Bắc GiangSuốt
hai ngày đêm toả đi các hướng tìm kẻ gây thảm án, hàng trăm công an làm
việc xuyên đêm, ăn “bữa cơm năm phút” vội vàng với bánh mì và nước chè
đặc.
Khoảng 13h ngày 22/10, trưởng thôn Tuấn Mỹ, xã Tân
Thanh, huyện Lạng Giang, Bắc Giang, nhận cuộc điện thoại của người dân,
báo "nhà ông Luật có người chết". Khi trưởng thôn tới nơi, căn nhà cuối
thôn của ông Trần Đình Luật (72 tuổi) đông kín người đứng bên ngoài.
Căn
nhà khóa cửa nhưng ngay sau cánh cổng là 3 thi thể gồm ông Luật cùng vợ
Bùi Thị Hoa (72 tuổi) và con gái Trần Thị Thảo (45 tuổi, chưa lập gia
đình) nằm rải rác trong sân và sau vườn.
Như nhiều
nhà khác trong vùng, hiện trường là căn nhà cấp bốn bên sườn đồi, giữa
vùng trung du, với lối vào sâu, quây quanh là khoảng sân rộng và bốn bề
vườn tược, cây cối um tùm. Hộ sinh sống gần nhất cũng cách gần 20 mét.
Trong sáng và trưa hôm đó, người dân xung quanh không thấy hiện tượng,
âm thanh bất thường.
Cậu bé 10 tuổi, cháu nội của
ông Luật, trở về nhà sau khi đi chơi cùng bạn, là người đầu tiên phát
hiện thảm án. Bé lập tức chạy sang hàng xóm nhờ giúp đỡ.
Ngoài
ba nạn nhân và người cháu nội 10 tuổi, sống cùng nhà còn có Trần Văn
Hiếu (47 tuổi, con trai của vợ chồng ông Luật). Đến hiện trường sau gần
30 phút khi trưởng thôn báo án, Đội điều tra của Phòng Cảnh sát Hình sự,
Công an tỉnh Bắc Giang không thấy Hiếu đâu, trong khi 10 ngày qua anh
ta chỉ ra ngoài một lần để khai báo y tế.
Hiếu vừa
mãn hạn tù hôm 13/10, về sống cùng bố mẹ. Anh ta từng đi nghĩa vụ rồi
làm ăn ở Lào Cai khoảng 10 năm. Năm 2014, trong lúc cãi nhau, Hiếu chém
vợ, bị phạt 6 năm tù về tội Cố ý gây thương tích. Vợ Hiếu ly hôn ngay sau đó, nuôi con gái lớn. Con trai út ở với ông bà nội.
Kiểm
tra hiện trường, Đội điều tra phát hiện ngoài chiếc xe máy của ông Luật
bị mất, đồ đạc trong nhà không có dấu hiệu lục lọi, cạy phá. Thảm án
được cho rằng không phải là giết người nhằm cướp tài sản, mà có thể do
mâu thuẫn trong cuộc sống.
Trong khi một số điều
tra viên cùng pháp y khoanh vùng, khám nghiệm tử thi, nhiều công an tản
đi các hộ xung quanh thu thập thông tin và nhanh chóng có những phát
hiện đáng giá.
Dữ liệu camera nhà dân ghi hơn 12h
cùng ngày, một người đàn ông mặc áo thun dài tay màu xanh đậm, quần đen
sọc trắng, đội mũ bảo hiểm lái chiếc xe máy của ông Luật đi ra từ phía
hiện trường. Người này chính là Hiếu.
Ban chuyên án xác định Hiếu là nghi phạm
"đáng ngờ nhất" và duy nhất. Theo đó, các vết thương của ba nạn nhân
cùng do một loại hung khí, vết chém đều từ trên xuống, tại vùng đầu, cổ.
Cách thức gây án này hoàn toàn trùng khớp với việc Hiếu chém vợ 7 năm
trước.
Xác định hành tung của Hiếu, Ban chuyên án
nắm được thông tin trước khi gây án với vợ, Hiếu từng nhiều năm sống ở
Lào Cai, có nhiều quan hệ xã hội phức tạp ở Ninh Bình, Hà Nam. Hiếu được
cho là có thể ẩn trốn quanh các địa phương này hoặc ngay tại Bắc Giang,
song cũng không ngoại trừ khả năng vượt biên.
Với
lượng thông tin trải rộng, chưa thể xác minh rõ ràng, 90% quân số của
Phòng Cảnh sát Hình sự và Công an huyện Lạng Giang được huy động. Gần
100 người ngay tối đó chia làm ba mũi, toả đi Hà Nội, Ninh Bình, Hà Nam
và Lào Cai.
Nhận định nhiều khả năng Hiếu sẽ tìm về
nơi từng sống lâu nhất, trung tá Lại Minh Tiến (Trưởng phòng) dẫn đầu
tổ công tác hơn 20 người đến Lào Cai.
Trong cuộc
họp chớp nhoáng ngay chiều cùng ngày, Phòng Cảnh sát hình sự Bắc Giang
nhận được sự hỗ trợ của đồng nghiệp các tỉnh lân cận. "Nếu không có sự
phối hợp này, Bắc Giang có huy động 100-200 quân chăng nữa cũng không
thể vây bắt an toàn và nhanh chóng", ông Tiến chia sẻ.
Đêm
đó, trong khi hàng trăm chiến sĩ toả đi các ngả làm nhiệm vụ cũng là
lúc thông tin vụ án và nhận dạng ban đầu của Hiếu xuất hiện trên các
phương tiện truyền thông và bản tin địa phương.
"Bất
cứ người nào nhìn thấy đối tượng khả nghi trên hãy gọi điện báo đến
đường dây nóng công an Bắc Giang hoặc công an khu vực", nội dung các bản
tin của Công an Bắc Giang nhanh chóng đến với người dân qua nhiều hình
thức. Dù vậy, nhà chức trách khuyến cáo người dân "không tự ý hành động,
tổ chức vây bắt", do kẻ này "vô cùng manh động".
"Trong
lúc lẩn trốn, không ngoại trừ việc Hiếu sẽ tiếp tục giết người, hoặc
trộm cướp để có tiền. Các ngăn chặn duy nhất là phải bắt thật nhanh, nếu
không sẽ thất bại lớn", ông Tiến trăn trở.
Tại Lào Cai, hàng chục địa
phương và Công an Bắc Giang phối hợp chặn ở các nhánh đường chính. Một
nhóm trinh sát khác đi xe máy, xé rừng len lỏi vào từng nhánh đường bản,
đường nhánh xương cá, tìm gặp những mối quen của Hiếu khai thác manh
mối.
Một tổ công tác nữa phối hợp cùng lực lượng
biên phòng, sẵn sàng trong trường hợp Hiếu vượt biên theo đường tiểu
ngạch, sang Trung Quốc. Trung tá Tiến cho biết, suốt hai ngày đêm, nhiều
chiến sĩ "hầu như không chợp mắt" và chỉ ăn qua loa những "bữa ăn năm
phút" với bánh mì và liên tục nước chè đặc cho tỉnh ngủ.
Những
cuộc điện thoại của người dân Bắc Giang, Ninh Bình liên tục đổ về, báo
tin vài giờ trước nhìn thấy người có đặc điểm nhận dạng tương tự Hiếu
tại khu vực mình sinh sống. Chắp nối dữ liệu và mốc thời gian theo báo
cáo của người dân, ban chuyên án dần vẽ lại được lịch trình di chuyển
của nghi phạm.
Theo đó, hắn rời nhà sau khi gây án,
di chuyển theo quốc lộ 21 cũ, từ các huyện ngoại thành Hà Nội qua Hà
Nam, Ninh Bình và cuối cùng đến Lào Cai. Lộ trình này đúng như dự đoán
ban đầu của Ban chuyên án.
Lực lượng truy bắt lập
tức "dàn quân" tại các chốt khai báo, kiểm soát dịch bệnh liên tỉnh,
liên huyện quanh các cửa ngõ của Lào Cai để bí mật đón lõng.
Chiều
24/10, lực lượng tại chốt Bảo Hà trên Tỉnh lộ 161 đi từ Lào Cai tới Yên
Bái phát hiện người có đặc điểm giống Hiếu. Được yêu cầu dừng lại, anh
ta định bỏ chạy, quay xe về Yên Bái nhưng sau đó chấp hành xét nghiệm
Covid-19. Kẻ này lập tức được xác định là Hiếu. Ba cảnh sát vật lộn
trong vài phút mới khống chế được nghi phạm.
Cuộc
vây bắt nghịch tử được trung tá Tiến đánh giá "nhanh chóng, bất ngờ",
đảm bảo đúng ba tiêu chí an toàn, cho người dân, cho nghi phạm và cả lực
lượng công an. "Mất một trong 3 tiêu chí này, bất cứ cuộc vây bắt nào
đều chưa trọn vẹn".
Trở về sau cuộc vây bắt thành
công, ông Tiến nhìn vào công tơ mét trên chiếc xe công vụ, nhận ra mình
và đồng đội, sau hai ngày, đã vượt quãng đường hơn 2.000 km.
Hiếu khai sáng 22/10 uống một mình hơn nửa
lít rượu trắng thì cãi vã với em gái. Trong cơn tức giận, hắn dùng dao
chém em tử vong, lấy lá cây phủ thi thể. Một lúc sau, khi mẹ về, Hiếu
lại gây án. Nghịch tử ngồi chờ bố đi dự hội thơ về, tiếp tục xuống tay
lần ba tại sân.
Suốt hai ngày chạy trốn, Hiếu khai
chỉ ăn mì tôm sống, uống nước lã và ngủ vạ vật ở những chỗ khuất. Nhiều
lần ngủ gật khi lái xe, Hiếu đỗ lại dọc đường để tháo kính mũ bảo hiểm
để gió lạnh thổi vào mặt cho tỉnh táo.
Theo Công an
Bắc Giang, trong những lời khai đầu tiên Hiếu một mực nói "không có
tội, không làm gì cả". Sau đó, nghi phạm thừa nhận gây án với lý do bị
"bố mẹ hắt hủi". Trong thời gian Hiếu đi tù, gia đình hầu như không thăm
gặp, tiếp tế.
Đến nay, Hiếu khai nguyên nhân thực
sự xuất phát từ nghi ngờ dồn nén lâu ngày về cuộc sống vợ chồng trước
đây song không được bố mẹ ủng hộ, chia sẻ. Việc sinh hoạt với gia đình
trong những ngày hắn ra tù vì thế liên tục "căng thẳng" và "ức chế".
Hải Thư - Song Minh
'Người vợ điên' trở về giải oan cho chồng
Trung QuốcXà
Tường Lâm suýt bị tử hình với cáo buộc giết vợ, ngồi tù 11 năm thì người
vợ tưởng đã bị vứt xác trên sông lại đột ngột trở về.
Tối 20/1/1994, Trương Tại Ngọc cãi nhau to với chồng là Xà Tường Lâm, tức giận bỏ nhà đi, mãi không thấy về.
Ngọc
và Lâm sống ở thôn Lữ Xung, huyện Kinh Sơn, tỉnh Hồ Bắc. Vài năm gần
đây, tình cảm rạn nứt và thường xuyên cãi vã. Ngọc mắc bệnh tâm thần
nhưng không phải do bẩm sinh. Khi phát bệnh, cô không thể nhớ mình là
ai, không biết nhà ở đâu.
Theo lẽ thường, một phụ
nữ trẻ không có phương tiện giao thông, chỉ qua lại giữa các thôn làng
nhỏ thì không thể đi quá xa. Nhưng gia đình và hàng xóm tìm kiếm khắp
nơi xung quanh không thấy Ngọc đâu. Họ báo cảnh sát nhờ hỗ trợ cũng
không có kết quả.
Sau khi Ngọc mất tích ba tháng,
sáng 11/4, một người dân phát hiện trên mặt ao bên đường có vật trôi
nổi, tò mò lại gần xem thì đó là thi thể.
Kết quả
khám nghiệm pháp y cho thấy xác chết là phụ nữ, tử vong hơn hai tháng
trước. Người này cao 1,55 m, khoảng 30 tuổi và từng sinh con. Thi thể bị
phân hủy không thể nhận ra, vì vậy không có cách nào xác định danh
tính.
Do vùng đầu có nhiều vết thương, cảnh sát suy
đoán đây rất có thể là vụ cố ý giết người, vứt xác. Cục Công an huyện
Kinh Sơn phát hiện đặc điểm của thi thể và người mất tích Trương Tại
Ngọc rất giống nhau. Ngọc 31 tuổi, có một con gái, chiều cao cũng là
1,55 m, biến mất cách đây ba tháng.
Cảnh sát liên hệ gia đình Ngọc đến nhận dạng.
Vừa nhìn thấy thi thể, mẹ Ngọc lập tức quỳ trên mặt đất khóc lóc vật
vã, xác định đây là con gái.
Trên thực tế, không
thể xác minh danh tính qua khuôn mặt sưng phù, biến dạng. Vì vậy, có
người đề nghị gia đình Ngọc đi xét nghiệm ADN cho chính xác. Tuy nhiên,
chi phí xét nghiệm vào những năm 1990 rất đắt, lên tới 20.000 nhân dân
tệ, gia đình nông thôn bình thường sao nỡ chi số tiền này. Bên cạnh đó,
mẹ Ngọc khi biết trên bụng thi thể có vết sinh mổ lại càng chắc chắn nên
quyết định không cần xét nghiệm.
Khi thi thể nạn nhân đã được xác nhận, cảnh sát lập tức triệu tập Xà Tường Lâm, 28 tuổi, để điều tra vì là người thân cận nhất.
Theo
điều tra, Ngọc và Lâm kết hôn năm 1986, có con gái 6 tuổi. Lâm là nhân
viên tuần tra an ninh tại đồn cảnh sát địa phương, còn Ngọc là công nhân
tại một nhà máy gần đó. Cuộc sống gia đình bắt đầu mâu thuẫn từ ba năm
trước khi Ngọc mất tích.
Vì công việc, Lâm thường
xuyên không ở nhà. Không chịu được cô đơn, Lâm quan hệ với cô gái họ
Trần. Họ nhiều lần bị bắt gặp qua đêm cùng nhau khiến chuyện ngoại tình
vỡ lở, lan truyền khắp làng trên xóm dưới.
Sau sự
việc, mối quan hệ vợ chồng Lâm xấu đi rất nhiều. Cả hai thường xuyên cãi
vã, thậm chí còn đánh nhau, đập phá đồ đạc. Lâm mặc kệ vợ khóc lóc,
cũng không quan tâm đến con gái nhỏ, tiêu sạch vài nghìn nhân dân tệ
tích góp để bao nhân tình.
Trong mắt người cùng
thôn, Ngọc vốn là cô gái vui vẻ, tháo vát, tính cách tốt. Nhưng sự phản
bội của chồng đã kích thích tâm lý của Ngọc, chịu đựng cảm xúc tiêu cực
trong một thời gian dài khiến cô trở nên điên điên khùng khùng. Khi phát
bệnh, cô không được minh mẫn, dễ cáu bẳn, hay ngẩn ngơ. Khi bệnh nặng,
Ngọc sẽ không nhớ rõ thứ gì, ngay cả tên tuổi, địa chỉ nhà mình cũng
không nhớ. Lâm thường tỏ ra chán ghét người vợ mắc bệnh tâm thần.
Sau khi nắm được những thông tin này, cảnh sát nhận định Lâm là nghi phạm chính và bị tạm giữ hình sự.
Sau
cuộc điều tra và thẩm vấn kéo dài 6 tháng, Lâm thừa nhận giết vợ. Động
cơ gây án giống với phân tích của cảnh sát là chán ghét, muốn sát hại vợ
để lấy nhân tình.
Ngày 13/10/1994, tòa án Kinh Châu tuyên Lâm phạm tội Cố ý giết người và tuyên án tử hình.
Tuy
nhiên, bố mẹ Lâm cho rằng Lâm bị ép phải nhận tội và kháng cáo lên tòa
án cấp cao Hồ Bắc. Mẹ Lâm vừa đi tìm con dâu trong thôn, vừa in tờ rơi
tìm người mất tích, muốn chứng minh rằng Ngọc chưa chết, con trai bị
oan.
Đến cuối năm 1994, mẹ Lâm nghe ngóng được tin
tức về Ngọc. Ở thôn Diêu Lĩnh, thành phố Thiên Môn, tỉnh Hồ Bắc, có
người dân nói vào tháng 10, một người phụ nữ mắc bệnh tâm thần đến thôn,
không mang tiền, cả người bẩn thỉu, chỉ nói mình họ Trương, không biết
nhà ở đâu. Cô được một người tốt bụng cho ở nhờ và đã rời đi khi tình
trạng tốt hơn. Hay tin, mẹ Lâm như bắt được cọng rơm cứu mạng, lập tức
đi xin bí thư thôn Diêu Lĩnh viết giấy chứng minh, đóng dấu rồi vội vã
nộp cho cảnh sát, nhưng mãi không thấy hồi âm.
Tờ giấy chứng minh được nộp lên tòa phúc thẩm cùng đơn kháng cáo, giúp bảo toàn tính mạng cho Lâm.
Ngày
6/1/1995, tòa án cấp cao Hồ Bắc cho rằng không đủ bằng chứng để kết tội
Lâm và bác bỏ phán quyết ban đầu, yêu cầu xét xử lại.
Tháng
5/1995, do gia đình Lâm không chịu từ bỏ và liên tục hỏi thăm, kháng
cáo nên cảnh sát đã buộc mẹ Lâm tội gây rối trật tự công cộng và cản trở
công vụ, bỏ tù bà 9 tháng và phạt 3.000 nhân dân tệ. Thụ án xong, mẹ
Lâm bị câm điếc, không thể đi lại và qua đời chỉ sau 3 tháng được thả.
Mất mẹ, gia đình không bỏ cuộc, vẫn đi khiếu kiện khắp nơi. Anh cả của Lâm cũng bị bắt giam 41 ngày vì kêu oan cho em
Mặt
khác, gia đình Ngọc một mực cho rằng Lâm đã gây án, tập hợp hơn 220
người dân trong làng cùng đệ đơn yêu cầu trừng phạt nghiêm khắc kẻ phạm
tội.
Ngày 15/6/1998, Lâm bị kết án 15 năm tù về tội Cố ý giết người.
Kể
từ khi bố vào tù và mẹ "bị giết", con gái của cả hai là Xà Hoa Dung
cũng chịu nhiều bất hạnh. Cô bé bị hàng xóm và bạn học đối xử lạnh nhạt,
nhà không còn tiền đóng học. Cuối cùng, Hoa Dung phải bỏ học, dùng
chứng minh thư giả đến Thâm Quyến làm thuê, mấy năm liền không về quê vì
sợ bị chỉ trỏ, đàm tiếu.
11 năm trôi qua, khi mọi người đã dần lãng quên về sự việc thì người vợ bị Lâm "giết và vứt xác" bất ngờ trở về.
Ngày
28/3/2005, Ngọc đến đồn cảnh sát thị trấn Nhạn Môn Khẩu nói là vợ của
Lâm, nhiều năm trước cô không chết mà đi lạc vì phát bệnh tâm thần.
Ngọc
kể, sau khi cãi nhau với chồng tối 20/1/1994, cơn giận khiến phát bệnh
tâm thần. Lúc tỉnh táo lại, cô phát hiện đã đi rất xa. Lúc này, trên
người không có tiền bạc, không có chứng minh thư, trạng thái tâm lý lại
không tốt, không nhớ nổi mình là ai, nhà ở đâu. Cô ăn xin dọc đường cho
đến tận Sơn Đông. Tại đây, Ngọc gặp được một người đàn ông giúp đỡ cô
rất nhiều, dần nảy sinh tình cảm và kết hôn, có một con trai.
Có
cuộc sống hạnh phúc, bệnh tình của Ngọc từ từ thuyên giảm, nhưng phải
mất nhiều năm sau cô mới nhớ ra nhà mình và viết thư gửi về. Tuy nhiên,
thư của cô không nhận được hồi âm vì người nhà luôn tin rằng cô đã chết,
coi bức thư như trò đùa.
Cho đến năm 2005, Ngọc
hoàn toàn khỏe lại, khôi phục trí nhớ và cùng chồng con hiện tại về thăm
quê. Điều Ngọc không ngờ được là sự mất tích năm đó của cô lại biến
thành vụ "cố ý giết người".
Khi được thả tự do, Lâm
còn chưa rõ nguyên nhân. Anh đã ngồi tù 11 năm, vì cải tạo tốt nên được
giảm án 3 năm, còn hơn 4 tháng nữa mới được ra tù. Về đến nhà, Lâm mới
vỡ lẽ.
Sau khi xác nhận Ngọc còn sống và làm rõ chân
tướng, Lâm được tòa tuyên vô tội vào ngày 13/4/2005, được nhà nước bồi
thường 700.000 nhân dân tệ.
Về thi thể trong ao,
Công an huyện Kinh Sơn từng định mở quan tài để thu thập ADN nhưng mãi
không thấy động tĩnh gì, cuối cùng sự việc bị khép lại một cách mơ hồ.
Cái gì khi khó, ló khắp nơi Lon gạo, chén tương, tiếng cạo nồi Vợ chồng con cái, om nhà cửa Miếng áo, manh quần, mặt ỉ ôi Cái gì, cố giấu, cứ lòi đuôi Cửa nhà trống hoác, gió đầy vơi Mưa xuyên qua mái như trẩy hội Tường lở thâm sì, nhớ màu vôi Cái gì, có nó, có nợ đòi Dở cười, dở khóc, dở trêu ngươi Càng nặng, càng vay, càng nguy khốn Thấp tha thấp thỏm, toát mồ hôi Cái gì, thấy nó, khách bĩu môi Bạn bè ái ngại, chạy có ngòi Giỗ, Tết, Lễ, Rằm, im thin thìt Cóc mong ai đến, cóc ai mời Cái gì già như tuổi Loài Người Mất sức càng nhiều, càng sinh sôi Bạc mà không bạc, nhiều hơn bạc Đâu đâu cũng có, bốn phương trời Cái gì, mang nó, chẳng ai vui Muốn quẳng nó đi phải được thời Muốn không còn nó trên Trái Đất Đem rải cái giàu khắp cái tôi?
Trần Hạnh Thu
Thân Phận Nghèo - Huỳnh Nguyễn Công Bằng [Official]
Năm nào trời nắng hạn, lúa không trổ
bông là đói cả xã Trà Xinh. Cái nghèo ở đây bao năm qua cứ bám lấy người
dân
Một gia đình nghèo ở xã Trà Xinh chuẩn bị bữa ăn. Ảnh: TỬ TRỰC
Đến
xã Trà Xinh, huyện miền núi Tây Trà - Quảng Ngãi một ngày giữa tháng
10, chúng tôi không khỏi chạnh lòng bởi hình ảnh những đứa trẻ mặt mày
nhem nhuốc đang tần mần moi từ lòng đất từng củ khoai giữa rẻo cao.
Ngất xỉu vì đói
Người
dẫn đường cho chúng tôi - thầy giáo Nguyễn Công - cho biết những đứa
trẻ này thường ngày đi học, tới lớp nhưng vì đói quá phải nghỉ học để đi
mót củ kiếm ăn qua ngày nên lớp học bây giờ vắng teo. “Ở xã nghèo này,
đời sống người dân thất thường; miếng ăn, việc học hành cũng thất
thường. Có hôm các em đi học đông đủ nhưng có hôm lại nghỉ hết. Lớp học
vắng hay đủ đều phụ thuộc vào miếng ăn mà cha mẹ các em kiếm được. Nhiều
lúc, các em đến trường vì đói quá nên ngất xỉu ngay giữa lớp học” -
thầy Công nói.
Chúng
tôi đến nhà anh Đinh Văn Ré ở thôn Trà Veo. Gọi là nhà nhưng chỉ được
dựng tạm bằng những tấm phên tre lồ ô đập dẹp ra ép thành từng mảng che
xung quanh, phía trên mái lợp bằng lá tranh. Bên trong nhà không có gì
đáng giá ngoài một chiếc tivi cũ anh Ré có được nhờ đổi 8 ngày phát rẫy
cho một người hàng xóm. Cuộc sống của vợ chồng anh và 3 đứa con chủ yếu
quây quần bên chiếc tivi này.
Giữa
trưa, một nồi cơm độn khoai mì đến 2/3, một nồi canh mì gói nấu lá rừng
được bày ra giữa nhà, cả 5 người xúm xít. “Củ mì mấy đứa nhỏ mót được ở
rẫy. Gạo này Nhà nước cho, còn mì gói mình đi làm cho người ta, lấy
tiền mua” - anh Ré cho biết.
Giống
như bao hộ gia đình khác trong xã, hằng ngày, vợ chồng anh Ré lên rẫy
phát cỏ, chăm sóc lúa. Con của anh Ré hôm nào không đi học thì theo cha
mẹ lên rẫy mót củ, hái lá rừng. Không chỉ gia đình anh Ré, trong những
ngày ở đây, chúng tôi chứng kiến rất nhiều gia đình cũng có hoàn cảnh
tương tự. Trong bữa ăn hằng ngày của họ, cơm trắng là thứ xa xỉ; cá,
thịt thì khó ai dám nghĩ tới.
“Cuộc
sống của đa phần người dân ở đây chủ yếu dựa vào lúa rẫy giữa lưng
chừng đồi. Năm nào trời nắng hạn, lúa không trổ bông là năm đó đói cả
xã. Bởi vậy, cái nghèo ở đây bao năm qua cứ như bóng ma lởn vởn, người
dân vẫn không thoát được” - thầy Công nói.
90% hộ thuộc diện nghèo
Rời
thôn Trà Veo, chúng tôi đến trung tâm xã Trà Xinh. Con đường dẫn vào xã
bùn đất lầy lội. Ông Hồ Thanh Thuyền, Chủ tịch UBND xã Trà Xinh, cho
biết theo chỉ tiêu của tỉnh thì trong năm 2012, toàn huyện phải giảm còn
71,7% số hộ nghèo. Tuy nhiên, thực tế số hộ nghèo trong xã Trà Xinh vẫn
còn trên 90%.
Theo
ông Thuyền, các chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững cùng
Chương trình 135 đang được thực hiện trong nhiều năm qua ở xã Trà Xinh
song thực chất, để đưa người dân thoát khỏi nghèo là việc hết sức khó
khăn. Bởi ở xã này, người dân sống phụ thuộc chủ yếu vào sản xuất lúa
rẫy nên khi gặp hạn hán hoặc mưa nhiều là mùa màng thất bát, cảnh nghèo
lại tái diễn.
Theo ông Hoàng Anh
Ngọc, Chủ tịch UBND huyện Tây Trà, 9 xã của huyện đều thuộc diện nghèo
nhất nước. Đặc biệt ở xã Trà Xinh, đời sống người dân cực kỳ khó khăn.
Do đó, để người dân thoát nghèo cần sự hỗ trợ mọi mặt từ các cấp chính
quyền.
Chỉ chờ người cứu trợ
Xã
biển Ngư Thủy Trung, huyện Lệ Thủy - Quảng Bình được xem là xã nghèo
“mạt rệp” của tỉnh. Khi chúng tôi đến, trên bãi biển, nhóm ngư dân Ngô
Thanh Quốc, Ngô Văn Quân, Hoàng Văn Việt đang ghè vai gánh con thuyền
cách mép nước chừng vài chục bước chân để tránh sóng. Nghe hỏi chuyện đi
biển, anh Quân thở dài: “Chúng tôi ra khơi ban đêm. Chi phí 200.000
đồng tiền dầu và chi phí lặt vặt. Một đêm chong mắt thả lưới, rạng sáng
kéo lên cũng được khoảng 10 kg cá trích, bán được 300.000 đồng. Tính ra
còn được 100.000 đồng, chia mỗi người được hơn 30.000 đồng. Anh Việt
tiếp lời: “Tàu thuyền trang bị hiện đại như đèn cao áp, máy dò cá, lưới
nhiều tầng... còn vô đánh bắt sát bờ thì làm sao còn tôm, cá cho ngư dân
ven bờ như tụi tui nữa...”.
Điển
hình của sự nghèo trên làng chài này là gia đình ông Ngô Văn Kiều. Ngôi
nhà nằm ở rìa xóm, thấp nhỏ run rẩy trước gió biển. Căn nhà như chiếc
áo rách, mái lợp tấm xi măng, xung quanh thưng đủ các loại nhặt nhạnh
được như ni lông, vải bố, tấm nhựa… Tất cả đều cũ, bợt bạt. Ông Kiều và 2
người con trai đầu đi làm thuê. Ba cha con chạy làm đủ việc: xúc cát
san nền, đào hố, kéo thuyền, ai kêu gì cũng làm, chỉ mong có được đồng
tiền công mang về. Vợ ông Kiều than: “Mấy tháng nay chẳng mấy khi nấu
được nồi cơm cho con ăn no. Hôm nào nhờ bên ngoại cho gạo thì có bữa,
còn không thì ăn khoai, sắn”. Cuối xã Ngư Thủy Trung là thôn Tân Thượng
Hải với 93 nóc nhà cũng đang trong tình cảnh gạo vay từng bữa. Tất cả
chỉ còn biết chờ có người đến cứu trợ chứ chẳng biết làm sao…
"Có hai cách để sống trên đời: một là xem như không có phép lạ nào cả, hai là xem tất cả đều là phép lạ".
Albert Einstein
“Chính qua cuộc đấu tranh nhằm thống nhất một cách hợp lý cái đa dạng
mà đã đạt được những thành công lớn nhất, dù rằng chính ý đồ đó có thể
gây ra những nguy cơ lớn nhất để trở thành con mồi của ảo vọng”.
Albert Einstein
“Người nhìn thấy cái đa dạng mà không thấy cái đồng nhất thì cứ trôi lăn trong cõi chết”.
“Nhiệt thể hiện ở chuyển động của các hạt vật chất.”
M.V. Lômônôxốp
“Tính
chất kỳ lạ nhất của năng lượng là khả năng biến đổi của nó. Một trong
những dạng phổ biến nhất của năng lượng trong tự nhiên là năng lượng
chuyển động hay động năng. Năng lượng nhiệt là nguồn dự trữ động năng
của các phân tử hoặc nguyên tử chuyển động hỗn loạn và liên tục.”
K.A Gladkov
"Tôi thích sự ngu dốt nhiệt tình hơn là sự thông thái thờ ơ".
Anatole France
"Trong sâu thẳm mùa đông, cuối cùng tôi cũng hiểu được trong tôi có mùa hè bất diệt".
Albert Camus
" Phần lớn con người sống cuộc đời tuyệt vọng trong im lặng, và rồi xuống mồ khi trong mình vẫn còn vang điệu nhạc".
Henry David Thoreau
"Không
có đam mê, bạn không có năng lượng; không có năng lượng, bạn không có
cái gì. Không có gì tuyệt vời trên thế giới được làm xong mà không có
đam mê trong đó".
Donald Trump
"Hãy
nuôi dưỡng hy vọng vì không có hy vọng sẽ không có nhiệt huyết. Nhiều
khi chỉ cần một tia hy vọng cũng làm rực sáng cả bầu nhiệt huyết trong
lòng người, soi rọi những thành quả lớn lao".
NTT
"Không
thể tưởng tượng ra một Vũ Trụ vô tỉ! Chỉ khi nào vật lý học thừa nhận
rằng các hằng số Vũ Trụ phải là những con số xác định (không vô tỉ), thì
lúc đó nó mới có khả năng nhận thức được chân xác Vũ Trụ".
NTT
(Còn tiếp)
Thuyết phlôgistôn dần được thừa nhận rộng
rãi trong giới hóa học nhờ những hoạt động của các học trò Stan.
Theo thuyết này, Phlôgistôn là thành phần
quyết định tính chất cháy được của vật thể. Trên cơ sở luận điểm đó, Stan đã
giải thích mối quan hệ giữa phlôgistôn với lửa. Ông cho rằng lửa (hay nhiệt)
cần thiết cho việc thực hiện các quá trình hóa học nhưng không thể xem như một
thành phần của vật thể thoát ra khi vật thể phân hủy, nghĩa là ông phủ nhận
“nguyên tố lửa” của Arixtốt. Còn Phlôgistôn, sau khi được giải phóng khỏi vật
thể cháy, có thể kết hợp với các vật chất khác, đặc biệt có thể kết hợp với
không khí thành một hợp chất rất bền vững. Khi vật chất cháy, Phlôgistôn bay
ra, chuyển động xoáy và kết hợp với không khí tạo thành ngọn lửa. Stan cho
rằng, phlôgistôn nằm trong bồ hóng là thứ Phlôgistôn tinh khiết nhất. Tuy
nhiên, Stan không coi Phlôgistôn như một chất cụ thể nào, mà cho rằng Phlôgistôn chỉ có tính vật chất khi nó kết hợp với một chất khác trong vật thể
hỗn hợp, lúc đó nó có thể thể hiện dưới dạng ngọn lửa khi nung nóng. Còn ở
trạng thái tự do thì Phlôgistôn là một thứ không xác định, không cụ thể. (Ngày
nay, có thể thấy thuyết Phlôgistôn là một sai lầm “đáng yêu” tương tự như
thuyết địa tâm: là lý thuyết tương phản của chân lý khoa học. Quá trình đốt cháy kim
loại trong không khí thành vôi hay xỉ (tức là ôxyt kim loại) chính là một quá
trình ôxy hóa khử và như vậy, có thể viết:
kim loại – Phlôgistôn = Kim loại + ôxy =
vôi kim loại (tức là ôxýt kim loại)
hay ôxy
= – Phlôgistôn)
Đến giữa thế kỷ XVIII, thuyết Phlôgistôn
đã được thừa nhận khắp châu Âu. Quan niệm về Phlôgistôn trong các quá trình
cháy đã làm hồi sinh quan niệm cổ về sự tồn tại và vai trò của các “chất lỏng
không có trọng lượng” trong các quá trình hóa học, đặc biệt là quan niệm coi
nhiệt như một chất lỏng không có trọng lượng, có khả năng “chảy” từ vật thể này
sang vật thể khác. Tuy rằng ngay từ đầu thế kỷ XVIII, một số nhà vật lý học như
Đềcác, Huc nêu nhiều lý lẽ bác bỏ quan niệm “chất lỏng nhiệt” và cũng chứng
minh cho quan niệm cơ học về bản chất nhiệt, nhưng đến giữa thế kỷ XVIII thì ý
kiến của họ hầu như bị lãng quên. Thuyết Phlôgistôn cùng với quan niệm tồn tại
các “chất lỏng không trọng lượng”, trong đó có “chất nhiệt” vẫn nghiễm nhiên
ngự trị trong khoa học.
Như có lần chúng ta đã kể, Lômônôxốp là
một nhà bác học vĩ đại, một trong những đại diện xuất sắc nhất của nền khoa học
Nga thế kỷ XVIII. Ông nổi tiếng là một thiên tài bách khoa: vừa là nhà vật lý
học, hóa học, địa chất học, khí tượng học…, vừa là nhà nghiên cứu lịch sử, ngôn
ngữ, vừa là thi sĩ, nghệ sĩ… Puskin, nhà thơ thiên tài người Nga đã viết thế
này: “Lômônôxốp đã xây dựng trường đại học đầu tiên của nước Nga và nói đúng
hơn, ông chính là trường đại học đầu tiên của nước Nga”.
Công lao to lớn của Lômônôxốp trong việc
thúc đẩy nhận thức của nhân loại về tự nhiên lên một tầm cao mới là bất tử,
không thể phủ nhận được. Một cống hiến đặc biệt quan trọng của ông cho khoa học
là lý thuyết cơ học về nhiệt hay thuyết nguyên tử - phân tử về nhiệt. Lập luận
một cách chặt chẽ, ông đã giải thích bản chất của nhiệt theo hướng cơ học mà
Đềcác, Húc… nêu ra trước đó, đưa đến quan niệm đúng đắn (hơn?!) về nhiệt, và quan niệm
này mang tính vượt thời đại. Ngay trong những luận văn đầu tiên của mình, Lômônôxốp
đã cố gắng chứng minh rằng “nhiệt thể hiện ở chuyển động của các hạt vật chất”.
Lômônôxốp chính là người đầu tiên phát
biểu nguyên lý bảo toàn vật chất và chuyển động dưới hình thức rõ ràng và chặt
chẽ. Ông viết: “Khi một vật thể truyền chuyển động cho một vật thể khác và làm
cho vật thể này chuyển động nhanh hơn, thì nó chỉ truyền một phần chuyển động
đúng bằng phần chuyển động mà nó mất”, và: “Mọi biến đổi trong thiên nhiên đều
xảy ra sao cho lấy từ vật thể này bao nhiêu thì thêm vào vật thể khác bất
nhiêu, nếu ở chỗ này vật chất bớt đi bao nhiêu thì ở chỗ khác vật chất tăng lên
bấy nhiêu…”. Trên cơ sở nguyên lý này, Lômônôxốp đã lập luận về chuyển động
nhiệt của các phân tử. Trong công trình “Bàn về tính rắn và tính lỏng của các
vật”, ông viết: “Trước tiên, tôi đã chứng minh rằng, ngọn lửa sơ đẳng của
Arixtốt hoặc các chất nhiệt đặc biệt - theo cách nói những nhà thông thái mới…
chỉ là một điều bịa đặt , và tôi đã khẳng định rằng lửa và chuyển động quay của
các tiểu phân, đặc biệt chẳng qua chỉ là do của các chất đã tạo ra vật”.
Những kết luận và chứng minh cuối cùng
của Lômônôxốp về bản chất nhiệt được trình bày trong bản luận văn “Luận về bản
chất của nóng và lạnh” viết năm 1744, công bố năm 1750. Ông viết: “Vật thể A
khi tác dụng lên vật thể B không thể truyền cho vật thể B một tốc độ lớn hơn
tốc độ của chính bản thân A. Vì vậy, nếu vật B lạnh nhúng vào vật A nóng thì
chuyển động của các hạt vật A sẽ gây cho các hạt vật B chuyển động nhiệt, nhưng
các hạt vật B không thể bị kích thích đến mức chuyển động nhanh hơn là chuyển
động nhiệt của các hạt vật A và vì vậy vật B lạnh nhúng vào vật A nóng tất
nhiên không thể nhận một lượng nhiệt lớn hơn lượng nhiệt mà vật A có”. Có thể
coi phát biểu này là dạng sơ khai, là tiền thân của nguyên lý II nhiệt động học
(đến nửa sau thế kỷ XIX mới chính thức được khám phá!).
Cũng trong bản luận văn nói trên, Lômônôxốp
đã dựa vào quan niệm mà ông nêu ra về bản chất của nhiệt để nói về giới hạn của
nóng và lạnh. Theo ông, vì không thể nêu ra một giới hạn cao nhất cho tốc độ
chuyển động của các hạt nên mức độ nóng của vật thể cũng không thể có giới hạn
cao nhất, trái lại vì giới hạn thấp nhất của chuyển động là đứng yên (vận tốc
bằng 0) nên tất nhiên phải có một giới hạn lạnh nhất, tương ứng với sự ngừng
hoàn toàn chuyển động của các hạt hợp thành vật thể. Đó chính là nhiệt độ không
tuyệt đối mà ngày nay đã được xác định là OoK (độ Kenvin) hay -273oC
(độ Celsi).
Quan niệm tiên tiến của Lômônôxốp về bản
chất của nhiệt tỏ ra hoàn toàn xa lạ và không thể hiểu nổi đối với số đông các
nhà khoa học thời đó. Chính vì vậy mà khi “Luận về bàn chất của nóng và lạnh”
của ông xuất hiện ở Đức, nó đã gây ra những chê bai và cả đả kích của những
người theo quan niệm về sự tồn tại của các “chất lỏng nhiệt không có trọng lượng”.
Có một điều đáng tiếc nhỏ, tuy Lômônôxốp
đã quan niệm nói chung là đúng đắn về cấu tạo vật chất và bản chất của nhiệt
cũng như không thừa nhận về sự tồn tại của các “chất lỏng không có trọng lượng",
song ông lại không những không từ bỏ thuyết Phlôgistôn mà còn dùng nó để giải
thích các hiện tượng hóa học, tính chất kim loại…
Sự phát triển kiến thức hóa học sau
khoảng 100 năm để đáp ứng đòi hỏi ngày một nâng cao về trình độ sản xuất cũng
như nhận thức trong thời kỳ đầu tư bản chủ nghĩa, đã đạt đến độ chín muồi làm
sụp đổ thuyết Phlôgistôn vào cuối thế kỷ XVIII, tạo ra sự chuyển biến mạnh mẽ
trong hóa học mà nhiều người mệnh danh là “Cuộc cách mạng trong hóa học”. Về
thời kỳ này, Angghen đã đánh giá khá xác đáng: “Bằng công trình thực nghiệm
hàng thế kỷ của mình, thuyết Phlôgistôn lần đầu tiên đã cung cấp đủ tài liệu để
Lavoaziê có thể tìm thấy trong chất ôxy mà Phistly mới điều chế được hình ảnh
thực tế lộn ngược của chất Phlôgistôn hoang đường và do đó lật nhào cả thuyết Phlôgistôn". Nhưng điều đó không có nghĩa là loại trừ mọi kết quả thực nghiệm
của những người theo thuyết Phlôgistôn. Ngược lại, các kết quả này tiếp tục tồn
tại, chỉ cần đảo ngược lại cách diễn đạt chúng, chuyển từ ngôn ngữ của thuyết Phlôgistôn sang ngôn ngữ hóa học hiện đại…
Angtoan Lôrăng Lavoaziê(Antoine Loran
Alvoisier) là nhà bác học thiên tài người Pháp, có kiến thức bách khoa uyên
bác, thuộc vào danh sách các bậc vĩ nhân của nhân loại, và được vinh danh là
người sáng lập ra hóa học hiện đại. Ông sinh ra ngày 26-8-1743 và là con của
một luật sư làm biện lý tại nghị viện Pháp.
Antoine Lavoisier
Cha đẻ của hóa học hiện đại
Sinh
26 tháng 8, 1743 Paris, Pháp
Mất
8 tháng 5, 1794 (50 tuổi) Paris, Pháp
Nghề nghiệp
nhà hóa học
Sau khi tốt nghiệp đại học, Lavoaziê
không đi theo con đường của cha mà gia nhập vào hàng ngũ các nhà khoa học tự
nhiên. Năm 1765, Lavoaziê công bố công trình khoa học đầu tiên về độ tan của thạch cao, sự mất nước của nó khi nung nóng và khả năng tái kết hợp của nó với nước. Năm 1766, Lavoaziê được tặng giải thưởng của Viện Hàn lâm khoa học Pari về phương án tốt nhất để thắp sáng đuòng phố trong các thành phố lớn. Hai năm sau, chính xác là vào tháng 5-1768, Lavoaziê vào làm trợ lý về hóa học và cũng năm đó ông được bầu vào viện hàn lâm khoa học Pháp, làm thành viên thứ 71, phá qui định "Viện hàn lâm khoa học Pháp chỉ giới hạn 70 thành viên". Năm 1778, Lavoaziê trở
thành viện sĩ ăn lương và năm 1785 thì được cử làm giám đốc viện hàn lâm khoa
học Pari. Năm 1788, ông trở thành hội viên Hội hoàng gia Luân Đôn (tức là Viện
hàn lâm khoa học Anh). Một trong những thành công nhất của Lavoaziê là tìm ra "Định luật bảo toàn vật chất", một đề tài cổ xưa của nhân loại. Ông đã chứng minh nó bằng định lượng và phát biểu nó như một định luật cơ bản của hóa học (định luật lavoaziê).
Con đường tiến thân trong khoa học của
Lavoaziê nói chung là thuận lợi và vinh quang. Còn con đường tiến thân trong
đời sống xã hội cũng thuận buồm xuôi gió, gặt hái không ít danh lợi, nhưng kết
thúc bất ngờ một cách bí ẩn. Năm 1768, Lavoaziê nhận làm việc với Sở thầu thuế.
Ở nước Pháp quân chủ, Sở thầu thuế là một cơ quan kinh doanh được chính phủ
giao cho trách nhiệm thu thuế của nhân dân. Hàng năm, Sở thầu thuế phải nộp cho
nhà nước một số tiền nhất định, số tiền dư còn lại, những người thầu thuế chia
nhau hưởng riêng. Với cách làm như vậy, những người thầu thuế kiếm được rất
nhiều tiền và giàu lên nhanh chóng (tất nhiên là một cách tỉ lệ thuận với mức
độ oán ghét của dân chúng. Chẳng hạn, năm 1763 tổng số tiền sở thầu thuế nộp
cho nhà nước là 90 triệu frăng, năm 1763 nộp 112 triệu frăng, nhưng số tiền mà họ thu được
của dân chúng gấp 3 lần những số tiền đó. Chính quyết định làm việc ở sở thầu
thuế của Lavoaziê đã dẫn ông đến thảm họa kết thúc đời mình.
Ngày 14-7-1789, quần chúng cách mạng đánh
chiếm ngục Basti, mở đầu cho cuộc cách mạng tư sản Pháp, làm sụp đổ hoàn toàn
chế độ quân chủ chuyên chế ở nước Pháp. Năm 1789 cũng được coi là năm của “cuộc
cách mạng hóa học” bằng sự ra đời cuốn sách nổi tiếng về hóa học của Lavoaziê
có tựa đề “Khái luận về hóa học”. Đó là cuốn sách giáo khoa với ngôn ngữ giản
dị, dễ hiểu, trình bày những cơ sở lý thuyết của môn hóa học mới. Trong lời phê
bình cuốn sách này, Fuốcra và Cađêđờvô nhân danh Hội canh nông đã viết: “Không
còn nghi ngờ gì nữa, Lavoaziê là một trong những người có ảnh hưởng lớn nhất
đến cuộc cách mạng tốt lành trong hóa học khí của thời đại chúng ta”. Năm 1789, cách mạng tư sản Pháp bùng nổ. Lavoisier với những hoạt động chính trị và kinh doanh liên quan đến giới
quý tộc như tham gia đầu tư, quản trị của công ty thu thuế cá nhân Ferme Générale;
chủ tịch uỷ ban của Discount Bank (sau đổi tên thành Banque de France);
và là một thành viên giàu quyền lực trong một số hội đồng quản trị quý
tộc khác và nhất là việc ông trở thành một chuyên viên thu thuế đã khiến
ông trở thành một đối tượng của cách mạng. Người tham gia kết tội ông
là Antoine Fouqier-Tinville, ủy viên công tố của phái Jacobin dựa trên những lời kết tội của một nhà khoa học khác là Jean-Paul Marat, một người có nhiều mâu thuẫn với Lavoisier.
Tháng 3-1792, Quốc hội ra sắc lệnh giải
thể Sở thầu thuế, ngày 10-8-1793, Viện hàn lâm khoa học Pari bị đóng cửa. Tháng
10-1793, Hội nghị Quốc ước ra lệnh bắt giam những người tham gia Sở thầu thuế
và bắt họ phải báo cáo chi tiết các công việc đã làm cùng với các bản thanh
toán. Bản tổng kết này do Lavoaziê làm xong vào tháng 4-1794. Ngày 7-5-1794, 28
người thầu thuế bị buộc tội là “thủ phạm và tòng phạm trong những âm mưu nhằm
giúp kẻ thù của nước Pháp bằng cách cưỡng đoạt và bóc lột nhân dân Pháp qua sưu
cao thuế nặng… thu lạm thuế đến 6 - 10 % tài sản của nhân dân trong khi theo
luật pháp, chỉ cho phép thu 4 %, chiếm riêng lợi nhuận đáng lẽ phải thuộc về
Ngân khố quốc gia, cưỡng đoạt của nhân dân và của quốc gia những tài sản lớn
đáng lẽ dùng để đài thọ cho cuộc chiến tranh chống liên minh của bọn độc tài và
đã chuyển số tiền đó cho bọn độc tài, kẻ thù của nước Pháp”. Với tội trạng đã
qui kết đó, Lavoaziê và các đồng sự của ông bị kết án tử hình.
Buổi chiều ngày 8-5-1794, bản án được thi
hành. Tài sản của Lavoazie bị tịch biên. Khi biết tin Lavoaziê phải lên máy
chém, nhà toán học nổi tiếng Lagrăng, người Pháp, đã nói: “Chỉ cần một nháy mắt
là người ta chặt xong một cái đầu, nhưng có lẽ hàng trăm năm cũng chưa tạo được
một cái đầu như thế”.
Năm 1796, bản án được xem xét lại. Sau
đó, người ta đã phục hồi danh dự cho Lavoaziê và trả lại tài sản đã tịch biên
cho người vợ góa của ông. Năm 1900, để ghi nhớ công lao của ông, một bức tượng Lavoaziê được dựng nên ở Pari.
Đóng góp của Lavoaziê đối với hóa học là
to lớn. Một trong những đóng góp quan trọng của ông là khẳng định sự tồn tại
của nguyên tố ôxy và từ đó đánh đổ thuyết phlôgistôn.
Lúc đầu, dựa trên các kết quả thí nghiệm
của mình về sự đốt cháy, Lavoaziê rút ra được: không khí không đơn giản như các
nhà nghiên cứu khi đó vẫn ngộ nhận mà là một hỗn hợp hay hợp chất của một số
chất khí có tính chất khác nhau, trong đó có chất khí vừa cần thiết cho việc
duy trì sự cháy, vừa “thuận lợi nhất cho sự hô hấp” (và sau này chính Lavoaziê
đề nghị đặt tên cho nó là “ôxy” - tiếng Pháp là “oxygène”, tiếng La tinh là
“oxygenium”, có nghĩa: “sinh ra axít").
Vốn là người cẩn thận, Lavoaziê thực hiện
nhiều thí nghiệm do mình đề ra nữa theo hướng khẳng định sự tồn tại của ôxy,
vai trò của nó đối với sự cháy và ôxy hóa kim loại. Cuối cùng, ngày 28-6-1785,
Lavoaziê dã trình bày bản luận văn được chuẩn bị kỹ lưỡng của mình có tựa đề:
“Luận về Phlôgistôn - Tiếp tục lý thuyết cháy và vôi hóa công bố năm 1777”,
trước Viện hàn lâm khoa học Pari. Trong đó có đoạn viết: “Nhiệm vụ của tôi trong
bản luận văn này là phát triển lý thuyết cháy mà tôi đã công bố năm 1777. Lý
thuyết của tôi chứng minh rằng Phlôgistôn của Stan chẳng qua là một chất tưởng
tượng mà ông đã giả thiết một cách không có căn cứ là có mặt trong kim loại,
trong lưu huỳnh, phốt pho, trong mọi vật thể cháy được. Lý thuyết của tôi cho
thấy nếu không dùng đến khái niệm Phlôgistôn thì hiện tượng cháy và nung nóng sẽ
được giải thích một cách đơn giản và dễ dàng hơn rất nhiều so với khi dùng khái
niệm Phlôgistôn. Tuy vậy, tôi không mong đợi quan điểm của tôi sẽ được mọi
người thừa nhận trong chốc lát. Đầu óc con người thường quen nhìn nhận sự vật
theo cách cũ, và những người nào trong môi trường hoạt động của mình vẫn quen
xem xét thiên nhiên theo quan điểm cũ sẽ khó mà hiểu nổi những quan điểm mới.
Như vậy, hãy để cho thời gian xác nhận hoặc bác bỏ ý kiến của tôi”. (Còn tiếp) -------------------------------------------------------