trong niềm hoan ca hòa ngàn câu ân ái
Yêu nhau đi em trong triền miên bao la
Trong hồn nhiên say trong đắm đuối ngất ngây...
Yêu nhau đi, mình không nên tiếc chi
Trao nhau đi muôn môi hôn bao đam mê trong say đắm này
Ta yêu nhau... có trăng sao trên trời
Chiếu muôn ngàn ánh soi tình
Chúng ta bừng như sắc hồng...
Nhà khoa học tìm ra 'Hạt của Chúa' giành giải Nobel Vật lý 2013
Nhà vật lý học Peter Higgs, người
Anh, và Francois Englert, người Bỉ, vừa được công bố giành giải Nobel
Vật lý năm nay với công trình nghiên cứu lý thuyết về 'hạt của Chúa'.
Francois Englert và Peter Higgs, chủ nhân của giải Nobel Vật lý 2013. Ảnh: AFP
Francois Englert và Peter Higgs vinh
dự được nhận giải thưởng Nobel Vật lý 2013 với công trình nghiên cứu xác
định và phát hiện ra hạt Higgs, hay còn gọi là "hạt của Chúa", BBC đưa tin.
Việc phát hiện ra hạt Higgs, một loại hạt hạ nguyên tử, có thể giúp
loài người giải thích nguyên nhân tại sao mọi dạng vật chất trong vũ trụ
có khối lượng. Không chỉ có ý nghĩa đối với vũ trụ, với hạt Higgs, con
người sẽ có thêm nguồn năng lượng mới, giúp tạo nên những thành tựu công
nghệ đột phá trong giao thông và viễn thông.
Francois Englert, 80 tuổi, hiện là giáo sư danh dự tại trường Đại học
Libre de Bruxelles nói ông "rất vui và vinh dự" khi nhận được giải
thưởng này.
Professor Higgs, 84 tuổi, giáo sư vật lý của Trường Đại học Edinburgh,
bày tỏ: "Tôi rất bất ngờ khi nhận được giải thưởng này. Tôi rất cảm ơn
Viện Hàn lâm Khoa học hoàng gia Thụy Điển".
Peter Higgs và Englert sẽ chia sẻ phần thưởng trị giá 1,2 triệu USD tại lễ trao giải thưởng tại Stockholm, Thụy Điển, vào ngày 10/12, ngày mất của người sáng lập giải Alfred Nobel.
Một số nhà vật lý dự đoán sự tồn tại của hạt Higgs trong thập niên 60.
Năm 1964, Peter Higgs là người đầu tiên công bố giả thuyết về hạt Higgs.
Cơ chế dự đoán Higgs cuối cùng được phát hiện ra vào năm 2012 tại Large
Hadron Collider, Thụy Sĩ.
Hình mô phỏng quá trình tìm kiếm hạt Higgs bằng cách cho các luồng
hạt proton va chạm trực diện với tốc độ cực lớn trong máy gia tốc. Ảnh: Tamu.edu
Thùy Linh
Thứ tư, 20/2/2013 14:01 GMT+7
Vũ trụ có thể biến mất vì 'hạt của Chúa
Vào tháng 7 năm ngoái, các nhà vật lý của Tổ chức Nghiên cứu Nguyên tử châu Âu (CERN) thông báo họ đã tìm được một loại hạt có đặc tính
giống hạt Higgs, loại hạt tạo ra khối lượng cho vật chất trong vũ trụ,
nhờ cỗ máy gia tốc hạt lớn (LHC). Họ vẫn tiếp tục thu thập thêm dữ liệu
để chứng minh hạt mới chính là hạt Higgs.
Việc chứng minh loại hạt mới là hạt Higgs chẳng những
giúp giới khoa học tìm ra cách giải thích khối lượng của vật chất, mà
còn cho phép họ đưa ra những tính toán mới về vũ trụ. Chẳng hạn, khối
lượng của hạt mới tương đương khoảng 126 lần khối lượng hạt proton - một
con số vừa đủ để gây nên trạng thái bất ổn trong vũ trụ.
Trong hội nghị thường niên của Hiệp hội Khoa học Cao
cấp Mỹ vào ngày 18/2, ông Joseph Lykken, một nhà vật lý lý thuyết của
Phòng thí nghiệm Máy gia tốc quốc gia Fermi (Fermilab) tại Mỹ, tuyên bố
rằng hạt Higgs là điềm báo xấu về số phận của vũ trụ, Livescience đưa tin.
"Theo tính toán của chúng tôi, vũ trụ luôn ở trong
trạng thái bất ổn. Do không ổn định nên sau vài tỷ năm nữa, vũ trụ sẽ
diệt vong", Lykken nói.
Giới khoa học cho rằng hạt Higgs hiện diện ở mọi nơi.
Vì thế nó tác động tới khoảng trống không-thời gian (gồm ba chiều không
gian và một chiều thời gian) trong vũ trụ.
"Khối lượng hạt Higgs liên quan tới mức độ ổn định của
khoảng trống ấy. Nếu khối lượng của hạt Higgs chỉ tăng hoặc giảm một
chút, vũ trụ sẽ không diệt vong", Christopher Hill, một nhà vật lý lý
thuyết của Fermilab, giải thích.
Minh Long
Thứ bảy, 7/7/2012 11:55 GMT+7
'Tôi chưa biết loài người sẽ làm gì với hạt của Chúa'
Ông Peter Higgs nói chuyện với các nhà báo tại Đại học Edinburgh, Anh hôm 6/7. Ảnh: Telegraph.
Ngày
4/7, Tổ chức Nghiên cứu Nguyên tử châu Âu (CERN), công bố bằng chứng về
sự tồn tại của một hạt có đặc điểm giống hạt Higgs - mục tiêu săn lùng
của khoảng 5.000 nhà khoa học trong suốt 45 năm qua. Hai ngày sau, giáo
sư Peter Higgs tham gia một buổi phỏng vấn trước các nhà báo tại Đại học
Edinburgh - nơi ông từng công bố giả thuyết về "hạt của Chúa", Telegraph đưa tin.
Lý thuyết của Higgs đã giúp các nhà vật lý tìm ra loại
hạt hạ nguyên tử có những đặc điểm giống hạt Higgs. Sau một khoảng thời
gian nữa, rất có thể các nhà vật lý của CERN sẽ chứng minh được hạt mới
chính là “hạt của Chúa”.
Theo Higgs, nếu coi vũ trụ bao la là một tòa nhà thì
hạt Higgs chính là những viên gạch tạo nên tòa nhà ấy. Theo Higgs, “hạt
của Chúa” chỉ tồn tại trong một phần triệu tỷ tỷ giây. Vì thế phát hiện
nó là một trong những việc khó nhất trên đời.
Vị giáo sư 83 tuổi nói rằng thời gian tồn tại của hạt quá ngắn nên ông không thể đoán con người sẽ làm gì với nó.
“Nó chỉ tồn tại trong khoảng một phần triệu tỷ tỷ
giây. Tôi không biết các bạn có thể tìm ra ứng dụng hữu ích nào đó đối
với nó”, ông nói.
Higgs nói nhiều hạt cơ bản khác tồn tại lâu hơn “hạt
của Chúa”, song biến chúng thành ứng dụng thực tế vẫn là thách thức lớn.
“Tôi không biết người ta có thể tạo ra ứng dụng từ những thứ có vòng
đời siêu ngắn bằng cách nào”, ông thừa nhận.
Song Alan Walker, một nhà nghiên cứu về vật lý và
thiên văn của Đại học Edinburgh, dự đoán những ứng dụng thiết thực liên
quan tới hạt Higgs sẽ ra đời. Theo Walker, khi giới khoa học phát hiện
ra electron (điện tử), nhiều người cũng từng lo ngại rằng chúng sẽ chẳng
mang lại lợi ích nào.
Richard Kenway, trưởng khoa Vật lý và Thiên văn của
Đại học Edinburgh, nói rằng chúng ta có thể ví hạt Higgs như mảnh cuối
trong trò chơi ghép hình để con người có thể hiểu các hạt cơ bản, song
hạt Higgs chỉ chiếm khoảng 4% thành phần vũ trụ.
Hạt Higgs giúp loài người giải thích tại sao các hạt
cơ bản (như quark, lepton, boson) có khối lượng – một đặc tính cho phép
chúng liên kết với nhau nhờ lực hấp dẫn để tạo nên các ngôi sao, hành
tinh, nước, đá, khí. Nếu các hạt cơ bản không có khối lượng, chúng sẽ
chuyển động hỗn độn trong vũ trụ với vận tốc ánh sáng và chẳng tạo nên
bất kỳ dạng vật chất nào. Trong trường hợp đó vũ trụ sẽ là một khối hỗn
loạn giống như bát súp.
Suốt 48 năm qua, giáo sư Higgs luôn tin rằng một ngày
nào đó các nhà khoa học sẽ chứng minh được sự tồn tại của hạt Higgs. Mặc
dù vậy, ban đầu ông không nghĩ rằng các đồng nghiệp sẽ tìm ra hạt Higgs
khi ông còn sống.
Minh Long
Thứ tư, 4/7/2012 11:56 GMT+7
Vì sao con người truy lùng 'hạt của Chúa'?
Các chính phủ trên khắp thế giới đổ
hàng chục tỷ USD cho nỗ lực tìm kiếm hạt Higgs trong thập kỷ qua bởi nó
có thể làm sáng tỏ nhiều hiện tượng mà con người chưa thể giải thích.
Hàng tỷ USD đã được đổ vào các thử nghiệm trong máy gia tốc hạt lớn của CERN tại châu Âu. Ảnh: Discovery News.
Vào
một ngày đẹp trời, bạn bước lên bàn cân để kiểm tra khối lượng cơ thể.
Kim của bàn cân nhích tới số 60. Con số đó chính là lực hấp dẫn mà trái
đất tác động lên cơ thể bạn. Lúc ấy, rất có thể bạn sẽ đặt câu hỏi: Tại
sao mọi sự vật có khối lượng nhưng ánh sáng không có? Cái gì khiến cơ
thể bạn có khối lượng?
AP cho biết, trong nhiều năm qua, giới khoa
học dựa vào giả thuyết về một loại hạt để giải thích khối lượng của mọi
vật trong vũ trụ. Đó là hạt Higgs. Leon Lederman, một nhà nghiên cứu
từng đoạt giải Nobel Vật lý, gọi hạt Higgs là "hạt của Chúa". Ngày nay
"hạt của Chúa" là thuật ngữ được sử dụng khá phổ biến.
Peter Higgs, một nhà vật lý người Anh, là người đầu
tiên đưa ra giả thuyết về sự tồn tại của hạt Higgs trong thập niên 60
của thế kỷ trước. Nó là mảnh ghép còn thiếu trong Mô hình chuẩn – một
trong những giả thuyết vật lý được chấp nhận rộng rãi nhất trong việc
giải thích mọi hiện tượng trong vũ trụ. Tuy là lý thuyết thành công, Mô
hình chuẩn không giải thích được hiện tượng một số loại hạt (như photon)
không có khối lượng, trong khi các loại hạt khác có khối lượng với mức
độ không giống nhau. Nếu mọi hạt không có khối lượng, chúng sẽ di chuyển
trong vũ trụ với tốc độ của ánh sáng và không thể liên kết với nhau để
tạo nên khí, nước, hành tinh, ngôi sao và các dạng vật chất khác.
Giới khoa học tin vào sự tồn tại của hạt Higgs trong
hơn 4 thập kỷ qua, song họ chưa bao giờ tìm thấy bằng chứng thực nghiệm
về nó. Để tìm ra bằng chứng, người ta phải đập vỡ các hạt cơ bản (như
proton) rồi tìm kiếm hạt Higgs trong đống mảnh vỡ ấy. Các hạt cơ bản chỉ
vỡ nếu chúng va vào nhau với vận tốc cực lớn. Chỉ những cỗ máy gia tốc
khổng lồ mới có khả năng tạo ra lượng năng lượng đủ lớn để gây va chạm
mạnh giữa các hạt. Tổ chức Nghiên cứu Nguyên tử châu Âu (CERN) và Phòng
thí nghiệm Máy gia tốc Quốc gia Fermi (Fermilab) tại Mỹ đã tạo ra những
cỗ máy như vậy. Nhưng hạt Higgs chỉ tồn tại trong thời gian cực ngắn. Vì
thế, để chứng minh sự tồn tại của chúng, các nhà vật lý chỉ có thể dựa
vào những dấu vết mà chúng để lại sau mỗi vụ va chạm giữa các hạt cơ
bản. Các nhà vật lý của CERN và Fermilab đã thực hiện hàng nghìn tỷ vụ
va chạm giữa các hạt để thu thập dữ liệu trong hơn 10 năm qua.
Để tìm ra hạt Higgs, các nhà khoa học phải đập vỡ các hạt cơ bản bằng cách cho chúng lao vào nhau với tốc độ cực lớn. Ảnh: MSNBC.
Nếu
các nhà vật lý chứng minh được sự tồn tại của hạt Higgs, họ cũng sẽ đập
tan những luận điệu hoài nghi về sự tồn tại của vật chất tối - thứ có
thể chiếm tới 3/4 thành phần vũ trụ. Nhưng hạt Higgs không chỉ có ý
nghĩa đối với vũ trụ xa xôi, mà còn mang đến nhiều lợi ích cho cuộc sống
trên địa cầu.
"Với hạt Higgs, loài người sẽ có thêm một nguồn năng
lượng mới và dồi dào. Ngoài ra hạt Higgs còn có thể giúp con người tạo
nên những thành tựu công nghệ đột phá trong giao thông và viễn thông",
Michio Kaku, một nhà vật lý của Đại học City tại Mỹ, phát biểu.
Hôm qua giới truyền thông đưa tin CERN đã mời Peter
Higgs và 4 nhà vật lý hàng đầu thế giới tham dự một cuộc họp của họ tại
thành phố Geneva, Thụy Sĩ. Động thái này khiến giới quan sát hy vọng
CERN sẽ công bố bằng chứng xác thực về sự tồn tại của hạt Higgs.
Các nhà vật lý hạt luôn giữ thái độ vô cùng cẩn trọng
đối với mọi phát hiện, mặc dù họ khẳng định xác suất nhầm lẫn về mặt số
liệu chỉ là 1/1,7 triệu. Do quá trình tìm kiếm hạt Higgs diễn ra ở cả Mỹ
và châu Âu nên xác suất này giảm xuống còn 1/16.000. Tuy nhiên, cách
thức kết hợp dữ liệu của hai nhóm nghiên cứu đang là vấn đề mà dư luận
quan tâm.
"Kết hợp dữ liệu từ hai thử nghiệm về hạt là công việc
phức tạp. Đó là nguyên nhân khiến nó tiêu tốn nhiều thời gian và cũng
là lý do khiến chúng tôi không công bố kết quả kết hợp dữ liệu của CERN
và Fermilab hôm 4/7", James Gillies, người phát ngôn của CERN, tuyên bố.
'Vị tướng già' - bài thơ lấy nguyên mẫu từ Tướng Giáp
"Một chân ông
đã đặt vào lịch sử / Một chân còn vương vấn với mùa thu", hai câu kết
bài thơ ra đời gần 20 năm trước của Anh Ngọc, nay được hàng triệu người
tìm thấy sự đồng cảm trong những ngày tiễn đưa Đại tướng.
Những ngày thu 2013, như cách đây 44 năm khi Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời, người dân Việt Nam lại rơi nước mắt trước sự ra đi của Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Trước nhà ông ở 30 Hoàng Diệu, Hà Nội những ngày qua, từng đoàn người lặng lẽ nối nhau viếng Tướng Giáp.
Bao nhiêu thế hệ già, trẻ - những người còn lại sau hai cuộc chiến
tranh, những người lớn lên trong thời bình - đã rơi nước mắt trước nỗi
đau chung.
Trong những ngày này, những vần thơ trong bài “Vị tướng già” của nhà
thơ Anh Ngọc được nhiều người tìm đọc lại. Họ đồng cảm bởi ở đó có hình
ảnh giản dị của một vị tướng đã để lại những năm tháng trai trẻ - với
những chiến công oanh liệt, vào sinh ra tử cùng vận mệnh đất nước - sau
lưng. Cuối đời, giã từ trận mạc, trút bỏ công danh, ông là con người
bình thường, trầm mặc đối diện với thời gian và nỗi cô đơn trước lẽ sinh
tồn. Những đối thủ của ông đã chết từ lâu
Bạn chiến đấu cũng chẳng ai còn nữa
Ông ngồi giữa thời gian vây bủa
Nghe hoàng hôn chầm chậm xuống quanh mình.
Những câu thơ đầu tiên hiện lên hình ảnh một con người ngồi lặng im
giữa thế kỷ đang trôi về phía trước. Đồng đội, bạn bè, cả những người
không cùng chiến tuyến thuộc thế hệ ông như những cột mốc cây số lùi lại
sau lưng. Trong cách hình dung của nhà thơ, bóng thời gian đổ xuống,
khiến hình ảnh trầm lặng của vị tướng già hiện lên rõ nét hơn.
Nhà thơ Anh Ngọc (áo trắng) - trong buổi gặp gỡ Đại tướng Võ Nguyên Giáp năm 1994. Ảnh tư liệu.
Cũng vào mùa thu, tháng 9/1994, bài thơ “Vị tướng già” ra đời. Nhà thơ
Anh Ngọc cho biết, tháng 4/1994, nhà văn Lê Lựu và nhà thơ Trần Đăng
Khoa đến gặp Đại tướng Võ Nguyên Giáp để viết bài chuẩn bị cho số kỷ
niêm 40 năm chiến thắng Điện Biên Phủ của Tạp chí Văn Nghệ Quân Đội.
Vì cần người chụp hình, Lê Lựu đã gọi cho Anh Ngọc nhờ tìm gấp một
phóng viên ảnh. Khi đó, nhà thơ Anh Ngọc đã gọi cho phóng viên ảnh Lê
Nhật của báo Quân Đội Nhân Dân và chở Lê Nhật bằng xe máy tới
nhà Tướng Giáp. “Tôi đèo Lê Nhật tới nhà Đại tướng, khi tới nơi tôi đứng
ngoài cổng. Chỉ một, hai phút sau, Lê Nhật hộc tốc chạy ra nói, Đại
tướng mời tôi vào”.
Cuộc gặp gỡ bất ngờ, xúc động hoàn toàn nằm ngoài tưởng tượng của nhà
thơ Anh Ngọc. Suốt buổi hôm đó, trong khi những người còn lại phải làm
việc thì Anh Ngọc chỉ ngồi quan sát vị tướng tài ba. Hình ảnh Tướng Giáp
trong buổi trò chuyện đã trở thành cảm hứng để ông viết “Vị tướng già”. Bàn chân đi qua hai cuộc chiến tranh
Giờ chậm rãi lần theo dấu gậy
Đôi bàn tay nhăn nheo run rẩy
Đã từng gieo khủng khiếp xuống đầu thù.
Nhà thơ Anh Ngọc cho biết, nguyên mẫu của ông là Tướng Giáp nhưng vị
tướng trong bài thơ không hoàn toàn là một Tướng Giáp cụ thể bằng xương
bằng thịt ngoài đời, mà là một vị tướng của nghệ thuật. Bài thơ được
viết năm 1994. Khi ấy Tướng Giáp mới hơn 80 tuổi. Theo tác giả, Tướng
Giáp mà ông gặp khi đó không chống gậy. Xây dựng hình ảnh “chậm rãi lần
theo dấu gậy” là một sự đối lập hóa hai chân dung của một con người -
một tướng lĩnh xông pha trận mạc thời trẻ và một con người bình thường
trong cuộc sống ở cuối chân dốc cuộc đời. Trong góc vườn mùa thu
Cây lá cũng như ông lặng lẽ
Tám mươi tuổi ông lại như đứa trẻ
Nở nụ cười ngơ ngác thơ ngây.
Không còn ồn ào, náo nhiệt, không còn âm vang của những cuộc chiến thần
tốc, bách chiến bách thắng, người ngồi đó lặng lẽ như cây lá, hiền hòa
như trẻ thơ. Một sự bình thản toát lên trong bóng dáng của người từng
chỉ huy cả dân tộc chiến thắng thực dân Pháp và đế quốc Mỹ.
Nhà văn Anh Ngọc kể, trong con mắt của ông từ thuở bé, Đại tướng luôn
là một con người vĩ đại, được nhân dân cả nước phục và kính trọng. Vậy
mà, trong buổi gặp, hiện ra trước mắt nhà thơ không phải một con người
trịnh trọng, đường bệ, xa cách mà hiền lành, gần gũi... Anh Ngọc đặc
biệt ấn tượng ánh mắt của Đại tướng Võ Nguyên Giáp. “Đại tướng có ánh
mắt của một nhà thơ” - Anh Ngọc nói - "Nhà phê bình Viên Mai đời Thanh
của Trung Quốc từng nói, con người có tâm hồn cao quý là đã có phẩm chất
của một nhà thơ, một nghệ sĩ". Theo nhà thơ, ánh mắt Đại tướng toát lên
điều đó. Ông ra đi
Và...
Ông đã về đây
Đời là cuộc hành trình khép kín
Giữa hai đầu điểm đi và điểm đến
Là một trời nhớ nhớ với quên quên.
Những vui buồn chưa kịp gọi thành tên
Cõi nhân thế mây bay và gió thổi
Bầy ngựa chiến đã chân chồn gối mỏi
Đi về miền cát bụi phía trời xa.
Cuối đời, như di nguyện cuối cùng, Đại tướng Võ Nguyên Giáp trở về yên nghỉ tại quê nhà
Quảng Bình. “Ai cũng muốn về nhà bố mẹ, ngồi dưới hiên nhà, ăn bát cơm
của bố mẹ. Là con người thì ở đâu rồi cũng phải hướng về quê hương”, Anh
Ngọc dường như đã nhìn thấy tâm nguyện giản dị và đời thường đó của vị
tướng già khi đặt bút viết những câu thơ trên. Giờ đây, ứng chiếu với
"cuộc trở về cuối cùng" của Tướng Giáp, dường như Anh Ngọc đã đúng. "Đời
là cuộc hành trình khép kín". Ra đi rồi cũng trở về, trong vòng tay yêu
thương của đất mẹ.
Anh Ngọc lý giải, trong khi nhiều người muốn anh hùng hóa một con
người, nhà thơ muốn đời thường hóa một vị anh hùng. Trên hết, ông là vị
tướng với cái tâm, cái tài khiến mọi người cảm phục và kính trọng, nhưng
ông cũng là một con người, có đủ vui, buồn, hỷ, nộ, ái, ố.
Trần Đăng Khoa (trái) và Lê Lựu (phải) trong cuộc trò chuyện với Tướng Giáp.
Ru giấc mơ của vị tướng già
Có tiếng khóc xen tiếng cười nức nở
Một chân ông đã đặt vào lịch sử
Một chân còn vương vấn với mùa thu.
Những câu thơ của Anh Ngọc góp phần tạc một tượng đài vị tướng già vào lịch sử thi ca Việt Nam.
Trong bài viết mới nhất, nhà thơ Anh Ngọc so sánh Đại tướng - nguyên
mẫu trong bài thơ của ông - với Phật hoàng Trần Nhân Tông - người ba lần
đánh bại quân Nguyên rồi lên núi đi tu. Theo Anh Ngọc, minh triết
phương Đông giúp Đại tướng trở thành một con người vô cùng giản dị, đi
đến tận cùng của lẽ đạo và đời.
Vị tướng già Những đối thủ của ông đã chết từ lâu
Bạn chiến đấu cũng chẳng ai còn nữa
Ông ngồi giữa thời gian vây bủa
Nghe hoàng hôn chầm chậm xuống quanh mình.
Bàn chân đi qua hai cuộc chiến tranh
Giờ chậm rãi lần theo dấu gậy
Đôi bàn tay nhăn nheo run rẩy
Đã từng gieo khủng khiếp xuống đầu thù.
Trong góc vườn mùa thu
Cây lá cũng như ông lặng lẽ
Tám mươi tuổi ông lại như đứa trẻ
Nở nụ cười ngơ ngác thơ ngây.
Ông ra đi
Và...
Ông đã về đây
Đời là cuộc hành trình khép kín
Giữa hai đầu điểm đi và điểm đến
Là một trời nhớ nhớ với quên quên.
Những vui buồn chưa kịp gọi thành tên
Cõi nhân thế mây bay và gió thổi
Bầy ngựa chiến đã chân chồn gối mỏi
Đi về miền cát bụi phía trời xa.
Ru giấc mơ của vị tướng già
Có tiếng khóc xen tiếng cười nức nở
Một chân ông đã đặt vào lịch sử
Một chân còn vương vấn với mùa thu.
Hình như "Tưng" là "bệnh" lây nhiễm. Gái tưng, đại gia tưng, trí thức tưng, các "nhà" tưng, và bây giờ đến lượt...Chắc mai này cả xã hội tưng quá! Nhưng,
Thưa các chú các bác các các cô các dì, các vị niên trưởng tiền bối kính mến. Hôm
nay con xin lạm bàn tiếp đến 1 số vấn đề cơ bản trong công cuộc đấu
tranh vì chính nghĩa quốc gia. Dù cái nhìn và lời lẽ của hậu sinh có
ngứa lỗ tai, gai con mắt cũng mong quý vị hãy lắng nghe một lần. Về mục tiêu đấu tranh : Như chúng ta xác định như đinh đóng cột từ ban đầu, mục tiêu tối hậu của chúng ta là: Chống cộng sản bằng mọi hinh thức, chống mọi lúc mọi nơi. Chống không phải để chơi, mà chống cho nó chết. Chống cộng phải đạt đến mục tiêu loại chúng ra khỏi đất nước. Cộng
sản quốc tế thì chúng ta chơi không lại, chống không suể, chuyện đó để
cho sư phụ ta lo, mục tiêu chính của chúng ta là chống Việt cộng.
Mục
tiêu đề ra là như thế, nhưng xui xẻo là khi còn Mỹ đỡ đầu ta chưa làm
được. Thế cho nên qua đến bên đây ta mới vẫn phải tiếp tục sự nghiệp. Bọn Việt cộng lấy mục tiêu đánh đuổi đế quốc, giải phóng dân tộc làm kim chỉ nam. Mục
tiêu của chúng nó không thèm đả động gì đến chúng ta nhưng chúng nó
biết rất rõ rằng đánh bại đế quốc là đương nhiên chúng ta sẽ ẻo. Một mũi
tên chơi được hai con nhạn. Ngay cái mục tiêu đấu tranh ta đã thấy
chúng nó khôn hơn ta rồi. Nó nhắm vào sư phụ ta mà đánh. Nó đánh từ
thành thị đến nông thôn, nó đánh từ quân sự đến ngoại giao, Nó dụ sư phụ
ta vào bàn hội nghi Paris, nó mua chuộc, nó hù dọa để sư phụ bỏ rơi ta. Không
biết nó mua chuộc hù dọa thế nào mà sư phụ ta bỏ chạy thê thảm, bỏ lại
ta với lời hứa ngọt ngào : “cứ chơi đi vẫn còn ta bên cạnh. “ Sư phụ ta nói như thế cho ta yên lòng ta thôi chứ sư phụ ta đã lặng lẽ một đi không trở lại, Thế là bọn Việt công nó rảnh tay chỉ việc dzớt cú chót trong 55 ngày. Sư phụ ra đi không để lại cho ta gì, chỉ tặng lại một cái gia tài buồn thảm. Chính là cái ngày quốc hận ta ôm tới hôm nay.
Cái gia tài mà các bác các chú đang lập di chúc và cố ấn vào tay lớp thế hệ con cháu như chúng con đây. Về đối tượng bảo vệ quyền lợi : Chúng
ta đấu tranh, vì quyền lợi đồng bào , vì chính nghĩa quốc gia, vì tự do
dân chủ, vì sứ mệnh ngăn cản làn sóng đỏ cộng sản vô thần và vì …. đủ
thứ . Việt cộng thì nó chỉ nói rất đơn giản : nó đấu tranh vì quyền lợi giai cấp công nhân và nông dân lao động. Về mặt này nó cũng lại khôn hơn ta, nó nhắm đến số đông có chọn lọc, Đầu
thế kỷ thứ 20 ngay cả Phan Bội Châu, Phan châu Trinh cũng chỉ nhắm đến
tầng lớp sĩ phu yêu nước. Vatican cũng chỉ nhắm đến tầng lớp nông dân
nghèo thất học cuồng tín để truyền đạo, ngay cả ở Mỹ ững cử viên tổng
thống cũng chỉ nhắm đến quyền lợi của những tầng lớp có khả năng mang
lại lá phiếu cho họ, mỗi tiểu bang họ đều có sách lược vận động riêng. Chúng
ta thì lại tham lam quá, chúng ta nghĩ rằng cả nước sẽ chống cộng như
chúng ta nên chúng ta chẳng cần nhắm đến đối tượng nào cả , tất cả những
ai chống cộng đều là bạn ta. Từ sai lầm này chúng ta quơ vào phe ta tất
cả mọi thành phần. Chúng ta đã sai lầm khi ứng dụng một cách triệt
để danh ngôn của sư phụ ta là : “A friend is one who has the same
enemies as you have.” (Abraham Lincoln) (Một người bạnlà mộtngườicónhững kẻ thùgiống như bạncó)
Thế
cho nên ở trong nước thì bất cứ ai chỉ cần chứng tỏ đang “ bất đồng
chính kiến “ là ta vơ tuốt tuồn tuột vào bất kể họ là ai, bất kể dưới
con mắt người dân họ như thế nào. (Nếu cộng sản cũng có cái não trạng
như chúng ta thì Trần Trường đã được kết nạp đảng và là bí thư ở đâu đó
từ lâu rồi. ) Ở đất Mỹ thì sao? Ở bên này từ Chí Thiện đến Chí
Phèo Từ Lý Tống đến Lý Toét Từ Kỳ Nhông đến cắc ké , từ du côn đến đĩ
điếm đứng đường đều là phe ta cả. Chỉ cần has the same enemies là đủ. Cứ thử nhìn cái đám biểu tình ô hợp mà xem. Thế
mới ra cái nông nỗi hỗn quân hỗn quan, giành ăn cắn xé, cực đoan ngu
xuẩn chửi bới lẫn nhau giành nhau chống cộng góp phần làm banh chành cái
chính nghĩa quốc gia. Tác dụng nguợc của nó là cứ nghe đến chống
cộng là người ta co rúm người lại. Bởi vì nó đồng nghĩa với những hành
động biểu tình, xin tiền, hăm dọa chửi rủa khủng bố lăng mạ.
Không
phải hình ảnh cộng sản nó cao thượng hơn chúng ta đâu mà chính vì chúng
ta đã tự hạ xuống quá thấp phẩm giá người quốc gia chống cộng. Tuyên truyền phát động : Khi
đã xác định được mục tiêu đấu tranh, xác định được đối tượng cần vận
động và cần tranh thủ sư đồng tinh, bước tiếp theo là tuyên truyền. Ở
Mỹ các cuộc vận động tranh cử cũng thế thôi, Họ nhắm vào quyền lợi của
cử tri để tuyên truyền. Anh nào tuyên truyền giỏi anh đó thắng, điều đó
cũng chưa chắc là anh ta có tài. Làm thế nào để hình ảnh của mình vượt
trội hơn đối phương, thế là đủ. Không ai cấm phơi bày khuyết điểm của
đối phương để làm suy yếu đối phương. Nhưng hãy coi chừng chỉ cần 1 chút
sai lầm sẽ trả giá bằng hậu quả vô cùng nguy hại. Ở điểm này con
thấy CSVN quả là bậc thầy. Không biết chúng nói thế nào mà dân đói trơ
xương vẫn theo chúng cầm súng giết giặc. Nhà không có cơm ăn vẫn góp gạo
cho chiến trường. Thế mới biết sách lược tuyên truyền nó mạnh mẽ đến bực nào. Chúng
tạo được thế trận chiến tranh nhân dân cực kỳ hiệu quả. Cứ nhìn đoàn
dân công hỏa tuyến thồ luơng thực tiếp tế cho trận địa Điện Biên Phủ là
thấy tất cả. Nó cực kỳ tương phản với hình ảnh tháo chạy bát nháo của
quân đội ta, của sư phụ ta .
Đó
là kết quả của chiến lược tuyên truyền có tính thuyết phục rất cao.
Tuyên truyền hiệu quả nó nhân sức mạnh lên không biết bao nhiêu lần. Còn
chúng ta thì sao ? Trước đây Ta tuyên truyền tập trung vào việc khai
thác triệt để sự độc tài của cộng sản, đồng thời vẽ ra hình ảnh tươi đẹp
của thế giới tự do. Ta tạo ra hình tượng một xã hội cộng sản nghèo đói .
những cán binh cộng sản ốm yếu tàn tạ, nền kinh tế cộng sản èo uột ,
người dân lầm than trong bức màn sắt, quyền tư hừu bị tước đoạt, thậm
chí chúng ta cũng ngầm làm cho nguời ta hiểu ngay cả vợ cũng là của
chung. Ngày nay vẫn cũng chỉ có bài này chúng ta xào lại 1 tí để tấn công CS. Cục
diện thế giới đã thay đổi thời cuộc cũng đổi thay , cộng sản cũng khoác
lên cái áo mới , duy có cách tuyên truyền của ta là vẫn như cũ. Trước
đây chúng ta đem cuộc sống phè phỡn được nuôi bằng tiền viện trợ ở miền
nam để so sánh với miền Bắc làm bằng chứng về sự phồn vinh của thế giới
tự do. Chúng ta tìm mọi cách để người dân sợ cộng sản. Ngày nay thì
chúng ta lại lấy nước Mỹ để so sanh với VN xem Mỹ là chuẩn mực để tuyên
truyền. Những cái bài này từ khi có chế độ VNCH đến nay vẫn bất di bất dịch. Chúng
ta chỉ tập trung xoi mói đánh phá nhằm hạ thấp hình ảnh của đối phương
chứ không quan tâm đến việc xây dựng hình ảnh của mình. Chính đây cũng
là nguyên nhân dẫn đến thất bại của chúng ta.
Nhưng : Nếu
được hỏi đối tượng mà các cô các bác tranh thủ sự đồng tinh chống cộng
là ai, thì dường như câu trả lời đã được lập trình sẵn trong đầu các chú
các bác là: hơn 80 triệu dân VN. Đây là sự hoang tưởng nghiêm trọng
nhất. Ngay ở cái cộng đồng Việt nhỏ xíu các chú các bác còn chẳng được
lòng dân huống hồ gì 80 triệu dân. Chính sai lầm nghiêm trọng từ tiền đề nhận thức này đã đưa chúng ta từ thất bại này đến thất bại khác. Cái
sơ đẳng nhất là việc xác định đối tượng quần chúng mà chúng ta nhắm tới
để tranh thủ sự đồng tình chúng ta đã không có . Đối tượng ta cần ủng
hộ để tăng thêm sức mạnh cũng không có nốt thì nói gì đến đấu tranh
tranh đấu. Các chú các bác vẫn cứ hoang tưởng rằng hơn 80 triệu dân
VN cũng căm thù cộng sản như các chú các bác . Vấn đề còn lại chỉ là
vạch tội cộng sản để người dân ủng hộ chúng ta lật đổ cộng sản mà thôi.
Nếu dễ như thế thì cộng sản tiêu lâu rồi. Kết quả là đứng về phía chúng ta là ai ? Chỉ toàn những kẻ ô hợp ôm ấp hận thù . Các
chú các bác đã từng mừng rỡ vỗ tay hoan hỉ khi liên xô và đông âu xụp
đổ. Cứ tưởng rằng ngày tàn của cộng sản VN đã cận kề. Nhưng không, cộng
sản ở đâu thì tiêu, nhưng cộng sản VN vẫn vững vàng và v ươn lên đầy
kiêu hãnh. Điều đó nói lên được điều gì? Công sức tuyên truyền bao nhiêu năm qua của các chú các bác đã hoàn toàn phá sản. Các chú các bác đã quá kỳ vọng vào sư phụ Mỹ, thế cho nên cái gì cũng lấy Mỹ làm chuẩn. Ngay cả văn hóa và đạo đức cũng đem Mỹ ra để chuẩn hòa thế thì chúng con cũng bó tay. Tuy nhiên chúng ta quên rằng sư phụ Mỹ của chúng ta cũng đã đúc kết được và cũng đã phải thốt lên như thế này : You
can fool all the people some of the time, and some of the people all
the time, but you can not fool all the people all the time. ( Abraham
Lincoln ) (Bạn có thểđánh lừatất cả mọi ngườitrong một khoảng thời gian,vàmột số người dânsuốt cảthời gian,nhưngbạnkhôngthể đánh lừatất cả mọi ngườitrong suốt cả thời gian.) Đây mới chính là bài học cho chúng ta.
He
he thằng này nó ở Bên Mỹ lận, nhà nó tiền có mà đầy, nó học Luật, lúc
đầu nhà nó ủng hộ đám cờ vàng tham gia cờ vàng ( thế hệ thứ 3), nhưng
sau này tụi cờ vàng moi tiền nhà nó quá, chịu không nổi thì nó chửi
thôi. Mà nó chửi cũng hay đấy chứ vì nó ở trong Ổ của tụi này mà
THÁP BÁO THIÊN Trấn áp đông tây giữ đế kỳ Một mình cao ngất tháp uy nghi Chống trời cột trụ non sông vững Sừng sững ngàn năm một đỉnh chùy Chuông khánh gió đưa vang đối đáp Đèn sao đêm đến rực quang huy Đến đây những muốn lưu danh tính Mài mực sông xuân viết ngẫu thi.
Tháp Báo Thiên
(Bách khoa toàn thư mở Wikipedia)
Tháp Báo Thiên còn gọi là Đại Thắng Tư Thiên Tháp, được xây năm 1057 ở chùa Sùng Khánh, trong phạm vi chùa Báo Thiên, nay là khu đất mé đông hồ Hoàn Kiếm, Hà Nội. Tháp này cao đến 20 trượng, có tất cả 12 tầng. Tầng trên cùng bằng đồng, những tầng dưới bằng đá và gạch.
Tháp được xếp vào một trong An Nam tứ đại khí, bốn vật báu của đất nước, mà ba (kiến trúc điêu khắc) quý giá khác là chùa Quỳnh Lâm, vạc Phổ Minh và chuông Quy Điền.
Cây "Tháp Đại Thắng Tư Thiên" tại chùa Báo Thiên dựng từ đời vua Lý Thái Tông (1054-1072). Tháp này xây 12 tầng, cao mấy chục trượng… Khoảng năm Tuyên Đức nhà Minh, Đức Thái Tổ Hoàng đế tiên triều [Lê Lợi] tiến binh vây Đông Đô. Viên quan giữ thành là Thành-sơn-hầu Vương Thông phá hủy cây tháp [lấy vật liệu] chế ra sung đồng
để giữ thành [1414]. Tiên triều nhân nền cũ, đắp các núi đất phủ lên
trên … Năm Giáp dần [1791] lại cho đào lấy những gạch đá ở nền tháp cũ
để tu bổ thành lũy Thăng Long. Khi phá nền tháp thấy có tám pho tượng
Kim Cương chia ra đứng bốn cửa, ngoài ra còn có tượng người tiên, chim
muông, cả đến những giường ghế, chén bát, các thứ lặt vặt khác không kể
xiết, toàn bằng đá.
Kiến trúc
Sử ghi tháp cao 20 trượng chia thành 12 tầng. Đỉnh tháp bằng đồng.[1] Thân tháp được xây bằng những hòn gạch hoa khắc những chữ Lý gia đệ tam đế, Long thụy Thái Bình [1054-1058], tứ niên tạo tức là "Đúc năm thứ tư niên hiệu Long thụy Thái Bình đời vua thứ ba triều nhà Lý".
CÁO TẬT THỊ CHÚNG Xuân khứ bách hoa lạc Xuân đáo bách hoa khai Sự trục nhãn tiền quá Lão tòng đầu thượng lai Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận Đình tiền tạc dạ nhất chi mai.
CÓ BỆNH BẢO MỌI NGƯỜI Xuân đi trăm hoa rụng Xuân đến trăm hoa nở Trước mắt việc đi mãi Trên đầu, già đến rồi Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết Đêm qua – sân trước – một cành mai.
Đại sư Mãn Giác tên tục là Nguyễn Trường (theo là Lý Trường 李長), thân
phụ là Hoài Tố làm chức Trung thơ Viên ngoại lang. Thiếu thời, Lý Nhân
Tông thường mời con em các danh gia vào hầu hai bên, Nguyễn Tường nhờ
nghe nhiều, nhớ kỹ học thông cả Nho, Thích nên được dự tuyển. Sau những
lúc việc quan, Nguyễn Tường thường chú tâm vào Thiền học. Đến khi vua
lên ngôi, vì rất mến chuộng nên vua Lý Nhân Tông ban cho Nguyễn Trường hiệu Hoài Tín.
Sau đó, Hoài Tín dâng biểu xin xuất gia, học với Thiền sư Quảng Trí và vân du khắp nơi. Sư là bậc lĩnh tụ pháp môn trong một thời, được vua Lý Nhân Tông cùng hoàng hậu hết sức kính nể và dựng chùa Giáo Nguyên thỉnh Sư làm trụ trì.
Năm 1096, cuối tháng 11, Sư gọi chúng đọc bài kệ, sau này được biết dưới tên Cáo tật thị chúng:
Kệ rằng:
春去百花落
春到百花開
事逐眼前過
老從頭上來
莫謂春殘花落尽
庭前昨夜一枝梅
Dịch:
Xuân khứ bách hoa lạc
Xuân đáo bách hoa khai
Sự trục nhãn tiền quá
Lão tòng đầu thượng lai
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai.
Thích Thanh Từ dịch thơ:
Xuân đi trăm hoa rụng
Xuân đến trăm hoa nở
Trước mắt việc đi mãi
Trên đầu, già đến rồi
Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua – sân trước – một cành mai.
Nói xong Sư ngồi kết già thị tịch, thọ 45 tuổi. Sau lễ hoả táng, xá lợi được thờ tại chùa Sùng Nghiêm, vua thuỵ hiệu là Mãn Giác.
Bàn về Cáo tật thị chúng
Cáo tật thị chúng (Có bệnh bảo mọi người) trở thành một tác phẩm thi kệ nổi tiếng thời kỳ văn học Lý-Trần, một tuyên ngôn triết học
ẩn ngữ dưới hình thức nghệ thuật văn chương. Bài thơ mượn cảnh thị
tình, lấy tình "trực chỉ chân tâm" nhằm khai phóng nhân sinh.
Dùng tư duy trực giác để hình thành nên một biểu tượng, bài thơ bắt
đầu từ chỗ miêu tả một thực tại, một hình ảnh đơn giản, sinh động: Khai, lạc của mai hoa (đào hoa, xuân hoa...) là cái nhãn tiền tự nhiên nhi nhiên:
Xuân khứ bách hoa lạc / Xuân đáo bách hoa khai
Không có mới cũng chẳng có cũ, không có đi cũng chẳng có về; đáo hay
khứ thực ra chỉ là một thực tại bị chia cắt thành những khái niệm mà chỉ
cần khởi tâm trí tuệ thì bỗng dưng được con mắt sáng mà nhìn, mà nghe,
mà cảm nhận cái thi vị của cuộc đời sau những tột cùng vô biên của sự
phân chia, tách bạch.
Tự nhiên, có con mắt thứ nhất mở ra phía sau trước nhìn vào chốn sinh
linh mà lời rằng: đừng bảo, đừng nói, đừng ngộ nhận, chớ lời, chớ chắc,
chớ đoan... và còn con mắt thứ hai dành cho kẻ Xuân Thu biết vui thú du xuân bốn mùa sẽ có được:
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai
Cùng với muôn vàn con mắt không phô diễn.
Một cành mai trước sân cũng khiến cho sự liên tưởng (của người đọc)
đến tâm thế của kẻ như đứng một mình giữa trời đất mà rơi lệ trong Đăng U Châu đài ca (登幽州臺歌) của Trần Tử Ngang (陳子昂):
前不見古人
後不見來者
念天地之悠悠
獨愴然而涕下
Tiền bất kiến cổ nhân
Hậu bất kiến lai giả
Niệm thiên địa chi du du
Độc thương nhiên nhi thế hạ
Người trước chẳng thấy đâu
Người sau càng mờ mịt
Ngẫm trời đất vô cùng
Riêng lòng đau (mà) lệ chảy
thì bỗng dưng thấy con đường trung đạo cho thi thiền quả thật thênh thang vạn dặm:
Khứ (lạc, quá) ------------ nhất chi mai ------------đáo (khai, lai)
Đạo bản vô nhan sắc, nhưng ta (và người) thì có thể thấy được
(nhất chi mai) kia là vật của đất trời, rỗng rang độc lập, hồn nhiên,
như hữu sựu mà như vô sự. Biết đâu lâu nay người sợ hãi là sợ cái có có
không không đối đãi, thì đây là vật chứng, là hiển nhiên của sinh diệt
mà cũng là bất diệt. Cái giả hợp tất chịu đổi thay: còn trẻ răng trắng
má hồng, lúc tuổi già răng long tóc bạc. Nhưng trong chỗ diệt diệt sinh
sinh ấy có một thứ nhẩn nha ra ngoài sinh tử, và một lúc nào nhận diện
được nhành mai trước sân thì tức là đang sống, đang vui đùa với ông Phật
vĩnh cửu của chính mình. Tìm kiếm Phật ở bên ngoài thì cũng giống như
cá chép tranh nhau nhảy ở Vũ Môn, muôn đời làm sao hóa rồng được?!
Chân tánh là vô tánh. Tử-sanh chẳng nói.
Vì "không hoa, mặc bướm để lòng chi"?
Hôm nay con xin lạm bàn tiếp đến 1 số vấn đề cơ bản trong công cuộc đấu tranh vì chính nghĩa quốc gia. Dù cái nhìn và lời lẽ của hậu sinh có ngứa lỗ tai, gai con mắt cũng mong quý vị hãy lắng nghe một lần.
Về mục tiêu đấu tranh :
Như chúng ta xác định như đinh đóng cột từ ban đầu, mục tiêu tối hậu của chúng ta là:
Chống cộng sản bằng mọi hinh thức, chống mọi lúc mọi nơi. Chống không phải để chơi, mà chống cho nó chết.
Chống cộng phải đạt đến mục tiêu loại chúng ra khỏi đất nước.
Cộng sản quốc tế thì chúng ta chơi không lại, chống không suể, chuyện đó để cho sư phụ ta lo, mục tiêu chính của chúng ta là chống Việt cộng.