Chủ Nhật, 24 tháng 3, 2013

THƠ BÚT TRE

(Dựa hơi từ điển mở Wikipedia và quyển "Bút Tre, thơ và giai thoại", tác giả: Ngô Quang Nam, NXB Văn hóa-Thông tin, 2008)



                                                     PHẦN GIỚI THIỆU


          -"Thơ Bút Tre", theo nghĩa hẹp, đơn giản là thơ của tác giả Bút Tre, nghĩa rộng là Trường phái thơ bút tre (vì Bút Tre là người khởi xướng).
         -Bút Tre tên thật là Đặng Văn Đăng (1911-1987), người xã Đồng Lương, huyện Cẩm Khê, tỉnh Phú Thọ. Thời Pháp thuộc, ông học đến đậu tú tài triết học, có thời gian viết báo với bút danh Lục Y Lang. Dưới thời Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (nay đổi tên thành Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam), ông từng giữ chức vụ Bí thư thứ hai của Sứ quán Việt Nam tại Rumani, sau đó làm Trưởng ty (nay gọi là "giám đốc sở") Văn hóa tỉnh Phú Thọ và tham gia hoạt động trong Ban chấp hành Hội văn nghệ dân gian Việt Nam. Đ. V. Đăng sống bình dị, có tâm hồn trào lộng, là một trong rất nhiều "ông quan thanh liêm" thời nước nhà đang trong cảnh "Miền Bắc là hậu phương lớn, Miền Nam là tiền tuyến lớn", mà ngày nay hiếm "như sao buổi sớm" (lời Nguyễn Trãi).
          -Thơ của Đ. V. Đăng đương thời (ở đây chỉ nói đến cái bộ phận với những yếu tố, những nét đóng vai trò hạt nhân, nòng cốt, tiên phong của dòng thơ Bút Tre ngày nay) chịu không ít sự dè bỉu của nhiều bậc "nghiêm túc và hàn lâm" về thơ. Mà đúng thật, thơ do chính ông sáng tác không có cái đẹp của tu từ, của sự trau chuốt, hơn nữa, thoạt nhìn, về hình thức, có vẻ dễ dãi, "gợi nhớ" đến thơ con cóc. Ấy vậy mà lạ lùng thay, thơ của ông không những không "chết" mà còn chính thức đóng vai trò khởi nguồn ra một dòng (gọi một cách "chính qui" là trường phái) thơ mới, đậm chất trào phúng dân dã, được quần chúng ưa thích, "dung dưỡng", làm thăng hoa, lưu truyền đến ngày nay, và có lẽ đến rất xa nữa trong tương lai mai hậu.
          -Ngô Quang Nam viết: "Theo tôi, thơ Bút Tre không hay, không hay một tý nào, thậm chí còn là vụng về quê kệch nếu ta soi bằng lăng kính thơ văn bác học. Có một nhà thơ nổi tiếng đương thời khi nghe tôi nêu câu hỏi: "Thưa anh, tỉnh Vĩnh Phú đã minh oan cho Kim Ngọc làm khoán hộ. Vị trí và những cống hiến của anh Kim Ngọc ngày nay đã được khẳng định và Quốc Hội đã thông qua việc trao huân chương cho anh Kim Ngọc...Còn cái oan của cụ Bút Tre về văn chương chưa được rửa?...". Nhà thơ nọ bĩu môi: "Khó lắm! Bút Tre là vè". Tôi hiểu! Ông nhà thơ có lý khi ông nhìn Bút tre bằng lăng kính của nhà thơ bác học, nhưng tôi hỏi lại ông một câu: "Vậy sao thơ kiểu "bác học" của các anh thường chỉ mấy ông nhà thơ các anh "nhâm nhi" với nhau là chính, chứ thật dân tình không mấy ai thuộc và lại cũng không mấy ai có thể sáng tác được, trong khi đó Bút Tre nổi tiếng đến mức ai cũng thích? Và ai cũng sáng tác được?". Tôi liền lấy ngay tờ báo có in một bài của một "lão trượng" bút sắt viết ca ngợi Bút Tre:

                                           "Tham quan, du lịch, nghỉ hè
                                            Thơ văn trường phái Bút Tre đứng đầu
                                            Gieo vần gãy nửa nhịp câu
                                            Giữa dòng bạt mạng ngắt câu ngang phè
                                            Mà sao ai cũng thích nghè
                                            Cứ nghe mà biết Bút Tre là cười
                                            Bao nhiêu Bút Sắt mòn rồi
                                            Hôm nay còn mãi với đời Bút Tre"

        Ông đọc xong rồi lặng đi.(...). Cũng như các nhà sành chơi đồ gốm khi đã quá quen với những đồ gốm bóng bẩy mỹ miều Giang Tây bỗng bắt gặp một cái bình gốm men rạn (tưởng như nung hỏng), song cái quí và độc đáo lại chính ở cái "rạn nứt" ấy, thậm chí gốm thô gan gà, nguyên của màu đất sét mà biết đặt đúng chỗ thì lại là sự độc đáo. Vậy theo tôi, nghệ thuật biến hóa không cùng. Thơ bác học cũng có cái hay, cái cao siêu của thơ bác học, nhưng ca dao dân gian, vè dân gian nó vẫn cứ có giá trị độc lập của nó, nó chẳng mỹ miều, nó thô ráp thì nó lại có vẻ đẹp của sự thô ráp ấy, bởi vì bên trong nó lại ẩn chứa những triết lý rất sâu sắc".
           -Ca ngợi thơ Bút Tre còn có bài thơ sau:
                                              Hoan hô đồng chí Bút Tre
                                              Thơ phú ngang phè mà lại hóa hay
                                              Phải chăng trường phái thơ ngây
                                              Làm cho ai cũng mê say thích nghè (nghe)
                                              Ngày nay cuộc sống bộn bề
                                              Nụ cười thuốc bổ: ca vè dân gian
                                              Bởi ai cũng có thể làm
                                              Bút Tre, bút nứa, lại càng bút bi...
           -Nhưng cụ thể hơn, điều gì đã làm cho Bút Tre trở thành nhà thơ khai sinh ra một dòng thơ có tính đặc thù như một trường phái thơ thực thụ, hơn nữa, tồn tại một cách sống động, được nhiều người ưa thích, học thuộc, sáng tạo thêm rồi đọc cho nhau nghe những lúc vui đùa, lúc trà dư tửu hậu, để từ đó được lưu truyền rộng rãi trong xã hội chủ yếu theo con đường có tính truyền thống dân gian: truyền khẩu (đây là điều rất đáng suy ngẫm!)? Trong "Bút Tre, thơ và giai thoại", N. Q. Nam đã phân tích xoay quanh vấn đề những  thủ thuật mà Đ. V. Đăng đã sử dụng trong thơ, và cho đó là cái yếu tố quyết định đến sức sống "danh bất hư truyền" của thơ Bút Tre.
           -Theo tôi, tựu trung lại, sở dĩ Đ. V. Đăng đã khơi mào, tạo nên được một lối thơ "không giống ai" để từ đó mà hình thành nên cả một dòng thơ được nhiều người ưa thích và hơn nữa cũng hết sức bình dị, ai cũng có thể góp sức sáng tạo, ngẫu hứng "thêm thắt" vào được, là vì ông đã phát hiện ra "một chất liệu" gợi nguồn cũng như định hướng cảm hứng có ngay trong đời sống dân dã và văn học dân gian, để từ đó hoạt động sáng tạo trên cơ sở kế thừa cái tinh thần lạc quan, trào lộng, đơn sơ mà tinh tế, dung dị mà sâu sắc, chất phác mà thâm thúy, nghiêm cách mà cũng không câu nệ...của thơ ca, hò vè dân gian Việt Nam. Trong đời sống dân dã vẫn thường xảy ra những hiện tượng vô tình như: nói hớ, nói nhịu (chẳng hạn thấy con gà thì nói là con lợn), nói đớt, nói trại, nói tắt (chẳng hạn nói: "Xe đạp tôi..." thì ai cũng hiểu đúng: "Xe đạp của tôi..."), nói tréo ngoe, nói tưng tửng, ..., mà trong nhiều trường hợp trở nên rất buồn cười, thành đàm tếu "vui là chính", và dần được phản ánh trong văn học-nghệ thuật, trước hết là văn học nghệ thuật dân gian trào phúng. Đặc trưng tiêu biểu nhất và cũng dễ nhận biết nhất của thơ ca, hò vè dân gian Việt Nam là dù hàm chứa những ý tưởng sâu xa thì câu chữ được dùng cũng vẫn rất giản dị, rất gần với cách nói dân dã, "đời thường", hay có thể nói hơi quá một chút rằng đó là cách nói dân dã có vần điệu. Dưới đây là vài thí dụ:

                                              - Kìa ai tiếng khóc nỉ non
                                                Ấy vợ lính mới trèo hòn đèo Ngang
                                                Chém cha cái giặc chết hoang
                                                Làm cho thiếp phải gánh lương theo chồng
                                                Gánh từ xứ Bắc, xứ Đông
                                                Đã gánh theo chồng lại gánh theo con

                                              -Sơn Bình, chợ Lối chẳng xa
                                                Cách một cái quán với ba quãng đồng
                                                Chẳng tin đứng lại mà trông
                                                Bên tây có miếu, bên đông có chùa
                                                Ở trong lại có đình thờ
                                                Em còn kén chọn bán mua chốn nào

                                             - Em về cắt rạ đánh tranh
                                               Chặt tre chẻ lạt cho anh lợp nhà
                                               Sớm khuya hòa thuận đôi ta
                                                Hơn ai gác tía lầu hoa một mình

            Ngôn ngữ Việt Nam vốn dĩ giàu âm điệu, cho nên theo truyền thống dân gian, tiêu chí số một để phân biệt ngôn ngữ thường và ngôn ngữ thơ chính là vần điệu và vần điệu đã trở thành tiêu chuẩn hàng đầu phải tuân thủ đối với thơ ca, hò vè dân gian Việt Nam. (Tôi cho rằng điều này cũng đúng với thơ ca Việt Nam hiện đại. Thuật ngữ "hiện đại" ở đây không bao hàm trường phái thơ "hiện đại" hay "hậu hiện đại" thực chất đã tự cự tuyệt cội rễ truyền thống, mù quáng theo mấy "ông thơ Tây" cũng mù quáng nốt. Đó là thứ thơ hàm chứa bệnh lý tâm thần, có tính phá phách, thoát thai ra từ sự bế tắc sáng tạo bởi hạn chế tài năng, bị đè nén quá độ trong sự đòi hỏi, hối thúc tiềm thức của cái tinh thần đã "lạc vào" sự hãnh tiến, háo danh. Thơ đó chỉ có thể tồn tại trong một nhúm nhỏ tự tâng bốc nhau là "hàn lâm, cao siêu" mà thôi chứ không thể sống còn trong lòng dân tộc được, hơn nữa, sự ngày càng tha hóa của nó sẽ "không chóng thì chầy" làm cho nó bị đào thải ra khỏi đời sống văn hóa xã hội. Bởi lẽ, nghệ thuật đích thực bao giờ cũng giản dị, trong sáng, hòa hợp với nhịp đập cuộc sống và nhờ thế mà gần gũi, thân thiết với đại chúng, được đại chúng yêu thích,ngợi ca, gìn giữ và lưu truyền). Tiếp tục, vì thơ ca, hò vè dân gian chủ yếu dùng từ ngữ dân dã nhưng lại phải tuân thủ vần điệu (theo luật bằng trắc và chủ yếu theo thể thơ lục bát) tương đối khắt khe, cho nên trông thì thấy đơn giản, thô mộc, dễ bắt chước sáng tác, nhưng thực ra không hề dễ dàng chút nào, thường giữ được ý thì mất vần, giữ được vần thì mất ý, hoặc để cho có vần, phải dùng những từ sáo mòn, khiên cưỡng nhiều khi phá hỏng cả tứ thơ. Có lẽ từ trước đến nay, đây là nguyên nhân làm xuất hiện (không phải là ít!) trong "phong trào văn hóa quần chúng" những bài thơ lục bát "ngang phè phè" đến "phát tức anh ách" hay ngô nghê "xuôi tuồn tuột" đến "cười lộn ruột"...
            Phải chăng Đ. V. Đăng, một người có lối sống giản dị và hòa đồng, có tâm hồn thanh khiết mà cũng khoáng đạt, đã phát hiện được những yếu tố trào phúng tiềm ẩn trong những hiện tượng xảy ra do "trục trặc" vô tình, ngoài ý muốn, đại loại như đề cập sơ qua ở trên, từ đó mà chắt lọc, kết hợp lại, tạo nên một hướng sáng tạo có tính gây cười độc đáo, trên nền tảng thơ ca, hò vè dân gian truyền thống? Có thể nói, thơ Bút Tre là "thứ" thơ có hình thức tương tự như của những kẻ nhà quê ít học nhưng sính chữ, là những câu cú "nói trực" hồn nhiên bị ép vần "cho bằng được", do đó mà làm xuất hiện những tình huống "dở khóc dở cười". Nhưng thơ Bút Tre có giá trị thẩm mỹ và tính gây cười cao hơn hẳn vì ai đọc cũng "biết tỏng" đó là kết quả của sự cố ý sáng tạo, đầu tư trí tuệ có chủ đích.
            -Thơ Bút Tre, trên bình diện là một dòng thơ tương đối độc lập, có đặc trưng trào lộng, gồm những bài thơ ngắn, thậm chí chỉ hai câu, được nhiều tác giả hữu danh cũng như khuyết danh góp phần xây dựng và cũng vì được rất nhiều người yêu thích nên cũng được phát tán nhanh qua con đường truyền khẩu mà các loại thơ khác không thể sánh được. Những đặc điểm đó khiến dòng thơ Bút Tre xứng đáng là một bộ phận hợp thành không thể thiếu được của thơ ca, hò vè dân gian Việt Nam, nếu chưa được chính thức thừa nhận hôm nay thì chắc chắn cũng trong một tương lai gần! Cái tuyệt hay của thơ Bút Tre chính là ở chỗ này!
             -Chuyện rằng, lúc sinh thời Đ. V. Đăng không hề phản biện trực diện và công khai những lời chê bai chỉ trích gay gắt thơ ông. Ông đã gói gọn cái tinh thần tự tại, "bất chấp" ấy bằng hai "lời" thơ, mỗi "lời" chỉ gồm hai câu, gửi lại cho đời:

                                    1-Thế sự thăng trầm quân mạc vấn
                                        Cây đa bến cũ vẫn ngồi nguyên

                                     2-Mai sau kẻ đoái người hoài mặc
                                         Hạnh phúc hôm nay mát dạ người

               -Về già, Đ. V. Đăng có dặn dò gia quyến cách tiến hành tang chế cho mình khi lâm hữu sự, bằng bài thơ...rất thương lắm:

                                         Tôi dặn tiễn tôi tới suối vàng
                                         Thưa kèn giảm trống, chẳng đò ngang
                                         Dứt đường Tây Trúc kinh thôi tụng
                                         Buông sách Thọ Mai, lễ chẳng màng
                                         Xã hội, cơ quan ngừng phúng điếu
                                         Họ hàng thân thuộc chút khăn tang
                                         Hương thơm, đèn sáng, vòng hoa trắng
                                         Trầm mặc cử hành đám lễ tang

              - Quá trình hình thành và phát triển của dòng thơ Bút Tre tự nó phân ra tương đối thành mấy loại và có thể (tạm cho là) như sau: thơ đương thời Bút Tre (lúc Bút Tre còn sống) và thơ hậu Bút Tre. Trong thơ đương thời Bút Tre thì gồm thơ Bút Tre thật (do chính Đ. V. Đăng sáng tác) và thơ Bút Tre giả (do dân chúng
sáng tác). Thơ hậu Bút Tre cũng được phân thành hai gồm thơ hữu danh và thơ khuyết danh (chủ yếu).


                                                      PHẦN TRÍCH DẪN

              -Thơ Bút Tre thật:

                                        1-Hoan hô đại tướng Võ Nguyên
                                            Giáp ta thắng trận Điện Biên trở về

                                         2-Cuối cùng xin nhắc một câu
                                             Văn hóa cơ sở là đầu chúng ta

                                          3-Chú làm công tác giữ cầu
                                              Quản chi bom đạn trên đầu nó rơi
                                               Bút Tre chẳng như mọi người
                                              "Qua sông..." nhớ mãi nụ cười chú em

                      (CT: Đọc đến đây, ai không nhớ đoạn "... đấm buồi vào sóng",...chết liền!)

                                           4-Hoan hô trung tá Phạm Tuân
                                              Bay lên vũ trụ một tuần về ngay

                                           5-Chú về công tác bảo tàng
                                               Cũng là công việc cách màng (mạng) giao cho

                                           6-Giặc Mỹ leo thang đến Phú Tho (Thọ)
                                              Napan đốt cháy cả rừng co (cọ)
                                              Sẵn sàng chiến đấu chị em bắn...
                                              Rớt trước Ty mình chiếc dù đo (đỏ)

                                            7-Ơ kìa Bác đến kia rồi
                                                Quần nâu áo vải như người nông dân
                                                Vẫn đôi mắt sáng trong ngần
                                                 Phơ phơ mái tóc đỏ dần màu da...

                                             8-Hồn quê vang vọng thơ chờ đợi
                                                 Người hát tình ca chim lắng nghe

                    (CT: Người nghe chim hót là chuyện thường tình, chim nghe người hát mới... lạ!)

                                             9-Liên Xô thắng lợi ào ào
                                                Anh Ga- ga- rỉn (rin) bay vào vũ tru (trụ)!

                                           
                -Thơ Bút Tre giả:
                                             1-Hoan hô đồng chí Hà Đăng
                                                 Ấn cho tàu chạy băng băng như rùa

                 (CT: Hà Đăng Ấn khi đó làm Tổng cục trưởng Tổng cục Đường sắt)

                                              2-Hoan hô anh Nguyễn Chí Thanh
                                                  Anh về phân bắc, phân xanh đầy đồng

                                               3-Đứng trên bãi biển bồn chồn
                                                   Bao nhiêu cô gái ngứa chân chạy quanh

                     (CT: Ở đây, hỏi bất kỳ ông nào rằng: chân là cái gì(?), thì "chắc như bắp", đều nhận đưoc
                            câu  trả lời: chân là cái l...!)

                                                4-Chị em du kích tài thay
                                                    Bắn máy bay Mỹ rơi ngay cửa mình! (cửa nhà mình)

                                                5-Liên hoan toàn lạc (đậu phộng) với chuồi (chuối)
                                                    Ra về nhớ mãi cái buồi (buổi) hôm nay

                                                6-Con ruồi là giống hiểm nguy
                                                    Bàn chân của nó rất vi trùng nhiều

                                                 7-Sông Hồng đỏ quạch phù sa
                                                     Đỏ thì đỏ thật thua da Bác Hồ

                                                  8-Bỗng đâu tin sét đánh ngang
                                                      Bác Hồ đang sống chuyển sang từ trần

                                                 9-Thi đua ta quyết tiến lên
                                                     Tiến lên, ta quyết tiến lên hàng đầu
                                                     Hàng đầu rồi tiến đi đâu?
                                                     Đi đâu...không biết, hàng đầu cứ tiên (tiến)

                                                10-Ta đi bầu cử tự do
                                                      Chọn người xứng đáng mà cho vào hòm (phiếu)

                                                 11-Không đi không biết Tam Đao (Đảo)
                                                      Đi thì không biết nơi nào mà ngu (ngủ)
                                                      Một giường nhốt những hai cu (cụ)
                                                      Sướng khô (khổ) đành chịu đến chu (chủ) nhật về

                                                 12-Con đò dịch đít sang ngang
                                                       Bên kia có một cái làng thò ra

                                                  13-Trông xa một đống đen sì
                                                        Đến gần mới biết ấy thì là than

                                                  14-Hoan hô anh La Văn Cầu
                                                       Cánh tay bị đứt nhưng đầu còn nguyên

                 -Thơ hậu Bút Tre, hữu danh:

                                                   1-Hoan hô đồng chí Trần Hoàn
                                                       Mới lên Bộ trưởng chiếu toàn phim hay
                                                     "Tiếng chim trong bụi mận gai"
                                                       Lại thêm"Bạch tuộc" tuần hai tối liền

                                                                                           Phan Dương (Hà Nội)

                                                     2-Hỡi ai bị yếu sinh lỳ (lý)
                                                        Đừng lo! Đã có thuốc trì(trị) rất hay
                                                        Thầy này học tận bên Tây-
                                                        Nguyên về khoản ấy là tay cực giòi (giỏi)

                                                                                              Mạc Vi (Hà Nội)

                                                      3-Em là cô giáo dạy toan (toán)
                                                         Suốt ngày công thức với toàn số liêu (liệu)
                                                         Nhiều lúc như khóc như mêu (mếu)
                                                         Học sinh không hiểu vẫn kêu khó lằm (lắm)
                                                         Đã giảng đến năm bảy lần
                                                         Học sinh vẫn nói cô cần giảng lai (lại)

                                                                                                 Hoàng Xuân Khánh (Hà Nội)

                                                       4-Máy bay hạ cánh Tân-Sơn-
                                                          Nhất tôi sung sướng mừng rơn trong bùng (bụng)

                                                                                                   Nguyễn Quốc Văn (hải Phòng)

                                                       5-(Trong cuộc họp của lũ quan "làm khổ dân, mạt nước")
                                                          Quan "trưởng họ" khai mào:
                                                                +Kính thưa các vị đại biều (biểu)
                                                                  Kính thưa các vị quan liêu (liều) chúng tà (ta)
                                                                  Hôm nay sinh hoạt họ nhà...
                                                                  Quan mình nghị sự xong là đánh chen (chén)
                                                                   Phải họp đàng hoảng (hoàng) một phen
                                                                   Đắp xây vững bến (bền) cái nên (nền) quan liều(liêu)
                                                                   Tiện đây xin nhắc đôi điều
                                                                   Anh em ta nhớ thương yều (yêu) lẫn nhau
                                                                   Lần lần kẻ trước người sau
                                                                   Họ quan ta phải giúp nhau tiến lền (lên)
                                                                   Cắm sâu bắt rễ thật bền
                                                                   Cho phì gia mãi cái nền nhà liêu...
                                                                   Xin mời các quán (quan) phát biêu!
                                                            Một quan trẻ "nổ" luôn:
                                                                 +Mua quan tốn rất tiền nhiều
                                                                   Phải vơ vét hết bọt bèo chẳng chưa (chừa)
                                                                   Kế hay: nếu giữ vững cưa (cửa)...
                                                                   Quyền vừa giàu sụ lại vừa như liêm
                                                            Tiếp đến là tiếng "thào thào" của vị quan già bậc tiền bối:
                                                                  +Thành tích báo cáo phải in...
                                                                     Ấn đẹp trên mới chịu tin là đùng (đúng)
                                                                     Xuống cơ sở cố "ba cùng"
                                                                     Luồn sâu thị sát quần chùng (chúng) chỉ đao (đạo)
                                                           Nghe sướng, quan bà sồn sồn ngồi bên cạnh góp thêm:
                                                                +Tôi nay thì lại có kinh...
                                                                  Nghiệm là vờ giữ cho mình được nghiêm...
                                                                  Túc cho có cái vẻ liêm...
                                                                 Chính khi cấp dưới phong tiên (tiền) kính chào (trao)
                                                      Lúc đó có thằng trẻ trâu đi qua, tức cảnh sinh tình,quên, tức ý sinh...cáu:
                                                                +Còn giời, còn nước, còn non
                                                                 Còn lũ quan ấy tao còn chăn trâu
                                                                  Muốn cho nước mạnh dân giàu
                                                                  Ai ơi phải đánh dập đầu chúng no (nó)

                                                                                ("Biến tấu" từ bài của Phạm Vương-Hải Phòng)

                                                        6-Không đi không biết Quảng Ninh
                                                           Đi rồi mới thấy cửa (biển) mình mở ra
                                                           Hàng gần cho tới hàng xa
                                                           Muốn mà xuất được phải qua cửa (biển) mình
                                                           Hàng thô cho tới hàng tinh
                                                           Cứ qua cửa (biển) mình phải xuất cho nhanh

                                                                                                       Toàn Thi (Sài Sòn)

                    -Thơ hậu Bút Tre, vô danh:

                                                         1-Anh đi công tác Play (pờ-lây)-
                                                            Cu dài dằng dặc biết ngày nào vê (về)
                                                            Lại còn phải ghé Buôn-Mê-
                                                            Thuột xong mọi cái mới về với em

                                                          2-Bán háng (hàng) cô nay đã mấy tuồi (tuổi)
                                                             Nước cô còn nóng hay đã nguồi (nguội)
                                                             Thích nhỉ trên treo dăm chiếc ném (nem)
                                                             Dưới bày ngồn ngộn đủ khô tươi 
                                                             Lòng dối (dồi), tiết canh chờ người xới (xơi)
                                                             Thịt lờn (lợn) thịt gạ (gà) đợi chấm muồi (muối)
                                                             Vào ngồi móc bóp (ví) tiền không đủ
                                                             Khách quen cho chịu một vài buồi (buổi)

                                                          3-Anh ngồi ngắm cảnh đảo Côn-
                                                             Lôn rộng bát ngát, bồn chồn nhớ em

                                                          4-Chưa đi chưa biết Sài Gòn
                                                              Đi rồi sạch bách chẳng còn một xu
                                                              Về nhà mới biết mình ngu
                                                              Thằng lớn xài ít thằng cu xài nhiều

                                                          5-Rộng lớn như thể nước Nga
                                                             Người ta không cấm thò ra thụt vào
                                                             Nhỏ bé như thể nước Lào
                                                             Người ta không cấm thụt vào thò ra
                                                             Chỉ riêng ở Việt nam ta
                                                             Đâu đâu cũng cấm thò ra thụt vào

                                                           6-Bây giờ ra quốc lộ Hai
                                                              Thế nào cũng thấy được vài...ôtô

                                                           7-Làm thơ nên tránh vần "ồn"
                                                              Kẻo không lại đụng đến l... chị em

                                                           8-Chợ Đồng Xuân nức tiếng đồn
                                                               Có chị bán trứng vịt ...ồn (lộn) rất to

                                                           9-Chỉ vài ba miếng thịt lờn (lợn)
                                                              Nhai xong liếm đĩa bóng ...ồn (lộn) khỏi rưa (rửa)

                                                          10-Chị em phụ nữ đánh cầu-
                                                               Lông bay vùn vụt trên đầu anh em

                                                           11-Ở trong hang đá chui ra
                                                                Vươn vai một cái rồi ta chui vào

                                                           12-Hoan hô lực sĩ Lưu-Trùng-
                                                                Dương vật nổi tiếng khắp vùng Hải-Hưng
                                             
                                                           13-Miếng ngon đâu cứ đặc sàn (sản)
                                                                Nhiều khi măm chán (chan mắm) với bùn (bún) mà ngon

                                                           14-Hội trường yên ắng ngủ say
                                                                Thuyết trình vừa dứt vỗ tay ào ào

                                                            15- Một ông người Ốt – tra - lây (Australia)
                                                                  Một ông đích thị là Tây bán nhà (Tây Ban Nha)
                                                                  Một ông ở xứ buôn gà (Bungari)
                                                                  Cả ba ông ấy đều là con dê (con rể)
                                                                  Cùng nhau có một lời thề
                                                                  Làm con dê cụ không về bên Tây (con rể cụ)


                                                      PHẦN GIAI THOẠI

    1-Ngày ấy, cơ quan Ty Văn hóa sơ tán ở một quả đồi đất cằn, chỉ cây cọ mọc được. Để cải thiện đời sống cán bộ, nhân viên đang rất khó khăn, ông Đăng phát động trồng rau tăng gia sản xuất. Muốn thế phải cải tạo đất. Một trong những biện pháp là thu hồi nước tiểu để làm chất tưới. Thế là ông Đăng cho vác một vỏ quả bom bi mẹ về để ở ngay cạnh hội trường và đề mấy câu thơ lên tấm biển đặt ở đó:
                                                    Bà con đi đâu về đâu
                                                    Đến đây mà đái lên đầu Ních-xơn
                                                    Căm hờn lại giục căm hờn
                                                    Đến đây mà đái còn hơn đái nhà

      2-Là người luôn chăm lo đến đời sống văn hóa cho nên nhiều lần ông Đăng đã trực tiếp đề nghị lãnh đạo tỉnh cho mua một số nhạc cụ hiện đại nhằm phục vụ sự nghiệp lâu dài, trong đó có pi-a-nô. Song những cố gắng ấy không được đáp ứng, hơn nữa, một lãnh đạo còn nói:
        -Các anh chỉ vẽ chuyện! Đất Phú Thọ này thì chỉ có sắn. Cần tập trung vào sắn!
      Bẵng một thời gian, khi câu chuyện trên đã vào quên lãng thì bỗng một hôm có ông thư ký UBND tỉnh sang gặp ông Đăng (trưởng Ty Văn hóa) truyền đạt yêu cầu của tỉnh là cần có một chiếc pi-a-nô để đại tướng Võ Nguyên Giáp giải trí buổi tối ở nhà khách tỉnh, nhân chuyến đại tướng đang công tác tại Phú Thọ. Nghe xong, ông Đăng cười bảo:
         -Văn hóa chỉ có sắn thôi, làm gì có pi-a-nô!
       Tưởng ông Đăng đùa, ông thư ký nhấn mạnh:
         -Đây là yêu cầu của Tỉnh ủy, không phải chuyện đùa đâu!
      Ông Đăng cũng tỏ ra dứt khoát:
         -Vâng, tôi cũng nói nghiêm túc đấy. Anh cứ về nói với lãnh đạo tỉnh rằng: "Ông Đăng bảo là Văn hóa chỉ có sắn thôi!"

       3-Có lần, một nhà thơ nổi tiếng đương thời lại đang giữ chức vụ cao lên Phú Thọ công tác. Xong việc, ông này cho mời ông Đăng sang đọc thơ. Ông Đăng đọc liền hàng chục bài. Nhà thơ nổi tiếng nghe xong rồi bảo:
          -Tôi sẽ nhờ anh Xuân Diệu sửa giùm những bài thơ của anh.
       Ông Đăng điềm nhiên trả lời:
          -Thưa anh, anh Xuân Diệu làm "thơ bác học", tôi làm "vè dân gian". Anh Xuân Diệu là "bút máy", tôi là "Bút Tre", anh ấy chữa thế nào được thơ tôi!

        4-Ngày Bút Tre còn sống, có một anh mới vào nghề làm thơ đã cố bắt chước kiểu thơ "trí tuệ", dùng những lời rất "đại ngôn" và khó hiểu, tìm đến đọc thơ mình cho ông nghe với vẻ hãnh diện. Nghe xong Bút Tre nói:
           -Thơ cậu thật là "nghiêm"
       Anh bạn trẻ tưởng được khen, phấn khởi quá định đọc tiếp vài bài nữa, nhưng Bút Tre xua tay cười hơ hớ:
           -Cậu đọc cho tôi nghe thơ "nghỉ" của cậu xem nào!


                                                                                Đại Chúng (sưu tầm, biên soạn và thêm thắt)
      
        

                                                               
                                                             
                                                                    

                                                
                                                
                                               
Xem tiếp...

Thứ Năm, 21 tháng 3, 2013

Tu lieu, dien bien tran tau xam luoc 1979

34 năm chiến thắng biên giới phía Bắc 18/3/1979 - 18/3/2013

3
Lượt Xem:
285
Trong bài 17/2 không phải là ngày kỷ niệm chiến thắng biên giới 1979, tác giả Thiếu Long đã chứng minh với chúng ta rằng ngày 18/03 mới đúng là ngày kỷ niệm chiến thắng cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc, chống lại sự xâm lược của "tập đoàn phản động Bắc Kinh". Ấy vậy mà đám "rận sỹ chấy thức" và bè lũ đã bày đủ trò để kỷ niệm cái ngày quân giặc đánh nước mình, một hành động trái ngoe và ngược đời so với đại đa số truyền thống, văn hóa, lễ nghi, thông lệ của các dân tộc, quốc gia trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Đôi mắt biết tỏng rằng họ cố tình làm cái chuyện ngược đời ấy chẳng phải vì điều lễ nghĩa như họ rêu rao mà âm mưu chính là khơi gợi những nỗi đau chiến tranh, những tội ác của giặc Tàu, từ đó kích động hận thù dân tộc giữa 2 quốc gia, xuyên tạc chống phá nhà nước. Bằng chứng là đến ngày quân dân Việt Nam chiến thắng kẻ thù, đuổi giặc về nước thì họ tuyệt nhiên câm nín như một lũ hến rúc trong bùn vậy! Ca ngợi một chiến công hiển hách của Đảng CSVN có khác nào họ lại tự vả vào mồm mình, vừa đau lại vừa đói (vì những lời khen như vậy chắc chắn chẳng rút được mấy tờ bạc xanh từ cái ngân sách "dân chủ" của quan thầy.)! Thôi thì không có các "mợ" rận sỹ - chấy thức ấy thì chúng ta vẫn cứ "họp chợ" để cùng Thiếu Long ôn lại chiến công vĩ đại của dân tộc mình 34 năm về trước trong bài viết 34 năm chiến thắng biên giới phía Bắc 18/3/1979 - 18/3/2013 dưới đây.

☼☼☼
Vào ngày này 34 năm trước, quân đội Trung Quốc buộc phải chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược và rời khỏi Việt Nam, để lại gần 3 vạn xác đồng đội và 420 xác xe tăng, xe bọc thép các loại.
Sự thương vong và thiệt hại của Trung Quốc đã không giúp cho ý đồ chiến lược nào của họ đạt được: Họ không thể tiến về Hà Nội, xâm chiếm miền Bắc Việt Nam, chia cắt lâu dài Việt Nam, thực hiện kế hoạch bành trướng lâu dài của chủ nghĩa bá quyền đại dân tộc.

Họ không thể lấy miền Bắc nước ta làm bàn đạp để lũng đoạn, thao túng, khống chế và thôn tính khu vực Đông Dương và Đông Nam Á, hay trục lợi, cướp đoạt tài nguyên trong khu vực địa chính trị - địa kinh tế quan trọng này, nối tiếp "truyền thống" chủ nghĩa Đại Hán của phong kiến Trung Hoa.

Họ không thể sử dụng con bài Hoàng Văn Hoan như các vương triều phong kiến của họ đã từng sử dụng các con bài Trần Ích Tắc, Trần Thiêm Bình, Lê Chiêu Thống ngày xưa, không thể tiến vào Hà Nội để đưa Hoan lên làm "thủ lĩnh anh minh", thiết lập ngụy quyền, bắt lính, xây dựng ngụy quân. Thành lập "quốc gia", sau đó thỏa thuận cho các đồng minh, đàn em công nhận và thiết lập ngoại giao với "quốc gia" đó.

Trong cuộc chiến, Hoàng Văn Hoan khéo giấu diếm sự thông đồng của mình với Trung Quốc mà chỉ thể hiện ra là một phần tử Maoist cực đoan. Sau cuộc chiến, an ninh nội bộ của Việt Nam lập tức đôn đốc thúc đẩy việc điều tra các nghi vấn về gián điệp Bắc Kinh ở nước ta.

Ba tháng sau cuộc chiến, tháng 6 năm đó, an ninh Việt Nam tìm được một số bằng chứng về sự thông đồng, đi đêm giữa Hoàng Văn Hoan và đồng đảng với bọn bành trướng Bắc Kinh. Trung Quốc và Hoàng Văn Hoan "đánh hơi" được, thế là Hoan dùng kế "ve sầu thoát xác", giả vờ đi Đông Đức khám bệnh. Với sự trợ giúp của tình báo Trung Quốc, Hoàng Văn Hoan thoát khỏi an ninh Việt Nam ở sân bay Karachi (Pakistan) rồi được bọn bá quyền Bắc Kinh dàn xếp, an bài đưa về Trung Quốc.

Sau khi bỏ trốn, Hoan bị Việt Nam kết tội phản quốc và tuyên án tử hình vắng mặt và trở thành biểu tượng của sự bán nước. Báo chí Việt Nam thời đó gọi Hoan là "Lê Chiêu Thống tân thời". Bên Trung Quốc, Hoan vu cáo Việt Nam là "đối xử với người Việt gốc Hoa còn tệ hơn cả cách Hitler đối xử với người Do Thái".

Năm 1988, theo ý của Trung Quốc, Hoan viết tự truyện "Giọt nước trong biển cả: Hồi ức cách mạng của Hoàng Văn Hoan" nhằm tuyên truyền cho các quan điểm chính thức của Trung Quốc, công kích Việt Nam (chiếm hầu hết nội dung), và đồng thời thanh minh tội phản bội Tổ quốc và còn đề cao bản thân. Hoan nói ngược rằng ông ta mới là người "vì dân vì nước". Hoan viết quyển sách đó bằng tiếng Trung, sau khi được Trung Quốc duyệt, thông qua, và nhà xuất bản Bắc Kinh xuất bản, Hoan dịch lại tiếng Việt và tự xuất bản bản tiếng Việt dưới tên "Giọt nước trong biển cả".

Năm 1991, Hoan chết, Trung Quốc tổ chức lễ tang cấp nhà nước, thi hài được chôn tại nghĩa trang Bát Bảo Sơn, nơi chôn cất các quan chức cao cấp Trung Quốc. Như vậy, có thể nói Trung Quốc đã coi Hoàng Văn Hoan là một loại "thần tử", "bề tôi", "An Nam quốc vương" của họ.

Thất bại trong ý định sử dụng quân bài Hoàng Văn Hoan như một giải pháp chính trị, Trung Quốc cũng thất bại trong ý đồ xâm chiếm Lạng Sơn, Cao Bằng, Lào Cai để làm làm bàn đạp, làm tiền đề xâm lược lâu dài.

Họ càng thất bại trong việc ý đồ làm tiêu hao lực lượng chủ lực và làm suy yếu khả năng phòng ngự của Việt Nam, xóa sổ các đồn biên phòng và phần lớn lực lượng vũ trang địa phương của Việt Nam. Họ không tiêu diệt được sư đoàn hay lực lượng lớn nào của Việt Nam.

Họ cũng thất bại thảm hại trong ý đồ gây sức ép, áp lực buộc Việt Nam phải bỏ dở nghĩa vụ quốc tế lật đổ chế độ diệt chủng và tái thiết nước bạn ở Campuchia. Họ không ép được Việt Nam thay đổi bất kỳ chính sách đối ngoại, đối nội nào với Trung Quốc, các nước, và các tầng lớp người Hoa.

Sự phá hoại, cướp bóc, hủy diệt của họ không đẩy được nền kinh tế và chế độ chính trị Việt Nam tới chỗ rạn nứt và sụp đổ. "Bè lũ Lê Duẩn" vẫn còn đó thì họ càng không có cơ hội nào đưa Hoàng Văn Hoan về nước làm "thủ lĩnh anh minh".

Tóm lược diễn biến chiến sự:

Ngày 16 tháng 2 năm 1979, các tổ thám báo Trung Quốc đã mang theo bộc phá luồn sâu vào nội địa Việt Nam móc nối với "đội quân thứ 5" lập thành các toán vũ trang phục sẵn các ngã ba đường, bờ suối, các cây cầu, với mưu đồ ngăn chặn quân tiếp viện của ta từ phía sau lên. Trước giờ khai chiến, các lực lượng đặc biệt nằm vùng của địch cũng bí mật cắt được phần lớn đường dây điện thoại để cô lập chỉ huy sư đoàn với các chốt, trận địa pháo. Cho thấy cuộc xâm lược này đã được kẻ địch tính toán rất chu đáo và tỉ mỉ.

Ngày 17 tháng 2, Trung Quốc mở đầu giai đoạn 1 của cuộc chiến tranh xâm lược miền Bắc nước ta với hơn 12 vạn quân. Mở đầu là lực lượng pháo binh, tiếp theo là xe tăng, xe bọc thép và bộ binh. Quân địch chia làm nhiều hướng tấn công 26 địa điểm của ta, đặc biệt là Lạng Sơn, Cao Bằng, Lào Cai, Móng Cái, Mường Khương. Tất cả các hướng tấn công đều có hàng hàng lớp lớp xe tăng, pháo binh hỗ trợ. Quân đội viễn chinh do Thượng tướng Hứa Thế Hữu tổng chỉ huy và Thượng tướng Dương Đắc Chí phụ tá. Đây là hai tướng tài của quân đội Trung Quốc trong thời điểm đó.

Hứa Thế Hữu xuất thân chùa Thiếu Lâm (8 năm là đệ tử tục gia Thiếu Lâm Tự), là người văn võ song toàn. Đầu tiên, ông ta tiến thân trên con đường binh nghiệp với quân phiệt Ngô Bội Phu. Khi cuộc Quốc - Cộng nội chiến (tiếng Anh: Chinese Civil War) giữa hai lãnh tụ Mao Trạch Đông và Tưởng Giới Thạch nổ ra, các quan hệ đối kháng lợi ích và hệ quả chiến cuộc dần đưa tới tình trạng Mao nắm được lực lượng nông dân, công nhân, và đại đa số người dân lao động Trung Quốc, Tưởng nắm được hoặc liên minh với giai cấp tư sản tài phiệt, các băng đảng xã hội đen lớn (đặc biệt ở Thượng Hải), các chủ chứa, chủ sòng bài, phần đông quân phiệt, và các chủ ngân hàng (ở đây còn là sự hợp tác chặt chẽ giữa gia tộc Tưởng và gia tộc Khổng, trùm tài phiệt ngân hàng Khổng Tường Hy anh em cột chèo của Tưởng Giới Thạch).

Khi quân Nhật xâm lược Trung Quốc giữa cuộc nội chiến Quốc - Cộng thì cuộc chiến ở Trung Quốc đã phát triển thành một cuộc chiến tranh tam giác giữa Mao - Tưởng - Nhật. Tưởng Giới Thạch lúc đó trên cương vị là lãnh tụ của Quốc dân đảng, phe mạnh nhất và đang có tư cách lãnh đạo chống Nhật, kêu gọi tất cả các quân phiệt còn lại theo về dưới trướng. Thế là lực lượng Ngô Bội Phu được sát nhập vào quân Tưởng và dĩ nhiên Hứa Thế Hữu cũng theo về với Quốc dân đảng. Tuy nhiên sau đó không lâu, bất mãn với thái độ mãi lo đánh người nhà mà lừng khừng trong việc chống Nhật của Tưởng, ông ta được Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai mời mọc và theo về.

Là một người từng phục vụ trong 3 phe, 3 quân đội Trung Quốc khác nhau nên có thể nói Hứa Thế Hữu là một viên tướng dày dặn kinh nghiệm sa trường. Nhưng kinh nghiệm của ông ta vẫn chưa bằng Dương Đắc Chí, một viên tướng từng chiến đấu sát cánh danh tướng Bành Đức Hoài trong nội chiến Trung Quốc và chiến tranh Triều Tiên.

Về thực tài quân sự, Hứa Thế Hữu không bằng Dương Đắc Chí. Nhưng về quan hệ thân tín với Đặng Tiểu Bình thì Hứa Thế Hữu bỏ xa Dương Đắc Chí. Hứa Thế Hữu chính là một trong những tay chân thân tín nhất của Đặng và đã ngày đêm bảo vệ Đặng trong Cách mạng văn hóa.

Thời đó nội tình chính trị Trung Quốc vẫn còn đang chưa ổn, do tin tưởng Hứa Thế Hữu hơn nên Đặng giao cho ông ta làm tổng chỉ huy thay vì Dương Đắc Chí. Một phần do quyết định sai lầm này mà quân Trung Quốc sau đó đã phải trả giá đắt. Nói chung, việc Trung Quốc chọn hai tướng chỉ huy này cho thấy rõ là chúng quyết thắng và đặt cược rất nặng vào cuộc chiến tranh xâm lược này.

Nhân cơ hội quân chủ lực Việt Nam đang tham chiến ở Campuchia và đóng quân ở miền Nam Việt Nam để yểm trợ cho mặt trận Campuchia, Trung Quốc muốn "tốc chiến tốc quyết" xâm chiếm, bình định các tỉnh và tiến vào Hà Nội trước khi quân chủ lực Việt Nam về Bắc. Địch hung hăng xua quân tấn công nhanh, chúng muốn đánh mau đánh mạnh, tốc chiến tốc thắng, giải quyết chiến trường sớm và tiến về "ăn phở tại Hà Nội".

Quân địch tiến rất thần tốc theo đúng kế hoạch, đúng lộ trình trong thời gian đầu, nhưng ngay sau đó chúng nhanh chóng bị hụt hẫng và phải chững lại, phải giảm tốc độ do gặp nhiều trở ngại với yếu tố địa lợi và nhân hòa của ta. Hệ thống phòng thủ của ta ở biên giới rất mạnh, với các hầm hào, hang động tại các điểm cao dọc biên giới do lực lượng quân sự có trang bị và huấn luyện tốt trấn giữ. Kết quả là địch phải chịu thương vong lớn. Chiến sự ác liệt nhất diễn ra tại khu vực Bát Xát, Mường Khương, Đồng Đăng, Nam Quan, Thông Nông, Lào Cai và quanh sông Hồng.

Quân ta dùng chiến thuật phòng ngự mềm dẻo, đánh tiêu hao, từng bước làm hao mòn sinh lực địch, vận dụng chiến tranh nhân dân và chiến tranh du kích, tận dụng địa thế hiểm yếu, ưu thế địa lợi, nhân hòa, phong thổ khắc nghiệt với giặc, và tổ chức phục kích, đánh lén, đánh úp, khai thác yếu tố bất ngờ. Có nơi vừa đánh vừa lui để dụ địch vào hiểm địa. Có nơi giữ được chút nào hay chút nấy, cố gắng làm tiêu hao sinh lực của giặc.

Các lực lượng vũ trang, nửa vũ trang của ta ở biên giới phía Bắc muốn câu giờ để chờ các đơn vị chủ lực từ phía Nam quay về trợ chiến, cùng nhau tổng phản công. Cho nên, càng giằng co dai dẳng với giặc lâu chừng nào tốt chừng đó. Diễn biến chiến cuộc càng chậm chừng nào càng tốt chừng đó. Dĩ nhiên điều này trái ngược với ý đồ chiến lược của địch và làm phá sản kế hoạch của chúng.

Ngày 19 tháng 2, chiến sự lan rộng hơn. Quân ta chống trả rất dũng cảm và với tinh thần quyết chiến cao. Kẻ thù hầu như không thể sử dụng lực lượng ở mức sư đoàn mà phải dùng đội hình nhỏ và thay đổi chiến thuật liên miên, tiền hậu bất nhất. Họ tiến chậm chạp, giành giật từng đường hầm, từng điểm cao, và tiến vào Mường Khương, Trùng Khánh, và Đồng Đăng.

Tại Móng Cái, ta và địch giành giật dai dẳng. Gần 5000 tên xâm lược đã bỏ xác trong những ngày đầu này. Trong những ngày này, quân Tàu đã tấn công vào được 11 làng chiến đấu và thị trấn sau khi bị chống cự quyết liệt. Nhưng địch cũng không thể sử dụng được nhiều tài nguyên trong những vùng tạm chiếm. Chúng không thể "lấy chiến tranh nuôi chiến tranh" vì gặp khó khăn trước kế "vườn không nhà trống" của người Việt.

Ngày 22 tháng 2, trong trận đánh Đồng Đăng, quân địch dùng vũ khí hóa học độc hại của phát xít Nhật mà chúng cướp được trước đây, bắn vào các lỗ thông hơi làm thiệt mạng cả những thương bệnh binh cũng như dân lành vô tội. Đây là tội ác chiến tranh.

Trước tình hình chiến sự lan rộng tới Hà Tuyên, Quảng Ninh và cả các khu đô thị ven biển ở Móng Cái, ta thành lập phòng tuyến Yên Bái - Quảng Yên, là một tuyến phòng thủ cánh cung bao gồm khoảng 3 vạn quân. Nhiệm vụ của phòng tuyến này là bảo vệ hai thành phố lớn: Hải Phòng và đặc biệt là thủ đô Hà Nội.

Ngày 25 tháng 2, tại Mai Sao, Quân đoàn 14 thuộc Quân khu 1, Quân đội Nhân dân Việt Nam cùng Bộ chỉ huy thống nhất Lạng Sơn được thành lập, lực lượng bao gồm các sư đoàn 3, 327, 338, 337 (đang từ quân khu 4 ra) và sau này có thêm sư đoàn 347 cùng các đơn vị trực thuộc khác.

Ngày 27 tháng 2, do nhiều thất bại quân sự, bị hao binh tổn tướng, và chịu tổn thương nặng nề trước Quân đội Nhân dân Việt Nam, Đặng Tiểu Bình đã "thay tướng giữa trận", đành phải đưa Dương Đắc Chí lên thay Hứa Thế Hữu, thân tín của ông ta.

Đây là giai đoạn bộc lộ rõ tham vọng xâm lược của Trung Quốc. Đặng tiếp tục điều quân từ Trung Quốc sang Việt Nam để tăng viện và trợ chiến. Điều này đã cho thấy những lời tuyên bố "cuộc chiến giới hạn", "có thể sẽ rút quân" chỉ là những thủ đoạn để gây rối thông tin và lừa dối dư luận. Một mặt Trung Quốc tuyên bố đây là cuộc chiến "giới hạn", mặt khác chúng điều thêm quân. Chúng vừa tuyên bố "có thể sẽ rút quân" vừa tăng cường thêm quân mới. Thay vì rút quân về sau giai đoạn 1, thì Đặng Tiểu Bình tiếp tục giai đoạn 2 và bổ sung, tăng cường thêm đông đảo viện binh từ chính quốc.

Tại Cao Lộc, sư đoàn 129 Trung Quốc đánh mãi không phá nổi trận địa phòng thủ của trung đoàn 141 QĐNDVN. Tại đường 1B, sư đoàn 161 Trung Quốc đang tiến quân thì bị trung đoàn 12 QĐNDVN xáp vào "bám thắt lưng địch mà đánh". Tại đường 1A, một mình trung đoàn 2 QĐNDVN vừa chặn đánh sư đoàn 160 Trung Quốc từ phía Bắc vừa chống lại cánh quân của sư đoàn 161 Trung Quốc từ hướng Tây Bắc, một mình đánh trả hai cánh quân của giặc chia quân đánh ập vào hai bên hông, bên sườn của mình.

Trong những ngày còn lại của tháng 2 năm 1979, quân Trung Quốc mở rộng tấn công nhưng tiến rất chậm và bị tổn thất nặng nề. Quân Việt Nam mở cuộc phản công tự vệ vào huyện Ninh Minh (tỉnh Quảng Tây), huyện Ma Lật Pha (tỉnh Vân Nam), huyện Hà Khẩu (tỉnh Vân Nam), huyện Đông Hưng (tỉnh Quảng Tây), thị xã Bằng Tường (tỉnh Quảng Tây) của Trung Quốc để phá bớt các kho hậu cần, chứa lương thực, quân nhu, nhiên liệu, vũ khí đạn dược của địch tại đây, phá bớt đi những công cụ mà giặc xâm lược dùng để tấn công Việt Nam.

Tại điểm cao 800, một tiểu đoàn quân đội Trung Quốc bí mật luồn qua phía sau bất ngờ đánh úp và chiếm được nơi đặt đài quan sát pháo binh của sư đoàn 3 Sao Vàng QĐNDVN. Tuy tạm chiếm được điểm cao 800, nhưng trong suốt các ngày từ ngày 28 tháng 2 đến ngày 2 tháng 3, quân xâm lược vẫn không sao vượt qua nổi đoạn đường 4 km để vào được thị xã Lạng Sơn, dù đã dùng cho hướng tiến công này tới 5 sư đoàn đánh ập vào (đúng như lời Đặng Tiểu Bình nói: 5 đánh 1).

Từ ngày 2 tháng 3, các sư đoàn 3, 337 của Quân đội Nhân dân Việt Nam đã tổ chức phòng thủ chắc chắn và giáng trả thật mạnh vào các đợt tấn công lớn của quân xâm lược. Sư đoàn 337 QĐNDVN trụ tại khu vực cầu Khánh Khê.

Ngày 5 tháng 3, các sư đoàn chính quy của Quân đội Nhân dân Việt Nam với xe tăng, đại pháo, máy bay chiến đấu đã rầm rộ kéo gần đến mặt trận, chuẩn bị "chia lửa" với lực lượng biên giới và phản công tổng lực giải phóng các khu vực bị chiếm đóng. Quân đoàn 14 QĐNDVN với các sư đoàn 337, 327, 338 hầu như còn nguyên vẹn đang bố trí quân quanh thị xã Lạng Sơn. Quân đoàn 2, chủ lực của Quân đội Nhân dân Việt Nam, đã tập kết sau lưng Quân đoàn 14 QĐNDVN.

Trung Quốc thấy các lực lượng chủ lực của Việt Nam sắp đến nơi và các lực lượng chính quy khác từ phía Nam cũng đang kéo quân ra trận. Trong khi bản thân quân đội Trung Quốc đang bị thương vong và thiệt hại nặng nề, sĩ khí xuống thấp, quân lực suy yếu.

Chỉ với lực lượng vũ trang, bán vũ trang ở địa phương trong đó phần đông là du kích và tân binh mà chúng còn không vượt qua nổi và bị tổn thất nặng nề phơi xác đầy đồng thì nếu chúng ở lại chờ quân ta đến đánh thì kết quả thế nào e rằng một đứa trẻ cũng đoán ra. Đặng Tiểu Bình là "cáo già" không phải một đứa trẻ, thế là quân Trung Quốc bắt đầu rục rịch lui quân.

Việt Nam ra lệnh tổng động viên toàn quốc chống Trung Quốc xâm lược. Đại tướng Võ Nguyên Giáp chấp bút viết bài "Nhân dân Việt Nam nhất định thắng lợi, giặc Trung Quốc xâm lược nhất định thất bại" kêu gọi toàn Đảng, toàn quân, toàn dân đứng lên chống xâm lược. Chiến sự tiếp diễn ở một số nơi. Một phần do sự tự vệ trước các hành động phá hoại, cướp bóc của quân địch. Một phần do sự truy kích của quân ta. Phục binh của sư đoàn 338 QĐNDVN và quân tập kích của sư đoàn 337 QĐNDVN tổ chức phục kích đánh quân Trung Quốc đang rút lui qua ngả Chi Mã và đã gây tổn thương nặng nề cho giặc.

Ngày 16 tháng 3, biên giới phía Bắc mới lặng yên tiếng súng. Những thương bệnh binh đầu tiên thuộc các cánh quân đầu tiên của Trung Quốc được khiêng trở về nước. Những quân lính không được khiêng thì phải chống nạng. Các sĩ quan bị thương thì ngồi xe lăn. Họ bắt đầu "lết" qua biên giới về nước. Một số tài liệu và học giả phương Tây cho rằng đây là ngày chính thức kết thúc cuộc chiến.

Ngày 18 tháng 3 năm 1979, những tên lính Trung Quốc cuối cùng ôm vết thương thể xác và tinh thần rời khỏi Việt Nam, bỏ lại gần 3 vạn xác đồng đội. Quân đội Việt Nam đã gây tổn thương nặng cho giặc và đánh lui chúng ra khỏi bờ cõi, bảo vệ thành công miền Bắc và biên giới phía Bắc, viết thêm một trang sử oai hùng trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam. Phần lớn sử liệu chính thống, tài liệu giáo khoa Việt Nam xem đây là ngày chính thức kết thúc cuộc chiến.
Xem tiếp...

Thứ Hai, 18 tháng 3, 2013

HÌNH ẢNH 1


                                                                                         Từ: Joel Cecchi

                                                                     NHẬN XÉT
                                                   Chúng mình chung cội chung cành
                                                   Thương cha nhớ mẹ sinh thành bông hoa
                                                   Dưới trời xanh, gió chan hòa
                                                   Cùng nhau múa hát ngợi ca cuộc đời

                                                                                              Trần Hạnh Thu
Xem tiếp...

Thứ Bảy, 16 tháng 3, 2013

Tư liệu về tâm linh 4

Chưa thể lý giải về “thần xà” thì không nên bác bỏ

“Con rắn cũng như tất cả con vật khác đều có linh hồn như con người. Do vậy, câu chuyện rắn thần nhập vào người ở Vạn Phúc là hoàn toàn có cơ sở để tin”, Thiếu tướng, TS Nguyễn Chu Phác.

Xem thêm tại đây 

Xem tiếp...

BẠN, TÔI VÀ NGƯƠI

Bạn là ai?
Bạn là tôi!
Tôi là ai?
Tôi là bạn!
Nếu bạn là khốn nạn?
Thì tôi là tôi!
Nếu tôi là thằng tồi?
Thì tôi không là bạn!

Không tồi, không khốn nạn
Chúng mình là bạn, tôi
Thế thôi?
Không! Còn ngươi?
Nếu cười ngon,
Thì ngươi là tôi là bạn,
Thì tôi và bạn và ngươi
Thành chúng ta:
Những con người
Vui tươi,
Yêu đời,
Mãn nguyện!...


                    Trần Hạnh Thu
Xem tiếp...

Thứ Ba, 12 tháng 3, 2013

LẨU "LỪA"


                            Khôn ăn cái, dại ăn nước
                                                 
                                                       Thành ngữ


Mua cái lẩu dê ngót trăm ngàn
Tiếc gì có dịp đãi bạn vàng
Hương lên nghi ngút, thơm đáo để
Cuộc rượu đêm nay chắc nồng nàn!

Xì xụp mời nhau nếm "mùi" trần
Khoắng hoài chỉ thấy mấy hòn gân
Tóp mỡ lều bều đôi ba miếng
Quan tham đâu cả, nước toàn dân?

Bạn lỡm: món này lạ mà ngon
Xương tan, thịt nát, chỉ gân còn
Chua cay đủ độ xoay vần rượu
Húp dại, răng già đỡ nhai khôn!...

 Ngượng nghịu rằng đây lẩu thiếu "dương"
Vượng khí, hóa thần, chẳng sợ cương!...
Mua bán thời nay hơi khốn nạn
May đời, bạn chỉ khoái "nước non"!

Cười qua cợt lại, đèn kéo quân
Khề khà khen nàng rượu hiền ngoan
Chê cô bán lẩu xinh mà ác
Làm cuộc nhậu vui đượm vị buồn!


                                              Trần Hạnh Thu
Xem tiếp...

BẠN VONG NIÊN

Highslide JS

Thương bà Long Nhãn già
Đã vặn lưng thụ cổ
Vẫn quanh năm nở hoa
Mùa nối mùa trĩu quả...

Bà kết tình từ gió
Và kết nghĩa từ sương
Nên dưới trời sương gió
Mãi xum xuê phi thường?

Hằng đêm sâu tịnh lặng
Bà ru hồn tôi say
Trong mê tỉnh thoáng đàn dơi bay liệng
Ngỡ én về múa vũ điệu xuân lai...

Chịu ơn bà Long Nhãn
Dung dưỡng một đời này!


                            Trần Hạnh Thu
 
Xem tiếp...

Thứ Bảy, 9 tháng 3, 2013

TRỜI, ĐẤT VÀ TÔI

Có Trời-Đất mới có Tôi
Có Tôi, Trời-Đất lần hồi hiện ra
Trời cao Đất thấp bao la
Cho Tôi ở giữa để mà buồn-vui
Đất gần, Trời tít xa vời
Nên đời Tôi ngắn, đến rồi lại đi
Tan thành cát bụi vô tri
Lủi thà lủi thủi vô vi vô thường
Bơ vơ lạc bến Nhớ Thương
Theo dòng Nương Náu về phương Xứ Người
Để rồi lại hóa một đời
Giữa lòng Trời-Đất có Tôi vui-buồn...

Bao giờ mới hết Vấn Vương?!...


                                          Trần Hạnh Thu
Xem tiếp...

Thứ Sáu, 8 tháng 3, 2013

TÌNH YÊU CHÚNG MÌNH

                             (Tặng M)
Có lẽ là số phận
Nên chúng mình gặp nhau
Thành vợ chồng khi chưa có tình yêu
Mà tình yêu lại bắt đầu từ đó
Từ những lo toan, lỡ lầm, trăn trở
Chập chững tìm nhau hiểu nửa thân mình

Nếu những dòng sông là những mối tình
Hỏi mối tình nào không ghềnh, không thác
Bao nhiêu mối tình đổi dòng, khánh kiệt
Được mấy mối tình rực rỡ kỳ quan?

Anh bất tài nên đổ vỡ công danh
Trắng hai bàn tay, một đời thảm bại
Em vẫn theo anh, thủy chung, nhẫn nại
Lặng lẽ nuôi con, vun vén áo cơm

Nếu những mối tình là những dòng sông
Thì mối tình mình bắt nguồn từ khốn khổ
Không đủ ồn ào, chỉ là dòng sông nhỏ
Mà dưới trời xanh, lấp lánh đến kỳ cùng

Có lẽ cùng chung thân phận
Nên chúng mình là nhau
Cuộc hợp hôn không cần đợi tình yêu
Mà tình yêu lại nảy sinh từ đó
Thành cổ thụ qua muôn vàn trắc trở
Rộ lá xanh tươi che chở bầy con
Được học hành, đủ áo đủ cơm
Hồn nhiên lớn lên trong nghĩa tình cha mẹ
Hạnh phúc tràn trề, lanh lảnh cười vui vẻ
Như đêm trăng quê, thôn xóm rước hội về …

Tình yêu chúng mình gom từ nắng từ mưa
Dầu dãi tháng năm, nhọc nhằn cô chắt lại
Từ cuộc ra khơi, hồn em thành gió đẩy
Góp sức bên anh, ngang dọc tìm luồng

Từ những đêm đen, em làm ngọn hải đăng
Rực hồn vọng phu dưới chớp lòa cuồng nộ
Cho thuyền anh trong sóng gào, bão tố
Lạc giữa đại dương, dờ dật, quyết vươn về!...


                                               Trần Hạnh Thu.


Xem tiếp...

Thứ Ba, 5 tháng 3, 2013

HAI LẦN LY DỊ

 Anh cầm thư tòa triệu tập trên tay
Lòng nặng trĩu biết tới ngày ly dị
Em đã ký và anh cũng ký
Bản án tử hình cho song hỷ nát tan

Anh sững sờ trước ca thán, than van
Moi móc đủ điều, khăng khăng đòi ly biệt
Anh nín lặng nhận những lời đay nghiến
Như tội đồ cam chịu trước phán tòa

Có thể anh khờ, sống vụng, xuề xòa
Nhưng anh yêu em, đó là sự thật
Có thể rằng anh nhiều khi nổi giận
Lỡ thốt đôi lời làm em đắng cay

Hòa giải không thành, đành đoạn chia tay
Anh gục đầu, nát lòng trai thương vợ
Suýt gầm lên khi tòa giơ búa gõ
Chợt hiểu em là đã nhớ người ta

Em quay lưng, theo mối tình xa hoa
Kiệu vàng, ngựa ô, chuông ru, dinh mộng
Trút bỏ đời thường, lo toan, ước vọng
Hãnh diện bên chồng áo mão, cân đai

Chẳng hành trang, bỏ dang dở đời trai
Anh tìm đến chốn cao vời, sâu thẳm
Gõ mõ suy tư, tụng kinh nghiền ngẫm
Về những vui buồn sướng khổ nhân gian

Anh thiền tu chẳng mong đến Niết Bàn
Chỉ cố đắc, đạt đến duyên kỳ ngộ
Siêu thoát tâm linh, quay về che chở
Bởi lòng anh còn nặng nợ yêu em

Phù hộ cho em mãi vui sống êm đềm
Quên vĩnh viễn một gia đình ly dị
Để em được là vợ hiền chung thủy
Thỏa nguyện bên chồng xứng đáng đấng phu quân

Một mai kia trong viên mãn số phần
Vợ chồng ngao du, vãng lai thăm thú
Em sẽ thấy ở thâm sơn cùng cốc
Giữa vắng tờ một tọa đá rêu phong

Em khanh khách cười và nói ghẹo chồng:
-Giống anh lắm, nó giống anh lắm đấy
Cũng tóc cũng râu cũng mỉm cười đưa đẩy
Chỉ tội lùi xùi, không rạng rỡ như anh!

Chồng em vui: -Hình như nó thất tình
Ghen với anh vì có em tuyệt mỹ
Thèm làm người nên đá buồn em nhỉ?
Thôi, chúng mình thắp cho nó nén nhang!

Em có biết đâu, anh đã bỏ đường trần
Ngồi hài lòng nhìn đôi tình hạnh phúc
Anh đã đạt được điều anh mong ước
Khiến em về đây, miền viễn xứ, chào anh

Em thắp nén nhang cho pho đá hiền lành
Cũng là lúc anh thì thầm vĩnh biệt
Ly dị ngày xưa riêng tình em cạn kiệt
Tình anh còn da diết đến hôm nay

Lặng lẽ bên em xua tan hết vò dày
Dù vẫn biết xưa em từng lén lút
Không cưỡng nổi con tim si gào thét
Rũ rượi khẩn cầu tha thiết của tình chen

Đã là người, ai không muốn ấm êm
Nhưng tình yêu cứ mê vào trắc trở
Mấy ai biết cõi đời còn thương nhớ
Còn nồng nàn bởi còn có vị tha?

Kể từ nay, thôi nhé, mình chia xa
Em ở lại với trăm năm thế tục
Anh ly dị, lần này anh hạnh phúc
Hóa một vì sao sáng nhất giữa An Nhiên...

Cho những cuộc tình tan vỡ
                                     ngước nhìn lên!


                                           Trần Hạnh Thu
Xem tiếp...

Thứ Hai, 4 tháng 3, 2013

CHƯNG HỬNG

Hôm nay con vợ chợt ngoan
Lắng nghe tao nói, còn bàn với tao
Điều gì cũng nhất trí cao
Một vâng hai dạ, hiền sao là hiền!

Tao cười, tao hát như điên
Ngày nào cũng thế, hơn tiên sống trần...

Bỗng đâu, Trời quát: "Liệu hồn!"
Giật mình, mở mắt, ra toàn chiêm bao!...

Ngoài hiên nhỏ giọt mưa sầu
Tao ngồi nhả khói, đêm thâu mịt mùng...


                                           Trần Hạnh Thu
Xem tiếp...

Thứ Bảy, 2 tháng 3, 2013

TÌNH GIÓ

Gió về nâng cánh diều bay
Thướt tha dìu dặt ngất ngây men tình
Véo von sáo thở quên mình
Trời chiều óng ả gợi nên mộng vàng

- Diều theo gió nhé, lang thang
Ngao du đây đó,truy hoan tháng ngày?

- Ngàn năm là gió với mây
Sao còn tơ tưởng đặt bày niềm yêu?
Diều bay lơ lửng những chiều
Đành rằng ơn gió nhưng theo nhân tình
Xin đừng gây chuyện điêu linh
Mây kia cuồng nộ, mưa ghen, tội diều!...

Gió đang phởn, bỗng ỉu xìu
Đang mơ, chợt tỉnh, đìu hiu nắng tàn
Giữa trời bày cảnh bẽ bàng:
Cánh diều hoan lạc với thằng giật dây
Thản nhiên như chốn Bồng Lai
Đê mê chỉ biết có hai mơ màng!

Gió gằn, gom lại những làn
Kệ chàng chưng hửng, mặc nàng chơi vơi...

Mây ngàn lãng đãng bĩu môi:
- Cánh diều của gió muôn đời là đây
Thỏa thuê lạc thú gió mây
Tòm tem còn nỡ quấy rầy Nhân Gian!...

Nghe ra, gió lại cưu mang
Cho thằng ngỏng cổ, mê man chơi diều!


                                                Trần Hạnh Thu

Xem tiếp...