Nhiều
ý kiến cho rằng vật thể hình cái chuông này là một mẫu máy bay, được
nghiên cứu một cách tối mật và sẽ là thứ vũ khí giúp Đức quốc xã chiến
thắng trong Thế chiến II.
Tuy nhiên, cho đến nay, một số ý kiến lại cho rằng Nazi-Bell có thể là một cỗ máy thời gian, chứa đựng tham vọng thay đổi lịch sử nhân loại của quân phát-xít lúc bấy giờ.
Đĩa bay của người Đức
Bí ẩn về Nazi-Bell lần đầu tiên được thế giới biết đến vào năm 2000, khi tác giả người Ba Lan Igor Witkowski
xuất bản cuốn sách mang tên “Sự thật về siêu vũ khí”, trong đó đề cập
tới dự án của Đức quốc xã tại Ba Lan trong thời kỳ chiến tranh. Trong
cuốn sách này, tác giả đề cập tới việc ông đã tiếp cận được một số nguồn
tin tối mật vào năm 1997, và sau đó lần ra được nhiều bản báo cáo về dự
án nghiên cứu vũ khí bí mật mang tên Die Glocke.
Theo
mô tả, Nazi-Bell mang hình trụ, cao khoảng 3m và chiều dài gần 5m. Sử
dụng lực đẩy bằng năng lượng điện từ trường, Nazi-Bell có cấu tạo chính
gồm 2 trục quay đối lập, bên trong chứa đầy một thứ vật chất lỏng giống
thủy ngân, màu tím. Loại vật chất kim loại ở thể lỏng này được gọi dưới
mật danh “Xerium 525” và được cất giữ cẩn thận trong một bình cách nhiệt
vỏ chì.
Theo một số tác giả nghiên cứu về Nazi-Bell, nó phát ra
phóng xạ cực mạnh khi hoạt động, đây có thể là nguyên nhân dẫn tới cái
chết bí ẩn của một số nhà khoa học và các vật thí nghiệm trong suốt quá
trình hoạt động của dự án này. Tác giả Winkowski cho rằng, đống đổ nát
của khu khai thác mỏ Wenceslas-Ba Lan chính là nơi Đức quốc xã
đã thử nghiệm tính năng “phản trọng lực” của Nazi-Bell. Giờ đây, khu
vực này không còn lại gì ngoài một kiến trúc hình tròn xây dựng bằng đá
đầy bí ẩn.
Mô tả của Witkowski đặt ra sự liên hệ giữa cấu trúc đá
hình tròn và Nazi-Bell. Theo ông, Nazi-Bell có hình dáng giống hệt một
chiếc dĩa bay và cấu trúc đá đóng vai trò như một trường điện từ trường.
Witkowski từng cho biết các bản thiết kế này được ông tìm thấy trong
các tài liệu nghiên cứu của một tướng lĩnh Đức quốc xã tên Jakob
Sporrenberg – quản lý dự án Nazi-Bell ở Ba Lan – năm 1997. Sau đó, một
tác giả khác là Nick Cook cũng khai thác đề tài này, sau khi ông tìm
thấy một số tài liệu mật kể về những người bước ra từ một vật thể bay
hình tròn dẹt, từ năm 1956.
Tác
giả Cook đã điều tra và nghiên cứu khu mỏ Wenceslas ở Ba Lan, nơi các
nhà khoa học của Đức quốc xã tiến hành các thí nghiệm với Nazi-Bell và
cấu trúc đá kỳ lạ. Sau này, Cook phát hiện ra rằng khu mỏ kéo dài tới
vài km trong lòng núi, tạo nên một cơ sở nghiên cứu hết sức bí mật và an
toàn trước bom đạn. Đến nay, cấu trúc đá vẫn tồn tại và được biết đến
dưới cái tên Flytrap (Bẫy ruồi). Trước khi bỏ trốn vào năm 1945, Đức
quốc xã đã niêm phong các đường hầm dưới lòng đất tại Wenceslas và giờ
nó đã bị ngập trong nước. Điều khó lý giải nhất chính là số phận của
Nazi-Bell: Nó đã được ai đó mang đi? Hay chỉ đơn giản là biến mất?
Nỗ lực tái hiện Nazi-Bell
Từ những bản
sao chép về dự án Die Glocke của Jakob Sporrenburg, quan chức cấp cao
của Đức quốc xã và là trưởng dự án Nazi-Bell lúc bấy giờ, một nhóm các
nhà khoa học Mỹ từng xây dựng lại một bản sao của Nazi-Bell. Năm 2001,
nhóm này đã cho ra mắt một phiên bản Nazi-Bell có kích thước lớn hơn để
có thể sẵn sàng làm thí nghiệm. Tuy nhiên, không lâu sau đó, dự án này
bị ngừng lại với một số lý do đơn giản như không đủ ngân sách và cỗ máy
này cần một nguồn điện khổng lồ để vận hành…
Những ít nhất, các
vật thể được xây dựng lại đã phần nào thể hiện được thứ công nghệ mà
người Đức đã từng theo đuổi: một phương pháp thu về uranium phân tách để
chế tạo vũ khí nguyên tử. Một phương pháp quang hóa đã được nhắc tới
nhiều lần giữa một nhóm khoa học Đức quốc xã tại Farm Hall, gần
Cambridge trong thời chiến. Một số nhà khoa học Đức bị bắt giữ tại đây
liên tục nhắc tới việc thu được vật liệu phân tách từ các phản ứng quang
hóa.
Nỗ lực tái tạo Nazi-Bell đã cho ra một số giả thiết về cách
thức hoạt động của nó. Thủy ngân ở dạng lỏng được đưa vào trường từ
tính để sản sinh các hạt electron dao động, và do tác động của điện từ
trường, các hạt electron này sẽ bị tách khỏi nhân của chúng và bay quanh
Nazi-Bell dưới dạng Plasma. Khi các hạt photon kết hợp với các electron
tự do sẽ sản sinh ra tia X.
Vận tốc của các hạt electron này,
trong môi trường nhỏ và áp suất thấp, sẽ ngày càng gia tăng…và sẽ ngày
càng có nhiều electron được sản sinh từ thủy ngân lỏng, khiến quá trình
ion-hóa tăng gấp 2-3 lần…và đó có thể là nguồn gốc của lực đẩy phản
trọng trường của Nazi-Bell.
Giả thuyết về cỗ máy thời gian
Đáng chú ý, Hitler,
người đã luôn tin rằng Nazi-Bell đóng vai trò hết sức quan trọng để
giành chiến thắng trước quân đồng minh, thực tế đã phải hy sinh 60 nhà
khoa học phục vụ dưới chướng cho dự án này.
Jim Marrs, một tác
giả khác cũng viết về Nazi-Bell và cấu trúc Bẫy ruồi, nêu một giả thiết
cho rằng cỗ máy này có khả năng tạo ra một Wormhole (hố giun), cho phép
kết nối giữa các vũ trụ đóng và bởi vậy mở ra khả năng du hành xuyên
thời gian.
Nghe có vẻ vô lý, nhưng những người quan tâm đã bắt
đầu chú ý đến giả thiết này sau khi xảy ra một sự kiện. Tháng 12-1965,
một chiếc UFO (vật thể bay không xác định) đã rơi xuống một khu rừng ở
Kecksbrug, bang Pennsylvania nước Mỹ trước sự xác nhận của hàng nghìn
nhân chứng. Chiếc UFO này được mô tả có hình dạng, kích thước giống như
Nazi-Bell mà người Đức từng nghiên cứu trong siêu dự án của mình. Một số
người cho rằng nó chính là Nazi-Bell và người Đức thực sự đã mở được
cánh cửa xuyên không-thời gian.
Mặc dù không được chứng thực
nhưng các nhà quan sát đều chấp nhận một thực tế rằng Nazi-Bell đã biến
mất không để lại dấu vết kể từ năm 1945. Từ đây, nhiều giả thiết nữa
được đưa ra: Một số lãnh đạo của Đức quốc xã đã bỏ trốn cùng
Nazi-Bell…Đức quốc xã đã thành công trong các thí nghiệm vượt thời gian
của mình…hoặc Mỹ đã thu được Nazi-Bell và biến nó thành một phần trong
các nghiên cứu bí mật về dĩa bay của riêng mình. Có ý kiến cũng cho rằng
một số lãnh đạo Đức quốc xã đã bỏ trốn trên Nazi-Bell và tới thời điểm
năm 1965 một cách không mong muốn.
Lúc bấy giờ, một số nhà khoa
học, trong đó có Tiến sỹ Brian Greene, cha đẻ của “lý thuyết dây” trong
không gian-thời gian, đã lý giải rằng việc du hành xuyên thời gian trên
lý thuyết là điều có thể. Trong cuốn sách “Kết cấu vũ trụ” của mình,
Tiến sỹ Greene mô tả trục thời gian như một chiếc bánh mỳ, mỗi lát cắt
tượng trưng cho một khoảng thời gian, và chúng ta có thể lấy bất kỳ lát
cắt ở vị trí trước hoặc sau. Tuy nhiên, trên lý thuyết, lấy các lát cắt ở
phía trước sẽ dễ dàng hơn nhiều so với các lát cắt trước đó, bởi vậy,
du hành tới tương lai có khả năng cao hơn là du hành ngược về quá khứ –
theo phân tích của Tiến sỹ Greene. Theo lý thuyết này, con người không
thể trở về quá khứ và tìm cách thay đổi một dòng chảy thời gian đã tồn
tại…hoặc nếu có chuyện đó xảy ra, người ta sẽ ở một quá khứ thuộc không
gian khác, tồn tại song song với thế giới hiện tại.
Vậy
điều gì sẽ xảy ra nếu Đức quốc xã đã thành công với cỗ máy thời gian
của mình? Với ý định trở về quá khứ và thay đổi cục diện cuộc chiến, Đức
quốc xã có thể đang làm bá chủ thế giới ở một chiều không gian khác
song song với thực tại hay không? Cho đến nay điều này vẫn là một ẩn số.
Tuy nhiên, thực tế duy nhất mà chúng ta biết về dự án bí mật này là:
Ngay trước lúc Thế chiến II kết thúc, Nazi-Bell, nhiều nhà khoa học và
quan chức hàng đầu của Đức quốc xã đã biến mất mà không để lại dấu vết
gì cho thấy họ từng tồn tại…
Theo báo Đại Đoàn Kết
Bí mật ở lục địa băng - Kỳ 1: Cuộc viễn chinh đến Nam Cực
Năm 1947, Đô đốc
Richard E. Byrd chỉ huy 4.000 lính Mỹ, Anh và Ôxtrâylia thực hiện một
cuộc viễn chinh đến Nam Cực trong một sứ mệnh có tên là Chiến dịch
Highjump. Trên thực tế, có một phần của câu chuyện hiếm khi được người
ta nhắc đến, đó là việc Byrd và đội quân của ông đã gặp phải sự kháng cự
quyết liệt của các đĩa bay trong chuyến viễn chinh đến Nam Cực, buộc
Byrd phải từ bỏ ý định xâm chiếm lục địa này. Và có nhiều bằng chứng cho
thấy, tại vùng đất quanh năm phủ đầy băng giá này, phát xít Đức đã xây
dựng một cơ sở quân sự, có liên quan đến những vật thể bay không xác
định (UFO). Kỳ 1: Cuộc viễn chinh đến Nam Cực
Câu
chuyện này được đề cập lại vài năm trước đây khi một Thiếu tướng Hải
quân, người đã từng tham gia vào cuộc viễn chinh này, phát biểu rằng ông
cảm thấy bị sốc khi nghe các thông tin trong một cuốn phim tư liệu có
tên “Bão lửa từ bầu trời”. Ông thừa nhận, trong hành trình đến vùng cực
này, đã có nhiều máy bay và rốckét bị bắn rơi, nhưng tình hình không
nghiêm trọng đến mức như bộ phim tư liệu phản ánh.
Tàu ngầm Sennet
Chiến dịch Highjump hay thực chất là một cuộc viễn chinh đến Nam Cực
có sự tham gia của ba cụm tàu sân bay. Lực lượng này khởi hành từ thành
phố Norfork, bang Virginia (Mỹ) vào ngày 2/12/1946. Dẫn đầu đoàn quân
gồm 4.000 binh lính là tàu chỉ huy của Đô đốc Richard E. Byrd. Ngoài ra,
còn có tàu phá băng Northwind, tàu khu trục Pine Island, tàu khu trục
Brownsen và Henderson, tàu sân bay Phillipines Sea, tàu ngầm Sennet của
Mỹ, hai tàu vận tải Yankee và Merrick, hai tàu chở dầu Canisted và
Capacan và một thủy phi cơ Currituck.
Chuyến thám hiểm này được Hải quân Mỹ ghi hình và mang về Hollywood để dựng thành bộ phim có tên “Miền đất bí mật” .
Đô đốc Richard E. Byrd.
Một điều dường như không thể tin được là, ngay sau khi kết thúc cuộc
Chiến tranh Thế giới II đã tàn phá hầu hết châu Âu và làm lụn bại các
nền kinh tế trên toàn cầu, người Mỹ lại vội vàng tiến hành một chuyến
thám hiểm Nam Cực với nhiều trang thiết bị chiến tranh đến như thế - trừ
khi chiến dịch này là cực kỳ quan trọng đối với an ninh của nước Mỹ.
Vào
thời điểm diễn ra chiến dịch, lực lượng hải quân Mỹ đang bị xé lẻ bởi
nhiều hạm đội đã bị giải tán và các thủy thủ đã giải ngũ để trở về với
cuộc sống đời thường. Những căng thẳng trên toàn cầu cũng leo lên đỉnh
điểm khi mà Liên Xô và Mỹ đang ngấp nghé bên bờ của một cuộc chiến tranh
lạnh. Bối cảnh này khiến việc đưa 4.000 lính thủy đến một nơi xa xôi
của hành tinh đầy hiểm nguy ẩn chứa trong các núi băng, các trận bão
tuyết và nhiệt độ dưới 0 độ C trở thành một câu hỏi không có lời đáp.
Các
phương tiện truyền thông ít được cung cấp thông tin về sứ mệnh này. Đô
đốc Ramsey ngày 26/8/1946 đưa ra tuyên bố rằng: “Người đứng đầu các
chiến dịch hải quân sẽ chỉ làm việc với các cơ quan của chính phủ và
không một quan sát viên nước ngoài nào được phép tham gia vào chiến dịch
này”.
Tuy vậy, thông tin về cuộc viễn chinh này cũng đã bị rò
rỉ. Có ba bộ phận tham gia chiến dịch: Một nhóm trên bộ được trang bị
máy kéo, thuốc nổ, và nhiều trang thiết bị để tái dựng lại “một nước Mỹ
thu nhỏ” và để xây dựng một đường băng cho sáu chiếc máy bay R4D (DC-3)
và hai phi đội thủy phi cơ hạ cánh. Loại máy bay R4D được lắp thêm các
ống phóng hỗ trợ phản lực (JATO) để có thể cất cánh từ đường băng ngắn
trên tàu sân bay Philippines Sea. Chúng cũng được lắp các ván trượt để
có thể hạ cánh xuống sân bay trên băng.
Các lực lượng tham gia chiến dịch Highjump.
Sau khi đến Nam Cực, lực lượng này bắt đầu tiến hành trinh sát lục
địa băng. Các máy bay đã bay được 220 giờ trên không, vượt qua một quãng
đường có tổng chiều dài hơn 40.000 km và chụp khoảng 70.000 bức ảnh.
Sau đó, sứ mệnh, theo dự kiến sẽ kéo dài từ 6 đến 8 tháng, đã sớm bị
dừng đột ngột. Báo chí Chilê đưa tin rằng nguyên nhân là sứ mệnh này gặp
phải các “trở ngại” và có nhiều người bị thương vong. Nhóm Trung tâm
của Chiến dịch Highjump đã được tàu phá băng Burton Island đưa ra khỏi
vịnh Whales vào ngày 22/2/1947; nhóm phía tây lên đường trở về nhà vào
ngày 1/3/1947 và nhóm phía đông cũng có hành động tương tự vào ngày
4/3/1947, chỉ 8 tuần sau khi đặt chân đến Nam Cực.
Họ trở về mang
theo nhiều số liệu thu được. Những thông tin này ngay lập tức đã được
xếp vào hàng “tuyệt mật”. Sau khi nghỉ hưu, Tư lệnh Hải quân James
Forrestal bắt đầu tiết lộ về chiến dịch Highjump, nhưng ngay sau khi
những thông tin ban đầu về chiến dịch này được hé lộ, ông liền bị đưa
vào Bệnh viện Bethesda của Hải quân để... điều trị bệnh tâm thần. Và
cuối cùng, người ta thông báo rằng ông đã chết khi ngã ra bên ngoài cửa
sổ trong lúc đang cố gắng tự tử bằng một tấm ga trải giường.
Ngày
3/5/1947, tờ báo El Mercurio của Chilê đăng một bài viết với tiêu đề:
“Trên đỉnh Olympus ngoài biển khơi”. Bài báo trích dẫn bài phỏng vấn
Byrd của phóng viên Lee Van Atta với nội dung: Đô đốc Byrd cho rằng nước
Mỹ cần phải tiến hành các biện pháp phòng thủ ngay lập tức để đối phó
với các khu vực thù địch. Trong trường hợp nổ ra một cuộc chiến tranh
mới, nước Mỹ sẽ bị tấn công bằng các vật thể bay mà có thể bay từ cực
này đến cực kia của Trái Đất với một tốc độ nhanh không thể tin được.
Ông mất vào năm 1957. Nhiều người cho rằng, ông bị sát hại.
Vậy
thế lực nào đã sở hữu hoặc điều khiển những vật thể bay có khả năng bay
từ cực này đến cực kia Trái Đất với tốc độ không thể tin nổi?
Khánh Chi (Tổng hợp)
Bí mật ở lục địa băng - Kỳ 2: Sinh vật ngoài trái đất nói tiếng Đức
Sự kiện Roswell,
Mỹ (đề cập đến sự xuất hiện của vật thể bay không xác định tại thị trấn
Roswell với khá nhiều nhân chứng) đã được nhiều tờ báo đề cập đến. Tuy
nhiên, sự kiện này nhanh chóng bị lắng xuống bởi dư luận bắt đầu quay
sang tìm hiểu thông tin liên quan đến chiến dịch Highjump.
Người
ta đồn đại rằng, mặc dù phát xít Đức đã bị đánh bại nhưng một nhóm sĩ
quan quân đội và nhà khoa học đã bỏ chạy đến Nam Cực và thành lập một
căn cứ ở vùng đất băng giá này. Tại đây, họ tiếp tục phát triển các loại
máy bay tiên tiến dựa trên những công nghệ ngoài trái đất. Một chi tiết
đáng chú ý là vào giai đoạn cuối của cuộc chiến tranh, phe Đồng minh
tính toán rằng có khoảng 250.000 người Đức không rõ đang ở đâu. Số người
này với trình độ cao đủ để xây dựng một nền tảng công nghiệp.
Chiến dịch Highjump và mối liên hệ với đĩa bay.
Nhiều nhà nghiên cứu về UFO đều đã được tiếp cận với hàng loạt
các báo cáo liên quan đến những trường hợp trông thấy đĩa bay có in hình
chữ thập hoặc huân chương chữ thập sắt (các biểu tượng của phát xít
Đức), người ngoài hành tinh nói tiếng Đức... Hầu hết trong số họ cũng
được nghe nhắc đến những trường hợp người trái đất bị bắt cóc sau đó
được đưa đến những căn cứ ngầm.
Trên vách của những căn cứ này,
người ta trông thấy những đồ vật có in hình chữ thập. Alex Christopher
cũng đã từng bị UFO bắt cóc nhưng may mắn trốn thoát được, kể lại rằng
anh đã trông thấy “sinh vật lạ” và những tên phát xít Đức làm việc cùng
với nhau trên boong của những phi thuyền có khả năng chống lại được lực
hút của trái đất hoặc trong những căn cứ ngầm. Barney Hill cũng đã từng
nhắc đến cái gọi là sự liên hệ giữa “phát xít Đức” và những vụ con người
bị các UFO bắt cóc.
Những đĩa bay có in hình chữ thập sắt.
Một trường hợp đáng chú ý khác là của Reinhold Schmidt, một người
Mỹ có bố sinh ra ở Đức. Trong cuốn sách có tiêu đề “Sự cố ở Kearney”,
Schmidt kể lại rằng mình đã bị đưa lên một đĩa bay vài lần. Anh nói:
“Phi hành đoàn trên đĩa bay nói chuyện với nhau bằng tiếng Đức và cung
cách làm việc của họ giống như những tên lính phát xít Đức”. Anh cũng
nhắc đến việc bị đưa đến “vùng cực”. Sau khi trở về, Schmidt liên tục bị
chính phủ Mỹ thẩm vấn. Trong phần khai báo của anh này, người ta phải
công nhận rằng những miêu tả của anh về đĩa bay giống hệt như trong
những bức ảnh thu được của người Đức trong những ngày cuối cùng của
Chiến tranh thế giới thứ hai.
Vào năm 1959, ba tờ báo lớn của
Chilê cho đăng tải trên trang nhất những bài viết về những trường hợp
trông thấy UFO. Trong những trường hợp đó, các thành viên của phi hành
đoàn được kể lại trông giống như những lính Đức. Đến đầu những năm 1960,
ở bang New York và bang New Jersey xuất hiện những báo cáo về “người
ngoài hành tinh” trên đĩa bay nói tiếng Đức, hoặc nói tiếng Anh nhưng
pha giọng Đức.
Có một nguồn tin khẳng định rằng, mục tiêu của
chiến dịch Highjump là phải xác định vị trí của một căn cứ ngầm rất rộng
lớn nằm sâu dưới lòng đất do người Đức xây dựng vào giai đoạn trước,
trong và ngay sau khi kết thúc Chiến tranh thế giới thứ hai, với sự trợ
giúp của những sinh vật ngoài hành tinh, được nhắc đến là những “người
Arian”.
Khu vực Neuschwabenland.
Căn cứ này được cho là được xây dựng ở Neuschwabenland, một khu vực
thuộc Nam cực mà Đức đã phát hiện ra và tuyên bố chủ quyền trước khi nổ
ra Chiến tranh thế giới thứ hai. Trong thực tế, Đức đã tiến hành một
nghiên cứu kỹ lưỡng về Nam cực và nước này đã tiến hành xây dựng một căn
cứ ngầm dưới lòng đất trước khi diễn ra Chiến tranh thế giới thứ hai.
Vào
thời điểm đó, ít nhất là cho đến năm 1947, có rất nhiều bằng chứng cho
thấy, một vài bộ phận của Hải quân Đức vẫn còn hoạt động mạnh ở Nam cực
hoặc là ở khu vực Nam Mỹ. Vào năm 1947, một tàu ngầm của Đức đã chặn một
tàu săn bắt cá voi của Aixơlen có tên là Juliana ở vùng biển Nam cực và
đề nghị thuyền trưởng Hekla bán lại cho họ những thực phẩm dự trữ trên
tàu.
Để đổi lại, ngoài việc thanh toán toàn bộ số hàng hóa trên
bằng USD và kèm theo 10 USD tiền thưởng cho mỗi thủy thủ trên tàu
Juliana, thuyền trưởng tàu ngầm đã chỉ cho tàu săn cá voi nơi có một đàn
cá voi lớn. Tàu của Hekla sau này đã săn được nhiều cá voi ở vị trí mà
thuyền trưởng tàu ngầm của Hải quân Đức đã chỉ.
Lúc này, người ta
phải đặt câu hỏi tại sao Mỹ và các nước đồng minh lại nghi ngờ các hoạt
động của Đức ở vùng cực vẫn được tiếp tục, sau khi Chiến tranh thế giới
thứ hai đã kết thúc và phát xít Đức bị thất bại?
Khánh Chi (tổng hợp)
Bí mật ở lục địa băng - Kỳ cuối: Một cuộc chạy trốn khỏi nước Đức?
Theo
một tài liệu mật của Hải quân Mỹ, những chiếc tàu ngầm của Đức hoạt
động tại vùng biển Nam Cực đều được đóng theo mẫu tàu ngầm loại XXI và
loại XXIII. Mỗi tàu ngầm đều có một hệ thống thông hơi nên nhờ đó chúng
có thể di chuyển ngầm dưới nước một mạch từ Đức mà không sợ bị phát
hiện.
Một sự thật được thừa nhận là, khi phát xít Đức sắp
bị tiêu diệt trong Thế chiến II, 10 tàu ngầm của nước này, đang thả neo
ở các cảng Oslofjord, Hamburg và Flensburg, đều sẵn sàng chuyên chở vài
trăm sĩ quan và quan chức Đức sang Áchentina để xây dựng một đế chế
mới. Những sĩ quan này, chủ yếu có liên quan đến các dự án bí mật, và
nhiều người trong số họ chính là các thành viên của lực lượng SS và Hải
quân Đức, đang tìm cách trốn chạy khỏi sự trả thù của quân Đồng minh.
Bằng chứng về sự tồn tại của một căn cứ bí mật của phát xít Đức ở Nam Cực.
Các tàu ngầm Đức được chất đầy hành lý, tài liệu và rất có thể là
các thỏi vàng. Tất cả các tàu ngầm rời khỏi các cảng ở Đức trong khoảng
từ ngày 3 đến ngày 8/5/1945. Những con tàu này nhằm hướng Áchentina
thẳng tiến với hy vọng sẽ nhận được sự chào đón của Tổng thống Áchentina
Juan Peron. Bảy trong số 10 tàu ngầm này, vốn ở căn cứ giữa biên giới
giữa Đức và Đan Mạch, đã khởi hành lên đường đi Áchentina qua vùng biển
Kattegat và Skagerrak. Người ta chưa từng bao giờ thấy lại chúng. Tuy
nhiên, các tài liệu tiết lộ rằng chỉ có ba con tàu đến được Áchentina.
Đó là các tàu U-530, U-977 và U-1238. Còn số phận của bảy con tàu khác
vẫn nằm trong vòng bí mật.
Những tài liệu do Hải quân Đức để lại
mới được phát hiện gần đây cho thấy có tới hơn 40 tàu mà người ta không
thể lý giải được hành tung của chúng. Tất cả những con tàu này đều được
đóng với trình độ công nghệ cao bậc nhất thời ấy. Nhiều nhận định cho
rằng, có thể số tàu này đã đi đến Áchentina hoặc Nam Cực. Các tàu ngầm
di chuyển hoàn toàn dưới mặt nước nên công nghệ của các nước đồng minh
lúc đó không thể phát hiện ra chúng trong suốt hành trình vượt biển.
Tất
nhiên, người ta có thể đặt ra một câu hỏi là tại sao các thủy thủ Đức
lại tiến hành một chuyến vượt biển mạo hiểm như thế. Đây chắc hẳn là một
hành động liều lĩnh hoặc cuồng tín hoặc là cả hai. Điều khiển những con
tàu chắc hẳn phải là các thủy thủ thuộc Lực lượng hải quân phát xít
Đức, còn các nhà khoa học và sĩ quan quân đội là những hành khách.
Tàu ngầm phát xít Đức đang neo đậu trong cảng Hamburg.
Quay trở lại sự kiện xảy ra tại khu vực dãy núi Bavaria (Đức) vào
mùa hè năm 1938, một vật thể bay không xác định do một người mang dáng
vẻ của chủng tộc người Arian đã thực hiện một cuộc hạ cánh xuống đây,
rất giống cuộc hạ cánh đã diễn ra khoảng 10 năm trước đó trên sa mạc gần
với thị trấn Roswell, bang New Mexico, Mỹ. Trong khi những người trên
hai chiếc đĩa bay này được xem là không có gì liên quan đến nhau nhưng
công nghệ mà họ sử dụng lại cực kỳ giống nhau.
Tham vọng khôi
phục lại chiếc UFO bị rơi ở vùng núi Bavaria được xem là động lực kích
thích “cuộc di cư” của Hải quân Đức về phương Nam trong những ngày cuối
của Thế chiến II. Nước Đức lúc đó đã bị tàn phá nặng nề, và công việc
nghiên cứu này đối với những người trực tiếp tiến hành là đủ quan trọng
để họ thu dọn lại tất những gì họ đã có và liều lĩnh vượt qua Đại Tây
Dương để đến một căn cứ thử nghiệm và biệt lập ở lục địa băng.
Nhiều
phỏng đoán cho rằng, ít nhất một trong những tàu ngầm của phát xít Đức
đã mang theo phần thưởng lớn hơn hết thảy: Vài sinh vật còn tồn tại sau
vụ rơi đĩa bay vào năm 1938. Cụ thể, đó là những người ngoài hành tinh.
Nhiều nhận định cho rằng, những sinh vật này có lẽ vẫn đang làm việc
cùng các nhà khoa học và kỹ sư người Đức, trong một nỗ lực nhằm phục hồi
hoạt động của đĩa bay.
Đây không phải là “những người ngoài
hành tinh màu xám” trong vụ Roswell. Những sinh vật này, về mặt sinh
học, hoàn toàn như con người, được miêu tả là có dáng vẻ bề ngoài của
chủng tộc người Arian, và hoàn toàn giống con người, cho dù trình độ
phát triển của họ vượt con người trên Trái Đất từ hai đến ba thế hệ.
Trong khi, về mặt lý thuyết, công nghệ của họ giống như công nghệ của
những sinh vật màu xám nhưng có đôi chút khác biệt trong cách ứng dụng.
Mặc
dù chưa có nhiều bằng chứng thuyết phục về sự tồn tại của một căn cứ
của Đức và người ngoài hành tinh ở Nam Cực, nhưng rõ ràng có cái gì đó
rất bất thường đang diễn ra ở lục địa băng.
Khánh Chi (tổng hợp)
Vật thể nghi tàu ngoài hành tinh ẩn trong hang động Nam Cực
Các thợ săn vật thể bay không xác định
(UFO) phát hiện một vật thể nghi là phi thuyền của người ngoài hành tinh
ở Nam Cực qua ảnh vệ tinh Google Earth.
Nhóm thợ săn UFO Secure Team chia sẻ hình ảnh vật thể hình chiếc đĩa
nhô một nửa ra phía ngoài hang động trên YouTube hôm 23/1 khi phóng cận
cảnh một vùng đồi núi ở Nam Cực, theo Sun. Phát hiện được xem là "bằng chứng mới nhất về công nghệ bí mật" trên lục địa băng.
"Đây là phát hiện quan trọng, một trong những công trình phi tự nhiên
và bất thường nhất mà chúng tôi từng tìm thấy ở Nam Cực", nhóm Secure
Team cho biết.
Trước đó, hình ảnh một vật thể giống kim tự tháp lớn ở Nam Cực trong
ảnh vệ tinh Google Earth được chia sẻ rộng rãi, làm dấy lên suy đoán về
nền văn minh thất lạc ẩn dưới lớp băng và giả thuyết người ngoài hành
tinh xây dựng một căn cứ khổng lồ tại đây.
Phương Hoa
Dự án chế tạo đĩa bay của phát xít Đức
Các cuộc điều tra gần
đây cho thấy, tại nước Đức quốc xã, GS Henrich Focke (cha đẻ của máy bay
Focke-Wulf) đã thiết kế ra loại thiết bị bay hình đĩa từ năm 1939. Nó
được trang bị một động cơ tuốcbin và cất cánh theo chiều thẳng đứng.
Mô hình Đĩa bay.
Một bộ phim tài liệu mới
được phát trên kênh truyền hình Discovery cho biết, nước Đức phát xít
theo chỉ thị của Hitler đã từng sản xuất những mẫu thiết bị bay thử
nghiệm có hình dáng tương tự những chiếc đĩa bay.
Theo nhà sử học về hàng không người Anh Henry Stevens, 15 thiết bị bay
kiểu như vậy đã được sản xuất vào năm 1943. Chúng được nghiên cứu chế
tạo với mục đích sử dụng cho lực lượng SS và được mang mật danh V7.
Một nguồn thông tin khác mà Discovery có được từ cuốn hồi ký của viên kỹ
sư Đức Andreas Epp, người đã chết cách đây 10 năm. Từ đầu những năm 40,
Epp đã gửi tới giới lãnh đạo phát xít Đức một bức thư với nhiều chi
tiết kỹ thuật chứng minh sự ưu việt về khả năng cơ động và tải trọng của
các thiết bị bay hình đĩa so với những máy bay thông thường.
Tuy nhiên, kiến trúc sư trẻ này đã không nhận được một chút hồi âm. Về
sau, anh ta mới nghe phong thanh về việc quân Đức đang chế tạo một thiết
bị bay hình đĩa tại nhà máy Skod ở Praha. Epp đã bí mật tới đây để
chính mắt nhìn thấy những chiếc đĩa bay được chế tạo theo bản vẽ thiết
kế của mình.
Những thiết bị bay có hình dạng tròn được trang bị các động cơ phản lực,
phần đáy được lắp các cánh quạt. Giữa “chiếc đĩa” được thiết kế một mái
vòm là buồng lái của phi công. Những bước thử nghiệm đầu tiên của loại
đĩa bay này vào năm 1944 đã đạt được những thành công bước đầu, khiến
Hitler đã từng khoác lác trước đồng minh Mussolini về loại vũ khí kỳ
quan mới của mình.
Luigi Romersa, 84 tuổi, từng là cố vấn quân sự của Mussolini, kể lại với
kênh truyền hình Discovery: “Đó là một thiết bị rất khác thường. Nó có
hình đĩa tròn, phía trên có một cabin với nắp vòm bằng nhựa thủy tinh.
Từ mọi hướng có thể nhìn rõ những ống phun dùng cho động cơ phản lực”.
Cần nói thêm là vào năm 1950, một người Italia khác có tên Joseph
Bellonze đã tuyên bố: Các kỹ sư Đức và Italia từ đầu năm 1942 đã nghiên
cứu chế tạo những thiết bị bay hình đĩa có đường kính 23 25 mét, với
nhiều loại ứng dụng khác nhau như trang bị vũ khí hạng nặng hay để vận
tải.
Loại đĩa bay này có thể chứa tới 20 người, được dự tính dùng cho các
chiến dịch tấn công phá hoại. Chúng còn được lắp đặt một thiết bị đặc
biệt nhằm gây nhiễu cho hoạt động của các thiết bị trên máy bay đối
phương.
Để minh chứng cho lời nói của mình, Bellonze còn đưa ra một số bản vẽ
của những chiếc đĩa bay này. Tuy nhiên chỉ hai năm sau, viên kỹ sư này
đã qua đời, mang theo tất cả những bí mật trên xuống mồ.
Những chiếc đĩa bay trên thực tế chưa được quân phát xít sử dụng trong
Chiến tranh thế giới lần thứ 2 do nhiều nguyên nhân khác nhau: sai sót
trong thiết kế, thiếu nguyên liệu và cả sự tiến công nhanh chóng của phe
đồng minh. Mùa xuân năm 1945, những chiếc đĩa bay kiểu này đã bị chính
những nhà thiết kế ra chúng phá hủy vì lo ngại sẽ bị rơi vào tay Hồng
quân.
Mãi đến năm 1989, tạp chí Flugzeug của Đức mới cho công bố cuốn nhật ký
của một nhân vật từng làm việc tại sân bay Prag-Gbell (Praha) vào năm
1943. Chính anh ta đã tận mắt trông thấy trong nhà để máy bay một vật
thể dạng đĩa có đường kính từ 5 đến 6 mét và chiều cao tương đương với
con người, được đứng trên 4 chiếc chân trụ cao.
Nhân chứng này còn mô tả cách thiết bị trên được đưa ra khỏi nhà để máy
bay. Mặt ngoài của “chiếc đĩa” bắt đầu xoay tít, trước khi thiết bị này
di chuyển theo chiều ngang tới đầu cuối của đường băng. Sau đó, nó tự
bay lên độ cao chỉ chừng 1 mét và bay ngang khoảng 300 mét trước khi hạ
cánh.
Thật ra còn có một người Đức khác là Arthur Zak tại nhà máy MIMO ở Leipzig đã thiết kế một thiết bị bay dạng đĩa có tên gọi A-6.
Các cuộc thử nghiệm của thiết bị này bắt đầu từ năm 1944 nhưng không đạt
được thành công, dù đã có một loạt các bước hoàn thiện về sau đó. Nhiều
người cho biết, những chiếc đĩa bay tương tự như A-6 đã được nhìn thấy ở
một sân bay ở ngoại ô Munich. (Theo ANTG)
Người ngoài hành tinh từng giúp Đức quốc xã chế tạo đĩa bay?
Nhiều bằng chứng cho thấy Đức
quốc xã đã đạt được những bước tiến xa đầy khó hiểu về vũ khí, khí tài
và thậm chí cả… đĩa bay trong tình cảnh thua trận liên tiếp hồi cuối thế
chiến 2. Phải chăng người ngoài hành tinh đã giúp họ?
Đĩa bay
được cho là một trong số nhiều vũ khí tối mật của Đức quốc xã thuộc dự
án Wunderwaffen (vũ khí kỳ diệu) nhằm tạo ra sức mạnh áp đảo, có thể
giúp lật ngược tình thế chiến trường khi quân đội của Hitler liên tiếp
thất bại trên nhiều mặt trận từ Stalingrad cho tới Bắc Phi.
Sự tồn
tại của các nguyên mẫu là hoàn toàn có khả năng khi không phải ngẫu
nhiên mà rất nhiều binh lính phe Đồng Minh kể rằng từng nhìn thấy những
chiếc đĩa bay có dấu thập ngoặc trong giai đoạn 1943-1945.
Nhiều
nhân chứng kể đã từng được nhìn thấy chiếc đĩa bay có dấu chữ thập của
quân Đức bay ở tầm thấp trên sông Thames vào năm 1944.
Vào năm
1960 tại Canada, một chuyên gia nghiên cứu về UFO đã tái tạo lại mô hình
chiếc đĩa bay của Hitler và ông thực sự kinh ngạc khi “nó thực sự đã bay được”.
Luigi Romersa, 84 tuổi, từng là cố vấn quân sự của Mussolini, kể lại với kênh truyền hình Discovery: “Đó
là một thiết bị rất khác thường. Nó có hình đĩa tròn, phía trên có một
cabin với nắp vòm bằng nhựa thủy tinh.Từ mọi hướng có thể nhìn rõ những
ống phun dùng cho động cơ phản lực”.
Sau khi
bức tường Berlin sụp đổ năm 1989, một cuốn nhật ký của một kỹ thuật viên
từng làm việc tại sân bay Prag-Gbell (Praha) vào năm 1943 cũng được tạp
chí Flugzeug của Đức công bố với nhiều chi tiết quan trọng.
Theo đó,
anh ta đã tận mắt trông thấy trong nhà chứa máy bay một vật thể dạng
đĩa có đường kính từ 5 đến 6 mét và chiều cao tương đương một người
trưởng thành, được đứng trên 4 chiếc trụ cao.
Theo nhà
sử học về hàng không người Anh Henry Stevens, 15 thiết bị bay kiểu như
vậy đã được sản xuất vào năm 1943. Chúng được nghiên cứu chế tạo với mục
đích sử dụng cho lực lượng SS và được mang mật danh V7.
Những
thiết bị bay có hình dạng tròn được trang bị các động cơ phản lực, phần
đáy được lắp các cánh quạt. Giữa “chiếc đĩa” được thiết kế một mái vòm
là buồng lái của phi công.
Một số
giả thuyết đưa ra cho rằng đã có một chiếc UFO rơi trong khu vực kiểm
soát của quân đội Đức. Họ đã thu được các mảnh vỡ và bí mật đưa về
nghiên cứu sao chép.
Hitler
khi đó đã lập tức ra lệnh cho các chuyên gia hàng đầu phân tích các mảnh
vỡ đồng thời đích thân chiêu mộ hàng loạt các nhà vật lý hàng đầu và
một số kỹ sư nổi tiếng khi đó như Ballenzo, Habermohl, Miethe và
Schriever để phục vụ nghiên cứu.
Một
nguồn tin khác cho rằng, người ngoài hành tinh đã chủ động bắt tay với
Hitler để giúp quân đội Đức quốc xã đánh bại Đồng Minh và lập lên trật
tự thế giới mới theo như họ mong muốn.
Bằng
chứng là năm 1947, Đô đốc Richard E. Byrd chỉ huy 4.000 lính Mỹ, Anh và
Australia thực hiện một cuộc viễn chinh đến Nam Cực trong một sứ mệnh có
tên là Chiến dịch Highjump.
Một
người lính trong đoàn tên là Alex Christopher đã bị UFO bắt cóc nhưng
may mắn trốn thoát được. Người này kể lại rằng anh đã trông thấy “sinh
vật lạ” và những tên phát xít Đức làm việc cùng với nhau trên boong của
những phi thuyền.
Những phi thuyền này có khả năng chống lại được lực hút của Trái Đất hoặc trong những căn cứ ngầm.
Byrd và
đội quân của ông cũng bắt gặp những hình thập ngoặc tại nhiều nơi, đồng
thời vấp phải sự kháng cự quyết liệt của các đĩa bay bí ẩn buộc quân
đoàn phải rút lui.
Thực hư
chuyện Đức quốc xã nghiên cứu UFO để tạo ra một vũ khí mô phỏng hay được
người ngoài hành tinh hướng dẫn cách chế tạo có lẽ sẽ không bao giờ
được lý giải do những tập tài liệu mật đã bị đốt hết trước khi Hồng
quân tiến vào Berlin.
Tuy
nhiên, trước những bằng chứng xác thực kể trên, cộng với các vũ khí
khủng khiếp được sử dụng vào cuối thế chiến như tên lửa V2, bom thông
minh Fritz X hay máy bay tàng hình Horten Ho 229 thì việc
Đức quốc xã từng chế tạo được đĩa bay là hoàn toàn có cơ sở. Và nếu thế
chiến II kết thúc chậm hơn, chúng có lẽ đã xuất hiện trên chiến trường
và gây ra không ít thiệt hại cho quân Đồng Minh.
Hoài Anh
Thiết kế “siêu tưởng” của máy bay thời Phát xít Đức đã đi trước thời đại?
BizLIVE - Trong
những tháng cuối cùng trước khi Chiến tranh Thế Giới II kết thúc, Phát
xít Đức thử nghiệm một loại máy bay chiến đấu có hình dạng giống tàu vũ
trụ hơn một chiếc máy bay thông thường.
Trong những tháng cuối
cùng trước khi Chiến tranh Thế Giới II kết thúc, Phát xít Đức thử nghiệm
một loại máy bay chiến đấu có hình dạng giống tàu vũ trụ hơn một chiếc
máy bay thông thường, tác giả Stephen Dowling đánh giá trên BBC.
Mãi cho đến giờ, người ta mới nhận ra thiết kế của chiếc Horten Ho 229 đó đã đi trước thời đại đến mức nào.
Vào tháng 12/2015, hãng chế tạo máy bay Hoa Kỳ Northrop Grumman
công bố một mẫu thiết kế có tính cách mạng cho chiến đấu cơ trong tương
lai.
Về mặt lý thuyết, phi cơ mới có khả năng tàng hình để bay qua các vùng chiến sự trong thế kỷ tới.
Về mặt ý tưởng, mẫu mới trông giống một chiếc đĩa bay hơn một máy
bay chiến đấu - nó được các chuyên gia hàng không gọi là "flying wing",
tức là phi cơ có thân cánh liền khối, hay máy bay không đuôi – với việc
phần đuôi vốn có ở các máy bay hiện nay được cắt bỏ hoàn toàn.
Thiết kế này giúp giảm bớt kích cỡ, tạo ra hình dáng trơn tru ít góc cạnh hơn và vì thế khó bị radar phát hiện hơn.
Thiết kế máy bay của Northrop Grumman có nhiều điểm giống với chiếc Horten Ho 229 . Ảnh: Northrop Grumman
Thiết kế mới hướng tới chiến đấu cơ cho tương lai, nhưng thực ra kiểu mẫu này đã có từ lâu rồi, sớm hơn ta tưởng nhiều.
Thực sự, mẫu chiến đấu cơ có tính đột phá đã được chế tạo và bay
thử trong những ngày tàn của Phát xít ở giai đoạn cuối Chiến tranh Thế
giới II.
Thiết kế khó tin
Chiếc phi cơ Horten Ho 229 của Đức có lẽ đã tạo ra một dấu ấn trong lịch sử ngành hàng không.
Là một bước tiến vượt bậc so với những kiến thức chung về ngành
hàng không của con người thời đó, những bí mật về khí động học trong
thiết kế của mẫu máy bay này hiện vẫn là điều chưa được người ta hoàn
toàn nắm bắt, hiểu một cách cặn kẽ.
Một trưởng nghiên cứu gia tại Nasa hiện vẫn đang tìm hiểu xem làm
cách nào mà những nhà chế tạo thời đó có thể vượt qua được những thách
thức về khí động học, là những thứ lẽ ra phải khiến cho mẫu máy bay này
không thể bay được.
Thiết kế thân cánh liền khối không thường thấy trên bầu trời bởi vì cực kỳ khó để có thể khiến nó bay được.
Khi loại bỏ phần đuôi, là bộ phận có chức năng duy trì độ ổn định
và giúp máy bay không chao đảo từ bên này sang bên kia, máy bay sẽ trở
nên khó điều khiển hơn nhiều.
Vậy người ta cố tạo ra một thứ cực kỳ khó bay như thế để làm gì?
Vấn đề là một thiết bị bay với cấu trúc như thế sẽ rất lợi hại. Nó
sẽ cực kỳ khó bị radar phát hiện, một phần nhờ vào việc không có đuôi.
Hình khối nhiều cạnh, nhiều mặt của phần đuôi khiến máy bay dễ dàng
cản sóng radar và gửi trả tín hiệu về hệ thống quét radar, qua đó bị
phát hiện. Loại bỏ phần đuôi giúp tránh được điều này.
Hình dáng trơn tru ít góc cạnh cũng giúp máy bay ít bị lực cản hơn,
do đó máy bay di chuyển nhẹ nhàng hơn, tiết kiệm nhiên liệu hơn, và
thậm chí có thể là bay nhanh hơn so với một chiếc máy bay với thiết kế
thông thường sử dụng cùng loại động cơ.
Về lý thuyết thì tất cả các ý tưởng này đều hoàn hảo, nhưng để đưa vào thực tế lại là điều khó khăn hơn nhiều.
Thiết kế loại phi cơ thân cánh liền khối quả là một bài toán đau
đầu, khiến các kỹ sư phải quay lại tìm hiểu từ thời anh em nhà Wright
làm ra máy bay lần đầu tiên. Chính vì thế, thiết kế của anh em người Đức
Horten quả thực quá ấn tượng và vượt trội.
Thiết kế của chiếc Horten Ho 229 ưu việt vượt xa thời đại- MalyszkzWikipedia
Hai anh em nhà Hortens - Walter và Reimar - bắt đầu thiết kế máy bay từ đầu thập niên 1930.
Đó là khi Đức chính thức bị cấm sở hữu không quân theo nội dung kiềm chế của Hiệp ước Versailles, được ký sau Đệ nhất Thế chiến.
Hai anh em Horten đã tham gia một câu lạc bộ thể thao hàng không để
lách lệnh cấm, và đây cũng là nền tảng để thành lập lực lượng không
quân của Phát xít Đức, Luftwaffe.
Rất nhiều phi công tay ngang sau đó trở thành phi công Luftwaffe đã
thực hành bằng cách bay trên rất nhiều loại tàu lượn và dù lượn hoặc
các thiết bị bay không có động cơ để học kiến thức cơ bản về bay.
Anh em nhà Horten đã kết hợp vừa tập bay vừa thiết kế máy bay -
biến phòng khách của gia đình thành một xưởng thiết kế máy bay, website
hàng không Aerostories viết.
Chiến đấu cơ ưu việt
Hai anh em nhà Horten đã theo đuổi một số ý tưởng độc đáo của nhà
thiết kế máy bay cấp tiến Alexander Lippisch, người tiên phong trong
việc thiết kế máy bay tân tiến có hình mũi tên (delta). Thiết kế này về
sau, trong thời kỳ phát triển mạnh của động cơ phản lực, đã trở thành
một dòng máy bay riêng, phi cơ deltawing.
Anh em nhà Horten dần phát triển mẫu phi cơ thân cánh liền khối
ngày càng đạt kết quả khả quan hơn, và cuối cùng cho ra loại tàu lượn
Horten Ho IV.
Trên tàu lượn này, phi công nằm ngả người về phía trước, khiến cho
vòm kính của buồng lái không cần phải nhô cao lên nhiều so với thân máy
bay, giảm bớt lực cản nhờ cấu trúc khí động học.
Trước khi tàu lượn Ho IV được thử nghiệm, Walter Horten đã trở
thành phi công chiến đấu của Luftwaffe, tham gia Cuộc Không chiến tại
Anh quốc.
Russ Lee, người phụ trách Bảo tàng Không gian và Hàng không SmithSonian ở Washington DC, nói đó là bước ngoặt.
"Dĩ nhiên là người Đức thua trong Cuộc Không chiến tại Anh quốc, và
Walter nhận ra nước Đức cần một loại chiến đấu cơ mới. Và một chiếc
chiến đấu cơ với hình dạng thân cánh liền khối có lẽ sẽ là một chiến đấu
cơ mới hoàn hảo".
Cùng thời điểm đó, Herman Goring, người đứng đầu lực lượng không
quân Luftwaffe, yêu cầu thành lập dự án có tên gọi 3x1000, nhằm thiết kế
ra một máy bay có thể mang theo 1.000kg bom và bay được 1.000 dặm (tức
1.600km) với vận tốc 1.000km/giờ.
Điều này đã thúc đẩy anh em nhà Horten phát triển mẫu máy bay Horten Ho 229.
Mẫu đầu tiên là một tàu lượn không gắn động cơ, được làm để thử nghiệm thiết kế khí động học.
Mẫu thứ hai gắn thêm các động cơ phản lực và bay thành công vào
ngày 2/2/1945, mặc dù nó bị rơi do động cơ gặp trục trặc trong một
chuyến bay thử nghiệm khác, khiến phi công lái thử thiệt mạng.
Tuy nhiên, ông Lee nói, các thử nghiệm cho thấy chiếc máy bay có
thể cất cánh, bay và đáp xuống, và thiết kế cơ bản của máy bay là ổn.
Mẫu máy bay Horten Ho 229 đang được tái tạo lại để trưng bày. Ảnh: BrettC23/Wikipedia/CC BY-SA 4.0
Lee có một lý do để nắm rõ câu chuyện đằng sau chiếc Ho 229; ông là
người chịu trách nhiệm bảo tồn và tái tạo chiếc Ho 229 còn lại duy nhất
đã được chế tạo, mẫu thiết kế thứ ba mới hoàn tất được một phần, được
gọi tên Ho 229 V3.
Giống như nhiều mẫu thiết kế máy bay đột phá khác của người Đức, mẫu máy bay này đã được đưa tới Hoa Kỳ sau Đệ nhị Thế Chiến.
Trên đường đi, nó được đưa qua một trung tâm thử nghiệm của Anh tại Farnborough gần London.
"Cụm từ cách mạng vẫn chưa đầy đủ khi bạn nói về chiếc Ho 229," Lee
nói. "Anh em nhà Horten đã đi xa hơn bất cứ ai trong lĩnh vực này trên
thế giới."
Sáng tạo vượt thời đại
Northrop B-2, loại máy bay hàng đầu của Hoa Kỳ trong hoạt động ngăn
chặn hạt nhân, nhìn thoáng qua sẽ thấy ngay là một kế thừa của mẫu
thiết kế thiên tài mà anh em nhà Horten tạo ra.
Ở mức độ nào đó, một số nhà bình luận mô tả chiếc Ho 229 là "chiếc
máy bay ném bom tàng hình đầu tiên trên thế giới" - mặc dù nhiệm vụ của
nó là bắn hạ các máy bay ném bom của quân Đồng minh tấn công các mục
tiêu công nghiệp và các thành phố của nước Đức.
"Để làm cho một trong những chiếc máy bay thế này bay được, bạn
phải thiết kế để cánh máy bay làm mọi việc, và cuối cùng có một chiếc
máy bay hoạt động tốt hệt như một chiếc máy bay truyền thống có đuôi."
Ngoài xu hướng bị chao đảo từ bên này sang bên kia ngay cả trong
tình huống bay thuận lợi nhất, một chiếc máy bay không có đuôi có nguy
cơ mất điều khiển khi động cơ bị ngắt.
"Một trong những vấn đề lớn nhất của chiếc máy bay này là sự ổn
định khi bay. Khó khăn nhất là để chiếc máy bay không có đuôi vẫn có thể
bay trong khi động cơ tạm ngừng, đó cũng là điều mà mọi chiếc máy bay
đều phải làm được," Lee nói.
Anh em nhà Horten làm chiếc máy bay ổn định bằng cách sử dụng thiết
kế cánh dài và mỏng. Tỷ lệ cánh này giúp dàn trải trọng lượng của máy
bay trên một tiết diện lớn, đồng thời giảm lượng không khí tạo thành lốc
xoáy xung quanh cánh máy bay vốn gây ra lực cản làm máy bay bay chậm
lại.
Thiết kế “quả chuông"
Reimar Horten có lẽ đã không nhận ra rằng chính ông đã giải quyết
được cả hai vấn đề khí động học cực kỳ cấp thiết cùng lúc, theo Al
Bowers, trưởng khoa học gia tại Trung tâm Nghiên cứu bay Neil A
Armstrong của Nasa tại California.
Bowers đã thử nghiệm các nguyên tắc thiết kế cơ bản của anh em nhà Hortens trong nhiều năm.
Ông nói khả năng thiên tài của Reimar Horten chính là sử dụng cánh
máy bay có hình chuông, là thiết kế không chỉ giúp loại bỏ nguy cơ bị
chao đảo mà một chiếc máy bay không đuôi có thể gặp phải, mà còn giúp
giảm lực cản tác động vào máy bay.
Cánh của phi cơ Ho 229 được thiết kế khác hẳn với cánh máy bay hình
e-lip truyền thống, vốn được cho rằng giúp tạo ra lực nâng tốt nhất và
giảm lực cản nhiều nhất.
Thiết kế cánh máy bay của Horten chịu ảnh hưởng của một trong những
lý thuyết của nhà thiết kế tiên phong người Đức tên là Ludwig Prandtl,
nhà khoa học đầu tiên nghiên cứu về khí động học theo đó nhấn mạnh hình
dạng của đầu cánh máy bay có thể ảnh hưởng to lớn đến khả năng bay.
Ông cũng cho ra một thiết kế cánh máy bay hình chuông vào đầu thập
niên 1930 nhưng chỉ với mục đích giảm lực cản mà không nhận ra thiết kế
này cũng giải quyết được sự cố chao đảo của chiếc máy bay không đuôi.
Cánh máy bay bằng nhiều cách khác nhau đóng vai trò như cánh chim
khi bay. Quá trình tiến hoá cho thấy rõ ràng là chưa hề có chú chim nào
cần phải có thêm phần đuôi chữ thập dựng đứng lên như đuôi máy bay.
Bowers nói: "Chiếc Ho 229 đã đi trước thời đại hàng thập niên. Tôi
tin là nó sẽ được coi như thiết kế đi đầu của tương lai ngành hàng
không."
Thiết kế phi cơ thân cánh liền khối đã đạt được một số thành tựu
vào thập niên 1950, chủ yếu là nhờ vào nỗ lực của Jack Northrop, người
đã được tạo cảm hứng nhờ vào việc quan sát một số tàu lượn thể thao có
từ thời thập niên 1930 của anh em nhà Horten.
Mẫu máy bay Ho 229 mà người Mỹ chiếm được sau Đại chiến Thế giới II có lẽ cũng khích lệ ông nhiều.
Northrop hồi cuối thập niên 1940 đã thất bại với thiết kế máy bay
ném bom không đuôi YB-35. Chiếc máy bay gặp sự cố rung động quá lớn do
động cơ cánh quạt gây ra.
Điều này chứng tỏ anh em nhà Hortens đã đúng khi sử dụng động cơ phản lực với chiếc Ho 229.
Thiết kế YB-49 mà Northrop đưa ra sau đó, được gắn động cơ phản
lực, dẫu chưa bao giờ được đưa vào sử dụng nhưng đã mở đường cho việc
chế tạo loại máy bay ném bom tàng hình B-2 Spirit hàng thập niên sau đó,
một thiết kế có nhiều điểm giống với chiếc HO 229.
Từ thời Phát xít đến... sao Hoả
Bowers đã áp dụng nguyên tắc của chiếc Ho 229 và các kinh nghiệm
rút ra được từ những thử nghiệm trước đó của Prandtl để cho ra một mẫu
thiết kế cho Nasa, máy bay thân cánh liền khối không người lái, Prandtl -
D, có thể được sử dụng để thăm dò Sao Hoả trong tương lai.
Chiếc máy bay Prandtl-D có thể sẽ được sử dụng trong các nhiệm vụ
nghiên cứu Sao Hoả, có thể được phóng từ một tàu lượn trên cao, sử dụng
năng lượng bay khoảng 10 phút trước khi lượn xuống bề mặt sao Hoả.
Chiếc Prandtl-D sẽ không có kích thước lớn như chiếc Ho 229 mà dự
kiến chỉ có sải cánh chừng 2 feet ( khoảng 0,6m) và cân nặng chỉ 1,3kg.
Thiết kế của máy bay Horten Ho 229 đã tạo cảm hứng cho một số thiết kế của Nasa để khám phá Sao Hỏa. Ảnh: Tom Tschida/Nasa
"Chúng tôi tin rằng giải pháp của Prandtl và Horten chính là câu trả lời chúng tôi đã tìm kiếm suốt thời gian dài," Bowers nói.
"Nó giải đáp được rất nhiều điều về khả năng bay của chim, về cách
giảm thiểu lực cản, và về hiệu quả vượt trội của ngành hàng không trong
tương lai."
"Tôi tin là chúng ta có thể cải tiến hiệu quả của máy bay ít nhất
được thêm 70% nữa. Và công việc của tôi mới chỉ là những bước đầu tiên."
"Reimar Horten đã đi đúng đường. Ông chưa bao giờ thấy toàn bộ tiềm
năng của ý tưởng ông đã tạo ra. Tôi cũng nghĩ nếu ông thấy chúng ta
đang ở đâu thời bây giờ, có thể ông rất hài lòng. Có lẽ không quá hài
lòng với bước tiến mà chúng ta đạt được, nhưng ít nhất là ông hài lòng
vì chúng ta chịu lắng nghe.”
Vậy còn mẫu thiết kế tạo cảm hứng hiện đang để ở bảo tàng
SmithSonian thì sao? Lee cho biết công việc bảo tồn thiết kế tiên phong
này vẫn đang được thực hiện từ từ và cần mẫn, và khó có thể hoàn thành
cho đến đầu những năm 2020.
Sau đó, thiết kế đầy cảm hứng và tiên phong này sẽ được đưa ra
trưng bày cho công chúng - và khi đó sự thiên tài của anh em nhà Horten
trong lĩnh vực khí động học có lẽ sẽ được đông đảo công chúng biết đến
nhiều hơn.
NHỮNG BIẾN CHỨNG CHUNG ĐÁNG BÁO ĐỘNG CỦA RỐI LOẠN TIỀN ĐÌNH, HUYẾT ÁP THẤP VÀ THIẾU MÁU NÃO
10/16/2017
Sức khỏe là điều quan trọng tối ưu trong cuộc sống của chúng ta.
Tuy nhiên, chúng ta đều biết không phải ai cũng có thể giữ cho mình một
sức khỏe cường tráng được. Có quá nhiều tác nhân gây ảnh hưởng xấu đến
sức khỏe như thực phẩm, căng thẳng kéo dài, áp lực công việc, chế độ
sinh hoạt phân vân. Mà qua đó, chúng gây nên sự suy giảm chức năng của
não bộ, bộ phận trung ương thần kinh chi phối mọi hoạt động của con
người. Các bệnh lý có liên quan đến não phổ biến như Rối Loạn Tiền Đình,
Thiếu Máu Não và Huyết Áp Thấp được thống kê thấy ở mọi lứa tuổi và
giới tính.
Vậy bạn có biết những biến chứng nguy hiểm mà ba bệnh lý này mang đến
nếu bạn không điều trị đúng cách và kịp thời chưa? Dưới đây là những
đúc kết về hậu quả mà ba bệnh lý trên đem đến cho bạn.
CÁC BIỂU HIỆN LÂM SÀNG THƯỜNG THẤY
Đối với từng loại bệnh lý nguồn gốc căn bệnh đến từ các vấn đề khác
nhau như Rối Loạn Tiền Đình gặp phải ở cơ quan ốc tai, Thiếu máu não là
do dung lượng máu được bơm lên não bộ không thông suốt liên tục khiến
cho chức năng hoạt động của não bị đình trệ và Huyết áp thấp do áp lực
của máu lên thành mạch giảm. Các bệnh lý trên đều gây ra những biểu hiện
lâm sàng giống nhau như mệt mỏi kéo dài, hoa mắt, chóng mặt, đi đứng
không vững dễ ngã, da dẻ xanh xao, nhức đầu, không ngủ được. Nguyên nhân
đều do giảm cung lượng máu đưa oxy và chất dinh dưỡng lên não, làm ảnh
hưởng đến các hoạt động sống của tế bào thần kinh gây nên các triệu
chứng lâm sàn trên.
BIẾN CHỨNG CỦA RỐI LOẠN TIỀN ĐÌNH – HUYẾT ÁP THẤP – THIẾU MÁU NÃO
Rối Loạn Tiền Đình:
Ốc tai có vấn đề dễ dẫn đến ù tai kéo dài, làm nặng đầu, làm cơ thể
mất đi sự thăng bằng dễ té ngã, sa sút trí nhớ, tinh thần đi xuống dễ
làm tăng nguy cơ trầm cảm, các bệnh lý về trí nhớ khả năng nhận thức như
Alzheimer, Parkinson, tai biến mạch máu não hay nguy hiểm như đột quỵ
nguy cơ tử vong cao.
Huyết Áp Thấp:
Sự không ổn định về huyết áp đặc biệt là chứng huyết áp thấp kinh
niên dễ làm giãn mau mạch co bóp, làm sự vận hành máu lên các cơ quan
trung tâm như tim và não bộ bị trì lại. Gây nên các biến chứng suy giảm
trí nhớ, ngất xỉu độ ngột thường xuyên không có triệu chứng báo trước,
suy giảm chức năng sinh lý ở nam và nữ. Nếu để lâu ngày, hình thành
Huyết áp thấp mạn tính thì nguy cơ đột quỵ não, suy thận , suy gan và
nhồi máu cơ tim ở bệnh nhân tăng cao.
Thiếu Máu Não:
Thiếu máu lưu thông lên não hay còn gọi là rối loạn tuần hoàn máu não
dễ gây nên các tổn thương thần kinh, tâm lý nhiều bất ổn hay buồn vui
giận hờn thất thường, nhức đầu ê ẩm từng đợt.Mạch máu não thiếu máu
thường xuyên làm tăng nguy cơ xơ hóa, cung lượng máu không đủ dễ làm xơ
vữa mạch máu, đột quỵ não di chứng liệt nửa người hoặc toàn thân. Khả
năng tự chủ không còn nữa do tai biến làm ảnh hưởng hệ thần kinh trung
ương chi phối các chi của cơ thể.
Những biến chứng trên đều mang đến cái kết xấu, chi phối mọi hoạt
động của bạn và gia đình. Cho nên trước khi tình trạng bệnh lý chuyển
biến tệ đi, bạn hãy tìm cho mình phương pháp điều trị phù hợp với cơ địa
bằng chế độ ăn uống , sinh hoạt và dùng các loại thảo dược phù hợp để
hỗ trợ bệnh và không gây thêm biến chứng sang bộ phận khác.
Mong rằng những chia sẻ đến từ BEPHACO – Khỏe Hơn Từ Thảo Dược giúp
ích cho bạn trong việc hỗ trợ các vấn đề về Rối Loạn Tiền Đình.
Thân ái và hẹn gặp lại!
Trải qua hàng nghìn năm, quá trình tiến hóa
đã chọn ra những gì phù hợp nhất trên từng loài để tương thích và tồn
tại với môi trường sống ngày nay. Thế nhưng tại sao cơ thể người không
thể loại bỏ hoàn toàn những “trạng thái lỗi” như các triệu chứng rối
loạn não bộ ra khỏi cơ thể?
Theo một số nghiên
cứu mới đây, các hội chứng như rối loạn lưỡng cực, hay rối loạn tăng
động giảm chú ý… có thể được tự nhiên chọn giữ lại nhằm phục vụ cho một
vài mục đích nhất định.
1. Rối loạn lưỡng cực từng giúp loài người vượt qua mùa đông
Theo
thống kê tại Mỹ, khoảng 2,6% người trưởng thành mắc chứng rối loạn
lưỡng cực (bipolar disorder). Đây là một dạng bệnh lý, trong đó người
bệnh có sự tái diễn luân phiên 2 trạng thái hưng cảm và trầm cảm.
Ở
giai đoạn hưng phấn - người bệnh cảm thấy vui vẻ, hoạt bát quá mức,
thậm chí là hoang tưởng. Còn ở trạng thái trầm cảm - khí sắc người bệnh
suy giảm, xuất hiện nhiều suy nghĩ ức chế, dễ dẫn đến tự tử.
Nếu
coi đây là một “lỗi” trong não bộ, thì câu hỏi đặt ra là: Tại sao quá
trình tiến hóa không loại bỏ nó? Các khoa học gia cho rằng, có thể đây
từng là một hình thức ngủ đông của não bộ.
Theo
lý thuyết, bằng cách nào đó trong quá khứ, não người đã luân chuyển
giữa hai trạng thái hưng phấn - trầm cảm sao cho phù hợp với ánh sáng,
nhiệt độ của mùa đông và mùa hè. Điều này cũng xảy ra ở các loài động
vật, vào hè, trạng thái hưng cảm giúp chúng săn mồi và sinh sản hiệu
quả, sau đó rơi vào trạng thái “ngủ đông” khi mùa đông đến.
Cũng
theo lý thuyết này, những người mắc chứng rối loạn lưỡng cực sẽ là “bậc
thầy” trong việc lựa chọn thời điểm để… sex. Theo các khoa học gia,
chứng bệnh này phổ biến ở phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ.
Do
đó có khả năng não bộ người cổ đại đã luân chuyển hai trạng thái nhằm
đạt hiệu quả sinh nở tối đa: hưng cảm vào mùa hè – thời điểm thuận tiện
nhất để mang thai, rồi chuyển sang trầm cảm vào mùa đông nhằm đảm bảo
sản phụ ít vận động và tập trung chăm sóc đứa trẻ sắp ra đời.
Bên
cạnh đó, chứng rối loạn lưỡng cực cũng từng là công cụ quyến rũ khá
hiệu quả. Vậy nên bằng cách nào đó những người mắc bệnh đã sao chép lại
gene này và duy trì đến các thế hệ tiếp theo.
2. Rối loạn tăng động giảm chú ý tạo ra nhiều phát hiện mới
Rối
loạn tăng động giảm chú ý (Attention-deficit hyperactivity disorder-
ADHD) là chứng rối loạn phát triển thường gặp ở trẻ em hiện đại. Trẻ em
mắc ADHD sẽ vô cùng hiếu động, không thể ngồi im, đồng thời khả năng chú
ý giảm đi.
Tuy
nhiên, qua một số nghiên cứu, các khoa học gia phát hiện ra chứng bệnh
này được di truyền. Điều này có nghĩa rằng tổ tiên của loài người đã
bằng cách nào đó chung sống và không tìm cách loại bỏ căn bệnh này.
Tại
sao lại vậy? Người ta thường cho rằng rối loạn AHDH là một chứng bệnh
của thời hiện đại, khi có quá nhiều phương tiện giải trí gây tác động
đến não bộ. Trong một xã hội hiện đại, việc một người không thể tập
trung thực hiện công việc được giao quả thực tai hại.
Thế
nhưng một số khoa học gia đặt ra giả thuyết, việc không thể ngồi im một
chỗ không hoàn toàn có hại, mà có thể từng là một “công cụ” cần thiết
để tồn tại trong quá khứ.
Loài người hàng ngàn
năm trước cần nhiều kỹ năng để tồn tại, chứ không chỉ chuyên biệt một
kỹ năng nào đó. Vậy nên, một bộ não cho phép “nhảy việc” có lẽ rất cần
thiết vào thời kỳ đó.
Ngoài
ra, lúc này con người vẫn đang sinh tồn bằng săn bắn hái lượm nên khả
năng “không thể ngồi im” có thể kích thích khả năng khám phá, tìm tòi,
phát hiện ra những nơi “đắc địa” để đặt bẫy. Đáng buồn thay, cố gắng của
tạo hóa khi di truyền gene “tăng động” để giúp con người sinh tồn đã vô
tình khiến nhiều đứa trẻ gặp rắc rối trong xã hội hiện đại.
3. Rối loạn khả năng đọc ẩn chứa điều phi thường của não bộ
Rối
loạn khả năng đọc, còn gọi là chứng khó đọc (Dyslexia) là một rối loạn
tâm lý khá đặc biệt. Một người dù có trí tuệ bình thường, nhưng lại
thiếu đi khả năng đọc và viết do một khúc mắc trong hệ thần kinh vỏ
não.
May mắn thay, hầu hết trường hợp mắc bệnh
là trẻ em và phần lớn đều chữa khỏi. Tuy nhiên, các khoa học gia lại
đặt ra giả thuyết khác, rằng chứng rối loạn này ẩn chứa những điều phi
thường của não bộ do tạo hóa ban tặng.
Nhiều
người hẳn sẽ bất ngờ khi nhìn vào kết quả của một số khảo sát: 30%
doanh nhân nhận mình mắc chứng khó đọc, cùng rất nhiều vĩ nhân như
Albert Einstein (cha đẻ của thuyết tương đối) và Steven Spielberg (đạo
diễn nổi tiếng người Mỹ) - cũng mắc phải chứng bệnh này. Ngoài ra, một
số nghiên cứu còn cho thấy những người mắc chứng khó đọc thường rất sáng
tạo, thông minh, và đặc biệt giỏi khi giải quyết các vấn đề đa hướng.
Theo
giáo sư, nhà nghiên cứu tâm lý học thần kinh Duncan Milne cho biết
chứng khó đọc là một dấu hiệu của một bộ não đặc biệt sáng tạo. Khoảng
200.000 năm trước, vào thời kỳ săn bắn hái lượm không hề tồn tại khái
niệm đọc và viết.
Với
một cuộc sống sinh tồn khắc nghiệt, những bộ não có thể đưa ra ý tưởng
mới, khả năng giao tiếp hiệu quả hay phương pháp giải quyết vấn đề nhanh
chóng thực sự rất cần thiết. Điều này lý giải vì sao loài người di
truyền khả năng này nhằm giúp thế hệ sau sinh tồn.
Dần
dần, những bộ não đặc biệt này sẽ gặp vấn đề với các hành động “không
bình thường” mà loài người đã phát minh ra - đó là đọc và viết. Nhưng
nếu theo như giả thuyết nói trên, chứng khó đọc không phải là một dạng
rối loạn mà là do tạo hóa đã ban tặng cho một số người bộ não “nổi trội”
mà thôi.
Lớp học kích não biến con trở thành thiên tài: Phản khoa học, gây rối loạn não bộ
Trên đây là nhận xét của một số bác sĩ chuyên khoa tâm thần, thần kinh với PV Dân trí trong sáng 1/12 khi đánh giá về phương pháp kích hoạt não đang được nhiều trung tâm áp dụng với trẻ em hiện nay.
PGS.TS Trịnh Tất Thắng, Giám đốc BV Tâm thần TP Hồ Chí Minh, Chủ tịch Hội Tâm thần học TP Hồ Chí Minh: “Kích não có thể gây rối loạn tư duy và rối loạn hành vi”.
Trong phạm vi hiểu biết của tôi, tôi
thấy đây chỉ là một hình thức kinh doanh, không có cơ sở khoa học nào và
không mang lại lợi ích gì. Tôi đọc trên báo thì thấy, các trung tâm
quảng cáo là “giúp con bạn trở thành thiên tài” nhưng tôi cho rằng, các
quảng bá này chỉ khiến phụ huynh tốn tiền mà thôi.
Não bộ có những khu vực đặc biệt, phức
tạp nên áp dụng những phương pháp thiếu cơ sở khoa học trên đây, tôi
nghĩ chỉ là một cách để các trung tâm lừa đảo những gia đình giàu có
hoặc thiếu hiểu biết để kiếm tiền mà thôi.
Học sinh đang nhận biết màu sắc và con số tại một lớp kích não
Theo tôi được biết, trong chuyên khoa
tâm thần, có những liệu pháp như thôi miên để chữa các bệnh liên quan
đến bệnh lý, không hề liên quan đến giáo dục. Não bộ của con người qua
quá trình phát triển phải hài hòa với tự nhiên, được hoàn thiện nhờ tự
nhiên trong môi trường kiến thức và xã hội. Não bộ trẻ em cũng vậy, phải
được phát triển và gắn với môi trường thực tế. Phụ huynh hoặc giáo viên
chỉ mang tính định hướng và động viên để trẻ thích học, thoải mái tinh
thần. Chẳng có ai đi can thiệp nhân tạo đến vùng trung não để kích thích
con cái thành thiên tài bởi như thế quá nguy hiểm và không biết sẽ để
lại di chứng sau này.
Tôi không hiểu ở các trung tâm, người ta
dùng cách gì để kích thích não bộ của trẻ em nhưng tìm hiểu một số
thông tin trên báo chí và qua một số đơn vị quảng cáo, tôi thấy lo ngại.
Nếu áp dụng cách thức như kiểu thôi miên để người bịt mắt làm theo, đứa
trẻ sẽ bị tự kỉ ám thị rất cao. Khi bị ám thị như thế, sẽ sinh ra bất
thường bởi thông tin đưa vào trong trạng thái mê hoặc như thế sẽ để lại
vết hằn rất sâu sắc.
Mọi phương pháp đều phải qua nghiên cứu,
phải được khoa học chứng minh và có tổng kết quá trình nghiên cứu. Việc
can thiệp thô thiển vào não bộ- nhất là với trẻ em là hoàn toàn không
nên và khó lường được hậu họa. Đặc biệt, nếu phương pháp này áp dụng
kiểu đại loại kiểu như thôi miên mà sai thì gây tẩu hỏa nhập ma, rối
loạn tư duy và rối loạn hành vi.
BS Lâm Hữu Tài, Trưởng Phòng khám Tâm thần Quận 1, TP Hồ Chí Minh: “Hoàn toàn phản khoa học, gây rối loạn não bộ”
Tôi nghĩ đây là một trò bịp bợm, lừa đảo
và chưa có nghiên cứu về mặt khoa học, chưa được khoa học chứng minh
nên có thể nói, trò này chỉ có thể lừa được những người nhẹ dạ hoặc các
gia đình giàu có. Trong giới khoa học chúng tôi hoàn toàn không ủng hộ
vì sai với khoa học.
Học sinh tại lớp kích não
Nói sâu về nhi học cơ sở, mọi người sinh
ra trên đời này, trong bộ não ai cũng có 14 nghìn tỉ tế bào não. Trong
quá trình mang thai đến 6 tuổi, nếu đứa trẻ được nuôi dưỡng tốt, đúng
khoa học, được bổ sung đủ vi ta min và chất dinh dưỡng trong cả quá
trình này, 14 nghìn tỉ tế bào não sẽ phát triển đến 6 tuồi thì ngừng.
Như vậy, đứa trẻ đạt được bao nhiêu nghìn tế bào não, và con người có
chỉ số IQ khác nhau đều ảnh hưởng bởi quá trình này.
Việc kích não vừa phi khoa học vừa chỉ
là trò lừa đảo, vừa hại phụ huynh mất tiền, vừa hại đứa trẻ phải chịu
một sự rèn luyện trái với khoa học. Việc này chắc chắn sẽ rất ảnh hưởng
bởi việc kích thích này sẽ để lại một vết hằn sâu làm ảnh hưởng tới chức
năng ghi nhớ, ảnh hưởng đến sự phát triển bình thường của đứa trẻ. Do
đó, hoàn toàn không nên cho con em tham gia kích não bởi đến các nước
phát triển cũng không sử dụng phương pháp này. Tôi nghĩ, phương pháp này
chỉ do một nhóm nào đó thực hiện và mang tính bịp bợm.
Về mặt y học, bất kì tế bào nào chết đi,
trước khi chết, nó sẽ có một bảng sao chép gen để khi tế bào đó chết
đi, thì tổng hợp ra một tế bào mới giống hệt tế bào cũ cả về cấu trúc
lẫn chức năng.
Trong quá trình phản ứng sinh tổng hợp
này, cần có các men xúc tác như vi ta min (A, B, C, D...) và các nguyên
tố vi lượng (sắt, kẽm, đồng, chì...). Nhưng một khi con người không có
đủ các vi ta min và nguyên tố vi lượng trên đây, sẽ không phát triển
bình thường. Do đó, điều đầu tiên là phải bổ sung đủ các vi ta min còn
việc kích não thế nào, phải khoa học và đúng với sự phát triển của tế
bào mới hiệu quả.
Đối với trẻ em, các tế bào này rất non
nớt, chưa kể vi ta min, nguyên tố vi lượng và a xít a min chưa đủ mà
dùng kích thích, chẳng khác gì việc ép cây con phát triển theo hình thù
mà không biết rõ sẽ như thế nào. Do vậy, nếu ức chế thần kinh hoặc não
hoàn toàn phản khoa học và dễ dẫn tới việc rối loạn não bộ cho trẻ, gây
xáo trộn về lâu về dài cho thần kinh các em.
Hầu hết mọi người không nhận ra đường ruột đúng nghĩa chính là bộ não thứ hai
Tác giả: Tiến sỹ Mercola
Hầu hết mọi người không nhận ra đường
ruột đúng nghĩa chính là bộ não thứ hai, và ngoài việc để tiêu hóa thức
ăn nó có khả năng ảnh hưởng đáng kể đến
Tâm thần
Tâm trạng
Hành vi của bạn.
Điều này không được biết rộng rãi hoặc
là một sự thật nổi trội, nhưng các nghiên cứu đã nhiều lần chỉ ra rằng
một đường ruột khỏe mạnh giúp bạn có nhân sinh quan lạc quan và hành vi
tích cực, trái lại trầm cảm và một loạt các vấn đề hành vi có liên quan
đến sự mất cân bằng hoặc thiếu hụt các vi khuẩn nơi đường ruột.
Ví dụ, một nghiên cứu động vật công bố
mới đây trên tạp chí Neurogastroenterology & Motility, thấy rằng các
con chuột thiếu vi khuẩn đường ruột hoạt động khác với các con chuột
bình thường, nó tham gia vào những "hành vi có nguy cơ cao". Hành vi
thay đổi kèm theo những thay đổi chất dẫn truyền thần kinh
(neurochemical) trong não chuột.
Theo các tác giả, vi sinh vật trong ruột của bạn (gut flora) đóng một vai trò trong giao tiếp giữa ruột và bộ não, và:
"Tiếp nhận các vi sinh vật đường ruột
trong giai đoạn vừa sinh ra, ngay lập tức có tác động định hình sự phát
triển và chức năng của các hệ thống: tiêu hóa, miễn dịch, thần kinh nội
tiết và trao đổi chất. Ví dụ, sự hiện diện của vi sinh vật đường ruột
“thiết lập” cho trục hoạt động đồi thị-tuyến yên-tuyến thượng thận
(hypothalamic-pituitary-adrenal HPA). "
Do đó, phát hiện độc đáo này không chỉ
trùng khớp với lý thuyết cho rằng hệ vi sinh nơi ruột có thể là một yếu
tố, thứ bổ dưỡng cho bạn, nó còn giúp giải thích làm thế nào mà chế độ
ăn uống và vi sinh vật đường ruột của bạn có thể ảnh hưởng đến sức khỏe
tâm thần, làm cho nó tốt lên hoặc tồi tệ hơn.
Hãy nhớ rằng, chế độ ăn uống chịu trách
nhiệm phần lớn cho sức khỏe đường ruột của bạn, và khi cung cấp năng
lượng cho cơ thể nó được thiết lập sao cho, hệ vi sinh vật đường ruột có
thể duy trì sự cân bằng tối ưu, sau đó hỗ trợ tối ưu cho sức khỏe thể
chất và tinh thần.
Các kết nối bên trong giữa ruột - não
trở nên dễ hiểu hơn một khi biết rằng não bộ và đường ruột của bạn thực
sự được tạo ra từ cùng một loại mô. Trong quá trình bào thai phát triển,
một phần biến thành hệ thần kinh trung tâm, trong khi phần kia phát
triển thành hệ thần kinh ruột. Hai hệ thống được kết nối thông qua các
dây thần kinh phế vị (**vagus nerve); những sợi thần kinh thứ mười chạy
từ não xuống vùng bụng. Đây là những gì kết nối hai thứ não của bạn với
nhau.
Ruột và não thực sự làm việc như một cặp, ảnh hưởng lẫn nhau.
Đây là lý do vì sao sức khỏe đường ruột
có thể có một ảnh hưởng sâu sắc đến sức khỏe tâm thần của bạn, và ngược
lại. Giải thích rất hay và thú vị một cách nôm na về các kết nối ruột /
não, theo bài báo của Sandra Blakeslee (New York Times 1996) “Tính phức
tạp và tiềm ẩn của não bên trong ruột làm đau dạ dày và tâm trạng bồn
chồn”(Complex and Hidden Brain in Gut Makes Stomachaches and
Butterflies).
Thậm chí, bây giờ, còn thú vị hơn đó là
chất dẫn truyền thần kinh, như serotonin, có thể được tìm thấy trong
đường ruột của bạn; trong thực tế, lượng lớn serotonin tập trung- tham
gia vào kiểm soát tâm trạng, trầm cảm và gây hấn, cũng được tìm thấy
trong ruột của bạn, chứ không nhiều ở não! Ruột chứa khoảng 100 triệu tế
bào thần kinh-nhiều hơn trong cột sống hoặc hệ thống thần kinh ngoại
biên của chính bạn.
Một bài viết xuất sắc của Adam Hadhazy,
xuất bản trong Scientific American năm ngoái, giải thích các kết nối nội
tại giữa đường ruột và cũng là tình trạng hạnh phúc, lành mạnh về mặt
tâm lý của bạn.
Hadhazy viết:
"Hệ thống này là con đường phức tạp được
tiến hóa chỉ để làm cho mọi thứ chắc chắn di chuyển ra ruột già," theo
ông Emeran Mayer, giáo sư sinh lý học, tâm thần học và khoa học
biobehavioral tại Trường Y David Geffen thuộc Đại học California, Los
Angeles (UCLA). Ví dụ, các nhà khoa học đã thấy sốc khi biết rằng khoảng
90% các sợi thần kinh nội tạng cơ bản, các phế vị, mang thông tin từ
ruột lên não và không có con đường nào khác…
Bộ não thứ hai thông báo trạng thái tinh
thần của chúng ta theo những cách khác khó hiểu hơn, cũng như "Phần lớn
những cảm xúc của chúng ta có lẽ chịu ảnh hưởng của các dây thần kinh
trong ruột của chúng ta", Mayer nói ...
Do tính chất chung của hai bộ não, những
phương pháp điều trị trầm cảm hướng mục tiêu vào tâm thần có thể vô
tình làm ảnh hưởng đến đường ruột. Hệ thống thần kinh ruột sử dụng hơn
30 dẫn truyền thần kinh, giống như não, và trong thực tế, 95% serotonin
của cơ thể được tìm thấy trong ruột. Bởi vì thuốc chống trầm cảm được
gọi là chất ức chế tái hấp thu serotonin có chọn lọc (SSRIs) / nồng độ
serotonin gia tăng; đôi chút ngạc nhiên theo đây là: dùng thuốc- có
nghĩa là để làm thay đổi hóa chất trong tâm trí thường gây ra các vấn đề
/GI * như là một tác dụng phụ".
Tất cả nói lên rằng, cần nuôi dưỡng vi
sinh vật đường ruột của bạn nhằm đạt chức năng serotonin tối ưu, vì nó
có thể có một tác động sâu sắc đến tâm trạng, sức khỏe tâm lý, và hành
vi của bạn.
* Vấn đề đường ruột cũng liên kết với rối loạn não bộ.
Có không ít bằng chứng về sự tham gia
của hệ tiêu hóa trong một loạt các chứng bệnh thần kinh, bao gồm bệnh tự
kỷ, vì vậy theo cách hiểu đó một số thiệt hại tổn thương do thuốc chủng
ngừa cũng có thể giải thích được.
Dr. Andrew Wakefield chỉ là một trong
nhiều người đã điều tra mối liên hệ giữa các chứng rối loạn phát triển
và bệnh đường ruột. Ông đã xuất bản khoảng 130-140 bài nghiên cứu có
chia sẻ ý kiến phản biện của đồng nghiệp xem xét cơ chế và nguyên nhân
gây ra bệnh viêm đường ruột, và có nhiều điều tra kết nối não-ruột trong
bối cảnh của trẻ có rối loạn phát triển như chứng tự kỷ.
Ví dụ, không dung nạp gluten thường là
một nét đặc trưng của chứng tự kỷ, và nhiều trẻ em mắc chứng tự kỷ sẽ
cải thiện khi tuân theo một chế độ ăn uống kiểm soát nghiêm ngặt
không-gluten. Nhiều trẻ em mắc chứng tự kỷ cũng có xu hướng cải thiện
khi dùng chế phẩm sinh học, hoặc ở dạng thực phẩm lên men, bổ sung
probiotic.
Một số lớn các nghiên cứu lặp lại đã
được thực hiện trên thế giới, xác nhận mối liên kết kỳ lạ giữa các rối
loạn não và rối loạn chức năng tiêu hóa, chẳng hạn như chứng tự kỷ.
Theo Michael Gershon, chủ tịch của
Department of Anatomy and Cell Biology tại New York-Presbyterian
Hospital / Trung tâm Y khoa Đại học Columbia, một chuyên gia
neurogastroenterology(***) và là tác giả của “Não bộ thứ hai (The Second
Brain)”, có cùng các gen làm cho các khớp thần kinh hình thành trong
não cũng tham gia hình thành các khớp thần kinh trong ruột của bạn. Do
đó, nếu các gen này bị tác động trong bệnh tự kỷ, nó có thể giúp giải
thích các bất thường của nhiều trẻ tk bị tổn thương GI, cũng như làm cho
ruột tăng mức tạo ra serotonin vào trong máu của họ.
(**) thần kinh phế vị (vagus nerve); .
Các dây thần kinh phế vị có nguồn gốc trong tủy não, một phần của thân
não. Tất cả 12dây thần kinh sọ não, các dây thần kinh phế vị nổi lên từ
hoặc nhập vào hộp sọ (các hộp sọ), trái với các dây thần kinh cột sống
từ cột sống mà ra.
(***) Neurogastroenterology là một khu
vực nghiên cứu trong lĩnh vực Gastroenterology có liên quan đến tương
tác của hệ thống thần kinh trung ương và đường ruột.
Trungnguyen dịch và giới thiệu theo: The Powerful Connection between Your Gut and Brain của Dr.Mercola.
Những bí ẩn của não bộ mà khoa học mới giải đáp!
0 bình luận
Có
phải phụ nữ dễ xúc động hơn nam giới? Tại sao phim kinh dị đều rùng rợn?
Và cảm giác đau đớn có thực sự do não quyết định? Những câu hỏi này vừa
được các nhà khoa học giải đáp.
Tại sao phụ nữ khóc nhiều hơn nam giới?
Phụ nữ thường khóc nhiều hơn đàn ông
Não bộ của nam giới và phụ nữ khác nhau nhiều về mặt cấu trúc
lẫn chức năng. Não người có hai bán cầu và đảm nhận nhiều chức năng khác
nhau. Chúng được liên kết bởi thể chai – hệ thống mô thần kinh lớn nhất
trong não giúp hai bán cầu trao đổi thông tin với nhau. Tuy nhiên, thể
chai ở phụ nữ lớn hơn của nam giới một chút nên phần não điều khiển cảm
xúc bên phải dễ dàng kết nối với phần não chi phối hoạt động phân tích
bên trái. Đây được cho có thể là nguyên nhân lý giải tại sao phụ nữ dễ
xúc động hơn nam giới. Thể chai lớn hơn cũng khiến phái yếu dễ bộc lộ
cảm xúc thành suy nghĩ và lời nói.
Khi thực hiện những công việc phức tạp, giới quần thoa thường
vận dụng cả hai bán đầu não – nghĩa là kết hợp hài hòa giữa tình cảm và
lý trí trong khi nam giới có khuynh hướng sử dụng vùng não gắn liền với
công việc hơn, đôi khi xem nhẹ yếu tố tình cảm.
Kích thước bộ não tỷ lệ nghịch với tuổi tác
Khi mới chào đời, bộ não của chúng ta chứa khoảng 100 tỉ tế bào
thần kinh, tương đương não của người lớn. Tuy nhiên, quá trình trưởng
thành giúp tế bào tạo nên các liên kết mới. Thời thơ ấu, hàng nghìn liên
kết mới được tạo ra mỗi phút, nhưng tỷ lệ này sẽ giảm dần khi tuổi
chúng ta ngày một lớn. Nhiều người cho rằng các tế bào não mới sẽ tiếp
tục phát triển khi chúng ta lớn lên, nhưng thực tế ngược lại, nghĩa là
tổng số tế bào thần kinh cũng như khả năng kết nối giữa các tế bào đều
giảm, khiến bộ não teo lại. Sau 20 tuổi, khối lượng bộ não giảm bình
quân 1 gam/năm và đến năm 90 tuổi, não bộ sẽ mất 5-10% dung tích.
Theo thời gian, hình dạng của bộ não cũng có nhiều thay đổi,
chẳng hạn, các nếp gấp giãn ra và hình thành các mảng bám, ảnh hưởng khả
năng kết nối giữa các tế bào thần kinh cũng như sức khỏe tâm thần. Uống
nhiều bia rượu làm não teo lại. Tuy nhiên, tập thể dục thường xuyên
được chứng minh có thể gia tăng dung tích não, qua đó giúp duy trì sức
khỏe của não bộ khi về già.
Tinh bột – nguồn sống của não
Tinh bột nuôi sống bộ não mỗi chúng ta
Đường glucose là nguồn thực phẩm duy nhất nuôi sống não bộ và
não bộ là cơ quan đói nhất trong cơ thể. Mặc dù chỉ chiếm 2% khối lượng
cơ thể nhưng bộ não cần sử dụng tới 20% nguồn glucose hấp thu vào cơ
thể. Lượng glucose này được hấp thu từ tinh bột và cung cấp cho não qua
đường máu.
Mỗi ngày, não tiêu thụ 420 calorie, tương đương 1/5 lượng
calorie cơ thể hấp thu trong ngày. Ngoài ra, do não không thể dự trữ
glucose nên chất này luôn phải có sẵn trong máu. Không có glucose hoặc
ôxy, não sẽ bị tổn thương nghiêm trọng chỉ sau 10 phút. Đó là lý do tại
sao chúng ta cần hồi tỉnh bệnh nhân ngay khi phát hiện tim họ ngừng đập,
để duy trì nguồn cung cấp glucose và ôxy lên não.
Cảm giác đau đớn thực sự xuất phát từ ý nghĩ
Cảm giác đau xuất phát từ ý nghĩ
Mức độ phản ứng với cơn đau của cơ thể phụ thuộc một phần vào
nếp cuộn trên não, bộ phận bên dưới đường rãnh nằm giữa hai bán cầu não,
chạy dài từ trước ra sau. Chúng ta có thể phát triển khả năng gia giảm
hoạt động tại khu vực nhận biết đau đớn này bằng cách tập lảng tránh cơn
đau, giúp tạo ra tác dụng giảm đau. Ví dụ, nạn nhân bỏng có thể tự giảm
đau bằng cách đeo kính tạo ảo giác để đưa mình vào môi trường mát lạnh,
khiến bản thân không còn chú ý đến vết thương nữa.
Theo Mai Hương
7 điều về chứng mất ngủ, rối loạn giấc ngủ: người mất ngủ cần “khắc cốt ghi tâm”
Trích Cẩm nang xử trí chứng mất ngủ. Chịu trách nhiệm nội dung: GS.TS.Hoàng Văn Thuận (Chuyên viên đầu ngành quân đội, Nguyên Phó chủ tịch Hội thần kinh học Việt Nam). Tác giả: BSCKII.Nguyễn Hữu Cát (Trưởng bộ môn Tâm thần – Trường Đại học Y Dược Huế, Nguyên PGĐ Bệnh viện Tâm thần Huế)
1. VAI TRÒ CỦA GIẤC NGỦ
Giấc ngủ có một vai trò quan trọng
trong việc duy trì sức khỏe về mặt thể chất lẫn tinh thần cho con người.
Con người duy trì được sự tỉnh táo, khả năng làm việc vào ban ngày, các
chức năng của não bộ cũng như toàn bộ cơ thể đều được phục hồi là nhờ
một giấc ngủ đầy đủ.
Thông thường khi ngủ dậy ta cảm thấy cơ thể khỏe mạnh, sảng khoái, không mệt mỏi, đó được xem là giấc ngủ ngon.
2. NGỦ BAO NHIÊU LÀ ĐỦ?
Thời lượng của giấc ngủ phụ thuộc vào độ tuổi.
– Người trẻ: Thời lượng ngủ trên 8 giờ/ngày (Trẻ sơ sinh có thể ngủ từ 12-16 giờ/ngày).
– Người trưởng thành (trên 18 tuổi): Thời lượng ngủ từ 7-8 giờ/ngày.
–
Người cao tuổi: Càng lớn tuổi thì giấc ngủ càng ngắn lại, giấc ngủ
không sâu mà hay tỉnh giấc. Người ta nhận thấy cứ sau 10 năm tuổi thì
giấc ngủ ngắn lại khoảng 30 phút.
3. THẾ NÀO LÀ MẤT NGỦ?
Mất ngủ là một loại rối loạn giấc ngủ,
không phải là một bệnh riêng lẻ, thường là một triệu chứng do bệnh cơ
thể hoặc tâm thần gây ra. Mất ngủ đặc trưng bởi các đặc điểm sau:
– Người bệnh khó đi vào giấc ngủ (trên 30 phút nằm trên giường mới có thể ngủ được).
– Ngủ chập chờn, không yên giấc, hay thức giấc giữa đêm và khó ngủ lại được.
– Thức giấc sớm (thường trước 5 giờ sáng và không ngủ lại được).
– Nặng hơn là hầu như không thể chợp mắt suốt đêm. Ban ngày thì mệt mỏi, buồn ngủ, uể oải, cáu gắt.
– Khi ngủ dậy cảm thấy cơ thể mệt mỏi, tinh thần uể oải, đau đầu.
Mất ngủ gây giảm sức khỏe, tuổi thọ, rối loạn hoạt động não bộ, tim mạch, gan, thận...
4. NGUYÊN NHÂN GÂY MẤT NGỦ
– Stress trong cuộc sống như mất việc, mất người thân, ly dị, mất tài sản…
–
Mắc các bệnh cơ thể như trào ngược thực quản, viêm xoang, dị ứng, các
bệnh nội tiết như tăng hoạt tuyến giáp, viêm khớp, hen phế quản…
–
Các rối loạn cảm xúc như lo âu, trầm cảm, hưng cảm, các bệnh loạn thần
như tâm thần phân liệt… đây là những nguyên nhân thường gặp nhất và có
tỉ lệ mắc bệnh rất cao trong cộng đồng.
– Môi trường ô nhiễm, tiếng ồn, ánh sáng, nhiệt độ quá cao hay quá thấp.
– Dùng 1 số thuốc gây mất ngủ như thuốc chữa cảm cúm, dị ứng, thuốc chống trầm cảm, thuốc chữa cao huyết áp, hen phế quản…
– Cách sinh sống và thói quen không phù hợp. Do thay đổi thời gian ngủ như đổi múi giờ, hoặc làm ca đêm…
5. HẬU QUẢ MẤT NGỦ
Mất ngủ gây ra nhiều khó khăn và phiền
toái trong cuộc sống của nhiều người. Mất ngủ lâu ngày có thể dẫn đến
một loạt những hậu quả sau:
– Ảnh hưởng tới não bộ: Suy giảm trí nhớ, tổn thương tế bào thần kinh, trầm cảm…
– Ảnh hưởng tới tim mạch: Là nguy cơ tăng huyết áp.
– Ảnh hưởng tới hệ miễn dịch: Suy giảm hệ miễn dịch, tăng nguy cơ ung thư.
– Ảnh hưởng tới tinh thần: Lờ đờ, uể oải, mệt mỏi, mất tập trung, kém minh mẫn, dễ cáu giận, căng thẳng.
– Ảnh hưởng tới ngoại hình, làn da: Da xạm, khô, quầng mắt thâm, xuất hiện nhiều nếp nhăn.
6. KHI NÀO BẠN CẦN ĐI KHÁM BÁC SĨ ?
Xét về mặt thời gian, người ta chia mất ngủ ra thành hai loại:
-
Mất ngủ cấp tính: (Mất ngủ thoảng qua, mất ngủ ngắn hạn) Gọi là cấp
tính do mất ngủ chỉ xuất hiện nhất thời, vì những tác động trong cuộc
sống thường nhật như lo lắng công việc, sắp đến ngày thi, bị stress, có
tin buồn… các tác động này gây mất ngủ vài ngày, sau đó giấc ngủ trở lại
bình thường, không cần điều trị.
- Mất ngủ mạn tính: Thời gian mất
ngủ ít nhất ba đêm trong một tuần và kéo dài ít nhất ba tháng. Mất ngủ
mạn tính có nhiều nguyên nhân như do thay đổi môi trường sống, môi
trường lao động, bị bệnh cơ thể hoặc tâm thần, sử dụng các chất kích
thích hoặc do dược phẩm… lúc này người mất ngủ nên đi khám bác sĩ.
Đi khám ở đâu?
Về
nguyên tắc là phải điều trị nguyên nhân gây mất ngủ. Trước tiên người
mất ngủ phải kiểm tra cơ thể có bị bệnh gì gây mất ngủ không. Cần khám
tổng quát, làm các xét nghiệm cần thiết theo chỉ định của bác sĩ. Nếu
mất ngủ do có bệnh lý cơ thể, cần phải được bác sĩ chuyên khoa tương ứng
điều trị.
– Nếu mất ngủ do stress, sử dụng chất kích thích, chất gây
nghiện hay bị các bệnh tâm thần như lo âu, trầm cảm, hưng cảm, tâm thần
phân liệt… cần phải đi khám ở chuyên khoa tâm thần.
7. ĐIỀU TRỊ MẤT NGỦ NHƯ THẾ NÀO?
Để điều trị mất ngủ cần tìm hiểu rõ nguyên nhân gây bệnh, từ đó mới có phương pháp điều trị chính xác và kịp thời.
Người mất ngủ không nên tự ý mua các loại thuốc ngủ để tự điều trị.
A. Phương pháp điều trị mất ngủ không dùng thuốc: Điều chỉnh thói quen sinh hoạt
–
Người mất ngủ nhẹ chỉ cần điều chỉnh thói quen tốt hay còn gọi là vệ
sinh giấc ngủ, tạo cho mình một nếp sống lành mạnh để bảo đảm có được
một giấc ngủ tốt.
– Ngủ đúng giờ, dậy đúng giờ, tránh ngủ ngày, khi ngủ nên mặc quần áo mỏng, thoáng.
– Đi ngủ ngay khi có dấu hiệu buồn ngủ, dậy ngay khi thức giấc. Không được đọc những truyện quá hấp dẫn vào buổi tối.
– Tránh sử dụng điện thoại trước khi ngủ vì ánh sáng xanh của màn hình sẽ làm khó ngủ.
– Tránh uống các chất kích thích như rượu, cà phê, trà, hút thuốc lá… nhất là vào buổi chiều tối.
Nicotine, caffeine là những chất kích thích làm khó ngủ.
– Tập thể dục nhẹ nhàng, thư giãn trước khi ngủ từ 3-4 giờ để vào giấc ngủ nhanh hơn.
– Không ăn tối quá no.
–
Phòng ngủ cần yên tĩnh, thông thoáng, tối, nhiệt độ phòng vừa phải, đệm
giường thoải mái. Trước khi ngủ có thể tắm, hoặc nghe nhạc nhẹ.
– Có một kế hoạch làm việc hợp lý, nên hoàn thành mọi việc trong ngày để tránh bận tâm khi ngủ.
– Ban ngày cơ thể nên tiếp xúc với ánh nắng mặt trời để cảm nhận được nhịp ngày đêm.
– Chế độ ăn các thực phẩm giàu melatonin, serotomin, tryptophan, magie như chuối, sữa ấm, mật ong, khoai tây, yến mạch…
B. Các thuốc hóa dược
Các thuốc được sử dụng để điều trị mất ngủ có nhiều loại như:
– Nhóm barbiturat (hiện không dùng nữa do độc tính cao).
– Nhóm benzodiazepin (temazepam, flurazepam, triazolam, diazepam). Lưu ý tác dụng an thần kéo dài do tích lũy thuốc.
– Nhóm thuốc thế hệ mới: Eszopiclone (Lunesta), Zaleplon (Sonata), Zolpidem (Ambien).
Như đã đề cập ở trên, điều trị mất ngủ phải tùy theo nguyên nhân.
Nếu có bệnh cơ thể phải ưu tiên điều
trị trước, các thuốc ngủ chỉ được sử dụng để điều trị triệu chứng mất
ngủ. Tùy theo từng loại bệnh mà thầy thuốc của từng chuyên khoa quyết
định. Các thuốc này chỉ định cho người bệnh dùng từ 7-10 ngày. Dùng liều
cao, dài ngày gây ra nhiều tác dụng phụ: đau đầu, chóng mặt, rối loạn
tiêu hóa, chán ăn, khô miệng, mệt mỏi, đau dạ dày, hại gan, thận…, nguy
cơ lệ thuộc thuốc, hoặc là lệ thuộc về mặt dược lý hay lệ thuộc về mặt
tâm lý. Quá liều có thể ảnh hưởng đến tính mạng
C. Sử dụng các sản phẩm có nguồn gốc từ thảo dược
Các
thảo dược thường dùng là Tâm sen, Lạc tiên, Đinh lăng, Trinh nữ, Nữ
lang… Tuy nhiên, để đảm bảo an toàn cần lựa chọn những loại sản phẩm
được cơ quan y tế cấp phép đầy đủ, nhà cung cấp – sản xuất uy tín, đồng
thời phải đọc kỹ hướng dẫn sử dụng.
—
SỬ DỤNG THẢO DƯỢC – XU HƯỚNG TRỊ MẤT NGỦ MỚI NHẤT CỦA THẾ GIỚI
Hiện nay do việc sử dụng thuốc an thần
chỉ giúp điều trị triệu chứng nhưng lại có nhiều tác dụng phụ, xu hướng
thế giới là dùng các thảo dược giúp ngủ ngon, không mệt mỏi khi thức
dậy, phục hồi thần kinh, từ đó tạo giấc ngủ tự nhiên, an toàn, bền vững.
Trong đó, có 1 thảo dược được nhiều nhà khoa học trên thế giới nhắc đến
như “vua của các thảo dược trị mất ngủ”, đó chính là cây Nữ lang.
Nữ lang - Cây thuốc mệnh danh là "Vua của các thảo dược trị mất ngủ"
Theo PGS.TS.Nguyễn Duy Thuần
(Nguyên Viện Trưởng Viện nghiên cứu Y Dược học Tuệ Tĩnh, Nguyên Phó Giám
đốc Học viện Y học cổ truyền), một trong những thảo dược được
thế giới đánh giá cao về hiệu quả với giấc ngủ là cây Nữ lang. Là cây
thuốc “cứu tinh” cho người mất ngủ ở châu Âu từ hơn 1000 năm trước. Hiện
là 1 trong 5 cây thuốc có doanh thu cao nhất, được dùng rộng rãi ở châu
Âu. Thành phần chính là acid Valerenic và các dẫn xuất Valepotriates
giúp giải tỏa lo âu, căng thẳng => dễ ngủ, ngủ sâu.
Khi kết
hợp Nữ lang và 5 – tryptomin (Hoạt chất giúp bổ sung các tiền chất tạo
ra Melantonin (hormon giúp duy trì giấc ngủ) sẽ giúp người mất ngủ lâu
ngày cảm thấy dễ vào giấc, ngủ sâu, không mệt mỏi khi thức dậy, giảm số
lần tỉnh giấc mà hoàn toàn an toàn, không gây nhờn thuốc, nghiện thuốc.
Hiện tại, chiết xuất Nữ lang và 5 – tryptomin đã được bào chế thành dạng viên tiện dùng trong sản phẩm Goldream (Gôn đờ rim).
Nam châm có thể gây ra rối loạn các hoạt động của bộ não
Khi chúng ta nghe một thông tin nào đó
về hành động mang tội ác, chẳng hạn như cướp của, đua xe,buôn bán trái
phép,.., nhiều người trong số đó sẽ cần thêm một số các thông tin trước
khi chính thực đưa ra các phán quyết nhận định rằng hành động đó là tốt
hay là xấu. Một số vụ giết người bằng súng có thể được xem như là một
vụ tai nạn nếu như người đó tiến hành bóp cò trong khi nạn nhân cầm dao
xông tới phía họ, vì điều họ làm được xem như là hành động tự vệ một
cách chính đáng. Tuy nhiên, nó sẽ được nhận định là một vụ giết người
nếu như nạn nhân chẳng làm điều gì khiến cho người bắn phải hoảng sợ.
Nhiều cuộc nghiên cứu được tiến hành trước đây đã cho thấy rằng trên
vỏ não của con người, có một vùng nào chuyên thực hiện chức năng xử lý
việc đánh giá về các giá trị đạo đức. Và vùng này có vị trí nằm gần với
tai phải, nó được gọi là vùng thùy thái dương của bán cầu não phải.
Livescience cho biết rằng Liane Young, một nghiên cứu sinh sau tiến
sĩ hiện đang làm việc tại Viện Công nghệ Massachusetts của Mỹ cho biết
rằng nếu như hoạt động của thùy thái dương ở bán cầu não phải trở nên
bị rối loạn, thì sẽ dẫn đến việc các quan điểm về giá trị đạo đức của
con người cũng sẽ bị thay đổi. Để chứng minh cho nhận định của mình,
Liane Young Young cùng với nhóm nghiên cứu của mình đã thực hiện việc
thử nghiệm đối với nhóm những người tự nguyện việc kiểm tra.
Nhóm nghiên cứu áp dụng một kỹ thuật có
tên “kích thích từ trường xuyên sọ” (transcranial magnetic stimulation)
để trực tiếp làm gián đoạn hoạt động của thùy thái dương bán cầu não
phải của một số tình nguyện viên. Nguyên lý cơ bản của kỹ thuật này cụ
thể như sau: Các chuyên gia dùng nam châm để tạo ra từ trường trên một
vùng nhỏ của não khiến các tế bào thần kinh không thể hoạt động bình
thường. Tuy nhiên, họ cũng cho biết rằng kỹ thuật chỉ đơn thuần gây nên
một số hiệu ứng mang tính tạm thời nên không gây nguy hiểm cho tình
nguyện viên.
Trong lần thử nghiệm đàu tiên, Young cũng với các cộng sự đã thực
hiện việc áp dụng kỹ thuật để kích thích từ trường xuyên sọ đối với 8
tình nguyện viên. Sau đó họ yêu cầu những người này kể câu chuyện về
việc một chàng trai dẫn một cô gái đi qua cầu. Trong một kịch bản, chàng
thanh niên có ý đồ muốn gây hại cho cô gái nhưng cô ấy an toàn trở về.
Tuy nhiên trong một kịch bản khác, chàng trai này lại có ý tốt song
một nguyên nhân ngoài ý muốn đã khiến cho mắt cá chân của cô gái bị vỡ.
Sau khi đưa ra 2 kích bản, các nhà nghiên cứu đã yêu cầu 8 người này
tiến hành đánh giá các hành động của các nhân vật dựa vào một thang
điểm về đạo đức. Với mức điểm thấp nhất là 1 (điều này tương đương với
việc hoàn toàn không thể chấp nhận được) và mức điểm cao nhất là 7 (có
nghĩa là nó hoàn toàn được cho phép).
5 Di chứng nguy hiểm sau tai biến mạch máu não
5:18 chiều | 11/04/2016
Theo Hội Phòng chống tai biến mạch máu não
cho biết: Trong số 50% số bệnh nhân sống sót sau tai biến mạch máu não
có tới hơn 90% mắc di chứng về vận động, gần 70% mắc di chứng nhẹ và
vừa, còn lại là 30% chịu di chứng nặng. Trong đó, rối loạn nhận thức,
rối loạn ngôn ngữ, rối loạn thị giác, liệt vận động và rối loạn cơ tròn
là những di chứng thường gặp nhất.
1, Rối loạn nhận thức
Rối
loạn nhận thức là sự suy giảm các chức năng cao cấp của vỏ não do tổn
thương tế bào não và rối loạn chức năng não gây nên. Đây là một
trong những biến chứng nặng nề của bệnh tai biến mạch máu não dẫn đến sa
sút trí tuệ của người bệnh. Tỉ lệ gặp rối loạn nhận thức ở bệnh nhân
sau tai biến mạch máu não khoảng hơn 60%. Bệnh nhân bị rối loạn nhận
thức có các biểu hiện như: hay quên, suy giảm trí nhớ, đầu óc lơ mơ
không tỉnh táo, mất khả năng định hướng không gian, thời gian, không
nhận biết được người thân, gia đình của mình và không hiểu được lời nói
của người khác… Từ những rối loạn nhận thức này sẽ phát triển thành sa
sút trí tuệ, diễn tiến nhanh hay chậm, nhiều hay ít sẽ tùy thuộc vào tác
nhân gây tổn thương não, mức độ teo não thùy thái dương, thùy trán… Nếu
không được phát hiện sớm và điều trị kịp thời, bệnh nhân sẽ mất tất cả
các khả năng tự chăm sóc cho bản thân như: tắm giặt, mặc quần áo, ăn
uống, vận động và vệ sinh cá nhân…, đồng thời hoàn toàn phụ thuộc vào sự
hỗ trợ của người khác. Do vậy, di chứng rối loạn nhận thức sau tai biến
mạch máu não cần được điều trị, đặc biệt là điều trị dự phòng các yếu
tố nguy cơ cao như tăng huyết áp để tránh các biến chứng nguy hiểm khác
xảy ra. Xem thêm: Tổng quan về bệnh tai biến mạch máu não
2, Rối loạn ngôn ngữ
Ngôn
ngữ là chức năng rất quan trọng của bộ não con người, là phương tiện và
công cụ giao tiếp cộng đồng rất quan trọng. Sau tai biến mạch máu não,
bệnh nhân có thể bị tổn thương dẫn đến rối loạn về ngôn ngữ. Người bệnh
có thể gặp hiện tượng rối loạn ngôn ngữ với biểu hiện khá đa dạng như:
nói ngọng, nói lắp, âm điệu bị biến đổi,… và gặp khó khăn khi diễn đạt,
thậm chí là không nói được. Khi bị rối loạn giao tiếp sẽ khiến bệnh
nhân khó khăn trong giao tiếp với những người xung quanh, dễ bị cô lập,
khó hòa nhập với cộng đồng, lâu ngày có thể dẫn đến bệnh trầm cảm.
3, Rối loạn thị giác
Rối
loạn thị giác sau tai biến mạch máu não gây ảnh hưởng không nhỏ đến thị
lực của người bệnh. Theo các chuyên gia, rối loạn thị giác có thể là
tạm thời nhưng cũng có thể là vĩnh viễn. Bệnh nhân bị rối loạn thị giác
có biểu hiện là mắt nhìn mờ một bên hoặc cả hai bên, mù một phần hoặc
toàn bộ, quầng hoặc đau mắt.
Nếu không được chữa trị và phục hồi sau tai biến mạch máu não ở giai
đoạn sớm thì càng ngày bệnh nhân sẽ không còn nhiều hi vọng để thấy lại
ánh sáng ở mắt đó.
4, Liệt vận động
Theo
thống kê, có khoảng 90% người bị liệt vận động (liệt nửa người, liệt tay
chân, liệt mặt) sau tai biến mạch máu não. Di chứng này gây khó khăn
cho bệnh nhân về chế độ sinh hoạt, đi lại hàng ngày. Bệnh nhân cần phải
phục hồi sau tai biến mạch máu não nếu không sẽ không thể tự chăm sóc
bản thân mình mà phải phụ thuộc và người thân chăm sóc. Họ dễ mắc thêm
chứng rối loạn cảm xúc do mặc cảm tự ti vì mình là gánh nặng của gia
đình. Đồng thời khi phải nằm liệt lâu, bệnh nhân có thể gặp một số biến
chứng nguy hiểm như: viêm loét da, viêm đường tiết niệu, viêm phổi, viêm
đường hô hấp… dễ gây nhiễm trùng, thậm chí tử vong cho người bệnh.
Một
vấn đề nữa, người cao tuổi bị liệt vận động sau tai biến có khả năng
mắc thêm hội chứng Parkinson. Người bệnh phải đối mặt với khó khăn về
vận động cơ hơn là run. Bởi di chứng sau tai biến thường gây yếu liệt
một nửa người đã làm họ khó khăn trong việc giữ thăng bằng trong di
chuyển, nay lại thêm hội chứng Parkinson, khiến cho việc vận động, cử
động chi dưới trở nên tồi tệ hơn nhiều so với những khó khăn họ gặp phải
khi cử động các cơ ở bàn tay. Do sự bất ổn định trong tư thế, co thắt
cơ đột ngột nên họ thường xuyên té ngã. Đi kèm với những điều đó, họ còn
phải đối mặt với sự suy giảm khả năng nhận thức, tư duy và cuối cùng là
mấy trí nhớ. Ở một số người bệnh có thể gặp những phản ứng cảm xúc bất
thường như đột nhiên cáu giận hay buồn bã, tủi thân, khóc lóc…mà không
có lý do.
5, Rối loạn cơ tròn
Rối loạn cơ
tròn là triệu chứng thường gặp sau tai biến mạch máu não. Duy nhất
trong số các cơ tròn hoạt động theo ý muốn là cơ tròn bàng quang, hậu
môn. Hoạt động được nhờ các trung khu điều khiển của hệ thần kinh trung
ương. Khi có biểu hiện rối loạn cơ tròn bệnh nhân sẽ xuất hiện triệu
chứng rối loạn ở các mức độ khác nhau như: Tiểu khó, bí tiểu, tiểu tự
động, đại tiện vãi, bí đại tiện làm ảnh hưởng lớn đến sự hồi phục của
bệnh nhân và công tác chăm sóc người bệnh. Có thể nói rối loạn cơ tròn
để lại hậu quả nặng nề về thể chất, tinh thần, và phí tổn tài chính cho
bản thân người bệnh, gia đình, xã hội. Do đó chăm sóc và điều trị cho
người bị tai biến mạch máu não phải được tiến hành sớm ngay từ đầu. Trên đây
là 5 di chứng nguy hiểm sau tai biến mạch máu não. Bên cạnh những di
chứng nặng nề trên, người bệnh còn phải đối mặt với nguy cơ tái phát. Và
chịu những hậu quả, tổn thất điều trị cao gấp nhiều lần so với lần đầu
bị tai biến.
Bại Não / Cerebral Palsy
Bại não (hay liệt não) là thuật ngữ chỉ một nhóm tình
trạng bệnh lý ảnh hưởng đến sự kiểm soát các vận động cũng như tư thế.
Do một hoặc nhiều phần của bộ não có chức năng điều khiển cử động bị tổn
thương nên người bệnh không thể cử động các cơ của mình một cách bình
thường. Triệu chứng diễn ra từ nhẹ tới nặng, gồm cả những dạng thức tê
liệt.
Nếu được điều trị, phần lớn trẻ em có thể cải thiện đáng kể
được những khả năng của mình. Mặc dù các triệu chứng có thể thay đổi
theo thời gian nhưng theo như định nghĩa thì bại não là một căn bệnh
không diễn tiến, vì thế nếu người bệnh càng ngày càng yếu đi thì nguyên
nhân có thể là do một vấn đề nào khác chứ không phải là do bại não.
Rất
nhiều trẻ bị bại não thường có kèm theo các tình trạng bệnh khác cần
phải được điều trị. Trong những vấn đề đó có vấn đề chậm trí; rối loạn
khả năng học tập; động kinh; và những vấn đề về thị giác, thính giác và
ngôn ngữ.
Bệnh bại não thường được chẩn đoán khi trẻ lên 2 đến 3
tuổi. Khoảng 2 đến 3 trẻ trong khoảng 1.000 trẻ ở độ tuổi lên ba mắc
bệnh bại não. Có khoảng 500.000 trẻ em và người lớn ở mọi lứa tuổi trên
toàn quốc mắc bệnh bại não.
Có ba thể bại não:
Bại não thể
liệt cứng (Spastic cerebral palsy). Trong tổng số những người bị mắc
bệnh bại não thì có đến 70 đến 80 phần trăm số người bị mắc bệnh bại não
thể liệt cứng với các cơ co cứng, cử động khó khăn. Khi cả hai chân đều
bị liệt (liệt cứng hai chi dưới), đứa trẻ có thể gặp khó khăn khi đi
bởi vì các cơ bó sát trong hông và chân làm cho hai chân chụm vào nhau
và giao nhau tại đầu gối (còn được gọi là cắt kéo). Trong những trường
hợp khác, chỉ một bên cơ thể bị liệt (liệt cứng nửa người), và cánh tay
thường bị liệt nghiêm trọng hơn chân. Trường hợp nghiêm trọng nhất là
liệt cứng tứ chi, trong đó cả bốn chi và thân người bị liệt và thường
thì cả các cơ điều khiển mồm và lưỡi cũng bị liệt. Trẻ em bị liệt cứng
tứ chi bị chậm trí và có những vấn đề khác.
Bại não thể loạn động
(Dyskinetic cerebral palsy). Trong tổng số những người mắc bệnh bại não
thì có khoảng 10 đến 20 phần trăm số người mắc bệnh bại não thể loạn
động, căn bệnh gây ảnh hưởng tới toàn bộ cơ thể. Đây là thể bệnh được
đặc trưng bằng sự thay đổi thất thường của trương lực cơ (lúc tăng, lúc
giảm) và thỉnh thoảng có những cử động không kiểm soát được (có thể là
những cử động chậm và đau hoặc nhanh và giật giật). Trẻ mắc bệnh này
thường khó có tư thế ngồi hoặc dáng đi bình thường. Do các cơ điều khiển
nét mặt và lưỡi cũng bị ảnh hưởng cho nên người bệnh cũng gặp khó khăn
khi bú, nuốt và nói.
Bại não thể thất điều (Ataxic cerebral
palsy). Trong tổng số những người mắc bệnh bại não thì có khoảng 5 đến
10 phần trăm số người mắc bệnh bại não thể thất điều, căn bệnh ảnh hưởng
đến khả năng cân bằng tư thế và phối hợp động tác. Người bệnh có thể đi
nhưng với một dáng điệu không vững và gặp khó khăn với những cử động
cần phải có sự phối hợp chính xác, ví dụ như viết.
Có nhiều sự
kiện xảy ra trong thời kỳ mang thai và gần thời điểm sinh có thể gây
gián đoạn quá trình phát triển bình thường của bộ não và gây bại não sau
này. Trong khoảng 70 phần trăm trường hợp, mặc dù tổn thương não diễn
tra trước khi sinh, nhưng nó cũng xảy ra vào gần thời điểm sinh, hoặc
trong những tháng hoặc năm đầu đời.
Một số những nguyên nhân được biết đến gồm có:
Những
nhiễm trùng trong thời kỳ mang thai. Một số nhiễm trùng ở phụ nữ mang
thai như rubella (sởi Đức), vi-rút cự bào (nhiễm trùng do siêu vi trùng
nhẹ) và toxoplasmosis (một chứng nhiễm trùng do ký sinh trùng nhẹ) có
thể gây tổn thương não của bào thai và gây bại não sau này.
Thiếu
khí não bào thai. Ví dụ, khi chức năng nhau thai bị giảm sút hoặc bị bóc
tách khỏi thành tử cung trước khi sinh, có thể làm giảm lượng ô-xy cung
cấp cho bào thai.
Sinh non. Những đứa trẻ sinh non có cân nặng
nhẹ hơn 3 1/3 cân Anh có nguy cơ mắc bệnh bại não nhiều hơn những trẻ
được sinh đủ tháng gấp 30 lần.
Những biến chứng trong quá trình
chuyển dạ và sinh nở. Cho mãi đến gần đây các bác sĩ mới tin rằng ngạt
(thiếu ô-xy) trong quá trình chuyển dạ và sinh nở là nguyên nhân của hầu
hết các trường hợp bại não. Các cuộc nghiên cứu gần đây cho thấy rằng
những nguyên nhân này chỉ chiếm 10 phần trăm trong những nguyên nhân gây
bại não.
Bệnh bất đồng nhóm máu Rh. Bất đồng nhóm máu Rh là sự
bất tương hợp nhóm máu giữa người mẹ và bào thai có thể gây tổn thương
não dẫn đến bại não. Rất may là bệnh bất đồng nhóm máu Rh có thể ngăn
ngừa được bằng cách tiêm vào người mẹ mang Rh-âm (Rh-negative) một sản
phẩm máu được gọi là Rh immune globulin vào tuần thứ 28 trong thời kỳ
mang thai và tiêm nhắc lại một lần nữa sau khi sinh cho đứa trẻ mang
Rh-dương (Rh-positive).
Những dị tật bẩm sinh khác. Các trẻ có
những bất thường về cấu trúc não, nhiều bệnh di truyền, những bất thường
của nhiễm sắc thể, và những dị tật cơ thể khác cũng làm tăng nguy cơ
mắc bệnh bại não.
Bại não mắc phải (Acquired cerebral palsy).
Khoảng 10 phần trăm số trẻ bị bại não mắc phải sau khi sinh do những tổn
thương não bộ xảy ra trong hai năm đầu đời. Những nguyên nhân phổ biến
nhất của các tổn thương như thế là các trường hợp nhiễm trùng não (ví dụ
như viêm màng não) và chấn thương đầu.
Bại não được chẩn đoán chủ
yếu bằng việc đánh giá khả năng cử động của trẻ sơ sinh hoặc trẻ nhỏ.
Một số trẻ mắc bệnh bại não có trương lực cơ thấp nên nhìn chúng có vẻ
nhẹ cân. Những trẻ khác có trương lực cơ tăng nên trông chúng có vẻ rắn
chắc, hoặc trương lực cơ biến thiên (lúc tăng, lúc giảm).
Có thể
bác sĩ cũng yêu cầu làm các xét nghiệm phân hình não ví dụ như tạo ảnh
cộng hưởng từ (Magnetic Tesonance Imaging - MRI), chụp điện toán cắt lớp
(Computed Tomography - CT scan), hoặc siêu âm. Đôi khi những xét nghiệm
này có thể giúp xác định được nguyên nhân của bại não.
Bệnh bại não được chữa trị như thế nào?
Một
nhóm các nhà chăm sóc sức khỏe làm việc với đứa trẻ và gia đình để xác
định ra những nhu cầu của trẻ. Các chuyên gia liên quan bao gồm các bác
sĩ nhi khoa, các bác sĩ vật lý trị liệu và phục hồi chức năng, các bác
sĩ phẫu thuật chỉnh hình, các nhà điều trị liệu pháp vật lý và vận động,
các bác sĩ chữa mắt, các nhà nghiên cứu bệnh học về lời nói/ngôn ngữ,
các những người hoạt động xã hội cùng các nhà tâm lý học.
Trẻ
thường được bắt đầu bằng vật lý trị liệu ngay sau khi được chẩn đoán.
Điều trị này làm tăng kỹ năng vận động của trẻ như ngồi, đi, cải thiện
cơ lực và phòng ngừa sư co kéo biến dạng cơ (cơ bị co rút có thể giới
hạn vận động của các khớp). Đôi khi trẻ còn được sử dụng các dụng cụ như
nẹp, máng hoặc bó bột để ngừa co rút cơ và cải thiện chức năng của chân
và tay. Nếu tình trạng co rút cơ quá nặng, trẻ cần được phẫu thuật
chỉnh hình để làm dài cơ bị bệnh.
Đôi khi thầy thuốc còn dùng một
số thuốc nhằm làm giảm bớt mức độ co cứng của cơ và làm giảm các cử động
bất thường. Tuy nhiên các thuốc đường uống hiện nay không có tác dụng
đáng kể. Đôi khi việc tiêm trực tiếp thuốc vào các cơ co cứng có thể có
hiệu quả hơn, và có thể có hiệu quả trong vài tháng. Một loại thuốc mới
mang đến niềm hy vọng cho những trẻ bị liệt cứng mức độ vừa đến nặng ở
cả bốn chi. Để đưa thuốc vào bệnh nhân, người ta phải phẫu thuật để đưa
vào dưới da một bơm tiêm, thông qua đó thuốc được bơm liên tục.
Đối
với một số trẻ có tình trạng co cứng hai chi dưới nặng nề, phẫu thuật
cắt bỏ chọn lọc một số nhánh thần kinh ở lưng chi phối hoạt động chi có
thể làm giảm vĩnh viễn tình trạng co cứng cũng như cải thiện khả năng
vận động như ngồi, đứng, đi. Trong thủ thuật này, các bác sĩ cắt một số
sợi thần kinh gây nên tình trạng co thắt nhiều nhất. Phẫu thuật này
thường tiến hành khi trẻ được 2 đến 6 tuổi.
Cuộc nghiên cứu cho
rằng bại não xuất phát từ sự phát triển sai lệch của tế bào trong giai
đoạn đầu của thời kỳ mang thai. Ví dụ, một nhóm các nhà nghiên cứu mới
đây đã quan sát thấy rằng hơn một phần ba trẻ mắc bệnh bại não thì cũng
mất lớp men ở một số răng. Các nhà khoa học cũng nghiên cứu nhiều sự
kiện khác -- ví dụ như chảy máu não, động kinh, và các vấn đề về hô hấp
và tuần hoàn đe dọa đến bộ não của một đứa trẻ mới sinh. Một số nhà điều
tra đang tiến hành các cuộc nghiên cứu để xác định xem một số loại
thuốc có thể giúp ngăn ngừa chứng đột quỵ ở trẻ mới sinh, và các nhà
điều tra nghiên cứu khác đang xem xét các nguyên nhân của tình trạng nhẹ
cân ở trẻ mới sinh. Nhiều nhà khoa học khác cũng đang khám phá những
tổn thương ở não bộ (ví dụ như tổn thương não do thiếu ô-xy hoặc máu,
chảy máu não và động kinh) có thể gây nên tình trạng làm thoát bất
thường các hóa chất trong não và phát sinh bệnh về não như thế nào.
Chúng ta thực sự biết gì về chính chúng ta và não của
chúng ta? Cái gì làm cho trí tuệ của bạn khác với người bên cạnh? Lý
giải về khả năng nhận thức tiêu tốn nhiều thời gian của các nhà khoa học
và các triết gia mà vẫn chưa có phát hiện gì cụ thể. Thậm chí với sự
tiếp cận bằng nhiều phương tiện y học hiện đại và tiên tiến, chúng ta
vẫn chưa có một hiểu biết hoàn toàn về nhiều quá trình trọn vẹn của não.
Tại sao ngày hôm nay dường như đã trôi qua vĩnh viễn? Có phải tôi
luôn tỉnh táo hay đầu óc tôi đang mơ màng? Làm thế nào tôi nhớ được
những điều đã thực sự xẩy ra? Và làm thế nào tôi biết cái gì sẽ diễn ra
vào ngày mai?
Rất nhiều câu hỏi có ý nghĩa hơn của cuộc sống dường như gây bối rối
cả với các nhà khoa học hiện đại. Nhiều nghiên cứu về não được thực hiện
ở động vật vì các nghiên cứu liên quan đến con người chỉ giới hạn ở các
nghiên cứu về hành vi và các kỹ thuật hình ảnh không can thiệp như là
cộng hưởng từ (MRI). Những nghiên cứu này bị giới hạn vì sự mỏng manh và
hệ thống phức tạp của bộ não. Vì não vô cùng phức tạp và khó tìm hiểu,
và vì không thể áp dụng các kỹ thuật can thiệp có khả năng gây tổn
thương cho não nên phần lớn sự hiểu biết về cơ chế chính xác là cơ sở và
gây biến đổi chức năng não vẫn nằm ngoài thậm chí cả những kỹ thuật
hiện đại tinh vi nhất.
Mất sự liên hệ
Khoa học hiện đại đã có khả năng xác định các vùng đặc biệt của não
được cho là tương ứng với một chức năng đặc biệt, nhưng vẫn chưa nắm đủ
chi tiết. Ví dụ vùng chính xác hoặc con đường trong não gắn với sự ghi
nhớ vẫn chưa được hiểu trọn vẹn. Chúng ta biết qua các nghiên cứu những
bệnh nhân rối loạn trí nhớ như là bệnh Alzheimer là một vùng riêng rẽ
của não được gọi là vùng hải mã bị tổn thương gây ra rối loạn trí nhớ.
Các neuron thần kinh từ vùng hải mã trao đổi thông tin với một loạt các
vùng khác trong não, tuy nhiên nhiều trong số các lối mòn này vẫn còn là
một sự bí ẩn. Trí nhớ được củng cố khi các neuron thần kinh tương ứng
với một phần thông tin cụ thể được tái kích hoạt và qua đó củng cố thêm
lối mòn đã được xác lập.
Dự báo tương lai
Nếu não của chúng ta xử lý và lưu trữ thông tin từ môi trường bên
ngoài, thì làm thế nào một số người có thể dự báo trước tương lai? Người
ta cho rằng não không chỉ tiếp nhận thông tin nhìn thấy thông qua sự
trao đổi thông tin từ võng mạc với vỏ não vùng thị lực mà còn tạo ra tư
duy trừu tượng dựa trên những điều mong muốn có thể có. Điều này cho
phép chúng ta dự đoán tình huống dựa trên các thông tin sớm hoặc các
kiến thức chúng ta đã có. Nhiều người lập luận rằng các kích thích từ
bên ngoài có thể được tiếp nhận một cách khác nhau tùy thuộc vào kinh
nghiệm của chúng ta, kết quả của sự cộng tác giữa thông tin mới và những
điều mong đợi của chúng ta.
Thời gian đáp ứng thần kinh(Neuronal Time)
Làm thế nào chúng ta nhận thức thời gian? Nếu chúng ta bắt đầu chạy
100m với một phát súng hoặc một tia sáng, sự kích thích nào gây đáp ứng
nhanh hơn? Câu trả lời là phát súng bởi vì thông tin âm thanh được tiếp
nhận nhanh hơn thông tin nhìn thấy. Điều này làm nổi bật nhiệm vụ tiếp
theo của não trong việc gắn kết cái nhìn thấy với cái nghe thấy. Thật
không may, nhiệm vụ này trở nên phức tạp hơn khi chúng ta bắt đầu nghĩ
về khái niệm thời gian là gì và liệu thời gian trôi qua nhanh hơn đối
với người này so với người khác. Thời gian như chúng ta biết nó được xây
dựng dựa trên những trải nghiệm của chúng ta.
Bạn đã thức dậy? Có đúng vậy không?
Nếu não của bạn thu nhập mọi thông tin (nhìn, sờ, âm thanh, mùi, vị)
vào mọi lúc thì khối lượng xung lượng quá lớn sẽ làm cho não của bạn tan
chảy. Thật may mắn, chúng ta có khả năng ngăn chặn những tín hiệu không
cần thiết một cách có ý thức và vô thức. Quá trình này xảy ra như thế
nào vẫn còn là điều bí ẩn. Ý thức là một khái niệm trừu tượng khiến
nhiều bác sĩ và các nhà khoa học trên thế giới quan tâm. Có nhiều nghiên
cứu và báo cáo về những can thiệp có thể làm thay đổi mức độ ý thức của
não, như là thuốc làm thay đổi hành vi, nhưng cơ chế cơ bản làm thay
đổi ý thức vẫn chưa được hiểu rõ.
Con người mãi mãi là độc nhất
Rất nhiều quá trình phức tạp rắc rối đặc biệt diễn ra trong não sẽ
luôn là điều bí ẩn. Chính điều này làm cho con người trở nên độc nhất.
Thậm chí với những kỹ thuật tinh vi nhất chúng ta vẫn không thể khám phá
ra những điều chưa biết này. Rất nhiều bí mật của bộ não sẽ mãi còn ẩn
giấu.
Luận