Thứ Năm, 10 tháng 2, 2022
TT & HĐ V - 50/d
Giải Mã Bí Ẩn Vũ Trụ #2: Điểm Kì Dị "Cởi Truồng"??? VTPLK#5
***
Trong "giáo trình triết học Mác - Lênin (tên gọi khác của triết học duy vật biện chứng)" (NXB chính trị quốc gia, năm 2004) viết:
"Đương nhiên, quan niệm về sự thống nhất của thế giới lấy việc thừa nhận sự tồn tại của nó làm tiền đề. Không thừa nhận sự tồn tại của thế giới thì không thể nói tới việc nhận thức thế giới.
(...) Như vậy, khái niệm tồn tại chỉ là tiền đề xuất phát của nhận thức triết học. Song vấn đề mà nhận thức triết học phải đi tới chính là quan niệm về sự tồn tại của thế giới.
Nói chung, chủ nghĩa duy vật hiểu sự tồn tại của thế giới như một chỉnh thể mà bản chất của nó là vật chất.
(...)
Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng sự tồn tại của thế giới tự nhiên là tiền đề cho sự thống nhất của nó; song sự thống nhất của thế giới không phải ở sự tồn tại của nó. Ph. Ăngghen viết: "Tính thống nhất của thế giới không phải ở sự tồn tại của nó, mặc dù tồn tại là tiền đề của tính thống nhất của nó, vì trước khi thế giới có thể là một thể thống nhất thì trước hết thế giới phải tồn tại đã". Sự khác nhau căn bản giưa chủ nghĩa duy vật với chủ nghĩa duy tâm không phải ở việc thừa nhận hay không thừa nhận tính thống nhất của thế giới mà ở chỗ chủ nghĩa duy vật cho rằng cơ sở của sự thống nhất thế giới là ở tính vật chất của nó....".
Về vấn đề thế giới này tồn tại hay không tồn tại, trước đây, nhà triết học Hy Lạp cổ đại tên là Pacmênit qua tác phẩm "Bàn về tự nhiên" và triết học trường phái Jaina ở Ấn Độ cổ đại đã từng đề cập đến. Triết học duy vật cũng thừa nhận thế giới này là tồn tại, nhưng vẫn chưa làm thấu tỏ được khái niệm tồn tại, vẫn sai lầm cho rằng bản chất của tồn tại là vật chất, chưa nhận thức được tồn tại và Tồn Tại. Chính vì vậy mà khi bàn về không gian và thời gian đã tỏ ra lúng túng, không dứt khoát được chúng là vật chất hay không phải vật chất.
Vào cuối thế kỷ XVII, khi đề xướng thuyết cơ học, Niutơn đã sai lầm khi cho rằng không gian và thời gian là những thực thể đặc biệt, không gắn bó gì với nhau và tồn tại độc lập bên cạnh vật chất cũng tương tự như các vật tồn tại độc lập bên cạnh nhau vậy. Đến lượt triết học duy vật biện chứng cũng quan niệm sai lầm nốt. Trong sách đã dẫn ở trên có viết: "Trên cơ sở các thành tựu khoa học và thực tiễn, chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng không gian và thời gian là những hình thức tồn tại khách quan của vật chất. không gian và thời gian gắn bó hết sức chặt chẽ với nhau và gắn liền với vật chất, là phương thức tồn tại của vật chất".
Ngày nay vật lý học không những vẫn chưa quan niệm được chính xác, mà còn quan niệm chìm sâu hơn trong lầm lạc về không gian và thời gian. Không gian và thời gian không thể hòa lẫn vào nhau thành một thứ hổ lốn co theo vận tốc và cong theo khối lượng được.
Nếu nhìn theo quan niệm của triết học duy tồn thì thật là đơn giản và sáng tỏ: không gian và thời gian là sự thể hiện của Tồn Tại và Vận Động, không co theo vận tốc cũng như cong theo khối lượng. Đúng thật là chúng gắn kết chặt chẽ với nhau, nhưng chỉ như hình với bóng dưới ánh mặt trời, không thể hòa lẫn vào nhau và cũng không thể vận động như vật chất.
Khi cho rằng bản chất của tồn tại là vật chất và thế giới này không có gì ngoài vật chất thì triết học duy vật biện chứng đã không bao hàm hết "cái có" của thế giới này. Tiếng chó sủa dù có nguyên nhân từ vật chất nhưng bản thân nó, một cách độc lập, phải là cái có, một tồn tại rõ ràng là phi vật chất. Cái có đó có vận động không? vận động là gì? Tại sao lại có vận động? Đây là những câu hỏi có tính "sống còn" đối với mọi trường phái triết học. Theo chúng ta biết, chưa có trường phái triết học nào, duy vật cũng như duy tâm, kể cả triết học duy vật biện chứng dù đã trả lời tương đối rốt ráo, nhưng vẫn chưa trả lời được rõ ràng và dứt khoát những câu hỏi đó.
Giáo trình đã nêu ở trên có viết: "Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, vận động không chỉ là sự thay đổi vị trí trong không gian (hình thức vận động thấp, giản đơn của vật chất) mà theo nghĩa chung nhất, vận động là mọi sự biến đổi nói chung. Ph. Ăngghen viết: "Vận động hiểu theo nghĩa chung nhất (...), bao gồm tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong Vũ Trụ, kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản đến tư duy".
Khi định nghĩa vận động là sự biến đổi nói chung, thì vận động "là thuộc tính cố hữu của vật chất", "là phương thức tồn tại của vật chất". Điều này có nghĩa là vật chất tồn tại bằng cách vận động (...). Không thể có vật chất không có vận động và ngược lại không thể có sự vận động nào lại không phải là vận động của vật chất, không thuộc về vật chất. (...)
Với tính cách "là thuộc tính cố hữu của vật chất" theo quan điểm của triết học Mác - Lênin, vận động là sự tự thân vận động của vật chất, được tạo nên từ sự tác động lẫn nhau của chính các thành tố nội tại trong cấu trúc vật chất. (...). Những người theo quan điểm duy tâm hoặc siêu hình không đi tìm nguồn gốc của vận động ở bên trong bản thân sự vật, mà đi tìm nguồn gốc bên ngoài sự vật...".
Dù rằng triết học duy vật biện chứng quan niệm như trên về vận động đã rất gần với sự thật nhưng vẫn chưa là sự thật. Vì chưa nhận thức được Tồn Tại (tồn tại tuyệt đối) và chưa đưa ra được khái niệm đích đáng về Hư Vô (hư vô tuyệt đối) nên chưa thấy được vận động không phải chỉ là thuộc tính cố hữu của vật chất mà bao quát hơn, là thuộc tính cố hữu của Tồn Tại. Mặt khác, triết học duy vật biện chứng cũng không chính xác khi quan niệm rằng vận động là phương thức tồn tại của vật chất. Vì triết học duy vật biên chứng cũng cho rằng bản chất của tồn tại là vật chất nên có thể hiểu câu trên là "vận động là phương thức tồn tại của...tồn tại" và đâm ra buồn cười. Hơn nữa, vận động, hay nói đúng hơn là chuyển hóa, luôn luôn biến đổi, nghĩa là tồn tại luôn luôn biến đổi, thế thì làm sao vận động lại là phương thức tồn tại được? Theo triết học duy tồn, chỉ có thể nói thế này: vận động là phương thức thể hiện Tồn Tại, đồng thời là phương thức chuyển hóa của tồn tại. Và đây cũng là quan niệm của triết học duy tồn mà các trường phái triết học khác chưa quan niệm được: dù là vốn dĩ thế, tự nhiên thế thì cũng có thể mường tượng, nguyên nhân của việc nảy sinh ra vận động chính là để bảo toàn Tồn Tại, không cho xuất hiện Hư Vô. Chính vì vậy, có thể nói ví von, vận động là "lẽ sống còn" của Tồn Tại nói chung và của vật chất nói riêng. Không có vận động thì không có Tồn Tại. Mà không có Tồn Tại thì làm sao có vật chất và thế giới này được? Không có thế giới này, nói bắt chước giọng Ăngghen, chỉ có Hư Vô là một suy nghĩ mê sảng thực sự!
Nói cách khác, Tồn Tại là chuyển hóa. Chuyển hóa để xác định sự Tồn Tại vốn dĩ. Do Tồn Tại hữu hạn và trạng thái chuyển hóa cũng hữu hạn, để tránh trùng lắp dẫn tới Hư Vô, một phần Tồn Tại đã chuyển hóa theo hướng làm hình thành nên vật chất. Nếu chuyển hóa Tồn Tại có nguyên nhân tự thân (nguyên nhân bên trong) thì vận động vật chất có nguyên nhân từ bên ngoài (không có vận động tự thân, trừ hạt KG). Nếu chuyển hóa Tồn Tại nhằm duy trì Tồn Tại thì vận động vật chất nhằm thay đổi, biến hóa vật chất (dĩ nhiên để Tồn Tại được duy trì). Vì mang bản chất của Tồn Tại nên trong quá trình vận động hình thành vật chất, tồn tại cũng có tính tự duy trì trạng thái tồn tại (tồn tại tương đối) đang có của mình. Tình hình đó làm nảy sinh ra sự cản trở vận động (xét cho tận cùng thì vận động là chuyển động đơn thuần cơ học), tức khối lượng, và khả năng làm biến đổi trạng thái tồn tại, tức năng lượng, của vật chất.
Suy ra từ những lập luận ở trên và đúc kết lại, chúng ta rút ra dược một nguyên lý vô cùng quan trọng, có lẽ là quan trọng bậc nhất của nhận thức tự nhiên. Chúng ta gọi đó là NGUYÊN LÝ TỰ NHIÊN. NGUYÊN LÝ TỰ NHIÊN phát biểu rằng Tồn Tại chuyển hóa không ngừng, chuyển hóa là để xác thực Tồn Tại, bảo toàn Tồn Tại. Nếu quan sát ở góc độ tồn tại thôi thì, vật chất luôn gìn giữ, luôn "muốn" bảo toàn tồn tại cũ, có sẵn (quán tính), dẫn đến nguy cơ xuất hiện Hư Vô, do đó vật chất phải vận động. Vận động vật chất là luôn làm tồn tại đổi mới, qua đó mà bảo toàn Tồn Tại. Đây là nguyên lý bao trùm thế giới, là nguyên lý số một của vận động. Tồn Tại, mọi cái có, mọi tồn tại trên thế giới này khi vận động đều nhất nhất phải tuân theo nguyên lý tự nhiên. Vì vậy mà nguyên lý này cũng là nguyên lý cội nguồn, gốc rễ của mọi nguyên lý, qui luật, định luật. Việc tuân thủ tuyệt đối nguyên lý này của vạn vật - hiện tượng là nguyên nhân sâu xa nhất của sự thống nhất thế giới.
Có bốn hệ quả được rút ra từ nguyên lý tự nhiên và hợp với nguyên lý tự nhiên tạo thành hệ thống năm nguyên lý tiền đề cơ bản cho vận động hay chuyển hóa Vũ Trụ. Chúng ta liệt kê:
1/ Nguyên lý bảo toàn Tồn Tại, bảo toàn vật chất: Tồn tại thường biến theo chu kỳ nhưng vĩnh cửu. Vật chất do không gian chuyển hóa thành và chuyển hóa về lại với không gian. Hai chuyển hóa ngược nhau ấy giống nhau về mọi phương diện, chỉ ngược nhau về chiều nên lượng vật chất hiện hữu luôn không đổi.
2/ Nguyên lý tương tác (nguyên lý tác động tương hỗ): vận động là một quá trình thuận nghịch hoàn chỉnh, trong đó tổng của mọi tác động và phản tác động luôn luôn bằng không
3/ Nguyên lý nhân - quả: Mọi quá trình chuyển hóa trong Vũ Trụ đều phải có nguyên nhân từ bên ngoài, do các tồn tại khác tạo ra. Chỉ riêng hạt KG là có nguyên nhân từ bên trong, tức từ chính nó, hay nói cách khác, chỉ riêng giao động của hạt KG là vận động tự thân.
4/ Nguyên lý cân bằng động: vận động Tồn Tại luôn trong trạng thái cân bằng động. Vũ Trụ là một hệ cân bằng động tuyệt đối và vĩ đại.
Chúng ta không đồng thuận với quan niệm của triết học duy vật biện chứng cho rằng mâu thuẫn là nguồn gốc của sự vận động và phát triển. Trong "Giáo trình triết học Mác - Lênin" (sách đã dẫn) có viết:
"Tất cả các sự vật - hiện tượng trên thế giới đều chứa đựng những mặt trái ngược nhau (...).
(...).
Mặt đối lập là những mặt có những đặc điểm, những thuộc tính, những tính qui định có khuynh hướng biến đổi trái ngược nhau tồn tại một cách khách quan trong tự nhiên, trong xã hội và tư duy.(...)
Các mặt đối lập nằm trong sự liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau tạo thành mâu thuẫn biện chứng. (...).
Các mặt đối lập tồn tại không tách rời nhau nên giữa chúng bao giờ cũng có những nhân tố giống nhau. Những nhân tố giống nhau đó gọi là sự "đồng nhất" của các mặt đối lập. Với ý nghĩa đó, "sự thống nhất của các mặt đối lập" còn bao hàm cả sự "đồng nhất" của các mặt đó. Do có sự "đồng nhất" của các mặt đối lập mà trong sự triển khai của mâu thuẫn đến lúc nào đó, các mặt đối lập có thể chuyển hóa lẫn nhau.
(...).
(...). Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập qui định tính ổn định và tính thay đổi của sự vật. Do đó, mâu thuẫn chính là nguồn gốc của sự vận động và phát triển."
Trên cơ sở lý luận đó về sự vận động và những hiện tượng thường thấy (nhưng bị hiểu sai lạc) trong hiện thực khách quan, triết học duy vật biện chứng cũng nêu ra ba qui luật cơ bản của tự nhiên (mà chúng ta đã phản biện bác bỏ trong các chương trước của TT & HĐ).
Khi chúng ta nói Tồn Tại là cân bằng động tuyệt đối, thì điều đó có nghĩa mọi vận động của vạn vật cũng xảy ra trong thế cân bằng động. Một vật chuyển động đều có nghĩa là nó đi theo xu hướng động lực làm nó chuyển động và đã cân bằng với lực quán tính của nó. Lúc đầu nó vẫn giữ thế đứng yên, lập cân bằng động giữa nó với ngoại lực. Với ngoại lực lớn hơn lực quán tính, thế cân bằng động cũ bị phá vỡ. Vật phải chuyển động theo xu thế của ngoại lực mới để lập tức hình thành nên một trạng thái cân bằng động mới. Ở hiện tượng này có phải nguyên nhân của sự vận động (chuyển động) là do giải quyết mâu thuẫn nội tại và vật chuyển sang di dời vị trí là nó đã phát triển? Cái luận điểm cho rằng, mâu thuẫn là nguyên nhân của vận động và phát triển xem ra không thuyết phục. Thế giới là thường xuyên biến đổi và Vũ Trụ là đầy đủ, tình hình đó dẫn đến sự đa dạng, đa cấu trúc, đa kiểu vận động của vật chất dẫn đến có thể phân chia thành các lực lượng đối lập, có tính mâu thuẫn không những trong nội tại và cả "ngoại tại" vật chất. Mặt khác, không thể nói đến sự phát triển nếu chưa có qui ước. Đối với vật chất, không có vận động tự thân. Quá trình sét rỉ của một thanh sắt, một cách tuyệt đối, không thể là kết quả của giải quyết mâu thuẫn nội tại và càng không phải là một sự phát triển nếu chưa qui ước.
***
Triết học duy tồn cũng chia triết học của mình ra hai phần cơ bản là triết học tự nhiên và triết học xã hội. Trên đây chúng ta đã trình bày những nhận thức cơ bản nhất, cốt lõi nhất của nhận thức về tự nhiên thuộc triết học duy tồn. Sau đây chúng ta tiếp tục trình bày những nhận thức cơ bản và cốt lõi về sự hình thành và vận động xã hội của triết học ấy.
Sự sống là một dạng tồn tại của thế giới tự nhiên. Thế giới sinh vật là một dạng đặc thù của thế giới vật chất. Ở một điều kiện phù hợp chín muồi nào đó trong quá trình duy trì trạng thái tồn tại đã có, sự sống được nảy sinh. Tính đặc thù cơ bản của sự sống dùng để phân biệt với vật chất nói chung là sự tự giác trong quá trình chống lại sự biến đổi có thể gây hại đến cơ thể sinh vật của tác động ngoại cảnh (môi trường), nhằm duy trì trạng thái tồn tại đang có. Tính tự giác đó còn được gọi dưới những cái tên như "kiếm sống", "mưu sinh",..., và một cái tên bao quát nhất: "cố gắng sống còn".
Có thể cho rằng tiền sự sống là các chất hữu cơ và dạng sống đầu tiên trên Trái Đất là các thực thể đơn bào. Đơn bào đã có tính tự giác, mưu sinh bằng cách tiếp thu các chất hữu cơ phù hợp có sẵn trong đại dương (gọi là chất dinh dưỡng). Nhờ có tính tự giác, không những khả năng "cố gắng sống còn" được tăng cường, mà còn hun đúc được một khả năng đặc biệt khác về duy trì sự sống, duy trì giống loài, đó là sự sinh đẻ. Cũng nhờ có tính tự giác mà sự mưu sinh, cố gắng sống còn, từ những hình thức kiếm ăn thụ động tiến dần đến những hình thức kiếm ăn chủ động.
Một trong những thể hiện rõ ràng nhất của tính tự giác trong thế giới sinh vật là đấu tranh sinh tồn và tiến hóa thích nghi.
Môi trường sồng trên Trái Đất là hữu hạn trong khi sự sinh trưởng của thế giới sinh vật có khuynh hướng vô hạn độ. Tình hình đó, đồng thuận với các thảm họa thiên nhiên (tác dụng phụ), không những đã khống chế khả năng phát triển về số lượng các cá thể giống loài sinh vật, mà còn gây ra cuộc cạnh tranh khốc liệt để cố gắng sống còn giữa các cá thể và các giống loài sinh vật.
Ngày nay, đã không ít nhà khoa học lên tiếng phản bác học thuyết tiến hóa của Darwin. Theo Wikipedia:
"Trong sinh học, tiến hóa là sự thay đổi đặc tính di truyền của một quần thể sinh học qua những thế hệ nối tiếp nhau. Các quá trình tiến hóa làm nảy sinh sự đa dạng ở mọi mức độ tổ chức sinh học bao gồm loài, các cá thể sinh vật và cả các phân tử như DNA và protein.
Sự sống trên Trái Đất khởi nguồn và sau đó tiến hóa từ một tổ tiên chung từ khoảng 3,8 tỷ năm trước. Sự tiến hóa thành loài mới và sự phân nhánh sự sống lặp lại có thể suy luận ra từ tập hợp những đặc tính sinh hóa và hình thái học chung, hay những chuỗi DNA chung. Những nét tương đồng này giống nhau hơn giữa những loài có tổ tiên chung gần gũi nhau hơn, và có thể dùng để tái dựng lịch sử tiến hóa từ những loài hiện tồn và những dấu vết hóa thạch. Hình ảnh về sự đa dạng sinh học trên hành tinh ngày nay hình thành từ cả sự hình thành loài và sự tuyệt chủng.
(...).
Nguồn gốc của đề xuất rằng một loại động vật có tổ tiên từ một loại động vật khác có thể lần ngược lên một vài triết gia Hy Lạp tiền-Socrates đầu tiên, như Anaximander và Empedocles. Đối lập với những quan điểm duy vật này, Aristotle hiểu toàn bộ sự vật tự nhiên, không chỉ những sinh vật, như là những sự hiện thực hóa bất toàn của những năng lực tự nhiên cố định khác nhau, được biết tới dưới tên "hình thức", "ý niệm", hay "loài". Đây là một phần trong triết lý mục đích luận của ông về tự nhiên trong đó mọi vật có một vai trò định trước để thực hiện những mệnh lệnh vũ trụ thần thánh. Nhà thơ và triết gia La Mã Lucretius đã đề xuất khả năng tồn tại những thay đổi tiến hóa của sinh vật. Những biến thể của tư tưởng này của Aristotle đã trở thành hiểu biết cơ bản của thời Trung Cổ, và được lồng ghép vào nền giáo dục Thiên Chúa giáo. (...).
Vào thế kỷ XVII phương pháp mới của khoa học hiện đại đã từ bỏ cách tiếp cận của Aristotle, và tìm cách giải thích cho các hiện tượng tự nhiên bằng các định luật tự nhiên giống nhau cho mọi vật hữu hình mà không cần phải giả thiết bất kì những mục loại cố định nào, hay bất kỳ trật tự vũ trụ thần thánh nào.
(...).
(...). Sơ đồ tiến hóa chính thức đầu tiên là lý thuyết "tiến hóa biến đổi" (transmutation) của Lamarck vào năm 1809 nêu ra rằng các thế hệ đồng thời liên tục tạo ra những dạng sống đơn giản đã phát triển mức độ phức tạp lớn hơn qua những nhánh song song với một cường độ tiến triển không đổi, và rằng ở mức độ địa phương những nhánh này thích nghi với môi trường bằng cách thừa hưởng những thay đổi gây ra bởi việc sử dụng hay không dùng đến những tập tính ở cha mẹ(quá trình này về sau được gọi là học thuyết Lamarck). Những ý tưởng này bị các nhà tự nhiên học có uy tín đương thời phê phán, xem là một phỏng đoán thiếu những chứng cớ thực tế. Đặc biệt, Georges Cuvier còn nhấn mạnh rằng các loài là cố hữu và không có liên hệ, những sự tương đồng giữa chúng chỉ phản ánh sự sáng tạo của thần thánh vì những lý do mang tính chức năng. Cùng thời gian đó, các ý tưởng của Ray về sự sáng tạo ban phát được William Paley phát triển thành một thứ thần học tự nhiên đề xuất những sự thích nghi phức tạp như bằng chứng về sự sáng tạo thần thánh, được Charles Darwin ngưỡng mộ.
Sự đột phá có tính phê phán khỏi quan niệm về những loài cố hữu khởi đầu với lý thuyết tiến hóa bằng chọn lọc tự nhiên, do Charles Darwin hệ thống hóa lần đầu tiên. Một phần chịu ảnh hưởng từ cuốn Khảo luận về nguyên lý dân số của Thomas Robert Malthus, Darwin nhận xét rằng sự phát triển quần thể có thể dẫn tới một "cuộc đấu tranh sinh tồn" trong đó những biến dị phù hợp sẽ thắng thế trong khi các cá thể khác bị diệt vong. Trong mỗi thế hệ, nhiều con non không thể sống sót tới tuổi sinh sản bởi nguồn tài nguyên hạn chế. Điều này có thể giải thích sự đa dạng động thực vật từ một tổ tiên chung thông qua sự vận hành của các quy luật tự nhiên theo cùng cách cho mọi loại sự vật. Darwin đã phát triển lý thuyết của ông về "chọn lọc tự nhiên" từ 1838 cho tới khi Alfred Russel Wallace gửi cho ông một lý thuyết tương tự năm 1858. Cả hai người đã trình bày những bài viết độc lập của mình cho Hội Linnean London. Vào cuối năm 1859, Darwin công bố cuốn "Nguồn gốc các loài" giải thích chi tiết về chọn lọc tự nhiên theo cách đã khiến cho thuyết tiến hóa được chấp nhận ngày càng rộng rãi."
Cho đến tận ngày nay, thuyết tiến hóa vẫn bị phản đổi từ một số nhóm người, nhất là những nhóm tôn giáo vẫn tin rằng sự sống được "kiến tạo" bởi một vị Thần hay Thiên Chúa toàn năng. Tuy vậy, cộng đồng khoa học không chấp nhận các lý luận phản đối đó bởi vì chúng hoàn toàn không đúng đắn, trích dẫn các câu của những người bôi nhọ để diễn dịch sai ý phương pháp khoa học, bằng chứng và các quy luật vật lý cơ bản. Ngoài ra người ta nói rằng toàn bộ thuyết tiến hóa, kể từ cuốn “Về nguồn gốc các loài” (1859) và cuốn “Nguồn gốc loài người” (1871) của Darwin đến những lý thuyết hiện đại sau này, đều là những giả thuyết tưởng tượng, những phỏng đoán không chắc chắn. Phỏng đoán “vĩ đại” nhất của Darwin là sự tồn tại của những thế hệ quá độ chuyển tiếp giữa các loài – vì sự tiến hóa diễn ra liên tục và dần dần từng tí một (continuously and gradually) nên nếu loài A tiến hóa để biến thành loài B thì ắt phải có những loài trung gian nằm giữa A và B, được gọi là những thế hệ hay những mắt xích quá độ chuyển tiếp trong chuỗi tiến hóa từ A đến B. Những thế hệ này đã tuyệt chủng, nhưng theo Darwin, hóa thạch của chúng ắt phải nằm dưới lòng đất với số lượng lớn, và trước sau khoa học sẽ tìm thấy và phải tìm thấy. Nhưng phỏng đoán ấy càng “vĩ đại” bao nhiêu thì Darwin càng lo lắng bấy nhiêu về việc liệu có tìm thấy lượng hóa thạch đó hay không. Nếu không, lý thuyết của ông sẽ lâm nguy. chính Darwin đã bầy tỏ nỗi lo lắng này trong cuốn “Về nguồn gốc các loài” (Chương 9) như sau:
“… số lượng những sinh vật chuyển tiếp quá độ, vốn đã tồn tại trên trái đất, thật sự là khổng lồ. Nhưng tại sao mọi tầng vỉa địa chất không chất đầy những mắt xích chuyển tiếp quá độ đó? Khoa địa chất chắc chắn không tìm thấy bất kỳ một sợi dây xích hữu cơ biến đổi dần dần từng tí một nào như thế; và có lẽ điều này là sự chống đối rõ ràng nhất và nghiêm trọng nhất có thể được nêu lên để chống lại lý thuyết của tôi”.
Michael Denton, một nhà sinh học phân tử nổi tiếng của Úc, tác giả cuốn ““Evolution: A Theory in Crisis” (Tiến hóa: Một lý thuyết đang khủng hoảng), xuất bản năm 1985, trong đó viết:
“Bất chấp những nỗ lực khổng lồ trong việc đào xới địa chất ở khắp nơi trên trái đất và bất chấp việc khám phá ra nhiều dạng động vật kỳ lạ trước đây chưa hề biết, số lượng vô cùng lớn những mắt xích liên kết chuỗi tiến hóa bị mất tích vẫn chưa được tìm thấy và hồ sơ hóa thạch hầu như vẫn gián đoạn như khi Darwin viết cuốn Về Nguồn gốc các loài”.
Đối với chúng ta, những người đại diện cho triết học duy tồn, vẫn khẳng định rằng, thuyết tiến hóa là một khám phá vĩ đại của loài người, nó luôn đúng. Chủ nghĩa thực chứng có cái hay là trưng ra bằng chứng rõ ràng, trực tiếp, khó lòng chối cãi, nhưng đôi khi nó cũng gây ngộ nhận ghê gớm, và nhất là làm giảm đáng kể mức độ trừu tượng của con người. Một tư duy khoa học mất đi sự tưởng tượng, thì đâu còn là tư duy khoa học nữa!?
Tinh thần tự giác mưu sinh trong môi trường thiên nhiên hạn định, có cả thuận lợi lẫn bất lợi và nguồn thức ăn bị khống chế do nhiều yếu tố đã gây ra tình trạng cạnh tranh, nhiều khi khốc liệt trong cố gắng sống còn. Cạnh tranh sinh tồn, hay với cái tên khác: "đấu tranh sinh tồn" là một qui luật cơ bản trong thế giới sinh vật. Nhờ tính cố gắng sống còn và qui luật đấu tranh sinh tồn mà hình thành nên quá trình tiến hóa - thích nghi, làm xuất hiện đa dạng giống loài sự sống trên Trái Đất.
Không có nước, không có sự sống! Khi mới xuất hiện sự sống đơn bào trong lòng nước. Vì chất dinh dưỡng nuôi sự sống đơn bào được nước vận chuyển đi khắp nơi trong lòng đại dương một cách dồi dào nên sự tự giác mưu sinh còn ở mức thấp, thụ động, thậm chí không "làm" cũng có "ăn". Dần dần, do sự phát triển lạm phát về số lượng cá thể đơn bào (phải nói, sự phát triển lạm phát số lượng cá thể sinh vật khi gặp điều kiện môi trường thuận lợi là một qui luật của thế giới sinh vật), đã làm trạng thái cân bằng động cung ứng dinh dưỡng ấy bị phá vỡ (cung ít hơn cầu). Để thích nghi, cố gắng sống còn trong tình hình mới, sự sống đơn bào phải lập mối quan hệ cân bằng động mới trong việc tìm sống bằng cách tạo ra, tiến hóa lên một sự sống di chuyển kiếm ăn trong lòng đại dương. Tình hình cứ thế, xảy ra các quá trình tương tự kế tiếp nhau theo thời gian, hợp thành một quá trình vĩ đại gọi là tiến hóa - thích nghi. Quá trình tiến hóa - thích nghi là quá trình phát triển - kế thừa, gìn giữ những ưu việt đã có, tăng cường ưu việt mới, cải tạo sinh học bằng cách hoàn thiện cấu trúc chức năng sinh vật, biến đổi cơ thể sinh vật cho phù hợp, nhằm thích nghi với những biến đổi bất lợi, có tính ổn định lâu dài theo thời gian của môi trường, đạt hiệu quả cao trong việc mưu sinh, cố gắng sống còn.
Tiến hóa - thích nghi chính là nguồn gốc sinh ra muôn loài. Nhờ quá trình ấy mà sự sống mở rộng từ đơn bào đến đa bào, từ thụ động chờ ăn đến chủ động tìm ăn, từ cuộc sống trong nước đến cuộc sống trên cạn, từ cách sống chạy nhảy trên bộ đến cách sống bay lượn khắp không trung, từ to tát hộ pháp mà sức sống phong phanh như khủng long đến nhỏ nhắn tép riu mà sức sống phi thường như vi khuẩn, ..., ... Chính quá trình đó cũng là đầu mối sinh ra loài người - loài có tư duy trừu tượng, loài tự đinh ninh nhận mình là thống soái thế giới sinh vật trên Trái Đất (có lẽ cũng có gần đủ quyền năng đó nếu thoát ly được thế giới sinh vật, chế ngự được ung thư và lòng tham vô độ của chính mình!!!). Nếu tự giác bảo toàn tồn tại là đặc tính rõ ràng nhất để phân biệt vật chất đơn thuần với thế giới sjnh vật, thì lao động sáng tạo là đặc trưng rõ ràng nhất để phân biệt loài người với bộ phận sinh vật còn lại của thế giới sinh vật. Lao động sáng tạo là hoạt động tự giác cao nhất của chủ động phục vụ sống còn. Nó thay Tạo Hóa hoàn thiện nhanh chóng quá trình tiến hóa - thích nghi, nó tạo dựng được trên Trái Đất những thứ chưa từng xuất hiện trong môi trường thiên nhiên để phục vụ cho cuộc sống vật chất cũng như tinh thần của con người. Đặc biệt, nó mở ra ngày càng sâu rộng tầm quan sát và nhận thức của loài người đối với thế giới tự nhiên.
Không phải loài người được trang bị tư duy trừu tượng là nhờ một đấng thánh thần siêu nhiên nào ban phát, mà nhờ vào cuộc đấu tranh gian khổ trường kỳ để sinh tồn với một sức vóc tương đối nhỏ bé, một cấu trúc cơ thể không sẵn sàng chiến đấu, trong một phạm vi môi trường đặc thù, thích hợp cho tư duy trừu tượng hình thành và phát triển.
Tư duy trừu tượng phát triển mạnh mẽ đã giúp loài người biết sống gắn kết hơn để duy trì sống còn như: hợp tác trong lao động, sống tương trợ theo cộng đồng, ..., ..., và quan trọng hơn cả là tìm ra được nguồn thức ăn mới (lúa nước), tự tạo ra được, có thể tích lũy để sống lâu dài mà không phải tìm kiếm thức ăn, từ đó mà tạo lập phương thức sống mới, được cho là cơ bản của loài người, chỉ loài người mới có, đó là định cư lâu dài và hợp quần xã hội.
Phương thức sống định cư lâu dài, tập hợp thành quần thể không phải chỉ khi xuất hiện loài người mới có mà đã có từ trước khi loài người xuất hiện rất lâu, có lẽ từ thời sơ sử sự sống trên Trái Đất vì tính ưu việt của nó, đó là một mặt, ít tốn năng lượng dùng cho mưu sinh, kéo theo lượng thức ăn cần cung cấp cũng ít đi, mặt khác là bảo vệ tốt hơn cho sự sống sinh vật trước các tai họa thiên nhiên. Vì lẽ đó, lúc đầu sự sống chỉ phát triển đến lối sống thực vật. Nhưng phương thức sống cố định tại chỗ trên cạn và hợp thành quần thể nương tựa vào nhau dần dần không còn đáp ứng được tính chủ động cố gắng mưu sinh để sống còn của toàn thể thế giới sinh vật nữa do tác động của qui luật phát triển lạm phát số lượng cá thể sinh vật trong một môi trường hạn định, làm một bộ phận sinh vật phải "biến" thành động vật. Sự "biến" đó là kết quả của quá trình tiến hóa - thích nghi, tưởng chớp nhoáng, nhưng thực ra là phải trải qua hàng tỷ năm.
Như vậy, từ một động vật giả nhân (vượn người tối cổ) phải đấu tranh sinh tồn lâu dài trong một môi trường tương đối khắc nghiệt đối với cơ thể sinh học đặc thù của giống loài mà sinh ra loài người được trang bị tư duy trừu tượng nhờ quá trình tiến hóa - thích nghi, từ giống loài tích cực chủ động kiếm ăn bằng hai bàn tay cùng với hai chân dùng để di chuyển mà tiến tới lao động sáng tạo, từ tập quán sống di cư, lang thang bầy đàn đến tập quán sống gia đình, định cư lâu dài, sản xuất lương thực, quây quần hợp thành xã hội phát triển, đã tổng hợp xây dựng nên một lối sống, một phương thức sống tối ưu để cố gắng sống còn trong thế giới sinh vật. Rõ ràng, nếu không có lao động sáng tạo, cách sống định cư ổn định và lối sống cộng đồng xã hội thì loài người không thể có được trình độ sống văn minh ngày nay.
Trước đây, khi lần đầu tiên nêu lên luận điểm lối sống cộng đồng xã hội là lối sống tối ưu của loài động vật có tư duy trừu tượng - loài người, chúng ta đã vô cùng áy náy với một trong những hiện tượng đặc trưng trong xã hội, đó là chiến tranh. Vì sao xã hội, hình thức tồn tại được cho là tối ưu để sống còn của sự sống, khi nó bao hàm cả chiến tranh, một hiện tượng có mục đích trái ngược với cố gắng duy trì sống còn?
----------------------------------------------------------------
Thứ Tư, 9 tháng 2, 2022
TT & HĐ V - 50/c
(Tiếp theo)
Và
cuối cùng, hạt đơn vị nhỏ nhất tuyệt đối của Tồn Tại, như chúng ta đã
đặt tên, chính là hạt Không Gian, viết tắt là hạt KG. Hạt KG là hạt có
thể tích cực tiểu tuyệt đối của Vũ Trụ. Đại dương không gian bao la,
"quan sát" ở tầm vĩ mô được thấy như môi trường "loãng" tuyệt đối, tưởng
chừng cho mọi thực thể đi xuyên qua (nhưng thực ra không phải thế, mà
chỉ có thể "thẩm thấu" qua!), "quan sát' ở tầm vi mô thì được thấy như
một khối mạng được kết thành từ vô vàn hạt KG, khổng
lồ khó tưởng tượng nổi và bền vững tuyệt đối cũng như cứng tuyệt đối.
Trong vai trò là nút mạnh thì hạt KG tuyệt đối không xê dịch, vì xê
dịch có khả năng làm xuất hiện Hư Vô. Nhưng nếu nó không di chuyển thì
Vũ Trụ lại chết cứng để rồi cũng xuất hiện Hư Vô. Chính vì vậy mà hạt KG
đã "chọn" cách nước đôi: di chuyển mà cũng không di chuyển, là cả hai
mà cũng không phải cả hai! Hạt KG chỉ
có nội tại giao động, còn bản thân nó không di chuyển. Chỉ có phần giao
động bị kích thích quá độ (tương tự như lượng cộng hưởng, lượng tử năng
lượng) là di chuyển. Có thể minh họa hiện tượng này như sóng nước: các
phần tử nước chỉ giao động, coi như đứng yên một chỗ, chỉ có năng lượng
được truyền đi.
Chúng ta đã biết Niutơn là người khám phá ra định luật vạn vật hấp dẫn và biểu thức tính lực hấp dẫn giữa hai vật là
Trong đó: G là hằng số hấp dẫn
M , m lần lượt là khối lượng của hai vật
r là khoảng cách giữa trọng tâm hai vật
Như
đã suy luận ở trên, lực hấp dẫn lớn nhất chỉ có thể bằng GMm, khi r =
1, nghĩa là bằng đơn vị khoảng cách giữa hai vật. Đơn vị khoảng cách
phải chăng là r = r1 + r2 ? Nhỏ hơn khoảng cách đó, r sẽ nhỏ hơn 0, xảy
ra hiện tượng lực hấp dẫn tăng ảo, tăng một cách lạm phát đến vô hạn một cách phi hiện thực. Không thể tin được một vật ở trong lòng Trái Đất (tức gần tâm Trái Đất hơn) lại chịu một lực hấp dẫn lớn hơn của một vật ở trên mặt Đất (ở xa tâm Trái Đất hơn)! Rất có
thể đây là ngộ nhận toán học dẫn vật lý học đến với điểm kỳ dị huyễn
hoặc và không gian giãn nở lạm phát, để rồi xây dựng nên một thuyết Vũ
Trụ Big Bang không tưởng!? Vậy điều kiện tiên quyết cho biểu thức trên còn sử dụng được là r phải lớn hơn hay không được nhỏ hơn 1.
***
Vào
khoảng 400 năm TCN, Arixtốt, nhà triết học, khoa học trụ cột của nền
văn minh HiLạp đã không đồng ý việc cho rằng không gian Vũ Trụ là chân
không, trống rỗng, không có gì, nghĩa là Hư Vô, mà cho rằng nó được lấp
đầy bởi một chất rất nhẹ, linh động, gọi là ête. Ông lý giải rằng trong
không gian tồn tại các chuyển động tự nhiên (hiểu như vốn dĩ, tự nó),
nếu không có gì cản chúng lại, chúng sẽ tăng dần vận tốc lên vô hạn. Đó
là điều phi lý. Nhưng ngược lại với điều đó, các nhà thần học Hồi Gíáo
lại chống đối và đi ngược lại với luận
thuyết của Aristote. Họ là những người theo thuyết nguyên tử và chấp
nhận chân
không.
Lão Tử là một đại hiền triết của thế giới cổ đại. Chúng ta
cho rằng học thuyết triết học của ông về tự nhiên cũng như xã hội mang
tính hợp lý cao độ. Ông đã xây dựng khái niệm "Đạo" để nói về thế giới
tự nhiên, về Vũ Trụ, và qua đó, về không gian. khái niệm Đạo của ông là
một khái niệm siêu việt, vừa là nguyên lý, vừa là bản thể của Vũ Trụ.
Ông nói: "Đạo, bản thể thì hư không mà tác dụng thì cơ hồ vô cùng, nó
uyên áo và tựa như làm chủ tể vạn vật. Nó không để lộ tinh nhuệ ra, gỡ
những rối loạn, che bớt ánh sáng, hòa đồng với trần tục; nó sâu kín
(không hiện) mà dường như trường tồn". Trong Đạo đức kinh có tới gần 40 thiên (chương) nhắc đến Đạo,
nhưng không phải theo nghĩa thông thường, mà có tính trừu tượng, khái
quát rất cao. Trước hết, Lão Tử dùng Đạo để chỉ bản nguyên của Vũ Trụ,
tổ tông của muôn loài. Đó là cái mà ông gọi là "Đạo thường", "Đạo vô
danh”. "Đạo thường" là đạo bản thể vĩnh cửu, bất biến, không giống cái
gì cả, do đó khó có thể nói rõ được về nó, mà chỉ có thể dùng trực giác
để lĩnh hội được phần nào mà thôi. Đạo ấy là vô thuỷ, vô chung nên "...
đón nó thì không thấy đầu, theo nó thì không thấy đuôi". Có ý kiến
cho
rằng Đạo của Lão Tử là một thứ rất huyền bí, thoát trần, không thể dùng
ngôn ngữ, khái niệm để nói và nhận thức về nó, là một thứ siêu tự
nhiên, thần bí, khó hiểu, một thực thể tinh thần tuyệt đối... Thực ra,
theo Lão Tử, Đạo - cái bản nguyên của Vũ Trụ, vẫn có tính vật
chất, vẫn có thực chứ không phải là cái siêu nhiên. Ông viết: "Đạo là
cái gì... thâm viễn, tối tăm mà bên trong có cái tinh tuý, tinh tuý đó
rất xác thực và rất đáng tin"; "... có thể coi nó là mẹ của vạn vật
trong thiên hạ...". Vào thời khoa học mới bước đầu hình thành hiểu
biết của con người về tự nhiên chưa nhiều, mà quan niệm được như thế,
dù còn chất phác, ngây thơ, thì phải nói trí tuệ Lão Tử thật thâm hậu,
thật thiên tài.
Đến
thời Niutơn, quan niệm về không gian của cơ học cổ điển, kế thừa quan
niệm trước đó của trường phái nguyên tử luận cộng với những thành tựu
vừa mới khám phá được của Niutơn trong chuyển động cơ học, cũng cho rằng
không gian trống rỗng, không ảnh hưởng gì tới các qui luật của chuyển
động, và ông gọi đó là không gian tuyệt đối. Dù chính mình là nhân vật
đề xướng ra quan niệm không gian tuyệt đối nhưng bản thân Niutơn cũng
không giải thích được vì sao lực hấp dẫn lại có thể truyền tương tác qua
những khoảng cách chân không rộng lớn như vậy (?). Niutơn cũng như
nhiều nhà khoa học khác đã suy nghĩ "nát óc" vấn đề đó nhưng không giải
quyết được, đành "nhường lại" cho các thế hệ sau. Và cho đến hôm nay,
"Các thế hệ sau" vẫn chưa giải quyết dứt khoát được vấn đề hóc búa đó!
Khoa
học vật lý vẫn tiếp tục phát triển, tiến lên những bước dài. Với nhiều
hiện tượng Vũ Trụ đã khám phá, hầu hết các nhà vật lý đã hầu như đồng
thuận rằng phải có thứ gì đó, tương tự như ête mà Arixtốt đã hình dung,
lấp đầy Vũ Trụ. Mắcxoen, nhà vật lý kiệt xuất, người thợ xây cuối cùng
của vật lý cổ điển, cũng tin rằng phải có ête để làm môi trường "cưu
mang" sóng điện từ. Số đông các nhà khoa học thời đó tưởng rằng những
hiện tượng vật lý trong Vũ Trụ đã được khám phá hầu hết. Vật lý học chỉ
cần viết thêm vài trang nữa là hoàn thành sứ mạng của nó. Nhiệm vụ cuối
cùng của họ có lẽ tập trung tìm cho ra ête mà thôi.
Nhưng mấy ai học
được chữ ngờ!
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, Khoa học và kỷ thuật phát triển mạnh, con
người bắt đầu tiếp xúc với những vật chất chuyển động nhanh, cỡ vận tốc
ánh sáng ( 300.000km/s trong chân không). Khi đó, xuất hiện nhiều hiện
tượng mâu thuẫn với các quan điểm cơ học của Newton. Cụ thể là: Không
gian, thời gian, khối lượng đều phụ thuộc vào chuyển động. Những khó
khăn đó, cơ học của Newton không thể giải đáp được. Từ đó, các nhà Thiên
văn học rút ra kết luận: Cơ học Newton ( tức cơ học cổ điển) chỉ áp
dụng cho những vật chất chuyển động với vận tốc nhỏ hơn nhiếu so với vận tốc ánh
sáng. Như vậy, cần phải xây dựng một cơ học mới, tổng quát hơn, áp dụng
cho tất cả các trường hợp.
Thí nghiệm nhằm mục đích khám phá sự
tồn tại của ête của Maikensơn và Mookly được coi là phát súng nổ đầu
tiên cho một cuộc cách mạng long trời lở đất trong vật lý học. Nó không
những không phát hiện ra ête mà còn trưng ra những mâu thuẫn nan giải về
vận tốc ánh sáng. Để giải quyết mâu thuẫn, Anhxtanh đã nên ra hai tiên
đề là vận tốc ánh sáng trong chân không là một bất biến đổi với mọi hệ
quy chiếu quán tính và mọi định luật vật lý đều giống nhau trong các hệ
quy chiếu quán tính. Từ đó ông xây dựng nên thuyết tương đối hẹp với
quan niệm mới rằng, không gian có tính tương đối và thời gian cũng có
tính tương đối, cụ thể là không gian và thời gian đều co lại theo chiều
chuyển động, phụ thuộc vào mức tăng vận tốc của vật.
Không dừng
lại ở đó, năm 1916, Anhxtanh lại đưa ra thuyết tương đối tổng quát. Với
thuyết này không gian và thời gian không những không còn đứng riêng rẽ, độc lập,
không ảnh hưởng tới nhau nữa, mà còn hòa quyện vào nhau thành một khối
không-thời gian. Không những thế, thuyết tương đối tổng quát còn chỉ ra
rằng nguyên nhân của lực hấp dẫn là do độ cong của không-thời gian gây
ra. Độ cong này (tức là độ lệch khỏi không gian Euclide) phụ thuộc vào
khối lượng và khoảng cách đến vật. Khối lượng càng lớn, khoảng cách đến
các khối vật chất đó càng gần thì
ảnh hưởng của vật chất đó lên không gian thời gian càng mạnh làm cho
không gian cong và thời gian kéo dài ra, trôi chậm lại.
Trên đây,
chúng ta đã trình bày sơ lược nhất lịch sử quan niệm của loài người về
Vũ Trụ, về không gian và thời gian. Thực ra đó là cuộc tìm câu trả lời "không gian là gì?"
và tranh luận dai dẳng giữa hai quan niệm không gian là Hư Vô hay không
Hư Vô, là trống rỗng tuyệt đối hay còn ẩn chứa cái gì đó. Cho đến nay,
hầu hết các nhà khoa học đều thừa nhận quan niệm về không gian và thời
gian do Anhxtanh nêu ra, mặc dù còn chứa nhiều mâu thuẫn và nghịch lý
khó lòng mà hiểu được.
Theo nguyên lý nước đôi của tự nhiên mà
chúng ta đề xướng, thì tự nhiên bao giờ cũng có hai mặt của nó, thể hiện
ra thành thế giới tương phản. Nghĩa là có mặt trái thì cũng có mặt
phải, có âm thì cũng có dương, mọi sự xảy ra đều có thể theo hai chiều
thuận nghịch. Nhưng nguyên lý nước đôi chỉ là tương đối, phần lớn tùy
thuộc vào mức độ xác đáng trong nhận biết, cảm thức và qui ước của con
người. Vì nguyên lý nhân quả - một nguyên lý cơ bản của tự nhiên, chỉ ra
rằng '"nhân" nào "quả" nấy. Hay có thể nói, trong tự nhiên có hai loại
chân lý gồm chân lý tương đối và chân lý tuyệt đối. Chân lý tương đối
bao hàm cả phi lý,còn chân lý tuyệt đối thì chỉ có một.
Chính vì
vậy mà một học thuyết khoa học ra đời, muốn trở thành một chân lý tuyệt
đối của tự nhiên, phải không được có mâu thuẫn nội tại, không có nghịch
lý, phi lý. Thế mà không hiểu sao các nhà khoa học lại làm điều ngược
lại, chấp nhận những nghịch lý, phi lý phát sinh đầy rẫy trong các lý
thuyết vật lý hiện đại như các lý thuyết tương đối, thuyết BigBang,
thuyết Vũ Trụ giãn nở, thuyết lượng tử..., mà không tìm cách cố gắng
khắc phục chúng, loại trừ chúng.
Vì lẽ đó mà chúng ta không tin
vào tính đúng đắn của quan niệm về không gian và thời gian do Anhxtanh
khởi xướng. Nếu Vũ Trụ này lấp đầy không gian, mà không gian là Tự Nhiên
Tồn Tại, là cội nguồn vật chất như chúng ta đã quan niệm, còn thời gian
là một tồn tại ảo, chỉ là một thể hiện của vận động, chuyển hóa không
gian, thì dứt khoát thời gian không thể phối hợp với không gian để hình
thành nên một thứ không - thời gian bị cong đi do khối lượng như thế. Thực thể và cái bóng của nó không thể hòa quyện vào nhau được!
Nếu không -thời gian cong là nguyên nhân gây ra lực hấp dẫn, thì khối
lượng làm cong không - thời gian đã triển khai lực làm cong như thế nào
và cong theo hướng nào?
Chúng ta nghiêng về quan niệm Vũ Trụ hay không gian của Lão Tử: "Đạo
(là tên gọi ám chỉ Vũ Trụ, không gian) là cái gì chỉ mập mờ, thấp
thoáng; thấp thoáng mập mờ mà bên trong có hình tượng; mập mờ thấp
thoáng mà bên trong có vật; nó thâm viễn, tối tăm mà bên trong có cái
tinh túy; tinh túy đó rất xác thực, rất đáng tin. Từ xưa đến nay, đạo
tồn tại hoài, nó sáng tạo vạn vật...". "Thần hang bất tử (ám chỉ
Vũ Trụ, không gian. Đêm đêm nhìn lên bầu trời.chỉ thấy màu đen thăm thẳm
và các vì sao như nhìn vào một cái hang vĩ đại, huyền bí!), gọi là
Huyền Tẫn (Mẹ nhiệm màu); cửa Huyền Tẫn là gốc của trời đất. Dằng dặc mà
như bất tuyệt, tạo thành mọi vật mà không kiệt (hay không mệt)". Cụ thể hơn, nếu ai đó hỏi chúng ta: "Không gian là gì?". Chúng ta sẽ mạnh dạn trả lời: "Không
gian là một khối thể tích có cấu trúc kiểu mạng vĩ đại mà nút mạng là
những hạt Không Gian - thành phần đóng vai trò đơn vị nhỏ tuyệt đối của
Tồn Tại!".
***
Như
vậy, nói đến thế giới này có nghĩa là nói về Vũ Trụ. Nói về Vũ Trụ tức
là nói về không gian và vật chất. Không gian và vật chất xét cho cùng
chỉ là không gian, chỉ có thể là Tồn Tại. Vũ Trụ Tồn Tại là vốn dĩ thế,
là tự nhiên như thế, không do lý trí nào. Vì Tồn Tại tự nhiên như thế nên không thể có Hư Vô.
Một minh chứng hùng hồn rằng, nếu Vũ Trụ là Hư Vô vốn dĩ thì làm sao có
chúng ta ở đây để bàn luận về nó?
Cũng chính vì Tồn Tại là tự
nhiên nên không gian là vô thủy vô chung, là không có cội nguồn, gốc
gác. Nhưng đã là Tồn Tại thì phải thể hiện. Một Tồn Tại, nếu không phân
biệt được với xung quanh, thì sao biết là nó Tồn Tại, sao gọi là Tồn
Tại? Bất cứ thứ gì, không thể hiện thì không Tồn Tại, không phân biệt
được với xung quanh thì không thể gọi là Tồn Tại được. Nói cách khác,
thể hiện là điều kiện tiên quyết của Tồn Tại! Phân biệt được là đặc
trưng cơ bản của Tồn Tại. Mà phân biệt là phải phân biệt đến tận cùng
giới hạn, đến tận "chân tơ kẽ tóc", không những phân biệt được với xung
quanh, mà còn với chính bản thân mình. Vì vậy, để tránh nguy cơ bị Hư Vô
đi, Tồn Tại phải thường xuyên chuyển hóa, biến đổi, tức là phải thường
biến.
Một Tồn Tại thường biến, hay một không gian thường biến là
không gian luôn chuyển hóa, chuyển hóa về trạng thái, chuyển hóa về qui
mô thể tích, chuyển hóa về hình dạng..., và chuyển hóa phải xảy ra ở
từng hạt KG. Chuyển hóa không gian còn được gọi bằng một tên quen dùng
từ xưa tới nay, đó là "vận động không gian". Có thể nói, vận động là bản
chất của không gian, biểu hiện ra bằng một khái niệm mà loài người đã
xây dựng được bằng cảm thức (cho đến nay vẫn còn hiểu mơ hồ!), đó là
thời gian. Không gian tồn tại là vốn dĩ thế nên vận động cũng là vốn dĩ
thế.
Vì thể tích không gian là vô cùng bao la, vô cùng vĩ đại, nhưng không
phải lả vô tận, mà được tập hợp bởi vô vàn hạt KG thường biến, thì có
thể xảy ra sự trùng lắp trong chuyển hóa, dẫn đến sự không phân biệt
được giữa hạt KG nào đó với các hạt KG xung quanh, có thể làm xuất hiện
Hư Vô, nên trong quá trình chuyển hóa, một số hạt KG lâm vào trạng thái
bị kích thích tột độ, tương tự như cộng hưởng và để tránh nguy cơ phát
nổ làm xuất hiện Hư Vô, ngay lập tức trạng thái kích thích tột độ bị
giải tỏa, lượng kích thích quá độ của chúng (mà sau này được gọi là
lượng năng lượng nhỏ nhất tuyệt đối của Vũ Trụ) chuyển từ hạt KG này
sang hạt KG khác, được thấy như lan truyền qua các hạt KG ra khắp Vũ Trụ
với vận tốc cực đại Vũ Trụ (C = 3 . 10^10 cm/s). Các hạt kích thích tột
độ mà cũng không phải hạt kích thích tột độ ấy được chia làm hai phần
có trạng thái kích thích trái chiều nhau, đến lượt chúng, sẽ kết hợp với
nhau từng đôi một, và tùy vào điều kiện hoàn cảnh cụ thể của từng
trường hợp mà hoặc trao đổi kích thích cho nhau để cùng về trạng thái
trung hòa hoặc kết hợp với nhau tạo thành hạt vật chất cơ bản đầu tiên
(chính xác hơn: thành một thực thể vật chất mà tính hạt thể hiện rõ hơn
tính sóng). Từ hạt vật chất cơ bản đầu tiên đó mà đa dạng vật chất, các
hành tinh, ngôi sao, thiên hà...hình thành!
Như đã trình bày, vận
động của Tồn Tại là vốn dĩ, là tự nhiên. Nhưng nhìn ở góc độ khác, vận
động cũng phải có lý do và nguyên nhân. Lý do duy nhất của vận động rõ
ràng là để thể hiện sự Tồn Tại (hay tồn tại), duy trì trạng thái tồn tại
vốn dĩ, tránh Hư Vô (hay hư vô). Còn nguyên nhân, cũng duy nhất của vận
động, là nhờ tác động trong vận động thường biến (vốn dĩ) của các hạt
KG bao quanh (bốn hạt) và để tránh nguy cơ bị trùng lắp trạng thái, mà
hạt KG đang xét, rối loạn quá trình biến đổi hài hòa, bị kích thích lên
trạng thái tột độ, gây ra hiện tượng giống như lan tỏa bức xạ (lan
truyền năng lượng) trong không gian. Đây rất có thể được coi như là "cú
hích" đầu tiên của vận động không gian (các nhà khoa học xưa nay cho
rằng, phải có "cú hích" khởi đầu cho vận động Vũ Trụ) và đóng luôn vai
trò là "giọt", là lượng tử, đơn vị nhỏ nhất tuyệt đối của năng lượng.
Theo
nhận thức khoa học hiện nay, năng lượng là một thứ gì đó tiềm ẩn lực và
có khả năng sinh công đối với vạn vật, là khả năng làm biến đổi trạng
thái của vạn vật. Suy rộng ra, năng lượng là thứ gì đó hàm chứa khả năng
chuyển hóa trạng thái, tạo ra đặc tính vận động của Tự Nhiên Tồn Tại.
Nói như thế có nghĩa, khi các hạt KG dù vốn dĩ thường biến để bảo toàn
Tồn Tại, phủ định Hư Vô, thì cũng coi như trong chúng có hàm chứa năng
lượng làm động lực thực hiện quá trình tự nhiên đó.
Nói một cách
đơn giản, Vũ Trụ là Tự Nhiên Tồn Tại. Tự Nhiên Tồn Tại là không gian, và
không gian chính là thể tích. Dù đến ngày nay chưa biết bản chất thể
tích là gì nhưng trong tầm quan sát của loài người thì thể tích có quảng
tính, tức là nếu xét theo không gian Ơclít, bất cứ khoảng không gjan
nào cũng có bề dọc, bề ngang và bề sâu. Muốn biết được qui mô hay thể
tích của một khoảng không gian thì phải biết được độ dài (hay khoảng
cách) của ba bề đó, tức là phải định lượng được ba bề đó. Rõ ràng, trong
chiều sâu nhận thức, chúng ta thấy, thể tích là một thứ gì đó rất cụ
thể, tương tự như không khí vậy. Muốn xác định thể tích không gian,
trước tiên, phải xác định được khoảng cách. Muốn xác định khoảng cách,
phải xác định được điểm.
"Điểm" là gì? Điểm (toán học) là khái
niệm cơ bản trong toán học, được thừa nhận như một khái niệm xuất phát,
do Ơclít qui ước để xây dựng môn hình học, được hình dung như là cái gì
đó rất nhỏ bé, không có kích thước hay kích thước bằng không. Trong toán
học hiện đại, điểm được hiểu là một phần tử trong một không gian trừu
tượng. Còn trong vật lý, khái niệm điểm được hiểu như một chất điểm. Chất điểm là khái niệm cơ bản trong vật lý, là viên gạch đầu tiên dùng
để xây dựng nên môn cơ học, đó là thực thể mà kích thước chiếm không
gian có thể bỏ qua. Toán học quan niệm về điểm như thế khác nào cho điểm
là một Hư Vô! Có lẽ vật lý học quan niệm đúng hơn, nhưng không phải có
kích thước "chiếm" không gian mà có kích thước không gian thực sự, tức
là có một thể tích, dù nhỏ tới mức nào.
Theo triết học duy tồn,
mọi thứ, kể cả Vũ Trụ, đều được xây dựng nên từ đơn vị, và điểm chính là
đơn vị tuyệt đối của không gian, có lượng thể tích nhỏ nhất tuyệt đối
của Vũ Trụ. Giả sử có thể tích một khoảng không gian là V và a là đơn vị
khoảng cách (tương đối) thì có thể viết V = h . a^3 , trong đó h là hệ
số. Khi a là đơn vị khoảng cách nhỏ nhất tuyệt đối a = 1 và h = 1. Do đó
thể tích đơn vị nhỏ nhất tuyệt đối là V = 1, và đó chính là hạt KG hay
còn gọi là "điểm không gian".
Thể tích không gian là sự hợp thành
của thể tích các điểm KG, nhưng không thể nói không gian được hình thành
từ chỗ không có gì mà sự tồn tại không gian là vốn dĩ thế,là tự nhiên
như thế, không có khởi đầu cũng không có tột cùng. Nếu thể tích của hạt
KG là V = h . a^3 và số lượng hạt KG của một khoảng không gian là S thì
thể tích của khoảng không gian ấy rõ ràng là W = S . h . a^3. Vì hạt KG
là thường biến nên nó phải biểu hiện thời gian Trong quá trình tìm hiểu
Vũ Trụ, con người đã khám phá ra đặc tính cơ bản của mọi thực thể vật
chất là có khối lượng và có một năng lượng toàn phần.
Theo quan
niệm của lý thuyết cơ học cổ điển do Niutơn xây dựng, thì khối lượng là
một đại lượng cơ bản nhằm chỉ "sức ỳ" hay còn gọi là "quán tính" trong
chuyển động của vạn vật. Trong lý thuyết tương đối rộng do Anhxtanh khởi
xướng và được hầu hết các nhà vật lý học thừa nhận, khối lượng còn được
hiểu là khả năng làm cong không-thời gian, tạo ra trường hấp dẫn của
vạn vật.
Vì phơi bày ra quá nhiều nghịch lý, phi lý không giải
quyết được nên chúng ta tin thuyết tương đối rộng chỉ là một giải pháp
toán học được lập nên nhằm giải thích một số hiện tượng bí ẩn của Vũ
Trụ, một ngộ nhận khoa học của Anhxtanh, do đó cũng không tin quan niệm
khối lượng là nguyên nhân gây ra trường hấp dẫn của vạn vật. Chúng ta
vẫn tin vào Niutơn. Có lẽ quan niệm về khối lượng của Niutơn nếu không
là chân lý thì cũng đã rất gần chân lý.
Một hạt KG bất động, nó có
lượng thể tích nhỏ nhất tuyệt đối của Vũ Trụ, và bằng V = k . a^3, với k
là hệ số, a là kích thước (đường kính?) của hạt KG. Khi vận động, một
phần lượng thể tích đó chuyển hóa thành lượng năng lượng nhỏ nhất Vũ
Trụ: V = (k . a^3)/2 => E = m . c^2 ,với m là khối lượng nhỏ
nhất tuyệt đối của Vũ Trụ, c là tốc độ chuyển hóa (cũng là tốc độ di
chuyển) cực đại tuyệt đối của Vũ Trụ. Hay E = h . v (với h là hằng số Planck, v là tần số chuyển hóa cực đại của hạt KG.
Quan niệm của triết học
duy tồn cũng cho rằng, khối lượng là số đo quán tính, là đặc trưng cho
khả năng bảo toàn trạng thái chuyển động đang có của vật chất. và hơn
thế nữa, có ý nghĩa có thể là quan trọng bậc nhất theo hình dung quá cỡ
hoang tưởng của chúng ta, khối lượng chính là đặc trưng cản trở sự
chuyển hóa không gian, không cho hạt KG hóa thành Hư Vô, mà từ trạng
thái cộng hưởng, kích thích tột độ, chỉ có thể hạ xuống thành hạt KG
thông thường bằng cách "truyền" lượng kích thích "dư thừa" như một bức
xạ điện từ ra không gian. Lượng kích thích ấy đúng bằng mc2 ,
với m là khối lượng hạt KG, c là vận tốc cực đại của Vũ Trụ. Và đó cũng
được coi là "giọt" năng lượng tuyệt đối nhỏ nhất, đóng vai trò là đơn
vị năng lượng của Vũ Trụ. Nó hàm chứa một xung lực là f . t = m . c ,
với t là đơn vị thời gian nhỏ nhất tuyệt đối của Vũ Trụ. Qua đây chúng
ta cũng cảm nhận được, vì sao vận tốc trong Vũ Trụ bị giới hạn và chỉ
đạt giá trị cực đại tuyệt đối bằng c.
Cần nhấn mạnh lại rằng, quá
trình chuyển hóa từ hạt không gian thông thường đến "hạt" bức xạ, "hạt"
cơ bản đầu tiên của vật chất, là vốn dĩ thế, tự nhiên như thế. Nhưng
chúng ta giải phẫu ra một cách siêu hình như thế nhằm "thấy rõ" ngọn
ngành mà thôi! Còn nếu vẫn chưa hiểu nữa thì hãy nghe câu nói của nhà vật
lý Phạm Việt Hưng: "Vật lý tuy không phải là một hệ logic
hình thức, nhưng ngôn ngữ diễn đạt nó là toán học và ngôn ngữ thông
thường. Cả hai thứ ngôn ngữ này đều bất toàn, vậy làm sao có thể có một
hệ thống vật lý tuyệt đối hoàn hảo để coi là cuối cùng?".
(Còn tiếp)
-----------------------------------------------------------
Thứ Hai, 7 tháng 2, 2022
TT & HĐ V - 50/b
(Tiếp theo)
Con người, trước hết hiểu không gian và thời gian một cách có hệ
thống thông qua cơ học Newton. Theo đó, không gian, thời gian không
những không liên hệ gì với vận động mà ngay bản thân chúng cũng tách rời
nhau. Không gian thời gian là hai khái niệm, một cái chỉ “ quảng tính”của vật, một cái chỉ "độ lâu mau" trong vận động của vật.
Vì vậy, chúng ta vẫn coi không gian và thời gian là hai phạm trù vật lý
khác nhau.
Ngày nay, khả năng nghiên cứu của con người đã vươn tới tầm Vũ Trụ,
tiếp xúc với những đối tượng vật lý có những đặc tính mới mẻ như các sao
Notron, các Lỗ Đen….. là những vùng có sự tập trung vật chất rất lớn mà
trên hành tinh chúng ta chưa từng có. Trong điều kiện đó, thuyết tương
đối hẹp tỏ ra còn “ hẹp” chưa đáp ứng được tình hình thực tế đặt ra. Cho
nên, Einstein đã xây dựng nên thuyết tương đối rộng hay còn gọi là
thuyết tương đối tổng quát.
Theo thuyết tương đối rộng ( tổng quát) Einstein chia làm hai phần,
đó là: Từ không gian, thời gian đến “ Không – thời gian” và từ không
gian, thời gian với khối lượng đến “ Không – thời gian cong”.
Trong thuyết tương đối hẹp, mọi vật chất có khối lượng đều chuyển động với vận tốc không thể vượt qua vận tốc ánh sáng. Cho nên quĩ đạo của chúng đều nằm trong nón ánh sáng mà thôi. Trong phạm vi này, không gian và thời gian có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, Có nghĩa là không gian và thời gian đã "xích" gần lại với nhau khi cùng có quan hệ khăng khít với vận tốc, chúng không còn là hai cái "trống rỗng" không liên hệ với cái gì và không bị bất cứ cái gì ảnh hưởng.
Đến đây, thuyết tương đối rộng (tổng quát) quan tâm đến trường hấp dẫn giữa các đối tượng vật chất, nhất là những đối tượng vật chất có khối lượng lớn, còn gọi là thuyết tương đối rộng, hay là thuyết hấp dẫn Einstein.
Đây là điều trái ngược với một trong những khẳng định của lý thuyết
tương đối hẹp ( là không một dạng vật chất nào có thể chuyển động nhanh
hơn vận tốc ánh sáng).
Trong khi đó, theo thuyết tương đối rộng ( tổng quát) thì lực hấp dẫn
và lực quán tính đều có chung một tác dụng như nhau và trường hấp dẫn là biểu hiện của độ cong của không gian thời gian: Nó thể hiện một đặc tính của không
gian và thời gian: không gian, thời gian cong lại bởi quán tính của vật
chất. Độ cong này ( tức là độ lệch khỏi không gian Euclide) phụ thuộc vào
khối lượng và khoảng cách đến vật.
Điều này phụ thuộc với tiên đoán của thuyết tương đối rộng của
Einstein: có nghĩa là không gian và thời gian có mối quan hệ gắn bó với
nhau. Chúng phụ thuộc vào khối lượng vật chất tồn tại trong không gian
thời gian đó. Khối lượng càng lớn, khoảng cách đến các khối vật chất đó
càng gần thì ảnh hưởng của vật chất đó lên không gian thời gian càng
mạnh làm cho không gian cong và thời gian kéo dài ra, trôi chậm lại. Với học thuyết này, Einstein vẫn quan niệm rằng vật chất và không - thời gian là hai thứ hoàn toàn khác nhau.
Hoàn toàn khác với quan niệm không gian tuyệt đối và thời gian tuyệt
đối, không làm ảnh hưởng đến cái gì và cũng không bị cái gì làm ảnh
hưởng theo quan niệm của cơ học cổ điển. Không gian thời gian trong cơ
học hiện đại ( theo thuyết tương đối) mang tính chất tương đối phụ thuộc
sâu sắc vào vật chất, cũng như phụ thuộc vào vận động. Hay nói cách
khác: không gian, thời gian là những hình thức tồn tại của vật chất đặc biệt (!).
Không có không gian và thời gian bên ngoài vật chất vận động. Như Lê Nin
đã nói: “Thế giới không có gì ngoài vật chất đang vận động và vật
chất đang vận động không thể vận động ở đâu ngoài không gian và thời
gian”.
Nói tóm lại, các quan niệm về không gian và thời gian
của các nhà khoa học và các bậc hiền triết từ xưa tới nay đều có đúng có
sai. Song, có lẽ gần chân lý nhất là nhận thức của triết học Mác-Lênin. Theo Wikipedia, nhận thức đó là:
"Không gian, thời gian là một
cặp phạm trù của triết học Marx-Lenin dùng để chỉ về một phương thức
tồn tại của vật chất (cùng với phạm trù vận động, trong đó không gian
chỉ hình thức tồn tại của khách thể vật chất
ở ví trí nhất định, kích thước nhất định và ở một khung cảnh nhất định
trong tương quan với những khách thể khác. Trong khi đó thời gian chỉ
hình thức tồn tại của các khách thể vật chất được biểu hiện ở mức độ lâu
dài hay mau chóng (độ dài về mặt thời gian),
ở sự kế tiếp trước hay sau của các giai đoạn vận động. Ph.Ăng-ghen đã
chỉ rõ phạm vi nghiên cứu của Triết học Mác-Lenin về vấn đề này, theo
đó, Không gian và thời gian là không gian và thời gian vật chất. Không
có không gian và thời gian thuần túy bên ngoài vật chất và "Dĩ nhiên,
cả hai hình thức tồn tại này của vật chất nếu không có vật chất sẽ là
hư vô, là những quan niệm trừu tượng trống rỗng tồn tại trong đầu óc của
chúng ta".
(...)
Không gian và thời gian gắn bó mật thiết với nhau và gắn liền với vật
chất và là phương thức tồn tại của vật chất. Theo chủ nghĩa Mác-Lenin
thì không có một dạng vật chất nào tồn tại ở bên ngoài không gian
và thời gian. Ngược lại, cũng không thể có thời gian và không gian nào ở
ngoài vật chất".
Tuy nhiên, quan niệm về không gian và thời gian đến thời Einstein vẫn chưa rõ ràng nếu không muốn nói là vẫn mờ mịt, khó hiểu.
Cuộc nghiền ngẫm của chúng ta về không gian
và thời gian dọc bước đường phiêu lưu "đi tìm cái gì đó" rốt cuộc đã cho
chúng ta cách nhìn mới về chúng. Không gian và thời gian là hai thứ gắn
liền mật thiết với nhau như hình với bóng, nhưng chúng vẫn độc lập với
nhau, không thể hòa quyện vào nhau thành "món súp" không-thời gian, có
thể co giãn tùy theo vận tốc hay bị khối lượng làm cong đi như Anhxtanh
quan niệm.
Rõ ràng với quan niệm như thế, sẽ phải đặt ra câu hỏi hoài nghi, nếu không gian và thời gian tồn tại như một thực thể không - thời gian cong thì tương lai được hợp thành như thế nào và quá khứ được lưu giữ ở đâu, chúng có... cong không?
Nhắc lại, thế giới này lấp đầy Tồn Tại. Hay nói cách
khác, Vũ Trụ lấp đầy không gian. Nếu chúng ta có khả năng quan sát khắp
Vũ Trụ này thì cũng không thấy được một chút Hư Vô nào. Vì nếu có phát
hiện ra một kẽ hở không gian nào, kẽ hở đó sẽ hiện thực nên lại là cái có,
tức Tồn Tại rồi! Nhưng có thể nào khoét một khoảng không gian ra khỏi đó
để làm xuất hiện Hư Vô không? Không, không bao giờ!
Cũng giống
như nếu mặt đất này toàn đại dương mà không có lục địa, làm thế nào
chúng ta mang nước ra khỏi đại dương, tạo lỗ hổng không khí được?
Chúng
ta cũng phân không gian thành hai dạng, tương đối và tuyệt đối, viết
phân biệt là không gian và Không Gian. Không Gian là thể tích của thực
thể vật chất (các thiên thể, các vì sao...), còn không gian là thể tích
của Vũ Trụ. Không gian bao hàm Không Gian! Nếu không gian đúng thật là
Tự Nhiên Tồn Tại duy nhất thì vật chất không thể tự nhiên có được, nó
phải được bao hàm bởi không gian, xuất sinh từ không gian và khi không
còn tồn tại nữa lại trở về với không gian, nghĩa là trở về với Tồn Tại.
Khi một người chết đi, cấu trúc vật chất và vật chất tạo dựng nên người
đó (cũng là thứ hun đúc nên tinh thần người đó!) sẽ chấm dứt hình dạng,
trạng thái tồn tại "cũ", biến hóa thành một cách thức tồn tại mới hoặc
trở về với không gian, tức là Tồn Tại, chứ không thể thành Hư Vô.
Sự
khác nhau giữa tồn tại và hư vô là tồn tại thì có nội dung còn hư vô
thì không. Nghĩa là khi nói đến một cái gì đó tồn tại thì phải hình dung
được nó được xây dựng nên từ cái gì và tồn tại đối với cái gì. Đặc tính
cơ bản của tồn tại là hiện hữu. Hiện hữu ở đây là hiện hữu khách quan,
không phụ thuộc vào cảm tính của con người, không phụ thuộc việc con người có quan sát hay không, mà là hiện hữu trước tồn tại (!).
Trước hư vô, tồn tại có muốn cũng không thể hiện hữu! Thí dụ, một phân tử
nitơ trong khí quyển là một tồn tại. Nó có thể tương đối không hiện hữu
trước con người nhưng tuyệt đối hiện hữu trong bầu khí quyển trước các
phân tử khí khác bao quanh nó. Hoặc một con voi đang ở sở thú và chúng
ta đang ở nhà. Nó dứt khoát phải là một tồn tại vì nó hiện hữu khách
quan trong sở thú, dù có thể rằng không hiện hữu trước chúng ta. Một tồn
tại có thể không hiện hữu trước cảm tính con người, nhưng một hiện hữu
dứt khoát phải tồn tại. Hay nói, tồn tại là tiền đề tất yếu của hiện thực.
Hư vô rõ ràng là không hiện hữu, nhưng có thể vẫn tồn tại, còn Hư Vô
thì không hiện hữu khách quan cũng không tồn tại. Điều đó cho thấy,
muốn Tự Nhiên Tồn Tại thì phải tồn tại đã, và chỉ có thể tồn tại khi có
hiện hữu khách quan. Hiện hữu khách quan là phương thức thể hiện cơ bản
nhất của tồn tại. Vậy thì một tồn tại muốn được gọi là tồn tại thì tiên
quyết phải hiện hữu một cách khách quan, tức là phải thể hiện. Thể hiện ở
đây là phải thể hiện đến từng chi tiết nhỏ nhất tuyệt đối, đến tận cùng
"chân tơ kẽ tóc" không gian và tận cùng giới hạn khoảng khắc thời gian.
Mục đích của sự thể hiện ấy là để tồn tại được nhận diện, được khẳng định. Một tồn tại
phải được nhận diện nếu còn muốn tồn tại, mà nhận diện là có nghĩa phải
phân biệt được. Phân biệt ở đây là vừa phải phân biệt với tồn tai xung
quanh, vừa phải phân biệt với chính nó đến giới hạn tuyệt đối của khoảng
khắc. Chính vì thế mà tồn tại luôn thường biến, biến hóa không ngừng.
Muốn như thế tồn tại phải vận động không ngừng. Cuối cùng, có thể khẳng
định, tồn tại là hiện hữu khách quan, biến hóa và vận động không ngừng
một cách tự nhiên.
Vì biểu hiện của không gian là thể tích nên
"đến tận cùng chân tơ kẽ tóc" không gian tức là đến tận cùng tuyệt đối
giới hạn kích thước không gian. Còn "tận cùng giới hạn khoảng khắc" thời
gian là đơn vị nhỏ nhất tuyệt đối của thời gian. Có thể nói nếu loại bỏ thời gian ra khỏi quan sát thì Vũ Trụ là một HiệnTại vĩ đại không có quá khứ và tương lai.
Nhưng cụ thể,
thời gian là gì? Từ ngàn xưa, loài người đã biết đến không gian và thời
gian. Cũng từ lâu đã có rất nhiều, không biết bao nhiêu, các bậc thánh
hiền, minh triết, danh tài khoa học tìm hiểu, suy tư về chúng. Nhưng cho
đến tận ngày nay, người ta vẫn không biết một cách đích xác và cụ thể
chúng là gì. Dò tìm trên mạng, chúng ta toàn thấy những bài viết không
trừu tượng thì cũng mông lung mơ hồ, không duy tâm tín ngưỡng thì cũng
siêu hình áp đặt chủ quan về không gian và thời gian. Không gian là Tồn
Tại, là cội nguồn của vật chất. Còn thời gian, có lẽ Wikipedia nói gần
thực tế hơn cả: "Từ "thời gian" có trong tất cả các ngôn ngữ của loài
người. Khái niệm thời gian có thể có cả ở động vật.
Định nghĩa về thời gian là định nghĩa khó nếu phải đi đến chính xác. Đa
số chúng ta ai cũng phải dùng từ đó và nói đến nó, ví dụ "thời gian
trôi",... và do đó dứt khoát phải có một cách hiểu chung nhất. Thời gian
là thuộc tính của vận động và phải được gắn với vật chất, vật thể. Các
nhà triết học đúc kết rằng "thế giới" vận động không ngừng (luôn vận
động). Giả sử rằng nếu mọi vật trong Vũ Trụ
đứng im, khái niệm thời gian trở nên vô nghĩa. Các sự vật luôn vận động
song hành cùng nhau. Có những chuyển động có tính lặp lại, trong khi đó
có những chuyển động khó xác định. Vì thế để xác định thời gian người
ta so sánh một quá trình vận động với một quá trình khác có tính lặp lại
nhiều lần hơn, ổn định hơn và dễ tưởng tượng hơn...".
Quan
niệm về thời gian như vậy vẫn có cái vẻ lờ mờ, rắm rối, chưa được sáng
tỏ, gợi cho chúng ta cái cảm giác thời gian là một thực tại. Một tồn tại
thực thì phải có nội dung, phải thể hiện. Từ xưa tới nay, người đời đã
nói rất nhiều về thời gian, nhưng đã có bao giờ ai thấy được thời gian
chưa? Chắc chắn là chưa rồi! Có quan sát mỏi mắt cũng không thể thấy
được trực tiếp thời gian. Ấy vậy mà chúng ta vẫn cứ cảm giác thời gian
tồn tại đây đó bàng bạc. Có như thế là vì không thể tách rời thời gian ra khỏi không gian, tức ra khỏi Vũ Trụ bởi nó là đặc trưng cơ bản của vận động mà vận động lại là yếu tố manh tính "sống còn"của Tồn Tại! Nó cứ như một dòng trôi rộng lớn không bờ không
bến, cuốn trôi tất cả các sự kiện trong Vũ Trụ, từ tương lai, đến hiện
tại và về quá khứ. Nhưng tương lai ở đâu, hiện tại là sao, quá khứ nơi
nào, thì thật là bất định. Nếu tương lai là đại dương chứa đựng tất cả
các sự kiện xảy ra cùng lúc để trôi về quá khứ thì Vũ Trụ sẽ không có
lịch sử và phải ngẫm nghĩ lại hiện tại của nó. Còn nếu các sự kiện phải
"chờ" đến lượt trôi về quá khứ thì tương lai cũng phải có quá khứ, hiện
tại, tương lai. Quá khứ và hiện tại cũng tương tự như thế. Vậy tình
hình sẽ như thế nào!?
Nói chung, quan niệm từ trước đến nay mâu
thuẫn mà suy tư trừu tượng của con người không thể giải quyết được. Chỉ
còn một cách hiểu duy nhất, mà thật giản dị và cũng là quan niệm của
triết học duy tồn, thời gian là một tồn tại ảo, có nội dung ảo, không
phải thực tại. Nói chính xác hơn, thời gian là biểu hiện thường biến của
tồn tại, của vận động và chuyển hóa không gian. Vì vận động là bản chất
của tồn tại nên thời gian phải gắn bó với không gian như hình với bóng,
nhưng không thể hòa quyện với không gian thành thứ "hổ lốn" không-thời
gian co duỗi theo vận tốc và uốn cong theo khối lượng như Anhxtanh hình
dung được! Những khái niệm như quá khứ, hiện tại, tương lai, thời gian
trôi, vĩnh viễn...được xuất sinh từ sự trừu tượng của con người.
Có thể nói, Tồn Tại phải vận động.Ở đâu có vận động, ở đó có thời gian. Nói cách khác, nếu gọi không gian là Tồn Tại thì thời gian là Vận Động, cái bóng của không gian và như thế chúng ta hiểu vì sao thời gian hiện diện khắp Vũ Trụ.
***
Từ
đây, triết học tự nhiên của triết học duy tồn đã khẳng định dứt khoát
rằng, không thể có Hư Vô trong thực tại. Ngay bản thân tư duy trừu tượng
có thể hình dung ra bất cứ thứ gì nhưng không thể hình dung ra Hư Vô dù
cố gắng đến cỡ nào. Bất cứ thứ gì, nếu hình dung ra được, tưởng tượng
ra được, đều là tồn tại, dù là tồn tại ảo. Khi chúng ta hình dung ra một
tiếng thét, vì nó không có nội dung gì cả, thì cho nó là một
Hư Vô? Nó không thể Hư Vô được mà chỉ có thể hư vô! Xét về nguyên nhân
gây ra thì tiếng thét là kết quả của một vận động vật chất nên nó là "Có",
vậy nó tồn tại. Xét bản thân tiếng thét một cách độc lập, phải coi nó
là một tồn tại ảo, nên nó vẫn là "Có", tức tồn tại.
Vô hình dung với quan niệm như thế, chúng ta đã trả lời được thắc mắc của nhà bác học Pascal,khi ông ngước nhìn lên Vũ Trụ: "Sao phải có cái gì đó chứ không phải là không có gì?".
Vũ
Trụ, như từ xưa tới nay loài người quan sát và nhận thức, chỉ có không
gian và vật chất. Nếu loại bỏ được vật chất sẽ chỉ còn lại không gian,
và nếu loại bỏ cả không gian, thì lúc đó Vũ Trụ thực sự là Hư Vô. Khi Vũ
Trụ Hư Vô thì đến một thể tích nhỏ nhất cũng không có. Vậy thì có Vũ
Trụ Hư Vô không? Một bộ não biết tư duy trừu tượng, biết suy lý giỏi nhất
cũng phải trả lời phủ định trước câu hỏi đó!
Nếu không có Vũ Trụ
Hư Vô thì cũng không thể loại bỏ không gian ra khỏi Vũ Trụ (thật là
hoang mang khi loại không gian ra khỏi Vũ Trụ vì không biết nhét không
gian vào đâu!?). Thế còn vật chất? Có thể loại bỏ khỏi Vũ Trụ trong
tưởng tượng được không? Về mặt lôgic, có thể được vì không gây mâu thuẫn
nào, miễn tìm được chỗ chứa (!). Và chúng ta đã có giải pháp mà trước
kia đã từng một lần hình dung: Vũ Trụ là một đại dương thể tích không
gian vĩ đại được ví như nước. Vật chất là tất cả các khối băng trôi lềnh
bềnh trong đó. Băng tan thành nước (tức thành không gian), nước đóng
lại thành băng (tức vật chất). Suốt quá trình đó thể tích không gian
(tức Vũ Trụ) không đổi, Vũ Trụ không "suy suyển", vẫn bảo toàn. Sự hình
dung đó đã dẫn dắt chúng ta tới quan niệm: vật chất là thứ được xuất
sinh ra từ không gian. Nhưng sự xuất sinh đó hình thành bằng cách nào?
Để
trả lời được câu hỏi đó, trước hết chúng ta hình dung rằng vật chất, vì
lý do nào đó chuyển hóa hoàn toàn vào không gian (có thể tưởng tượng
được điều đó nhưng không thể xảy ra trong thực tế vì "vướng" nguyên lý
bảo toàn-một nguyên lý cơ bản của tự nhiên: lượng vật chất trong không
gian được bảo toàn, đó là có thêm bao nhiêu lượng vật chất được chuyển
hóa thành từ không gian thì có bấy nhiêu lượng vật chất chuyển hóa trở
lại thành không gian). Lúc đó, như đã quan niệm, Vũ Trụ là một Tồn Tại
vĩ đại và Tồn Tại vĩ đại cũng chính là không gian với lượng thể tích khó
mà xác định được.
Vấn đề không gian vô hạn hay hữu hạn là vấn đề
gây khốn khổ bậc nhất cho trí tuệ loài người, làm kiệt sức biết bao
nhiêu bộ não trác tuyệt của họ. Quan niệm hướng nào theo một trong hai
hướng ấy đều bộc lộ ra những mâu thuẫn không dễ gì giải quyết được. Về
phía vô cùng lớn, nếu cho rằng Vũ Trụ hữu hạn (tức không gian hữu hạn!),
thì ngoài ranh giới hữu hạn là gì nếu không phải Hư Vô? Lại phải nghĩ
về một Vũ Trụ vô hạn. Nhưng nếu Vũ Trụ vô hạn, thì nguyên lý bảo toàn
tồn Tại (là nguyên lý "gốc" của tự nhiên, nguyên lý mà từ đó suy ra nguyên lý bảo toàn năng lượng), một nguyên lý cơ bản thuộc hàng bậc nhất của Tự Nhiên Tồn Tại,
sẽ mất hết ý nghĩa. Về phía vô cùng nhỏ, triết học duy vật biện chứng
(triết học Mác- Lênin) cho rằng Vũ Trụ vô tận, "Điện tử cũng vô cùng tận như nguyên tử, tự nhiên là vô tận"
(lời Lênin). Nhưng nếu Vũ Trụ có thể tích nhỏ vô tận ở phía vô cùng
nhỏ, thì làm sao chúng hợp thành một đại dương thể tích không gian bao
la được? Còn nếu sự nhỏ của không gian ở phía vô cùng nhỏ (vô cùng nhỏ
hay vô cùng lớn là nói về sự rất nhỏ hay rất lớn, chứ không phải nói về
cái nhỏ vô hạn hay lớn vô hạn) là có tận cùng giới hạn thì có cái sau
tận cùng đó không?
Thế sao trong toán học vẫn có những hiện tượng
lôgic nói về sự vô tận ở cả hai phía qui mô vô cùng lớn và vô cùng nhỏ?
Đó có thể là do sự hoang tưởng quá lố chưa bị/được khống chế của tư duy
trừu tượng!
Toán học được sinh ra do nhu cầu cuộc sống, dần dần
được phát triển thành ngôn ngữ không thể thay thế của khoa học, nhất là
vật lý học, trên con đường đi khám phá thế giới. Nhưng trong quá trình
phát triển, do bị lũng đoạn bởi mặt trái tự do vô lối của tư duy trừu
tượng, toán học vừa đạt được những thành quả huy hoàng vừa dần xa rời
thực tại. Có thể ví toán học như ngọn thái sơn kim cương tỏa ra lấp lánh
muôn sắc màu. Nó sinh ra từ thực tại, chỉ ra những điều tiềm tàng trong
thực tại, nhưng không phải thực tại mà là thực tại ảo huyền thoại.
Trước đây, người ta cứ tưởng toán học là ngọn thái sơn chân lý bất di
bất dịch, nhưng thực ra nó còn đại diện cho cả những nghịch lý vượt sức tưởng tượng nhưng hợp lôgic
nữa. Thí dụ:
1 + 1 = 2
là điều không ai chối cãi được. Nhưng nếu nghĩ kỹ thì thấy nó chỉ đúng trong qui ước Vì:
"1 quả táo + 1 quả táo" không thể bằng "1 quả táo + 1 đống táo"
Vả lại, 2 là cái gì mà 1 + 1 bằng nó?
Lại
nữa, tại sao một số lớn hơn số 0 (>0) đem chia cho một số lớn
hơn số 0, nhưng nhỏ hơn số 1 lại cho kết quả lớn hơn nó? Thí dụ có 5 kg
thịt chia cho 5 người được 1 kg/ng nhưng đem chia cho 0,5 người thì được
10 kg/ng. Sao kỳ thế? Thực ra phép toán 5/0,5 là sai. Phép toán đúng
trong thực tế phải là 5/(5 . 2 . 0,5) = 1 kg/ng. (Chia thịt cho một
nửa người là chuyện tiếu lâm!)
Thí
dụ trên đã dẫn chúng ta đến một kết luận tầm thường: trong thực tế đời
sống, muốn cho phép chia có nghĩa, bao giờ số chia cũng phải lớn hơn
hoặc bằng 1.
Quan niệm tầm thường đó dã dọn đường cho chúng ta đến với một quan niệm
thực sự lớn lao. Đó là, mọi thực thể, mọi tồn tại thực cũng như mọi hệ
thống trong Vũ Trụ này đều được xây dựng nên từ đơn vị, tức từ cái 1,
tuyệt đối hay tương đối. Chẳng hạn con bò là đơn vị tuyệt đối của đàn
bò. Đơn vị tuyệt đối của giống loài bò là tế bào bò. Có thể chọn kg là
đơn vị (tương đối) của thịt bò. Không ai chọn thịt bò làm đơn vị tính
toán số lượng đàn bò cả. Tương tự như vậy, trong khi con người rõ ràng
là đơn vị tuyệt đối của xã hội vì không có con người thì không có xã hội
loài người. Nhưng vì sao người ta vẫn coi gia đình là tế bào của xã
hội? Thực ra gia đình chỉ là đơn vị tương đối của một xã hội đã nhấn
mạnh tính tư hữu mà thôi.
Trước đây, các nhà khoa học cho rằng vật chất và năng lượng là có tính
liên tục. Nhờ vấp phải "tai biến tử ngoại" và trong quá trình tìm cách
giải quyết nó, họ đã phát hiện ra rằng chúng có tính gián đoạn, là gồm
những đơn vị rất nhỏ gọi là lượng tử năng lượng và lượng tử vật chất
(foton) tạo thành.
Theo
quan niệm của chúng ta thì thế giới này vừa liên tục vừa gián đoạn, là
cả hai mà cũng không phải cả hai (nghĩa là không thể hiện cùng một lúc
được). Khi thấy nước liên tục thì nó không thể gián đoạn, và ngược lại,
khi thấy nó gián đoạn thì không thấy nó liên tục nữa. Ánh sáng cũng vậy, vừa
là sóng, vừa là hạt, là thế nhưng cũng không phải thế. Nếu tồn tại thực
là gián đoạn thì tồn tại ảo là liên tục. Chỉ có quan niệm như thế thì
mới thỏa mãn được đặc tính "nước đôi" của Vũ Trụ mà chúng ta đã nêu ra
trên bước đường hành trình của mình.
Vậy
thì hạt đơn vị nhỏ nhất tuyệt đối của vật chất là gì? Đến nay chưa ai
biết nó là gì, nhưng có thể phỏng đoán đó là một giả thực thể lưỡng
tính: khi di chuyển thì có tính năng lượng (tính gián đoạn), khi đứng
yên thì có tính sóng (tính liên tục).
(Còn tiếp)
-----------------------------------------------------------