Ông là người của giang hồ, lưu lạc bốn phương, quay lại Việt Nam thành lập nên phái Võ Lâm Chánh Tông nổi tiếng những năm 50 của thế kỷ trước cho tới nay.
Võ sư Băng Sơn chụp ảnh cùng với đại sư Đoàn Tâm Ảnh
Hành hiệp trượng nghĩa
Có dịp tiếp xúc với giới võ sư trong làng võ TP.HCM, chúng tôi thường
được nghe họ nói nhiều về một nhân vật có ảnh hưởng lớn trong giới võ
lâm trước 1975, đó là cố võ sư Đoàn Tâm Ảnh, người sáng lập phái Võ Lâm
Chánh Tông. Đi sâu tìm hiểu, quả là có nhiều giai thoại và còn những
điều ít biết về một võ sĩ đã từng du đấu khắp nơi và được mệnh danh là
“thiên hạ đệ nhất cao thủ”.
Sau khi theo thiền sư Mộc Đức sang Trung Hoa học tập, Sáu Nhỏ (biệt
danh của cố võ sư Đoàn Tâm Ảnh) trở về Việt Nam. Phiêu bạt một số nơi,
rồi ông chạy xuống miền Tây. Tại đây, ông sáng lập phái Võ Lâm Chánh
Tông. Sau đó, ông mở nhiều lò võ tại các tỉnh Bạc Liêu, Sóc Trăng, Cà
Mau, Cần Thơ, Vĩnh Long… Tại các địa phương này, ông đã để lại nhiêu
giai thoại về mình. Cho tới nay, nhiều người cố cựu ở các tỉnh miền Tây
vẫn còn nhớ những vụ lấy thủ cấp của các tên quan lại bán nước cầu vinh,
hay những tên ác ôn, hà hiếp dân lành do một hiệp khách giấu mặt thực
hiện.
Võ sư Nguyễn Thành Trác, một môn đệ của phái Võ Lâm Chánh Tông nghe
kể lại rằng: Cứ tối đến, lúc mọi người đang yên giấc thì sáng hôm sau
tỉnh dậy thể nào cũng nghe nơi này hoặc nơi kia xảy ra chuyện. Đó là một
tên gian ác hay tên quan tham bị giết trong đêm. Khi hành quyết xong,
hiệp khách bao giờ cũng để lại dấu vết là hình vẽ một ngôi sao năm cánh.
Trước tình hình trị an ngày càng bất ổn, bọn thực dân và bè lũ tay sai
bán nước cứ nơm nớp lo sợ cho tính mạng của mình. Chúng bố ráp và bắt bớ
nhiều dân lành để tra hỏi hung thủ nhưng không ai biết cao thủ hành
hiệp trừ nghĩa đó là ai.
Nhiều năm trôi qua, nhiều tên tham quan, bán nước bị thủ tiêu làm cho
thực dân ngày càng hoang mang, còn nhân dân thì hoan hỉ vì biết những
tên ác ôn bị tiêu diệt là họ bớt thống khổ. Trước tình cảnh ấy, nhiều
tên thuê lính tráng canh gác cẩn mật, đồng thời, cho xây nhà cửa kín
cổng, cao tường. Tuy nhiên, khi đã chọn mục tiêu thì dù kiểu gì hiệp
khách vẫn lấy mạng chúng như chơi, không để lại dấu vết gì ngoài hình vẽ
sao năm cánh. Bên cạnh chuyện đi thủ tiêu các tên ác ôn, cường hào ác
bá thì cũng có giai thoại kể lại rằng, cố võ sư Đoàn Tâm Ảnh còn thành
lập nhóm Sao Trắng cùng những nghĩa sĩ gan dạ đứng lên chống Pháp. Nghe
đồn, nhóm Sao Trắng cũng đã làm cho bọn thực dân và bè lũ tay sai nhiều
lần kinh hồn, khiếp vía.
Đến đầu năm 50 của thế kỷ trước, cố võ sư Đoàn Tâm Ảnh phiêu bạt lên
Tây Ninh. Tại đây, ông được hội đồng Tòa thánh Tây Ninh mời làm giáo đầu
cùng với ông Huỳnh Phú Sự và một số người khác huấn luyện võ thuật cho
các môn đệ trong Tòa thánh và những người trong khu vực có nhu cầu học
võ. Chính tại đây, cố võ sư Đoàn Tâm Ảnh thu nhận nhiều đệ tử, trong số
đó có những người thành danh như Tư Thông, Tám Tửu, Nguyễn Thành Nghiêm
(ba người này được mệnh danh là Tam vương).
Với mong muốn truyền bá võ công một cách rộng rãi, cố võ sư Đoàn Tâm
Ảnh có ý định đưa Tam vương này về ba vùng Bắc, Trung, Nam để truyền bá
võ công. Tiếc rằng, do những điều kiện đất nước lúc bấy giờ nên ý đồ của
cố ông không thực hiện được. Đến năm 1960, ông quay về Sài Gòn, đồng
thời, mở võ đường thu nhận học trò tại khu vực Chợ Lớn. Thời điểm này,
ông đã thu nhận và truyền dạy võ công cho nhiều người, trong đó có nhiều
tên tuổi nổi bật về sau như: võ sư Hàng Thanh, võ sư Âu Vĩnh Hiền, võ
sư Lạc Hà, võ sư Từ Võ Hạnh, võ sư Văn Ngọc Thạch… Nhóm này được mệnh
danh là Ngũ cao thủ nổi tiếng Sài Gòn lúc bấy giờ. “Dân chơi cầu Ba cẳng” đánh khắp thế giới
Cố võ sư Đoàn Tâm Ảnh tên thật là Tô Văn sinh 24/12/1900 tại cầu Ba
cẳng, Bình Tây, Chợ Lớn (nay là TP.HCM). Ông là con trai út trong gia
đình có 6 người con (5 gái, 1 trai). Cha ông là người Tiều, Trung Quốc,
còn mẹ là người gốc Nghệ An. Lúc sinh thời, ông từng kể lại rằng: “Năm
1913 (Quý Sửu), tôi được Mộc Đức thiền sư, một người Hoa lưu lạc sang
Việt Nam nhận làm đệ tử và đưa về Phi Lai Tự (Trung Hoa) để sống và học
tập. Tại đây, tôi được học Phật pháp, thiền, Côn lôn Băc phái và luyện
tập Thiếu lâm Nam phái do các cao thủ Trung Hoa truyền dạy. Trong quá
trình ở Trung Hoa hơn 11 năm trời, được tu luyện võ công, tôi cùng đã
từng du đấu tại nhiều võ đài trên trường quốc tế: Thái Lan, Hồng Kông…”.
Trong quá trình lưu lạc giang hồ tứ phương, một ngày nọ, hai thầy trò
Mộc Đức và cô võ sư Đoàn Tâm Ảnh gặp lại một người bạn cũ của thiền sư
Mộc Đức, ông là Bắc Phong Hòa Thượng (trụ trì một chùa Thiếu lâm tự ở
Trung Hoa). Bắc Phong Hòa Thượng có một môn đệ nữ, tên Cẩm Tú xinh đẹp
cũng trạc đôi mươi lại giỏi võ công. Hai người bạn cũ lâu ngày gặp lại,
cùng có môn đệ mê võ, hợp ý nhau, họ đã tác thành cho đôi uyên ương nên
duyên vợ chồng. Từ đấy, nhiều bí kíp võ công của hai người bổ sung qua
lại, giống như “hổ thêm cánh”.
Theo đó, cố võ sư Đoàn Tâm Ảnh chỉ cho Cẩm Tú những gì mà mình đã
được học thời gian qua. Ngược lại, Cẩm Tú lại truyền tiếp những tuyệt
chiêu của Thiếu lâm cho cô võ sư Đoàn Tâm Ảnh. Đặc biệt nhất là những
chiêu thức tuyệt kỹ của thiếu lâm được cố võ sư Đoàn Tâm Ảnh luyện khá
nhanh và thành thục. Hai người luyện tập siêng năng và miệt mài cho tới
một ngày xảy ra biến cố: Chiến tranh Hoa – Nhật bùng nổ, vợ chồng ly tán
mỗi người một phương. Sau nhiều năm tìm kiếm nhưng vô vọng, cố võ sư
Đoàn Tâm Ảnh đành phải quay trở lại quê nhà.
Đến năm 1954, cố võ sư Đoàn Tâm Ảnh chính thức mở võ đường và lấy tên
là Võ Lâm Chánh Tông khi bước sang tuổi 55. Với uy danh cùng võ nghệ
cao cường, võ đường của cố võ sư Đoàn Tâm Ánh thu hút đông đảo võ sinh
khắp nơi. Chính bằng tài năng, trí tuệ và cái tâm của dân võ, ông đào
tạo ra nhiều thế hệ võ sư, huấn luyện viên tài năng. Nhiều người trong
số đó đã thành danh: võ sư Tư Thông, hiệu Bắc quyền vương, võ sư Tám
Tửu, hiệu Trung quyền vương, võ sư Nguyễn Thành Nghiêm, hiệu Nam quyền
vương thuộc lứa đệ tử đầu tiên. Rồi đến nhóm đệ tử thứ hai nổi danh có
võ sư Hàng Thanh, hiệu Bạch đế (đạt đến cao đẳng Taekvvondo ITF); võ sư
Âu Vĩnh Hiền (Vũ Đức), hiệu xích đế; võ sư Lạc Hà, hiệu Hắc đế; võ sư
Bắc Phong Từ Võ Hạnh, hiệu Huỳnh đé (cao đẳng Taekwondo ITF); võ sư Hồng
Phong Văn Ngọc Thạch, hiệu Thanh đế. Tiếp nối các thế hệ sư huynh, về
sau còn có các võ sư Nguyễn Thành Tâm, Nguyễn Thanh Sơn, Quang Diệu Sy…
Không chỉ là người giỏi võ công, có nhiều đệ tử tài ba, cố võ sư Đoàn
Tâm Ảnh cùng nhiều đệ tử đã cho ra mắt khá nhiều sách, tài liệu về võ
công nhằm phổ biến và cung cấp thêm kiến thức một cách rộng rãi cho
người học. Nổi bật có bộ Thất thập nhị huyền công (72 đòn thế căn bản
của Võ Lâm Chánh Tông) và Thập bát La Hán quyền (18 bài quyền cùa Võ Lâm
Chánh Tông: gồm 8 bài Tiểu môn La Hán và 10 bài Đại môn La Hán).
Hai bộ này, giúp cho người luyện võ có thể đạt tới đỉnh cao công phu.
Ngoài hai bộ “bí kíp” công phu trên thì cố võ sư Đoàn Tâm Ảnh còn để
lại nhiều chiêu thức độc đáo khác như: Chu long song kiếm, Tru tiên song
chùy, Thập nhị xà quyền, Tam tinh quyền, Đả hổ lưỡng đầu con… và đặc
biệt và nổi danh nhất có lẽ là những bộ thần công còn được truyền đến
ngày nay như: Thập bát chưởng công (18 phép đánh chưởng); Thất thập nhị
huyệt công (72 cách tấn công vào huyệt đạo)…
Sống thọ 109 tuổi
Vào năm 1999, nhân ngày các con cháu, đệ tử, học trò khắp nơi làm lễ
mừng thọ, cố võ sư Đoàn Tâm Ảnh đã chính thức giao chức chưởng môn Võ
Lâm Chánh Tông cho võ sư Nguyễn Thành Nghiêm kế thừa. Vào một ngày đầu
tháng 11/2008, cố võ sư Đoàn Tâm Ảnh đã trút hơi thở cuối cùng, đại
thượng thọ 109.
Đi tìm bí kíp võ công của cao thủ võ lâm Việt Nam
Võ sư Đoàn Tâm Ảnh và môn phái Võ Lâm Chánh Tông
Thứ tư, 12/08/2015 * Võ sư Trương Văn Bảo -- Liên đoàn Võ thuật cổ truyền Việt Nam
Võ sư Đoàn Tâm Ảnh tên thật là La Tô, biệt danh “Sáu nhỏ”, sinh
năm 1900 tại Chợ Lớn - Sài Gòn, con của ông Tô Nghiêm và bà La
Thị Muối. Ông là con trai út trong gia đình có 6 người con (5
gái, 1 trai), được cha mẹ gửi cho Mộc Đức thiền sư để tập
luyện võ thuật, tăng cường sức khoẻ. Năm 1913 ông cùng Mộc Đức
thiền sư sang Phi Lai Tự - Trung Quốc tu học Phật pháp và luyện
tập võ công Côn Lôn Bắc phái (Côn Lôn hay Côn Luân là môn phái
lớn cùng Không Động, Hoa Sơn, Nga Mi, ngang với Võ Đang và Thiếu
Lâm). Ông được chân sư Thiếu Lâm là Bắc Phong hoà thượng truyền
dạy võ công. Sau nhiều năm tu học và phiêu bạt, tranh tài quốc
tế trên các võ đài Hong Kong, Thái Lan, Singapore, Mã Lai… ở
thập niên 30. Năm 1951 ông trở về Việt Nam nhưng đến năm 1954 ông
mới mở võ đường truyền dạy chính thức tại Cần Thơ
Dưới sự dìu dắt của võ sư Đoàn Tâm Ảnh, có một số võ sư
trước đây thành danh như nhóm đệ tử đầu tiên. Trong số các võ
sư này, võ sư (giáo sư) Hàng Thanh và võ sư Bắc Phong Từ Võ
Hạnh là những võ sư cao đẳng Taekwondo ITF. Môn phái lấy ngày 9
tháng Giêng kỷ niệm ngày thành lập và ngày mất của võ sư
Đoàn Tâm Ảnh, 6 tháng 10 âm lịch hằng năm là ngày giỗ tổ. Năm
1999 nhân ngày chúc thọ, võ sư Đoàn Tâm Ảnh đã giao cho võ sư
Nguyễn Thành Nghiêm kế thừa chưởng môn “Võ Lâm Chánh Tông Thập
Bát La Hán Quyền”. Ngày 03 tháng 11 năm 2008 (6 tháng 10 năm Mậu
Tý) võ sư Đoàn Tâm Ảnh qua đời, đại thượng thọ 109 tuổi.
Võ Lâm Chánh Tông có nhiều môn đệ giỏi, viết sách báo phổ
biến những bài bản chân truyền của môn phái. Trước năm 1975,
điều kiện nghiên cứu còn khó khăn, tài liệu ít ỏi, cơ sở vật
chất và phương tiện in ấn thô sơ nhưng võ sư Đoàn Tâm Ảnh đã
nổi tiếng bởi những bộ sách ra đời, đó là Thất thập nhị
huyền công và Thập bát La hán quyền do giáo sư Hàng Thanh biên
soạn, sau nối tiếp là võ sư Hồng Phong Văn Ngọc Thạch rồi đến
Lạc Việt với Thập bát La hán quyền toàn tập.
Võ sư Đoàn Tâm Ảnh (1900-2008)
Đặc điểm của Thất thập nhị huyền công là phần kỹ thuật căn
bản khoa học, rõ ràng, giúp người trong môn phái tập luyện và
người ngoài môn phái tham khảo, xây dựng kiến thức cho mình.
Nhiều võ đường, võ phái mới sáng lập sau này đã dựa trên
nguyên tắc của Thất thập nhị huyền công mà diễn thành phần căn
bản cho riêng mình. Nhờ vào sách có nhiều người đã thụ giáo
bằng phương pháp “ngoại khoá” mà nên danh. Thất thập nhị huyền
công có thể hiểu là 72 đòn thế căn bản của Võ Lâm Chánh Tông,
khác với Thất thập nhị huyền công là 72 tuyệt kỹ công phu của
Thiếu Lâm Tự như: Thiết tý công, Thiết đầu công, Thiết sa
chưởng, Mai hoa trang, Thiết ngưu công, Toàn phong chưởng, Nhu cốt
công, Điểm thạch công, Nhứt chỉ kim cương pháp (Nhứt dương chỉ)…
Võ sư Đoàn Tâm Ảnh dựng bảng mở đường, lập môn phái ở tuổi
50, tuổi của “ngũ thập tri thiên mệnh”, không sớm như một số võ
sư quá trẻ hôm nay. Võ sư Đoàn Tâm Ảnh quan niệm võ là thực
chiến, không phải là tuồng, không phải là tiểu thuyết trừu
tượng, không phải là vũ trường, không phải là xiếc đu dây, vì
vậy võ không hư cấu, nếu võ hư cấu chẳng khác nào một hiệp
sĩ khi chiến đấu tuốt gươm ra đợi ca hết một bản nhạc tình
rồi mới đấu thì không còn là võ nữa và cao cả trên cả sự cao
cả của võ là tinh thần thượng võ của người dạy võ, học võ,
đó là võ đạo.
LƯỢC SỬ VỀ VÕ PHÁI “VÕ LÂM CHÁNH TÔNG"
Thiền sư Đoàn Tâm Ảnh (tên
thật là La Tô), biệt danh Sáu nhỏ sinh năm 1900 tại Chợ Lớn Sài Gòn. Cả
cuộc đời ông sống kiếp phiêu bạt giang hồ, nay chỗ này mai chỗ khác, có
những nơi ông chỉ ở vài tháng hoặc vài ba năm…. Do vậy, để tóm tắt về
cuộc đời người chúng tôi chỉ có thể đề cập tới 1 số thời điểm tương đối
chính xác như sau:
* Thiền sư Đoàn Tâm Ảnh là con trai út trong 1
gia đình đông con gồm 6 chị em. Do thể chất nhỏ bé và thường hay bị bệnh
tật nên cha mẹ đã gửi ông cho người chú họ là Mộc Đức Thiền Sư với mong
muốn ông được rèn luyện võ nghệ, tăng cường sức khỏe. Thấy La Tô nhỏ bé
nhưng rất nhanh nhẹn, tháo vát lại có năng khiếu về võ thuật, Mộc Đức
Thiền Sư hết lòng quý mến truyền dạy võ nghệ cho cậu. Năm 1913, được sự
đồng ý của gia đình, 2 chú cháu khăn gói sang Trung Quốc. Từ đây, cậu bé
La Tô được các Đạo sĩ trong chùa Phi Lai Tự (phía bắc Trung Quốc) thâu
nhận. Họ dạy cho ông cách Thiền định và võ học của Bắc phái như: Côn
Lôn, Cửu Ngũ Tam Vương, Xà Quyền…
* 9 năm sau, khi đi hành hiệp
giang hồ, 2 chú cháu gặp lại Ngài Bắc Phong Hòa Thượng (người Trụ trì
chùa Thiếu Lâm Tự) là bạn của Mộc Đức Thiền Sư. Bắc Phong Hòa Thượng có 1
đệ tử nữ là bà Cẩm Tú. Thấy 2 đệ tử của mình là 1 cặp trai tài gái sắc,
tinh thông võ nghệ, 2 thầy siết chặt tâm giao tác hợp cho họ thành đôi
uyên ương. Xin lưu ý: người đã truyền dạy võ học phái Thiếu Lâm Tự là
Bắc Phong hòa thượng và bà Cẩm Tú chứ không phải là thầy “Trường Giang
Mạnh Vũ” như một số tài liệu đã đề cập. Từ đó họ chuyên tâm vào việc
trau dồi võ học, La Tô thì truyền lại cho Cẩm Tú tất cả những gì đã học
được trong Chùa Phi Lai Tự còn Cẩm Tú lại dốc lòng truyền lại môn võ học
của nam phái Thiếu Lâm Tư cho La Tô. Từ đây bộ căn bản “Thất Thập Nhị
Huyền Công” (72 thế căn bản tuyệt diệu nhất của Thiếu Lâm Tự), “Thập Bát
La Hán Thế” bao gồm 18 chiêu thức chiến đấu (18 thế này đã được đúc
thành 18 pho tượng ở Chùa Thiếu Lâm; “La Hán Thần Công” (18 chiêu thức
tuyệt kỹ) đều được La Tô đón nhận, say mê luyện tập. Khi đã lĩnh hội
được hầu hết những tinh hoa của thiếu lâm, kết hợp với 1 số người, La Tô
vận dụng “Thất thập nhị Huyền Công”, 18 thế quyền La Hán kết hợp với
quyền của bên Bắc phái sáng chế ra 18 bài quyền, (Bài thấp nhất có 21
thức chính, bài dài nhất có 73 thức chính). Trong 18 bài quyền này ông
lấy “Thất Thập Nhị Huyền Công” làm căn bản, lấy “Thập Bát Chưởng Công”,
“Lục Bộ Thần Công” để ghép đan xen vào thành 18 bài quyền theo thức tự
từ thấp lên cao, riêng bộ La Hán Thần Công ông để vào chương trình
Thượng Đẳng và đặt tên cho môn võ này là môn “Võ Lâm Chánh Tông Thập Bát
La Hán Quyền”.
* Cuối 1951, La Tô về Việt Nam, và đổi tên thành
Thiện Tâm Thiền Sư Đoàn Tâm Ảnh (TS ĐTẢ). Tại tỉnh Tây Ninh, TS ĐTẢ được
người trụ trì chính trong Tòa Thánh Cao Đài là ông Phạm Công Tắc mời về
làm giáo đầu cùng với các ông Huỳnh Phú Sự (Huỳnh Sự) và 1 số người
huấn luyện võ thuật cho các Môn đệ trong Tòa Thánh Tây Ninh và 1 số ngôi
chùa gần đó. (Ông Huỳnh Sự đã từng kết nghĩa huynh đệ với TS ĐTẢ thời
gian hành hiệp giang hồ ở Trung Quốc). Trước khi có sự xuất hiện của TS
ĐTẢ các ông này đang dạy các môn sinh ở đây môn võ học Thiếu Lâm Tự phái
Võ Đang. Năm 1953, do những biến cố và sự thay đổi chính trị, xã hội
lúc bấy giờ và với nhiều lý do khác nhau, người ta không còn thấy sự
xuất hiện của các vị này đâu nữa. Họ ra đi để lại cho TS ĐTẢ một số môn
đồ của phái Võ Đang. Chính từ đây 3 đệ tử chính thức được ông thâu nhận
làm đệ tử của phái “Võ Lâm Chánh Tông Thập Bát La Hán Quyền” do ông chế
tác ra đời với các tên và niên hiệu như:
- Thầy Tư Thông niên hiệu là Bắc Quyền Vương.
- Thầy Tám Tửu niên hiệu là Trung Quyền Vương.
- Thầy Nguyễn Thành Nghiêm niên hiệu là Nam Quyền Vương
Với nhóm “Tam Vương” này, ý đồ của TS ĐTẢ mong muốn 3 đệ tử của mình sẽ
chia nhau ra 3 miền của đất nước, truyền thụ và mở mang võ phái. Rất
tiếc, ý đồ của ông chưa kịp thực hiện, đất nước xảy ra chiến tranh.
Tranh giành giữa các bè phái, 2 thầy Tư Thông và thầy Tám Tửu trôi dạt
đi đâu không ai biết.
* Năm 1954, TS ĐTẢ về các tỉnh thuộc miền Tây
Nam Bộ mở lớp dạy võ ở Cần Thơ, Cà Mau… Những môn võ do ông truyền dạy ở
đây chỉ là bộ “Thất Thập Nhị Huyền Công” kết hợp với quyền pháp của
phái Bắc Phái. Năm 1960, ông quay về Sài Gòn mở lớp dạy vs:Đặng Thiên
Trực(đệ tử của vs Hùng Phong võ ở Tổng Nha Cảnh Sát và khu vực Chợ Lớn.
Giai đoạn này, nhóm đệ tử được ông và là sư phụ của HLV Nguyễn Thành
Nhơn) thâu nhận chính thức lần 2 gồm 5 người và được đặt tên là nhóm
“Ngũ Đế”, trong đó:
- Võ Sư Hàng Thanh được đặt niên hiệu là Bạch Đế.
- Võ Sư Âu Vĩnh Hiền (Hùng Phong) được đặt niên hiệu là Xích Đế.
- Võ Sư Lạc Hà được đặt niên hiệu là Hắc Đế.
- Võ Sư Từ Võ Hạnh được đặt niên hiệu là Huỳnh Đế.
- Võ Sư Văn Ngọc Thạch được đặt niên hiệu là Thanh Đế.
Do lúc đó, hoàn cảnh mấy thầy trò đều khó khăn về kinh tế, TS ĐTẢ đã
giao cho Võ sư Nguyễn Thành Nghiêm (đệ tử còn lại trong nhóm “Tam Vương”
lúc này đã được TS ĐTẢ đặt lại pháp danh mới là “Trường Long Phong Vũ”)
trợ giúp cho nhóm “Ngũ Đế” làm sách về võ thuật bán ra thị trường. Và
cũng trong thời điểm này cả thầy trò nhất trí lấy ngày 09 tháng giêng
(ÂL) là ngày thành lập môn phái “Võ Lâm Chánh Tông Thập Bát La Hán
Quyền” do chính TS chế tác ra đồng thời giao cho Võ sư Nguyễn Thành
Nghiêm làm Trưởng bộ môn này
* Võ sư Nguyễn Thành Nghiêm sinh năm
1940 (trong giấy tờ ghi là 1942) tại An Nhơn Tây, huyện Củ Chi, Gia Định
trong một gia đình cách mạng. Cha ông là cụ Nguyễn Văn Mỳ dạy học trong
chiến khu D, mẹ ông cụ Phan Thị Cước ở nhà vừa tần tảo nuôi các con ( 2
trai, 1 gái), vừa làm công tác nuôi giấu cán bộ và tiếp tế lương thực
cho bộ đội trong chiến khu D. Sự nghiệp võ thuật đến với ông cũng khá
tình cờ. Theo lời Võ sư Nguyễn Thành Nghiêm kể lại thì ngày đó vợ chồng
người anh trai của cha ông bị chết trong một tai nạn để lại 1 cậu con
trai cũng trạc tuổi Võ sư. Trước khi tạ thế, vợ chồng họ đã nhờ cha của
ông đưa cậu bé vào quy y nơi cửa phật. Theo lời người đã khuất, cha ông
đã đưa cậu bé vào 1 ngôi chùa thiếu lâm gần Tòa thánh
Cao Đài ở
tỉnh Tây Ninh nhưng chú bé mới 7 tuổi này không quen nơi chốn lạ nên
thường xuyên trốn khỏi chùa và tìm đường về nhà. Cha của ông đành phải
đưa cậu con trai của mình là chú bé Nguyễn Thành Nghiêm vào chùa ở cùng v
ới chú bé kia cho có bè bạn. Ngày ngày, 2 cậu bé nửa ngày tới trường
học chữ, nửa ngày còn lại được các nhà sư cho học kinh phật và học võ
học của Phái Võ Đang… Thời gian thấm thoát trôi đi, tuy là môn đồ nhỏ
tuổi nhất nhưng với bản chất thông minh, khỏe mạnh và lanh lợi, cậu bé
Nguyễn Thành Nghiêm được các thầy và các sư môn trong chùa quý mến. Đặc
biệt có 1 ông (cậu bé Nghiêm gọi là Sư Thúc) tên là ông Ngôn, sau mỗi
buổi tập luyện cùng với các sư huynh đệ, Nguyễn Thành Nghiêm lại được
ông Ngôn truyền dạy thêm cho các chiêu thức để hóa giải các chiêu thức
đã được học chung với các môn đồ. Chính nhờ vậy Nguyễn Thành Nghiêm có
sự tiến bộ vượt trội, tuy nhỏ tuổi nhưng năm 18 tuổi ông đã được các
thầy trong chùa tin tưởng giao cho làm Trưởng Tràng của Phái Võ Đang.
Lại nói về thầy Huỳnh Sự – thầy dạy trực tiếp cho Nguyễn Thành Nghiêm-
do cảm mến người thanh niên có tư chất thông minh sáng dạ và đặc biệt là
rất say mê luyện tập, trước khi giao lại lớp võ cho TS ĐTẢ, thầy Huỳnh
Sự giao cho ông 1 bức thư bảo ông đưa lại cho TS ĐTẢ. Nội dung bức thư
là nhờ TS ĐTẢ truyền dạy cho người đệ tử nhỏ tuổi này thêm 1 số bộ trong
bộ “La Hán Thần Công” mà ông chưa kịp truyền dạy. Một phần, có lẽ là
nhờ lá thư của người huynh đệ gửi gắm, TS ĐTẢ cũng nhận thấy ở con người
Nguyễn Thành Nghiêm có những tố chất đặc biệt để có thể là một truyền
nhân võ thuật nên TS đã truyền dạy hết cho ông các chiêu thức trong bộ
La Hán Thần Công và bộ “Di Ảnh Kỳ Hình” (Di ảnh kỳ hình là các chiêu
thức được nâng cao từ bộ “Lăng ba di bộ”).
* Năm 1974, Sài Gòn liên
tục bất ổn do chiến tranh, TS ĐTẢ trở lại các tỉnh miền Tây tiếp tục mở
lớp dạy võ. Đến cuối 1976, Sài Gòn được giải phóng, trật tự được lập
lại, TS ĐTẢ trở về Sài Gòn. Lúc này nhóm “Ngũ đế” có 1 số người xuất
cảnh đi nước ngoài, chỉ còn lại VS Hàng Thanh và VS Văn Ngọc Thạch nhưng
chỉ mấy tháng sau, hai vị này cũng đi xuất cảnh. Như vậy nhóm “Ngũ Đế”
cũng không còn lại ai.
Nghe tin TS ĐTA đã trở về Sài gòn, Vs Trưởng
môn Nguyễn Thành Nghiêm đã đón ông nhà riêng của Võ sư trên đường Lạc
Long Quân, quận Tân Bình, TpHCM. Thời điểm này, 2 thày trò nhận dạy ở
nhà và trong khu vực sân bay Tân Sơn Nhất. Nhà riêng của hai thày trò
nhỏ bé, võ sinh thì đông. Do vậy có một số võ sinh đang theo học có nhà ở
huyện Thủ Đức (nay là quận Thủ Đức), tpHCM đã mời hai thày trò về mở
lớp. Tại đây, nhóm đệ tử được ông thâu nhận chính thức lần thứ 3 với tên
gọi là nhóm “Thập Nhị Sư Truyền” gồm có 12 người như : Thày Tư Tượng,
thày Mỹ, Minh Méo, Minh ‘Đồng hồ’, Tâm, Tân… Nhóm này mới tập luyện được
ít tháng thì TS ĐTẢ phát giác ra trong nhóm này có một số người ở Võ
đường hoặc Võ phái khác nhập vào nhóm này với mục đích chỉ học lấy võ
chứ không có ý thức xây dựng và phát triển môn phái. Do vậy TS ĐTẢ giải
tán nhóm, chỉ giữ lại số người chưa theo võ phái nào đồng thời tuyên bố
giải tán lớp võ ở đây và ông về ở tại nhà một học trò nhà ở quận Bình
Thạnh, TPHCM.
* Đến năm 1999, nhân ngày lễ chúc thọ của mình (ngày
09 tháng giêng) trước tất cả các đệ tử ở khắp các nơi cùng các nhà báo
trở về đây chúc thọ, TS Đoàn Tâm Ảnh trịnh trọng tuyên bố chính thức
trao lại chức: Trưởng phái “Võ Lâm Chánh Tông – Đoàn Tâm Ảnh” (bao gồm 2
phái Bắc phái và Nam phái) cho nguyên Chưởng môn “Võ Lâm Chánh Tông
Thập Bát La Hán Quyền” – VS Nguyễn Thành Nghiêm tại Tổ Đường “Võ Lâm
Chánh Tông-Đoàn Tâm Ảnh” tọa lạc 26/8Q Ấp Đông Lân – Bà Điểm – Hóc môn –
tpHCM.
* Ngày 03/11/2008 (tức ngày 06/10 năm Mậu Tý), lão Thiền sư
Đoàn Tâm Ảnh tạ thế, hưởng dương 109 tuổi. Ông mất đi để lại cho các thế
hệ sau một kho tàng tài liệu về võ thuật; từ các bí kíp võ thuật của
Bắc phái như “Côn Lôn”, “Cửu Ngũ Tam Vương”, “Xà Quyền“… cho đến tài
liệu về võ học của phái “Võ Lâm Chánh Tông Thập Bát La Hán Quyền” và cả
những kinh nghiệm mà ông đã đúc rút ra trong suốt cuộc đời phiêu bạt
giang hồ của mình.
Để tưởng nhớ đến người đã chế tác ra phái “Võ Lâm
Chánh Tông Thập Bát La Hán Quyền”, lão VS trưởng phái Nguyễn Thành
Nghiêm và BHL võ phái đã quyết định:
1. Lấy ngày mất của ông (06/10 âm lịch hàng năm làm ngày giỗ tổ võ phái).
2. Cải tiến phương pháp truyền dạy cho phù hợp với thời đại cũng như
khả năng tiếp thu, luyện tập của các võ sinh (phương pháp này sẽ được
nói rõ trong bài viết khác).
3. Bổ sung thêm vào quyền pháp những
chiêu thức của phái Võ Đang: trong các bài quyền có một số chiêu thức
đòi hỏi quá cao về trình độ kỹ thuật, với điều kiện và thời gian như
hiện nay các môn sinh không thể luyện tập được. Do vậy võ phái đã thêm
hoặc bổ sung vào đó những chiêu thức của Võ Đang nhằm giúp cho môn sinh
dễ tập luyện mà lại tăng thêm hiệu quả khi chiến đấu.
4. Truyền bá
Tuyệt Kỷ: Trong “Võ Lâm Chánh Tông Thập Bát La Hán Quyền” có bộ “La Hán
Thần Công” gồm 18 chiêu thức tuyệt kỷ, được gắn thành 9 đoạn, mỗi đoạn
có 2 chiêu thức do vậy còn có tên gọi là “Cửu Khúc Liên Hoàn”. Trước đây
nó chỉ được truyền lại cho một đệ tử trân truyền của thế hệ để người
này sẽ kế nhậm chức trưởng phái và đến thế hệ kế tiếp sau cũng vậy.
Nhưng từ nay, khi các võ sinh đã tập luyện và đạt đến trình độ cao sẽ
được thày Trưởng phái truyền dạy cho 1 đoạn (gồm 2 chiêu thức) trong bộ
“La Hán Thần Công” đó. Hy vọng những đổi mới này của Võ phái sẽ làm ấm
lòng Người Sáng Tổ. Đây cũng là một cơ hội, một thử thách mới cho BHL và
thầy Trưởng phái Nguyễn Thành Nghiêm. Mong muốn trong những chặng đường
tiếp theo sẽ đáp ứng và làm hài lòng bất cứ ai đã, đang và sẽ theo tập
luyện môn này.)
Võ thuật giúp cho chúng ta nâng cao thể chất, tăng
cường sức khỏe, minh mẫn, sáng suốt và đặt biệt không run sợ trước bất
cứ kẻ thù nào như cố TS ĐTẢ đã nói:
"Ngày nay, thời của súng nhưng việc luyện tập võ thuật vẫn là nhu cầu cần thiết vì:
Học võ để được ba điều hay
Hoàn lão trường sinh sống lâu ngày
Ba môn tự vệ phòng thân đó
Trung hiếu đạo người không đổi thay"
MỘT SỐ ĐIỂM TẬP LUYỆN CHÍNH CỦA VÕ PHÁI:
- Cần Thơ: Thầy Phùng Kiến Lạc
- Long An: Thầy Lê Minh Trinh
- Đồng Tháp : Thầy Lý Văn Long, thầy Lê Văn Lý
- Tây Ninh : Thầy Nguyễn Văn Chói (Ba Chói), thầy Nguyễn Thành Hoàng
- TP Hồ Chí Minh : Tổ Đường " VÕ LÂM CHÁNH TÔNG- ĐOÀN TÂM ẢNH", 28/6Q, Ấp Đông Lân, Xã Bà Điểm, Huyện Hóc Môn, TP.HCM.
Môn phái Côn Lôn Bắc Phái: Võ lâm Chánh Tông
Loạt bài về những huyền thoại Võ Thuật Việt Nam
Bài 1: Huyền thoại những đệ nhất võ lâm trời Nam
Với những cao thủ bây giờ thì họ là những bậc tiền bối, công phu đã
danh trấn thiên hạ bấy lâu. Sống dưới chế độ thực dân Pháp và đế quốc
Mỹ, quãng thời gian mà tinh thần thượng võ bị triệt tiêu tới mức tối đa
(phòng ngừa phản kháng), họ đã là cầu nối, đã bôn ba khắp nơi để tầm sư,
rèn võ, cứu rỗi cả nền võ thuật Việt Nam trong buổi suy tàn. Dù đến
giờ, đa phần đã thành người thiên cổ nhưng tài đức của họ thì vẫn là
tiếng thơm để hậu bối noi theo...
Đệ nhất roi Hồ Ngạch và hai lần đánh cướp Dư Đành
Cố võ sư Hồ Ngạch
Luận về võ công,
không thể không nhắc đến đất võ Bình Định, cụ thể hơn là những địa danh
như Thuận Truyền, An Vinh, An Thái. Những địa danh trên đã đi vào ca
dao, huyền thoại bởi là nơi phát tích, “nuôi nấng” những dòng võ cũng
như những võ sư danh trấn thiên hạ.
Đến giờ, tại nơi nghĩa quân Tây Sơn dấy binh đánh đuổi quân thù ấy vẫn
còn truyền tụng những câu tục ngữ nói về tinh thần thượng võ của những
địa danh này. “Roi Thuận Truyền, quyền An Thái” hay “Trai An Thái, gái
An Vinh”… Thôn Thuận Truyền nằm ở xã Bình Thuận, thôn An Vinh thuộc xã
Bình An (quận Bình Khê), An Thái thuộc xã Nhơn Phúc huyện An Nhơn, giờ
vẫn tồn tại rất nhiều những lò võ nức tiếng xa gần.
Roi Thuận Truyền không rõ sáng tổ là ai nhưng từ trước đến nay vẫn tôn
vinh tên tuổi của võ sư Hồ Ngạch. Hồ Ngạch tên thật là Hồ Nhu, ông sinh
năm 1891, mất năm 1976, nguyên quán thôn Háo Ngãi, xã Bình An, sinh sống
tại thôn Thuận Truyền, Bình Thuận. Cha ông là Đốc Năm (Hồ Đức Phổ), một
võ quan của triều đình Huế, mẹ ông bà Lê Thị Huỳnh Hà, cũng là một
người nức tiếng giỏi võ trong vùng.
Bởi thế, ngay từ nhỏ, ông đã được cha mẹ truyền dạy võ công. Lớn lên,
ông được gia đình gửi vào lò võ của cao sư Ba Đề, tiếp đến là Đội Sẻ, Hồ
Khiêm, toàn những người nổi tiếng. Bởi thế, từ những đường roi của các
cao nhân như Ba Đề, Hồ Khiêm kết hợp với nội công học được từ thầy Đội
Sẻ đã tạo ra một Hồ Ngạch với những đường công biến hoá, sâu hiểm khôn
lường. Theo sự truyền tụng của giới võ lâm khi ấy, đường roi của Hồ
Ngạch là tuyệt kĩ vô song. Sau hơn chục năm lăn lộn với côn, quyền tiếng
tăm của Hồ Ngạch ngày một vang xa hệt như diều gặp gió.
Hồ Ngạch vốn trầm tĩnh, ít nói và đặc biệt, ông không bao giờ để lộ tài
năng võ thuật của mình. Tuy thế, trong đời luyện võ của mình, ông đã để
lại rất nhiều giai thoại, đó là những trận so tài với các cao thủ võ lâm
có một không hai.
Có lẽ, hữu xạ tự nhiên hương, bởi danh tiếng lẫy lừng, nên Hồ Ngạch
thường được những người học võ tìm đến để thi thố tài nghệ. Dân Bình
Định đến giờ vẫn truyền tụng nhiều câu chuyện Hồ Ngạch bị các cao thủ
khiêu chiến, thậm chí cả “đánh úp” hết sức lạ lùng. Các cao nhân thử tài
với Hồ Ngạch thì nhiều lắm, nhưng nổi tiếng nhất vẫn là những trận thư
hùng với lực sĩ Dư Đành.
Dư Đành là tướng cướp, về võ công thì đến cả quân lính triều đình khi
nghe thấy tên cũng đã hồn xiêu phách tán. Tung hoành khắp vùng không có
đối thủ, nghe tiếng Hồ Ngạch, Dư Đành nhiều lần gửi lời khiêu chiến.
Chối từ mãi không được, sau cùng Hồ Ngạch cũng phải nhận lời thách đấu.
Lần ấy, Dư Đành đem lũ lâu la về tận Thuận Truyền và hống hách đưa ra
điều kiện, nếu Hồ Ngạch đấu thua thì phải ra nhập đảng cướp của y.
Vậy là, tại bãi vắng ngay sát thôn Thuận Truyền đêm ấy, một mình Hồ
Ngạch đã đánh bại cả chục tên đệ tử của Dư Đành, vốn đều là những cao
thủ võ lâm. Khi đám tay chân mỗi tên nằm một góc thì Dư Đành xuất hiện.
Phải nói thêm rằng, Dư Đành có sức mạnh chẳng ai sánh kịp. Đã có lần, để
diễu võ dương oai, một tay y đã cắp cả một con nghé hệt như người ta
nhẹ nhàng bồng trên tay đứa trẻ. Với thanh đao sáng loáng trên tay, vừa
xuất hiện là Dư Đành tung đòn tới tấp. Thế nhưng, với đường roi thượng
thừa của mình, Hồ Ngạch cũng chẳng hề nao núng. Đánh mãi mà vẫn không
tìm được kẽ hở để “ăn sống nuốt tươi” đối phương, Dư Đành thấy máu nóng
dồn lên mặt.
Và khi ấy, Hồ Ngạch đã ra đòn tuyệt kỹ. Tránh đòn truy hồn của đối
phương, ông nhẹ nhàng tung người đá văng thanh đao cắm xuống đất, đồng
thời xoay người giở đòn đánh nghịch. Biết đã vào thế hiểm, tiến thoái
lưỡng nan, Dư Đành đành nhắm mắt chờ đường roi sát thủ. Thế nhưng, sau
khi tiếng roi vun vút cất lên, Dư Đành đã thở phào choàng tỉnh bởi đường
roi vừa chạm áo thì đối thủ đã thu về không đánh nữa.
Trận thư hùng ấy, dù đã nợ Hồ Ngạch một mạng nhưng Dư Đành vẫn không
chịu phục. Y rắp tâm kiếm cơ hội trả thù. Bởi thế, một chiều, đang mải
mê với những chiêu thức võ thuật thì Hồ Ngạch được mọi người báo tin
không biết ai đã đến nương sắn nhà mình và nhổ hết sắn đóng vào những
giỏ lớn. Điều lạ lùng là tất cả số sắn đó, kẻ trộm không lấy mang đi mà
vẫn để nguyên trên rẫy. Hồ Ngạch đâu biết rằng đó là một âm mưu của Dư
Đành.
Ra rẫy, thấy sắn bị nhổ, chẳng còn cách nào khác, Hồ Ngạch đành phải
quẩy những sọt sắn trĩu nặng ấy về. Vừa đi được một đoạn thì từ bụi cây
bên đường, Dư Đành vọt ra với chiếc bắp cày trên tay. Chẳng nói chẳng
rằng, y tung luôn một đường sát thủ. Nghe tiếng gió, Hồ Ngạch vội thụt
xuống, đường cày vụt qua đầu, văng thẳng vào cây bồ lời làm thân cây gẫy
gập.
Lợi dụng luôn cú đánh hụt ấy, Hồ Ngạch tức tốc áp sát, nhanh như chớp,
chụp luôn tay Dư Đành rồi sử dụng thế lạc côn, không những hoá giải mà
còn biến sức đối phương thành lực của mình, hất thẳng Dư Đành xuống bụi
tre gần đó. Mắc kẹt giữa đám tre gai góc, lúc ấy, Dư Đành mới khẩn khoản
xin tha và hứa từ đó không bao giờ dám về làng Thuận Truyền quậy phá
nữa.
Tỉ thí võ thuật Nam Hàn vinh danh làng quyền cổ
Sáng tổ của làng quyền An Vinh là Nguyễn Ngạc, tức Hương Mục Ngạc. Theo
nhiều người thì bà tổ cô của Nguyễn Ngạc chính là thầy dạy võ của nữ
tướng Bùi Thị Xuân. Bởi thế, Nguyễn Ngạc xuất thân trong một gia đình có
truyền thống võ học.
Tiếp thu sở học của gia đình cũng như nhiều tiền nhân lúc bấy giờ,
chuyên tâm nghiên cứu quyền pháp, Nguyễn Ngạc đã sáng tạo ra nhiều tuyệt
kỹ điêu luyện, đặc biệt là ngón song xỉ đã nức danh khắp chốn. Quyền An
Vinh thiên về đánh hiểm, đánh móc, đánh không hết tay, phản đòn nhanh,
liên tục. Khi đánh, thường phải áp sát đối phương mới tìm được lợi thế
cho mình. Nguyễn Ngạc có nhiều học trò, họ đều là những võ sư ưu tú,
tiếng tăm lừng lẫy. Trong số ấy phải kể đến Bảy Lụt, Tám Cảng, Chín
Giác, Sáu Hà, Tám Tự, Hai Tửu, Hương Kiểm Mỹ…
Bảy Lụt tên thật là Nguyễn An là con trai của Nguyễn Ngạc. Ông sáng dạ,
sức khoẻ thì phi phàm, lanh lẹ tựa cọp beo. Năm 1935, Bảy Lụt cùng em
mình là Chín Giác và Hương Kiểm Mỹ tham dự giải đấu võ đài toàn quốc tại
Huế. Thi đấu thắng hàng loạt đối thủ, ông đã đem về cho làng quyền An
Vinh huy chương vàng. Từ đây, danh tiếng về làng võ này đã được các môn
sinh khắp nơi biết đến.
Thừa hưởng các bí kíp quyền pháp của cha, không để thất truyền, Bảy Lụt
cũng chiêu mộ nhiều đệ tử. Trong số ấy, nổi danh nhất là võ sư Phan Thọ,
người gốc Bình Nghi (Tây Sơn) người đã thừa kế di sản đồ sộ của môn
phái quyền An Vinh.
Võ sư Phan Thọ sinh năm 1925, bắt đầu học võ từ năm 17 tuổi. Ông bảo,
ông là người may mắn bởi được sinh ra ở cái nôi của võ thuật Tây Sơn. Mê
võ, thủa thiếu niên, đã nhiều lần ông xin gia đình bán ruộng, bán bò để
quyết chí theo đuổi sở thích của mình. Ông được lĩnh hội võ thuật cao
siêu của rất nhiều tiền bối. Các bài quyền, roi, kiếm, đao, thương ông
học từ thầy Bảy Lụt, Tàu Sáu (Diệp Trường Phát). Các môn kích, gản, phủ,
lăn khiên, chuỳ… ông học từ thầy Sáu Hà (Lê Hải). Các môn côn, thước,
xích, độc bút, xà mâu, đinh ba… ông lĩnh hội từ thầy Hồ Ngạch.
Tuy thế, sở trường của ông vẫn là quyền, thứ mà ông được thầy Bảy Lụt
dày công dạy dỗ. Cũng giống như nhiều võ sư nổi tiếng khác, võ sư Phan
Thọ cũng đã có nhiều trận thi tài mà đến giờ nhiều người khi nhắc tới
đều vẫn ngả mũ thán phục tài năng.
Ngày ấy, khu vực Nam bộ, Trung Nam bộ rộ lên phong trào thi đấu võ đài
theo kiểu tự do. Dù đã thượng đài rất nhiều lần nhưng Phan Thọ vẫn chưa
có đối thủ. Tiếng tăm ông mỗi lúc một vang xa. Năm 1972, một võ sư
taekwondo đệ ngũ đẳng huyền đai, vốn là một sĩ quan quân đội Nam Hàn đã
tìm đến ông gửi lời khiêu chiến. Bị “áp đáo tại gia”, dù mến khách nhưng
không có cách nào khác, ông phải nhận lời.
Trận tỉ thí diễn ra ngay trong nhà. Không khách khí, khách tung đòn
trước. Đó là một cú đá có sức mạnh kinh hồn. Nhanh như sóc, Phan Thọ cúi
người né tránh khiến chiếc cột giữa nhà thành… nạn nhân bất đắc dĩ.
Thiết cước ấy làm cả gian nhà rung chuyển. Thủ thế đến chiêu thức thứ
ba, khi đối phương vẫn hăng say tung những cú đá nhanh như chảo chớp của
mình. Lựa một cú đá quét ngang mặt của đối phương, ông liền giở thế tấn
mã tam chiến, một chân quét, một tay đỡ đòn, tay còn lại dương hổ trảo,
hạ luôn đối thủ. Chỉ một cú đánh ấy, viên sĩ quan Nam Hàn đã nằm sõng
soài ngay góc nhà.
Và, đương nhiên, anh ta chắp tay kính phục. Tuổi xưa nay hiếm nhưng lão
võ sư Phan Thọ vẫn phải đứng ra nhận lời thách đấu của giới võ lâm. Khi
ấy, năm 1998, một đoàn võ sĩ cũng của Hàn Quốc lại tìm đến nhà ông. Họ
cho rằng, võ cổ truyền của Việt Nam chỉ là võ vườn, không có đẳng cấp
như taekwondo nước họ.
Tuy đã có tuổi, chẳng còn máu hơn thua nhưng với khi đã chạm đến lòng tự
hào dân tộc, lão võ sư lại sắn áo “thượng đài”. Lợi dụng sức trẻ, võ
sinh Hàn Quốc ra đòn vun vút. Có cú sát thủ đến nỗi cả mang vữa tường
rơi lả tả. Lão võ sư cứ nhẹ nhàng tránh né, hoá giải, chờ cơ hội. Và cơ
hội ấy cũng đã đến khi đối phương tung một cú đòn lỡ chớn. Chỉ chờ có
vậy, lão võ sư liền cúi người, quét luôn chân trụ. Chỉ một cú đòn ấy,
đám khách không mời đã phải chắp tay: “Kung fu Tây Sơn danh bất hư
truyền!”. Long tranh hổ đấu
Năm 1924, làng võ Bình Định xuất hiện thêm một dòng võ mới đó là quyền
Tàu. Người sáng lập ra dòng võ này là Tàu Sáu, tên thật là Diệp Trường
Phát, sinh năm 1896 tại An Thái. Tuy là người Trung Quốc nhưng gia đình
Diệp Trường Phát sinh sống ở An Thái đã được mấy đời.
Hấp thụ tinh thần thượng võ từ An Thái, 13 tuổi, Diệp Trường Phát được
gia đình gửi về Trung Quốc để học võ từ các cao sức của Thiếu lâm Bắc
phái. Sau 15 năm thụ giáo tại cố hương, 28 tuổi, Diệp Trường Phát trở
lại An Thái mở lò dạy quyền Tàu. Đến giờ, dân làng An Thái vẫn truyền
tai nhau chuyện thi tài giữa Sáu Tàu và đệ nhất roi Hồ Ngạch. Bởi đó là
cuộc thí võ kết bạn nên hai bên đã giao ước không gây thương tích, chỉ
dùng mực ghi dấu trên y phục đối phương.
Trước sự chứng kiến của nhiều môn đồ, hai ông giao kèo lấy một tuần
nhang là một hiệp đấu. Sau hiệp đấu quyền, khán giả đếm được những vết
mực trên áo hai người là như nhau, tuy thế, Hồ Ngạch vẫn chắp tay bái
phục Tàu Sáu, thừa nhận mình kém hơn một bậc. Khán giả hết sức ngạc
nhiên.
Khi ấy, Hồ Ngạch mới giải thích, các vết mực Tàu Sáu lưu trên y phục
mình có phần nhạt hơn. Điều đó chứng tỏ rằng, đường quyền thế cước của
Tàu Sáu đã ở mức thượng thừa. Bởi vậy nên ông mới có thể vận hành công
lực như ý muốn nên đòn ra mới nhẹ nhàng, dấu mực mới nhạt. Nếu cũng
những quyền thế ấy, thi triển hết 12 thành công lực thì sức mạnh sẽ rất
kinh hoàng, có thể lấy mạng người trong chớp mắt.
Về côn, tuyệt kỹ của Hồ Ngạch, hai bên cũng quần thảo kinh hồn. Người
xem chỉ thấy tiếng gậy va vào nhau chan chát còn bóng người thì lấp loá,
mờ ảo. Sau tuần nhang, Tàu Sáu thấy trên người mình nhiều vết mực hơn.
Trước đông đảo mọi người, ông đã chắp tay bái phục: “Đoản côn ở Thuận
Truyền chỉ có Hồ Ngạch làm chủ!”.
Phiêu bạt tìm thầy
Về tinh thần thượng võ, ham học hỏi của người Việt, bây giờ, cụ Hàn Bái
(Lê Bái) sáng tổ Hàn Bái đường, Thiếu lâm Hài Bái vẫn được giới võ lâm
hết mực tôn thờ. Lê Bái sinh năm 1889, xuất thân từ một gia đình quyền
quý.
Ngày ấy, người Pháp cho xây dựng tuyến đường sắt nối liền Côn Minh (Vân
Nam, Trung Quốc) với Hải Phòng bởi thế giao lưu đi lại đã thêm bề thuận
tiện. Biết Trung Hoa là nơi có nhiều kỳ tài võ học nên Lê Bái đã xin làm
Sở Hoả xa tại tỉnh Vân Nam để tìm cơ hội trau dồi võ nghệ. Sau một thời
gian nghe ngóng, thấy ở Phúc Kiến có bậc cao nhân từng làm giáo đầu
trong triều, Lê Bái đã xin nghỉ việc để tìm lên thọ giáo.
Vị sư phụ ấy họ Lý, tên Quân ở Trung Hoa đã danh vang tứ hải. Thấy Lê
Bái khôi ngô, tinh hoa phát tiết, Lý sư phụ mừng lắm, vui vẻ thu nạp làm
đệ tử. Thế nhưng, trước khi bái sư, Lý sư phụ muốn thử tài năng của cậu
học trò mình. Trước thịnh tình của vị sư phụ Lê Bái cũng chẳng khách
khí, xuất luôn chiêu Hắc hổ xuyên tâm, đánh thẳng vào ngực đối phương
với dự tính trong đầu, nếu bị hoá giải sẽ tiếp tục dùng thức Thanh xà
nhập động sở trường của mình mà tấn công đối thủ.
Thế nhưng, dự tính ấy đã bị vị quyền sư bắt bài. Ông không gạt tay đối
thủ mà nhẹ nhàng tóm thẳng cổ tay, giật xuôi theo đà lao của Lê Bái,
đồng thời, quét luôn chân trụ của đối phương, hất văng xa ra. Tuy đau
đớn nhưng cú đánh ấy làm Lê Bái mừng rơn. Bái biết, đấy đích thị là
người thầy mà bấy lâu nay mình tìm kiếm.
Ba năm luyện võ tại nhà Lý sư phụ, Lê Bái đã trưởng thành, tên tuổi cũng
đã lừng danh khu Phúc Kiến. Khi ấy, Lý sư phụ đưa cho người đệ tử yêu
của mình lá thư tay, nói là quay lại Vân Nam tìm thầy Triệu Quang Chảo,
một cao nhân của Thiếu lâm. Theo Lý sư phụ thì tuy là bạn nhưng luận về
võ công, so với Quang Chảo, ông chỉ là hậu bối.
Quay lại Côn Minh, Lê Bái tiếp tục những tháng ngày khổ luyện và đến năm
1918 thì trở về quê nhà. Sau một thời gian kỳ bạt giang hồ, dạy võ ở
khắ nơi, thọ bệnh, ông mất năm 1928, khi vừa tròn 40 tuổi. Bây giờ, đệ
tử của ông, tiêu biểu là đại sư Vũ Bá Oai vẫn tiếp tục sự nghiệp hiển
hách, hoằng dương tinh thần thượng võ của vị sư phụ kỳ tài của mình.
(Sưu Tầm)
Bài 2: Cha con ông Ốc Bình Định Gia
Khi tài năng đang độ chín muồi, khi Bình Định Gia đang khởi sắc, phát
triển võ đường đến hầu hết các tỉnh phía bắc với hàng vạn môn sinh theo
học thì một tai nạn giao thông thương tâm, Trần Hưng Hiệp đã không còn
nữa. Lão võ sư Trần Hưng Quang bảo, hôm nghe tin con trai mình mất, ông
chết điếng và cả mấy tháng sau, cứ thấy mình như đi trên mây khói.
Cha con “ông Ốc” và nghiệp võ “một thời vang bóng”
Ông hệt như Lão Ngoan Đồng Chu Bá Thông, một nhân vật võ công cái thế,
tóc bạc như cước nhưng lúc nào cũng hồn nhiên như trẻ nhỏ trong tiểu
thuyết nổi tiếng Thần điêu đại hiệp của Kim Dung. Từng nổi danh với vai
Ốc trong vở tuồng kinh điển Nghêu- Sò- Ốc- Hến, lại thêm cái vẻ hóm hỉnh
ngoài đời nên ít ai có thể ngờ rằng ông lão có vóc người nhỏ bé tuổi
ngoại bát tuần ấy lại là chưởng môn của môn phái một thời lừng danh, môn
phái Bình Định Gia.
Lão võ sư Trần Hưng Quang cùng các học trò
Ông
là võ sư Trần Hưng Quang, giang hồ thường gọi là Quang “Ốc”, hay còn
gọi thân mật là “ông Ốc”, trong giới võ lâm bây giờ, ông được suy tôn
vào hàng trưởng lão. Những năm 90 của thế kỷ trước, đặc biệt khi người
con trai Trần Hưng Hiệp tài năng thiên bẩm của ông còn sống, võ phái
Bình Định Gia là mái nhà chung của cả vạn môn sinh đam mê quyền cước…
Lão võ sư Trần Hưng Quang là người nghiện thuốc lá. Thuốc Thủ đô ngày
ông đốt đến cả bao. Ông bảo, người luyện võ thì phải kiêng tất cả những
chất kích thích, ông cũng thế nhưng thuốc lá thì không tài nào bỏ được.
Bởi thế, ở võ đường Việt- An, (sân trường Việt Nam- Angiêri, đường
Nguyễn Quý Đức, Thanh Xuân, Hà Nội) dù đám môn tối nào cũng rộn rã những
tiếng la hét, tiếng dậm chân huỳnh huỵch, tiếng binh khí va vào nhau
loảng xoảng thì trên thềm, ông vẫn ngồi đăm chiêu với điếu thuốc trên
tay.
Tuy ngồi bất động như thiền nhưng ánh mắt quắc thước của ông vẫn dõi
theo từng động tác của đám học trò. Hễ ai tập sai, như điện giật, ông
bật dậy, hấp tấp chạy tới, lúc la hét, khi ngọt ngào uốn nắn. Xong việc,
ông lại thong thả bước lên thềm. Lại thả hồn theo làn khói trắng.
Ông quê gốc ở Bình Định. Theo đồng đạo võ lâm thì ông là người duy nhất
đưa võ cổ truyền Bình Định bắc tiến thành công. Nói về võ phái của mình,
ông bảo, cách đây trên 200 năm, cụ Trần Đại Chí, sáng tổ của môn phái,
vốn là một võ tướng, võ công đệ nhất, thao lược tài danh, bởi mâu thuẫn
với nhà Thanh mà chạy dạt sang đất Việt.
Theo gia phả của dòng họ thì thủa nhỏ, cụ Chí được gia đình gửi vào
Thiếu Lâm học võ. Hơn chục năm trời theo thầy miệt mài với thập bát ban,
thành thạo, cụ lai kinh những mong đem chút tài mọn phụng giúp quốc
gia, vinh danh dòng họ. Thế nhưng, Mãn Thanh vào buổi suy tàn, bất mãn,
mâu thuẫn trong việc triều chính, cụ đã đưa cả gia quyến xuôi về phương
Nam.
Nơi đầu tiên cụ đặt chân tới là đất Thăng Long, nhưng ngày ấy, kinh kỳ
hỗn loạn, chẳng thể náu thân an toàn, cụ dạt vào Bình Định. Tại đây,
duyên kỳ ngộ, cụ đã kết bạn với võ tướng Võ Văn Dũng, một trong những
tướng tài của vua Quang Trung, từng nhiều phen vào sinh ra tử trong sự
nghiệp đại phá quân Thanh.
Tri kỷ, hai người suốt ngày trà dư tửu hậu, bàn luận chuyện võ học tinh
hoa. Và, những ngày tháng ấy, hai người đã trao đổi cho nhau tất cả
những bí kíp võ công mà cả đời mình tầm sư học được. Qua cụ Dũng, cụ Chí
đã lĩnh hội được toàn bộ võ công chân truyền của Bình Định, đồng thời,
nhờ cụ mà cụ Dũng đã thông tuệ võ học Trung Hoa.
Sau khi cụ Võ Văn Dũng qua đời, cụ Trần Đại Chí đã nghiên cứu, chắt lọc,
tổng hợp những tinh hoa của hai nền võ thuật Trung Hoa và Việt Nam,
sáng lập dòng Bình Định gia truyền theo nguyên tắc kết hợp giữa cương,
nhu, trường, đoản, hư, thực.
Đường lối của các võ phái thời ấy thường nêu cao tính chất chiến đấu,
không nặng về biểu diễn khoa trương. Theo lão võ sư Trần Hưng Quang thì
võ phái mà sáng tổ Trần Đại Chí sáng lập suốt mấy trăm năm chỉ truyền
thụ cho con cháu trong dòng họ, tuyệt nhiên không phát lộ ra ngoài. Qua
mấy đời chưởng môn (Trần Đại Chí, Trần Đại Si, Trần Đại Xy, Trần Đại Y)
đến đời ông (chưởng môn thứ 5) thì Bình Định Gia mới thực sự là môn phái
được đông đảo quần hùng biết đến.
Võ sư Quang bảo, nghiệp võ với ông cũng hệt như… thuốc lá. Đã “dính” vào
rồi thì không thể nào dứt ra cho được. Tuổi lên 10, ông được cha mình
truyền thụ võ nghệ. Ông kể, ngày ấy, học võ gian nan lắm.
Cha ông là người nghiêm khắc, lại thêm quan niệm, học võ là để giữ gìn
gia phong nên ông phải khổ luyện tối ngày. Đến năm 13 tuổi, với tư chất
lanh lẹ, tinh tuý của phái võ gia truyền đã được ông cơ bản lĩnh hội.
Tuy không muốn để lộ khả năng võ thuật của mình nhưng tiếng tăm về cậu
bé anh hùng xuất thiếu niên ở Phú Cát là ông vẫn ngày một vang xa.
Tiếng lành ấy kinh động đến cả phủ quan, bởi thế, rất nhiều lần, họ
triệu tập ông đến chỉ với mục đích được thực mục sở thị ông thi triển
quyền cước. Năm 14 tuổi, biết đã hết “vốn” để dạy cho đứa con khiếu võ,
cha ông bắt đầu hành trình tìm thầy để mở rộng khả năng cho con mình.
Gần chục năm dòng, hễ thầy nào có tiếng ở Bình Định thì cha ông đều dắt
ông tới học. Chỉ một vài năm, thậm chí vài tháng thì lại lên đường đi
tìm thầy mới. Bây giờ, một trong những giai thoại tầm sư học đạo của ông
vẫn được người Bình Định truyền tai nhau.
Ngày ấy, thầy Hà Trọng Sơn ở Phước Sơn (Tuy Phước) có môn song kiếm
thuộc loại tuyệt kỹ, mỗi khi đường kiếm vung lên thì chẳng khác nào
phượng múa rồng bay. Nhu cương hài hoà, mềm mại nhưng sự lợi hại thì
kinh hồn bạt vía. Độc chiêu ấy, dù đệ tử rất đông, nhưng không ai lĩnh
hội vẹn toàn. Theo cha, ông đến và thật ngạc nhiên, chỉ sau ít bữa “ăn
nhờ ở đậu”, ông đã “nuốt gọn” nhẹ nhàng. Thậm chí, trong đường kiếm ông
đi, có nét nhàn nhã, thảnh thơi chẳng khác gì diều bay giữa trời quang
đãng.
Thanh niên, tuy tạng người nhỏ bé, nhưng cũng như bao người luyện võ
khác ở Bình Định, ông mải mê với sở thích đi đánh võ đài. Ông kể, thủa
ấy, ở Bình Định, bất cứ làng võ nào cũng có võ đài. Người luyện võ
thường đăng đài thi thố tài năng, đấu võ để kết bạn, để trau dồi kiến
thức. Lần thượng đài nào ông cũng giành cho mình phần thắng.
Đến giờ, người mê võ ở Bình Định hẳn chưa thể nào quên trận thư hùng kinh điển giữa ông và võ sĩ Đào Duy Hạ tại Quy Nhơn.
Trận đấu diễn ra dưới sự cổ vũ cuồng nhiệt của cả mấy trăm người. Hai
ông giao kèo đánh 3 hiệp, mỗi hiệp là 1 phút rưỡi. Trong 3 hiệp ấy, ai
rớt đài trước thì là người thua cuộc. Vào trận, tuy đã mặc khác màu áo
nhưng bởi chiêu thức được tung ra quá nhanh nên khán giả vẫn không thể
phân biệt được đâu là ông Hạ, đâu là ông Quang. Ba hiệp đấu trôi qua, cả
hai võ sĩ đều thở dốc mà vẫn chưa phân thắng phụ. Đó là trận đấu duy
nhất ông gặp đối thủ ngang tài ngang sức.
Ông theo nghiệp tuồng, cũng là một “tài sản” gia truyền. Và, trong cuộc
đời nghệ sĩ của mình, ông đã ghi dấu ấn bởi đã đưa võ vào tuồng. Năm
1980, nghỉ hưu, ông về Hà Nội sinh sống. Suốt mấy chục năm sống xa nhà,
vào nam ra bắc, ngay chuyện đi tàu của ông cũng có lắm giai thoại. Một
lần, bởi khi ra đến nhà ga thì tàu đã chuyển bánh.
Bế hai con nhỏ trên tay, túi khoác trên lưng, ông cắm đầu cắm cổ đuổi
theo. Khi vừa theo kịp thì cửa toa tàu đã đóng im ỉm từ lúc nào, gọi mãi
mà chẳng thấy ai mở. Quá cấp bách, chẳng còn cách nào khác, ông đành sử
dụng luôn món “Thiết đầu công” mà mình đã khổ công rèn luyện. Cú húc
như trời giáng ấy đã làm cánh cửa sắt bật tung. Vẫn ôm con trên tay, ông
vọt lên tàu một cách nhẹ nhàng.
Năm 1982, Bình Định Gia chính thức có mặt ở Hà Nội. Ông kể, hồi ấy, buổi
sơ khai, võ phái của ông ít người biết đến. Nhưng chỉ một lần kéo đệ tử
lên CLB võ thuật quận Đống Đa biểu diễn, võ phái của ông đã làm những
quan chức của Sở Thể dục- Thể thao Hà Nội mê mệt. Và, ngay lập tức họ đã
mời ông tham gia Liên đoàn Võ thuật cổ truyền Hà Nội.
Gặp lão võ sư mấy lần, nhưng đến giờ, trong sâu thẳm những nghĩ suy của
ông, nhiều lúc tôi vẫn chưa hiểu được. Trong con người ông, niềm vui, sự
hóm hỉnh lúc nào cũng thường trực, nhưng nỗi buồn phiền, thểu não thì
cũng ở rất gần.
(Còn tiếp)
Nhiều môn sinh của ông kể, trong lúc dạy học trò, thăng hoa, một mình
giữa trời ông biểu diễn luôn một tiết mục tuồng khiến mọi người cười
ngặt nghẽo. Thế nhưng, có lúc, đang nói cười tếu táo, bỗng dưng nhớ tới
người con, cũng là người học trò cưng quá cố, võ sư Trần Hưng Hiệp, ông
lại nước mắt nghẹn ngào.
Mà bây giờ, khi tuổi đã về già, cái sự tiếc thương ấy nó đến thường
xuyên lắm. Bất cứ cái gì gợi cho ông nhớ đến con mình, đều khiến ông xúc
động. Võ sư Văn Thắng, Chưởng môn phái Thăng Long võ đạo kể, một buổi
đi sinh hoạt ở Liên đoàn võ thuật Hà Nội, gặp lão võ sư, vô tình ông
khoe, ông vừa tìm thấy một tấm ảnh ông chụp chung với Hiệp.
Chỉ nghe đến đó thôi, ngay lập tức lão võ sư lại khóc, lại ngồi thảm
thiết nhớ về những kỷ niệm của con mình. Ông có 3 người con, 2 trai một
gái. Cố võ sư Trần Hưng Hiệp là thứ hai. Với ông thì dường như Hiệp sinh
ra là để học võ. Ông kể, ngay từ tấm bé, ông đã phát hiện ra năng khiếu
võ thuật thiên bẩm của cậu con trai mình. Bởi thế, những bài quyền, thế
cước ông rèn cặp, Hiệp đã lĩnh hội rất nhanh.
Nối nghiệp cha, Hiệp cũng theo học môn Tuồng cổ ở trường Sân khấu- Điện
ảnh và dốc toàn bộ thời gian còn lại vào việc luyện rèn võ thuật. Thời
gian ấy, hễ nghe tiếng ở đâu có thầy giỏi là ngay lập tức anh tìm đến
bái sư theo học. Bởi thế, khi tuổi mới đôi mươi, vốn liếng võ công của
anh đã được võ lâm đồng đạo bái phục, kính nể và trở thành vị võ sư trẻ
tuổi nhất trong làng võ cổ truyền. Lão võ sư Trần Hưng Quang bảo, nhờ có
Hiệp mà Bình Định Gia trở nên nổi tiếng, được đông đảo môn sinh theo
học, quần hùng mến mộ.
Tuổi trẻ, võ công cái thế, nhưng tính Hiệp điềm đạm, trầm tĩnh, sống nội
tâm. Lão võ sư Trần Hưng Quang kể, có lần, trong khu nội trú trường Sân
khấu- Điện ảnh, có nhóm đầu gấu bên ngoài vào trường quậy phá, bắt nạt
sinh viên. Không muốn va chạm nhưng cũng chẳng thể ngồi yên, Hiệp đành
ra mặt.
Chọn tên có vẻ gấu nhất, anh mời vào phòng mình nói chuyện. Thấy cậu
sinh viên người nhỏ bé, mặt mũi thư sinh, vị khách mời không những không
tiếp thu những lời phải quấy mà còn tỏ thái độ thách thức, chửi bới om
xòm. Biết không thể nói suông với kẻ không biết điều ấy, đứng phắt dậy,
Hiệp bảo: “Nếu anh thích đánh nhau thì đánh nhau với tôi! Nhưng cho tôi
hỏi, chân tay anh liệu có cứng bằng chiếc chân giường này không?”.
Hỏi chưa dứt câu, bất thình lình anh tung chân đá quét. “Dính chưởng”,
chiếc chân giường vuông thành sắc cạnh gẫy gập làm đôi, văng ra phía
cửa. Nhìn thấy cảnh ấy, “kẻ đầu gấu” mặt cắt không ra máu, ú ớ lùi ra
rồi hô lũ đàn em chuồn thẳng. Sau này, bởi ấn tượng với võ công thâm hậu
và tinh thần thượng võ ấy, gã đầu gấu đã tìm đến anh, bái làm sư phụ,
tu chí luyện rèn võ nghệ.
Cũng trong thời gian ấy, một chiều đi học về, gặp người quen, anh được
mời vào quán uống bia. Bàn bên cạnh, mấy gã đã ngà ngà, nói năng toàn
lời tục tĩu. Hết chuyện, thấy bàn bên cạnh có cậu trai cứ ngồi im, chẳng
nói chẳng rằng (anh không uống được bia) thì lấy làm… ngứa mắt. Chúng
buông lời bóng gió cợt nhả, rồi cười hô hố với nhau.
Thấy vậy, anh quay đi, chẳng thèm để ý. Sự phớt lờ của anh khiến chúng
càng thêm tức tối, ỉ đông, chúng quay sang gây sự. Mấy “chiến hữu” cùng
bàn với anh ai cũng nóng mắt, nhưng thấy “quân ta” yếu thế hơn nên chẳng
ai dám động thủ. Trấn an các bạn, anh đứng dậy quay sang bàn bên.
Giơ cốc bia đang uống dở lên, hướng về phía đối phương, anh bóp mạnh.
Chiếc cốc vỡ vụn, phát ra những âm thanh sởn ga gà. Chưa dừng lại, tay
phải anh tung luôn một cú thôi sơn vào bức tường kiên cố ngay bên cạnh.
Cú đấm uy lực, thấy đã gặp phải cao thủ, biết có đông cũng đánh không
lại, nhóm anh chị bàn bên bỗng im phăng phắc. Phía bên này, sau những cú
thị uy ấy, Hiệp lại chậm rãi ngồi xuống uống bia như chẳng có chuyện
gì.
Cố võ sư Trần Hưng Hiệp.
Cho đến bây giờ, võ lâm đồng đạo vẫn suy tôn Linh giác công của Trần
Hưng Hiệp là thiên hạ đệ nhất, không ai bì kịp. Biểu diễn tuyệt chiêu
này đòi hỏi người võ sư phải có công lực thượng thừa và cái tâm luôn
tĩnh. Với tuyệt chiêu này, đã nhiều lần Hiệp làm người xem thót tim vì
sợ.
Lão võ sư Trần Hưng Quang kể, khi biểu diễn Linh giác, Hiệp thường đặt
quả cam, táo, hoặc một mẩu thân chuối dài chừng gần chục cm lên đỉnh đầu
người đối diện. Sau ấy, bằng mảnh vải đen, anh bịt kín mắt mình, tay
cầm kiếm sắc, từ từ tiến tới. Mắt bịt kín, nhưng bằng giác quan, anh vẫn
xác định được vị trí của mục tiêu và vung kiếm chém tới.
Dù chém ngang, hay dọc thì đường kiếm ngọt ngào ấy cũng chỉ phạt đôi vật
thể trên đầu chứ chẳng mảy may làm tổn thương một cọng tóc của người
trợ diễn. Ngay cả lão võ sư, đã nhiều lần xem con mình biểu diễn, nhưng
lần nào ông cũng… hoảng. Ông cấm con mình tuyệt đối không được dậy chiêu
thức nguy hiểm ấy cho ai. Dặn con vậy không phải vì ông muốn giữ độc
chiêu cho gia đình mình mà vì sợ. Đám học trò hiếu động, học chưa đến
nơi đến chốn, chém phạt đầu nhau thì vô cùng nguy khốn.
Tuy quá nổi danh với Linh giác công nhưng sau này, mọi người đã không
được thấy anh biểu diễn tuyệt chiêu này nữa. Nguyên nhân, theo lão võ sư
Trần Hưng Quang thì con ông là người cẩn trọng, không bao giờ thích
chuyện phiêu lưu hay những trò chơi nguy hiểm. Bởi thế, một lần, diễn
Linh giác bị hỏng, anh đã quyết tâm từ bỏ sở trường này.
Lần ấy, Bình Định Gia tổ chức biểu diễn ở Nhà văn hoá huyện Từ Liêm.
Tiết mục Linh giác trứ danh của Hiệp được toàn thể khán giả đón đợi. Lần
thứ nhất, quả táo Tầu nhỏ xíu trên đầu người trợ diễn đã bị anh chém
toác đôi. Nhiều người kinh hãi không dám nhìn nhưng cũng nhiều người ưa
cảm giác mạnh, muốn anh diễn lại. Không thể chối từ thịnh tình của người
mến mộ, anh lại bịt băng đen che mắt, lại tiếp tục diễn trò.
Thế nhưng, khi thanh kiếm sáng loáng trong tay vừa vung lên thì anh bỗng
khựng người lại, buông kiếm xuống. Tiếp tục một lần nữa cũng vẫn vậy,
thanh kiếm trên tay anh chẳng thể lượn một đường ngọt sớt như nó vẫn
thường thi triển, vẫn làm người xem kinh hãi. Có lẽ, linh giác đã mách
bảo anh rằng, trong một tâm trạng không được thoải mái, anh không nên
dụng trò nguy hiểm ấy.
Đắn đo, sau cùng, anh đã xin lỗi khán giả và thay bằng việc đặt quả táo
lên đầu người trợ diễn thì anh đặt quả táo lên thành ghế. Nhát kiếm chí
tử được tung ra. Quả táo bị chém phạt phần dưới, tung lên rồi lăn lông
lốc trên sàn nhà. Mọi người vẫn vỗ tay dầm dập. Thế nhưng, trên mặt anh
vẫn không thấy nụ cười. Chào khán giả, anh vội vàng lùi vào phía trong.
Lão võ sư Trần Hưng Quang kể, về nhà, con trai ông đã kể cho ông “sự
kiện lạ lùng” ấy. Và, anh còn tiết lộ, hàng đinh đóng trên thành chiếc
ghế đã bị anh chém bay hết mũ. Nếu hôm ấy, nếu là người thật thì không
biết hậu quả thế nào. Vậy là, nghe theo lời khuyên của ông, cùng với
tính cẩn trọng của mình, anh đã từ bỏ môn võ mà mình đã khổ công rèn
luyện.
Khi tài năng đang độ chín muồi, khi Bình Định Gia đang khởi sắc, phát
triển võ đường đến hầu hết các tỉnh phía bắc với hàng vạn môn sinh theo
học thì một tai nạn giao thông thương tâm, Trần Hưng Hiệp đã không còn
nữa. Lão võ sư Trần Hưng Quang bảo, hôm nghe tin con trai mình mất, ông
chết điếng và cả mấy tháng sau, cứ thấy mình như đi trên mây khói.
(Sưu Tầm)
Bài 3: Công phu đặc dị và khí phách Thăng Long võ đạo.
Năm 1989, báo giới đã đồng loạt đưa tin với một cái tít giật mình:
“Hiện tượng võ thuật mới” hay “Một ngôi sao đã mới xuất hiện trên bầu
trời võ thuật”… Nhân vật của các bài báo chứa đựng đầy sự kinh ngạc ấy
là võ sư Nguyễn Văn Thắng, hiện đang là chưởng môn của môn phái lừng
danh: Thăng Long võ đạo.
Ngày ấy, tại Đại hội võ thuật toàn quốc, với tiết mục Khẩu lợi công, ông
đã làm cho cả giới võ lâm phải ngả mũ kính phục. Vóc dáng thư sinh, gày
còm (nặng 52 kg) nhưng khổ luyện, với hàm răng như thép của mình, ông
đã nâng bổng chiếc bàn bao gồm đỉnh đồng, nến, hạc, ảnh thờ… nặng tới
gần 80 kg. Hơn 20 năm đã trôi qua, vị võ sư gây chấn động với công phu
đặc dị năm xưa vẫn thế, vẫn vóc dáng thư sinh, vẫn kiểu đi lại, nói năng
hoạt bát và vẫn phương châm sống: “Thần vượng không ham ngủ, khí vượng
không ham ăn, tinh vượng không ham sắc”…
Đặc biệt hơn, ông vẫn gây bất ngờ bởi những công phu siêu đẳng của mình.
Người luôn thức dạy từ 3 giờ sáng
Nội công thâm hậu của võ sư Nguyễn Ngọc Nội (môn phái Vịnh Xuân) đã nức
tiếng trong làng võ bấy lâu nay. Ông đã từng đăng đài, để mọi người
thẳng tay đấm vào bụng mấy ngàn quả mà mặt chẳng hề biến sắc. Vậy nhưng,
khi hỏi ông về những cao thủ trong làng võ, đặc biệt về nội công, ông
đã không ngần ngại giới thiệu cái tên Nguyễn Văn Thắng, Chưởng môn phái
Thăng Long võ đạo. Theo võ sư Nguyễn Ngọc Nội thì sự nghiệp võ công của
người đồng đạo Nguyễn Văn Thắng đang có những bước tiến bất ngờ.
Võ sư Nguyễn Văn Thắng
Tuy có sự chỉ dẫn của võ sư Nội, nhưng vất vả lắm tôi mới gặp được ông
bởi ông bận túi bụi tối ngày. Thời gian biểu cho một ngày làm việc của
ông, ai thấy cũng đều phát hoảng. Một ngày của ông bắt đầu từ 3 giờ
sáng. Khi ấy, tiết trời thanh mát, khí huyết lưu thông, ông lên sân
thượng luyện khí công. Luyện khí đến 5 giờ, ông ra công viên Thống Nhất
dạy khí công cho môn sinh cao tuổi. Bởi đang làm Chủ nhiệm khoa Giải
phẫu bệnh lý (Bệnh viện Thanh Nhàn) nên 7 giờ, ông vội vã đến cơ quan.
Làm việc đến 4 giờ chiều, ông về dạy thêm một lớp khí công ngay tại sân
thượng nhà mình. Đến 7 giờ tối, lại tiếp tục dạy một lớp võ thuật cũng
ngay tại sân thượng ấy.
Hoàng Phi Hồng của... Việt Nam
Võ sư Nguyễn Văn Thắng là chưởng môn đời thứ hai của Thăng Long võ đạo.
Chưởng môn đời trước, cũng là sáng tổ của môn phái chính là cha đẻ của
ông, võ sư nổi tiếng Nguyễn Văn Nhân. Nếu ai đã tận thấy những thế võ
cận chiến tuyệt kỹ mà đặc công Việt Nam vẫn sử dụng để hạ gục đối phương
trong chớp mắt thì có thể hình dung ra phần nào quyền cước siêu phàm
của Thăng Long võ đạo bởi trước đây, lão võ sư Nguyễn Văn Nhân là thầy
dạy của rất nhiều đơn vị đặc công.
Cho đến tận bây giờ, làng võ vẫn bảo, cố võ sư Nguyễn Văn Nhân là người
may mắn, bởi ông được thừa hưởng một “gia tài võ học” khổng lồ mà ông
nội, ông ngoại của mình truyền lại. Ông nội cố võ sư là một võ tướng của
triều đình nhà Nguyễn, nổi tiếng với Thiếu lâm nội gia, ông ngoại là cụ
Cử Tốn, người chỉ nhắc tới tên, cao thủ khắp nơi đều phải chắp tay bái
phục. Cụ Cử Tốn là cử nhân võ thuật cuối cùng của triều Nguyễn, khi giặc
Pháp tấn công Hà Nội, cụ đã cùng Tổng đốc Hoàng Diệu tử thủ trong
thành.
Sau này, khi Hà thành thất thủ, Tổng đốc Hoàng Diệu tuẫn tiết, cụ Cử Tốn
lui về ở ẩn tại khu làng ngay bên ngoài thành Hà Nội (phố Trần Quý Cáp
bây giờ). Đau đáu nỗi nhục mất nước, cụ bí mật mở lò dạy võ, những mong,
khi cơ hội đến lại cùng các môn sinh yêu nước của mình vùng lên chống
giặc. Lò võ ấy một thời đã thu hút được rất nhiều những môn sinh ưu tú
như Mùi Đen, Sáu Tộ (Sáng tổ môn phái Nam Hồng Sơn), Lý Đen, đặc biệt về
sau này, người cháu ngoại của cụ, võ sư Nguyễn Văn Nhân, với những tinh
hoa võ thuật học được từ cụ đã là rạng danh tiên tổ.
Cụ Cử Tốn nhiều giai thoại, hệt như Hoàng Phi Hồng bên Trung Quốc, tinh
thần thượng võ luôn song hành với tinh thần ái quốc, thương dân. Bởi là
nơi hội tụ những nhân vật kỳ tài, quân Pháp coi lò võ của cụ chẳng khác
nào cái gai trong mắt.
(Còn tiếp)
Đả hổ kiểu Võ Tòng
Có lần chúng bày gian kế hãm hại cụ đến mù hai mắt. Không chịu khuất
phục, cụ vẫn bí mật truyền dạy võ công cho những đệ tử yêu nước của
mình. Bất lực, giặc Pháp viện đến một âm mưu quỷ quyệt, ấy là dùng giới
võ lâm để triệt hạ lão võ sư cứng đầu ấy.
Chúng dựng võ đài, loan báo khắp Đông Dương rằng, võ sư nào đánh hạ được
thày trò Cử Tốn thì sẽ được trọng thưởng Bắc Đẩu bội tinh và được trọng
đãi hậu hĩnh sau này. Âm mưu ấy là vô cùng thâm hiểm, sẽ gây cảnh nồi
da nấu thịt, huynh đệ tương tàn, đồng thời, bởi ham mê danh lợi, nhiều
người đã “bỏ quên” tinh thần yêu nước, xoay mũi giáo vào chính… người
nhà.
Hiểu rõ âm mưu ấy, cụ Cử Tốn hết đỗi phân vân. Thượng đài thì khác nào
mắc mưu quân cướp nước, không thượng đài thì môn phái ô danh, quần hùng
khinh rẻ. Sau cùng, cụ đã nghĩ ra được một kế sách vẹn toàn.
Ngày ấy, ở sở thú Hà Nội có con hổ cụt đuôi vô cùng hung dữ. Con hổ to
lớn, hễ thấy người là lồng lên, bổ nhào lên chuồng thép như muốn ăn sống
nuốt tuơi. Cụ Cử Tốn muốn môn sinh của mình diễn lại tích “Võ Tòng đả
hổ” ngay trước mắt quần hùng để tạo thanh thế. Người được cụ chọn sắm
vai Võ Tòng là võ sư Mùi Đen, một đệ tử có thân hình vạm vỡ.
Đúng hôm đăng đài, quần hùng tụ tập mấy vòng xung quanh cùng đám sĩ quan
Pháp và bè lũ sai nha, cụ Cử mới nói rõ lý do tại sao lại thay màn tỉ
thí võ công bằng màn đả hổ. Nghe cụ nói, tất thảy đều cúi đầu im lặng,
và nín thở chờ xem màn quần thảo mà mới đầu ai cũng cho là chơi dại ấy.
Sau một hồi trống rộn rã, hai chuồng cọp đã được mấy chục người khiêng
ra, đặt ở hai đầu võ đài. Phía bên trái là chuồng con cọp đực cụt đuôi
đang gầm lên những tiếng kinh hồn, bên phải là con cọp cái cũng đang nhe
nanh, giương vuốt gầm gừ trông vô cùng dữ tợn. Mùi Đen thượng đài,
trông vô cùng hùng dũng.
Cứ thế, trước sự kinh hãi của mọi người, ông thủng thẳng vào mở cửa
chuồng con cọp đực. Hai bên quần thảo vô cùng ác chiến, sau một giờ,
bằng một đòn chí mạng, ông đã bẻ gãy cổ con mãnh thú khát mồi ấy. Chẳng
cần nghỉ ngơi lấy sức, túm gáy “kẻ thua cuộc”, ông vác sang chuồng con
cọp cái. Lại một màn kịnh chiến kinh hoàng diễn ra.
Và, cũng chừng ngần ấy thời gian, con cọp cái đã bị ông bẻ gãy bốn chân,
nằm phủ phục, rên những tiếng thảm thiết. Phía dưới, quần hùng không
ngớt vỗ tay tán thưởng và nể cái trí, cái dũng của thầy trò cụ Cử, chẳng
ai còn dám thượng đài nữa. Thực dân Pháp thì được một phen muối mặt, rẽ
đám đông đang hân hoan với những lời tán dương không ngớt chuồn thẳng.
Trốn nã bởi đánh võ đài
Thụ giáo những tinh hoa võ công từ hai bên nội, ngoại, cố võ sư Nguyễn
Văn Nhân đã nhanh chóng bộc lộ, và phát huy năng khiếu võ học thiên bẩm
của mình. Võ sư Nguyễn Văn Thắng kể, ngay trước Cách mạng tháng 8, tuổi
mới đôi mươi, cha ông đã là một thầy võ nổi tiếng ở Hà Nội.
Thanh niên, bởi còn sốc nổi, cha ông cũng hay đi đánh đả lôi đài. Thời
ấy, đa phần các võ sĩ thượng đài ra lời thách đấu đều do giặc Pháp giật
dây, vậy nên các trận đấu đều vô cùng kinh hãi. Kẻ thua trận nhẹ thì tàn
phế, nặng thì bỏ mạng ngay tại võ đài. Bởi thế, hầu hết các võ đài mà
giặc Pháp dựng lên thời kỳ ấy bên cạnh người võ sĩ thách đấu là chiếc
quan tài được làm từ mây trông rất đẹp.
Ai thua, tử trận thì nằm luôn vào chiếc quan tài ấy. Một lần thượng đài,
chàng trai trẻ Nguyễn Văn Nhân đã vô tình quá tay, đánh trọng thương
một võ sĩ đã đăng đài cả tháng mà chưa ai đánh hạ.
Theo lời võ sư Thắng thì ngày ấy, sau cú ra tay hơi mạnh đó, cha ông bị
chính quyền thực dân truy nã. Sợ hãi, ông đã bỏ trốn biệt tích. Sau ba
tháng, nhớ nhà, ông về, nhưng chẳng dám vào nhà. Ông trèo lên cây bàng
cổ thụ ngay gần nhà mà nhìn vào trong, nhìn ngó mọi người. Năm 1944, ông
theo cách mạng.
Tuần lễ vàng do Cụ Hồ phát động, ông đã đem tài nghệ của mình ra để biểu
diễn quyên tiền cứu giúp nhân dân. Đất nước thống nhất, với những tinh
tuý võ công mà mình đã được học, tinh luyện những phương pháp luyện tập
võ thuật phù hợp với thể trạng người Việt, ông đã sáng lập ra môn phái
Thăng Long võ đạo.
Võ sư Văn Thắng kể, ông được cha mình truyền thụ võ công từ năm 12 tuổi.
Bởi là sĩ quan quân đội nên cha ông dạy võ cho ông theo kiểu… kỷ luật
thép. Bây giờ, ông vẫn nhớ như in cái buổi đầu học võ… khổ sai ấy.
Trong gian nhà bếp chật hẹp, năm đầu, cha ông chỉ dạy ông duy nhất một
môn… đứng tấn. Tháng đầu tiên, cha ông bắt ông mỗi buổi phải đứng tấn
khi que hương cháy hết 1/3 mới thôi. Tháng thứ hai tăng lên là 1 nửa,
tháng thứ 3 là cả que nhang. Đứng im, không nhúc nhích. Hễ động đậy là
ngay lập tức chiếc roi trong tay cha vút lên, đau điếng. Hết đứng tấn
dưới đất lại đứng trên cọc nhọn, sau một năm thì chuyển sang Ngoại ngạch
công.
Cha ông bắt ông treo ngược chân lên xà, rồi cứ thế, ngửa cổ xuống dưới
nhấc những xô đá đổ lên xô to phía trên. Xô đá mỗi lúc một đầy, một nặng
thêm theo thời gian mà cha ông đã định sẵn. Hai năm, khi thân hình đã
dẻo dai, cứng cáp ông mới được cha mình truyền thụ quyền cước.
(Sưu Tầm)
Bài 4: Hai lần đại phá... “xã hội đen”
Võ sư Nguyễn Văn Thắng bảo, suốt cả đời luyện võ nhưng chỉ có hai lần
ông phải dùng công phu thượng thừa “giải quyết” chuyện đời. Đó cũng là
những tình huống cực chẳng đã nhưng đến giờ ông vẫn còn thấy day dứt...
Tập ngáp, tập nghiến răng, tập nhai... đá sỏi
Mỗi một bài quyền hay những môn công phu đặc dị đều là sự khổ luyện, giờ
nghĩ lại, nhiều lúc võ sư Thắng cũng thấy nổi da gà. Thiết xa chưởng là
một ví dụ. Cha ông đưa cho ông 12 cây đũa thẳng tắp, được ông tự vót từ
thân tre già. Tháng đầu tiên, bằng tay không, một chưởng, ông phải cắm
ngập chiếc đũa đó xuống nền đất cứng.
Võ sư Thắng
Võ sư Văn Thắng kể, sợ hãi nhất là tháng đầu tiên. Nếu vận khí không tốt
thì chiếc đũa không những không cắm xuống đất mà còn xuyên ngược vào
tay mình. Tháng thứ hai, vẫn một chưởng nhưng phải cắm liền lúc 2 chiếc
đũa. Tháng thứ ba là 3 chiếc, đến tháng 12 thì cả 12 chiếc phải cắm được
ngập thân trong lòng đất.
Thiết xa chưởng của võ sư Thắng bây giờ có lẽ chẳng ai bì kịp. Đã rất
nhiều lần ông kê bàn tay của mình trên nền nhà để mọi người thẳng tay
cầm vồ gỗ mà nện thoả sức chẳng khác nào đưa tay vào cối để giã, trong
khi ông vẫn đang tươi cười nói chuyện.
Từ trước đến giờ, làng võ vẫn thừa nhận, khẩu lợi công của Thăng Long võ
đạo là thiên hạ vô song. Võ sư Thắng bảo, chính bởi luyện môn công phu
đặc dị này mà hàm răng trên của ông đã mòn vẹt, thành hình vòng cung
trông rất khác người.
Theo võ sư Thắng, luyện khẩu lợi công đòi hỏi người tập luyện phải có
lòng kiên nhẫn, và một quyết tâm bền bỉ, sắt đá. Ban đầu, người học chỉ
tập mỗi động tác... ngáp. Một ngày cứ thế ngồi ngáp đến cả vạn lần. Sau
tập ngáp là tập nghiến răng. Tư thế nào thì cũng chỉ chú tâm vào việc...
day “bộ gặm nhấm” ấy.
Sau động tác đó, người luyện chuyển sang ngậm sỏi, nhá sỏi. Khi răng,
hàm đã cứng, đã có lực thì chuyển sang nâng, nhấc, kéo những vật nặng.
Ban đầu thì nhấc những túi cát nặng chừng 10 kg, sau đó tăng dần...
thành chiếc cối đá nặng đến nửa tạ.
Có thể nhai vỡ liền lúc hàng trăm cốc thuỷ tinh
Trước đây, năm 1989, Liên hoan võ thuật cổ truyền toàn quốc, võ sư Thắng
khi đó nặng chỉ 52 kg nhưng đã dùng khẩu lợi công nhấc cả chiếc bàn với
đỉnh đồng, nến, hạc, kiếm, ảnh Đạt Ma Sư tổ... nặng đến xấp xỉ 80 kg.
Sau mấy chục năm tu luyện, bây giờ, khẩu lợi công của võ sư Thắng đã đạt
tới mức thượng thừa. Ông bảo, với hàm răng thép của mình, ông có thể
nhai vỡ liền lúc mấy trăm chiếc cốc thuỷ tinh.
Bởi là môn phái có những công phu dị thường nên rất nhiều lần Thăng Long
võ đạo được Liên đoàn Võ thuật cổ truyền Hà Nội mời đi biểu diễn giao
lưu với các đơn vị khác.
Võ sư Thắng bảo, đến giờ ông vẫn còn ấn tượng với lần lên Hoà Bình biểu
diễn khí công cho các công nhân của Nhà máy Thuỷ điện sông Đà xem. Sở dĩ
ông nhớ lần trổ tài kinh hồn ấy là bởi, khi về, ông đã bị họ hàng mắng
cho một trận te tua. Ai cũng bảo, ông học lắm rửng mỡ, đùa với chính
mạng sống của mình.
Ông kể, lần ấy, bởi được báo hơi muộn, chưa kịp chuẩn bị tiết mục gì lạ
nên ông đành chọn môn khí công chịu lực. Vật dụng để biểu diễn là khối
bê tông nặng gần 3 tạ, ông mượn tạm từ bể nước của khu tập thể gần nhà
mình.
Tại công trường, khi các công nhân đã quây quần đông đủ, sau khi phô
diễn những bài quyền cước đẹp tựa phượng múa, rồng bay thì tiết mục khí
công chịu lực mở màn.
Vị võ sư thân thể gầy nhẳng như que củi vận khí nằm im trên nền gạch.
Khối bê tông 3 tạ được cần trục đưa tới, từ từ đặt nên người ông. Mọi
người nín thở sợ hãi. Khi khối bê tông đã yên vị thì hai lực sĩ hai bên,
mím môi mím lợi dùng búa tạ, nhè khối bê tông mà quai thật lực.
Quai sã cánh tay mà khối bê tông không chịu vỡ, người võ sĩ nằm dưới vẫn
cứ nằm im thin thít, chẳng chút chau mày. Không tin vào mắt mình, hai
chuyên gia Liên Xô lực lưỡng nhảy vào, giằng lấy búa, đập tiếp. Lại một
thôi một hồi những tiếng búa chan chát vang lên, nhưng khối bê tông vẫn
trơ trơ.
Người nằm dưới thì vẫn nét mặt thản nhiên như đang nằm ngẫm nghĩ điều gì
mông lung lắm. Mỏi tay, hai chuyên gia đành buông búa, trầm trồ thán
phục. Khi khối bê tông được nhấc ra, mọi người đã ùa vào sờ sờ nắn nắn
khắp người vị võ sư tài giỏi. Họ ngạc nhiên bởi không hiểu thân hình vị
võ sư được “kết cấu” bằng gì!?
Xuất chiêu vì... chiếc săm xe đạp
Trong suốt cả đời luyện võ, có hai lần ông cực chẳng đã phải đại phá... “xã hội đen”.
Lần thứ nhất xảy ra cách đây đã hơn 20 năm. Chiều ấy, bởi vợ đang mang
bầu, sắp sinh, ông đạp xe lên bờ hồ Hoàn Kiếm đón. Qua ngã tư Tràng
Tiền, chẳng hiểu thế nào xe của vợ chồng ông bị xịt lốp. Thấy thế, toán
sửa xe, toàn những tay thanh niên, mặt mày bặm trợn ở gần đó đã lôi xềnh
xệch xe của ông vào đòi sửa.
Thử săm, một gã bảo, bị thủng 3 lỗ lớn, phải vá thì mới đi được. Vá
xong, trả tiền, ông đã giật mình hốt hoảng khi gã đó phát giá bằng đúng
nửa tháng lương bác sĩ của mình.
Biết đã gặp bọn xấu bắt chẹt khách nhưng ông từ tốn xin chúng giảm giá,
nhưng dù trình bày thế nào thì chúng cũng chẳng chịu nghe, thậm chí, còn
hùng hổ đe dọa. Cực chẳng đã ông đành bảo vợ ở lại, để mình chạy bộ về
nhà lấy tiền.
Rửa tay nhờ chậu nước thử săm xe, ông đã tá hoả khi phát hiện, trong
chậu nước đục ngầu có một miếng cao su, được cắm những chiếc đinh nhọn
hoắt. Thảo nào, khi nãy, xe của ông bị hết hơi rất chậm mà khi thử đã có
đến ba nốt thủng. Cầm miếng cao su cắm đinh ấy, ông quyết định vạch mặt
quân gian trá. Bị lật mặt, đám thợ sửa xe sửng cồ, chúng đè ngửa xe ông
ra, tháo lấy săm và cắt nát tươm. “Xử lý” song cái săm, thằng cầm búa,
đứa cầm kéo đòi tính sổ “vợ chồng thằng nhiều chuyện”. Uất ức, ông quyết
định dạy cho bọn chúng một bài học nhớ đời. Nói thầm với vợ tạm lánh
sang bên kia đường, ông ra tay.
Lúc này, dân đi đường túm lại rất đông, ai cũng lo cho chàng thanh niên
mảnh khảnh, nhưng sợ nên chẳng ai dám can ngăn. Thấy vợ đã ra khỏi “vùng
nguy hiểm” ông xuất chiêu luôn. Bốn năm tên đồng loạt lao vào nhưng chỉ
trong chớp mắt, đứa thì ngã sõng xoài dưới cống, đứa thì lộn lên hè kêu
la thảm thiết.
Thấy chiến hữu đều bị hạ đo ván một cách khó hiểu, có tên từ phía sau,
chực vung búa lên đánh lén. Thấy mọi người chỉ, ông quay phắt lại. Gặp
ánh mắt sắc lẹm của ông, tên này chân tay bủn rủn. Buông “vũ khí” trên
tay, hắn co cẳng chạy.
Thấy ông ra tay ngoạn mục, dân bên đường đồng loạt vỗ tay thán thưởng.
Sau này, những người dân quanh đó nói bọn chúng đều là những phần tử
“thương tích đầy mình”.
3 trận chiến – 1 kẻ thù
Lần ra tay thứ hai, ông bảo, đó là cuộc chiến dai dẳng, khó chịu. Mở lớp
dạy võ tại nhà (phố Hồng Mai) ông luôn bị đám đầu gấu ở quanh khu vực
đó quấy nhiễu. Môn đệ của ông liên tục bị chặn đường xin đểu, lúc thì
lại bị mất đồ xe máy.
Một hôm, có môn sinh báo mất cốp xe, bực mình, ông liền đi gặp mấy tên
lưu manh ấy để “làm cho ra nhẽ”. Gặp nhau ở quán nước, hỏi thì thằng nào
thằng ấy đều chối đây đẩy. Biết có hỏi nữa cũng chẳng được gì, thất
vọng, ông đứng dậy ra về. Để răn đe chúng, khi đứng dậy, tiện tay, ông
đã vỗ luôn một chưởng vào bức tường rào gần ấy. Cú đòn răn đe ấy đã làm
bức tường sụt một mảng lớn. Sau đấy vài hôm, đám lưu manh bị công an
bắt.
Tại cơ quan công an, chúng đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của
mình, trong đó có cả việc “nhảy đồ” ở lò võ của võ sư Thắng. Bị phạt tù,
chúng uất ức, cho rằng chính vị võ sư là người tố giác hành vi phạm tội
của mình. Chúng nung nấu ý định trả thù.
Năm 1987, sau khi thụ án 2 năm, mấy tên trong băng nhóm đó mãn hạn. Về
nhà, chúng tuyên bố, việc đầu tiên để “làm lại cuộc đời” là tìm “gã” võ
sư đáng ghét để rửa hận. Võ sư Thắng kể, sáng ấy, đang ngồi ăn phở ở đầu
phố thì thấy chúng chừng 7, 8 tên, lăm lăm trên tay “hàng lạnh”, hùng
hổ kéo nhau vào quán.
Biết chúng kiếm mình gây sự, ông chuyển lại tư thế ngồi, quay lưng vào
tường và vẫn đủng đỉnh ăn như không có chuyện gì. Liếc thấy có tên lao
vào, ông đứng phắt dậy, tay trái gạt chiếc chai hắn đang nện tới, tay
phải dùng đũa dứ ngay trước mặt. Có lẽ biết nếu ông xuống tay thì đôi
mắt của mình coi như hỏng, tên này sợ hãi đẩy đồng bọn lùi ra. Ông cũng
thủ thế từ từ bước ra ngoài. Biết không thể đánh trực diện ông, chúng
cũng nháy nhau giải tán.
Đêm ấy, kéo thêm cả chục tên lưu manh nữa, chúng đến thẳng cửa nhà ông
chửi bới om xòm. Không thể lảng tránh, một mình ông xách kiếm mở cửa
bước ra. Thanh kiếm sáng loáng trên tay, ông cứ thế múa vun vút. Nhìn
sắc mặt, nghĩ là ông không dọa nên chẳng đứa nào dám xông vào ẩu đả.
Công an ập đến, tất thảy được đưa về phường. Tưởng sau lần ấy, chúng
thôi giở thói du côn, ỷ đông hiếp yếu, nào ngờ, chúng vẫn tuyên bố, gặp
ông ở đâu là đánh chết luôn ở đó. Và, đã vài lần chúng dao búa phục ông ở
cổng bệnh viện nhưng được mọi người báo, ông đều lánh mặt an toàn.
Thấy không đánh thì không yên nên một buổi đi làm về, ông quyết định ra
đòn. Hôm ấy, biết chúng tụ tập phục mình ở cổng bệnh viện, ông gửi lại
xe và chiếc cặp da trên tay, ông thủng thẳng rảo bộ về nhà. Thế nhưng,
vừa ra đến cổng, đám lưu manh trên đã ập tới. Chẳng nói thêm gì nữa, ông
xuất đòn luôn. Như con thiêu thân, lần lượt cả 4 tên đều bị ông hạ đo
ván. Sau trận ấy thì ông đã bình yên vô sự. Sau này, gặp lại ông, chúng
vẫn rối rít gọi ông là “đại ca”, còn cảm ơn vì hôm ấy, ông đã nương tay,
ra đòn chưa hết sức!
Nội công bí kíp của Thăng Long võ đạo bây giờ đã nổi như cồn. Các võ
sinh đến theo học ngày một đông. Võ sư Thắng bảo, bây giờ, môn phái ông
đã có trên 2.000 môn sinh. Bởi là một bác sĩ, nên ông muốn dùng chính
nội công lừng danh của môn phái vào việc cứu người. Khí công trị liệu,
ấy là một sở trường của Thăng Long võ đạo, hiện đang được rất nhiều bệnh
nhân ở Hà Nội theo học để tự cứu mình.
(Sưu Tầm)
Bài 5: Cao thủ Phật gia và chuyện thi đấu nhường… 3 đòn
Trong số những võ sư nổi tiếng mà tôi đã gặp, dù sinh năm 1958 nhưng
ông vẫn là người trẻ nhất. Thế nhưng, tài không đợi tuổi, đến giờ, ông
đã có một võ nghiệp mà rất nhiều võ sư phải ao ước, thán phục.
Ông là võ sư Băng Sơn, (tên thật là Bùi Quốc Sơn), Chưởng môn phái Võ
lâm Phật gia, đệ tử chân truyền của Chưởng môn đời thứ 44, môn phái
Thiếu Lâm Phật Gia, đại sư người Trung Quốc, Lý Chấn Hòa. Võ lâm giang
hồ còn biết đến ông với tư cánh là đệ tử cuối cùng trong nhóm Thập nhị
đại đồ đệ (pháp danh Bắc Phong Chân Nhân) của đại sư, Chưởng môn phái Võ
lâm Côn Luân, Thanh Hư Chân Nhân Đoàn Tâm Ảnh.
Bởi muốn hoằng dương tinh thần võ đạo, lòng nhân ái và sự bao dung, Bắc
Phong Chân Nhân và các môn sinh của mình còn nổi tiếng ở cách hành xử lạ
thường khi tỉ thí võ nghệ: Luôn nhường trước đối phương trước 3 đòn rồi
mới xuất chiêu đánh trả.
Duyên tiền định
Quê ông ở Mao Điền, huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương. Tổng Mao Điền ngày
trước nổi tiếng là đất học, với 128 vị tiến sĩ, trong đó nổi tiếng nhất
là Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Thời phong kiến, nhà Mạc đã cho lập
Văn miếu để tôn vinh sự hiếu học của nhân dân xứ này. Ngoài văn, Mao
Điền cũng nổi tiếng về võ, mà bằng chứng là thời giặc Pháp đô hộ, đội du
kích Mao Điền đã trở thành nỗi khiếp sợ đối với kẻ thù bằng những chiến
công vang dội ở khắp đường 5.
Tại đất ấy, dòng họ Bùi Xuân của võ sư Băng Tâm cũng nổi tiếng bởi tinh
thần thượng võ với các bài võ gia truyền như võ gậy, lăn khiên, song
đao… Ông nội ông, cụ Bùi Xuân Cật, còn gọi là Trương Cất được võ lâm
đương thời ái mộ bởi thông thạo nhiều đòn hay thế hiểm của Long quyền,
Hổ quyền, Ngọc trản, Thiết lĩnh…
Lớn lên trong “môi trường” ấy, được mọi người rèn rũa tối ngày nên khiếu võ trong ông đã “có đất” sinh sôi.
Gia đình ông chuyển ra Hà Nội đúng khi nghề võ suy tàn. Bởi thế, ông
được mọi người “chuyển hướng”, bắt quay sang “học văn” vì nghĩ đó là
đường lập thân tốt nhất.
Thế nhưng, như cái duyên trời định, dòng máu võ thuật trong ông vẫn
không khi nào ngưng chảy. Ngày ấy, nhà ông ở phố Huế, ông hay lang thang
cùng đám bạn ra ga Hà Nội chơi. Trẻ con, bởi hiềm khích với đám choai
choai ở ga nên nhiều lần hai “băng” đã đánh nhau biêu đầu, sứt trán.
Một bữa, ra đó chơi, bị “phục kích” bất ngờ, chậm chân, ông đã bị đám
“đầu gấu” quây vào góc ga, “hứa hẹn” một trận đòn tới số. Đang lúc nguy
khốn, như trong chuyện kiếm hiệp, không biết từ đâu, một cô bé xinh xắn
chạc tuổi ông bất ngờ xuất hiện. Thân thủ nhanh nhẹn, xuất chiêu biến
ảo, chỉ trong giây lát cô bé đã khiến mấy tên ma cà bông ngã xõng xoài, ù
té mỗi đứa một nơi.
Thấy cậu nhóc bị thương, da thịt bầm dập, cô bé đã khẩn khoản mời cậu về
nhà để cho cha mình chữa chạy. Nhà cô bé ở khu Trại Nhãn (La Thành- Hà
Nội), nơi ấy khi đó toàn những ngôi nhà lụp xụp của dân tứ xứ. Trên
đường về nhà, cô bé ấy bảo, cha cô là người Trung Hoa.
Ông sang Việt Nam sinh sống đã lâu và cũng một cơ duyên tình cờ, cô được
nhận làm con nuôi của ông cụ. Nhà cô bé cũng tạm bợ như bao ngôi nhà ở
khu vực ấy, chỉ có điều rộng rãi hơn và phía trước, sau đều có khoảng
sân rộng được nện bằng lì, chắc nịch.
Khoảng sân ấy chắc chắn là để tập luyện quyền cước - là người đã từng
tập võ, cậu bé Sơn thầm đoán. Đón cô con gái nuôi ở cửa, sau khi nghe cô
nói chuyện (bằng tiếng Trung Quốc), người đàn ông có khuôn mặt hiền hậu
nhưng ánh mắt thì quắc thước, tinh anh đã vội vàng vời cậu bạn mới quen
của con mình vào trong.
Võ sư Băng Tâm kể, chỉ bằng một phương thuốc gia truyền bôi ngoài da,
như có phép tiên, các vết bầm tím trên người ông đã dịu mát và ít phút
sau thì lành hẳn như chưa từng bị va đập bao giờ. Thấy con mình cần có
bạn và cậu bé mới quen cũng hiền lành nên khi tiễn ra cổng, ông già
người Tầu ấy đã thân thiện mời ông khi rảnh hãy cứ đến nhà chơi.
Cao nhân lộ tướng
Mấy ngày sau, thấy nhớ bố con ông lão tốt bụng, cậu bé Sơn lại tìm ra
Trại Nhãn. Gọi cửa mãi mà không thấy ai ra mở, cậu đành lặng lẽ đẩy cổng
bước vào. Trong nhà vẫn vắng hoe nhưng ở sân sau thì có tiếng hò hét,
tiếng chân dậm huỳnh huỵch. Tò mò, cậu lại lặng lẽ tiến về nơi có những
tiếng động lạ ấy.
Qua khe cửa sổ, cậu đã hết sức bất ngờ bởi trong khoảng sân rộng chừng
chục mét vuông đang có cuộc tỉ thí lạ lùng. Mấy người cao to lực lưỡng
đang thủ thế nhằm vào ông lão chủ nhà, người đã thoa “thuốc tiên” cho
cậu hôm nào. Một tiếng hô vừa đủ nghe nhưng rất dõng dạc vừa cất lên thì
cả đám người ấy tung đòn ào về phía góc sân, nơi chủ nhà vẫn điềm nhiên
đứng tấn.
Võ sư Băng Tâm kể, trong đời, ông chưa thấy một trận so tài nào mãn nhãn
đến vậy. Khi đối phương còn cách vài bước chân, ông lão người Tàu mới
thi triển thân pháp. Thế nhưng, chỉ một cái nhún người, ông đã thoăn
thoắt vòng đến trước mặt khắp lượt những đối thủ của mình.
Và, mỗi lần “xuất hiện bất ngờ” ấy, ông đều nhứ những đòn rất hiểm vào
tử huyệt đối phương. Quần thảo một hồi, tất cả dừng tay. Sau động tác
chào nghiêm nghị, mấy người lực lưỡng hổn hển bảo: “Thân thủ của sư phụ
thiên hạ vô song, chúng con còn phải học hỏi rất nhiều!”.
Truớc lời khen ngợi ấy, ông lão chủ nhà chỉ cười hiền rồi khoát tay mời tất cả vào nhà.
Vào đến nhà trong, thấy cậu nhóc loắt choắt đang đứng khép nép sau cánh
cửa nhìn mình bằng ánh mắt vừa sợ hãi, vừa nể phục, ông lão người Tàu đã
vẫy cậu lại, xoa đầu và hỏi: “Con có thích học võ không?”.
Tim còn đang thình thịch đập, ông đã gật đầu bừa. “Tốt lắm! Ta thấy con
cũng có khiếu đấy! Nếu thích học thì cứ đến đây, ta sẽ dạy cho! Đây là
những đệ tử của ta, họ đã theo ta được cả chục năm rồi đấy!”.
Chỉ vào những người vừa giao đấu với mình khi nãy, ông lão người Tàu ôn
tồn giới thiệu. Vậy là từ dạo đó, cứ tối đến là ông lại trốn gia đình mà
chạy bộ từ nhà sang khu Trại Nhãn.
Khi tình cảm của hai người đã nặng sâu, ông lão người Tàu mới tiết lộ
cho cậu học trò bé nhỏ của mình biết rõ thân phận thật của mình. Và,
điều ấy đã làm cậu vô cùng bất ngờ, kinh ngạc. Có lẽ, dù có nằm chiêm
bao cậu cũng không thể ngờ có ngày mình lại được gặp Chưởng môn đời thứ
44 của môn phái nổi tiếng ở đất võ Trung Hoa: Thiếu lâm Phật gia.
Ông tên là Lý Chấn Hoà, pháp danh là Băng Tâm (sinh năm 1889, quê ở tỉnh
Hà Bắc), con trai của võ sư nổi tiếng và là Chưởng môn đời thứ 43 của
môn phái, Lý Chấn Sinh. Bởi cuộc cách mạng dân quốc năm 1937 mà ông phải
ly tán sang đất Việt.
Những ngày đầu, ông kiếm sống nhờ nghề bảo tiêu cho các thương gia chạy
hàng đường dài, sau đó thì ổn định cuộc sống nhờ nghề bốc thuốc, chữa
bệnh. Như để cậu học trò thơ ngây thực sự tin tưởng vào những lời mình
nói, ông lão người Tàu đã lật đật mở tủ lấy cho cậu xem ấn, kiếm- những
bảo vật của môn phái mà chỉ người chưởng môn mới được quyền gìn giữ.
Bởi khó khăn nên lễ kết nạp ông vào môn phái được đại sư chưởng môn tổ
chức đơn giản nhưng đầy đủ thủ tục, nghi thức. Và, cũng tại buổi đó, Lý
sư phụ đã đặt cho ông pháp danh theo pháp danh của người là Băng Sơn và
nhận ông làm con nuôi.
Theo Lý sư phụ rèn luyện thành thạo Ngũ hình quyền (Long- Hổ- Báo- Xà-
Hạc) và tinh thông thập bát ban cùng các kỹ năng cơ bản của Thiếu lâm
Phật gia, võ sư Băng Sơn lên đường nhập ngũ. Những tháng ngày quân
trường này, bởi tính ham học hỏi, bởi cơ duyên, ông đã được tiếp xúc với
nhiều người luyện võ ở khắp mọi nơi, đặc biệt là tại các bản làng người
dân tộc thiểu số sống rải rác khắp vùng cương thổ. Và, cũng từ những
mối thâm tình ấy, ông đã được lãnh hội nhiều bí kiếp võ công thuộc kỳ
dị, hiếm có ở đời.
Xuất ngũ năm 1984, quẳng ba lô về nhà, ông vội vàng tìm đến nơi ở của Lý
sư phụ. Dù đã mấy xuân nữa trôi qua nhưng sư phụ ông vẫn giữ nguyên
phong độ ngày nào. Và, để kiểm tra xem sự tiến bộ của cậu học trò yêu
sau mấy năm xa cách, Lý sư phụ cùng ông đã có cuộc so tài nảy lửa.
Sau cuộc đấu đó, Lý sư phụ vô cùng mãn nguyện. Vỗ vai ông, đại sư bảo:
“Khi đi con được 1 thì giờ về đã khá thêm tới 7- 8 phần!”.
Khi đó, được sự dìu dắt của sư phụ và sư thúc Viễn Trí, cũng một cao
nhân trong làng võ khi ấy, giữa năm 1985, ông đứng ra mở võ đường, chiêu
nạp môn sinh. Và, cũng được phép của sư phụ chưởng môn, ông lấy tên võ
phái là Võ lâm Phật gia, ý chỉ môn võ xuất phát từ cửa thiền, được phóng
tác theo lối chiến đấu của các loài mãnh thú. Khi võ phái được thành
lập, thêm một trọng trách và vinh dự nữa khi ông được sư phụ mình giao
cho nhiệm vụ là đại diện của môn phái, chịu trách nhiệm phát dương quang
đại môn phái ở Việt Nam.
Xuôi phương Nam tìm cao thủ
Năm 1988, tuổi đã cao (99 tuổi) bởi nỗi nhớ quê hương, Lý sư phụ đã lên
đường về nước. Chia tay nhau, nắm tay ông, đại sư nghẹn ngào bảo: “Tất
cả những kỹ năng của ta, con đều đã lãnh hội vẹn toàn. Nay ta về cố
quốc, chẳng biết có ngày hội ngộ nữa không? Trước khi ta đi, ta muốn dặn
con một điều con nhớ mà cố gắng thực hiện. Con hãy tìm gặp cho kỳ được
Thiện Tâm Thiền sư Đoàn Tâm Ảnh để học thêm về đấu pháp. Trời Nam này,
theo ta thì ông ấy là thiên hạ vô song. Hơn nữa, kinh nghiệm giang hồ là
điều con còn thiếu mà ông ấy lại đã có thừa!”.
Nghe theo lời Lý sư phụ, ngay sau đó ít lâu, ông khăn gói vào miền Nam
tìm Thiện Tâm Thiền sư. Về vị đại sư tiếng nổi như cồn này thì bây giờ,
người luyện võ vẫn ước ao trong đời được một lần tham vấn.
Thiện Tâm Thiền sư là Chưởng môn phái Võ Lâm Côn Luân, ông còn được võ
lâm biết tới qua pháp danh Thanh Hư Chân Nhân. Ông sinh năm 1900, ở miền
Tây với cha là người Triều Châu (Trung Quốc) mẹ là người Rạch Giá. Ngay
từ nhỏ ông đã sống đời phiêu bạt.
Năm 12 tuổi, ông được cha mình gửi sang Trung Quốc, trú tại chùa Phi Lai
Tự , núi Sơn Đầu, tỉnh Mã Dương Cương. Người được “giao nhiệm vụ” rèn
cặp Tâm Ảnh thì ở Trung Hoa đại lục hiếm người nào lại không biết tới.
Ông chính là Mộc Đức Thiền Sư, cố vấn cao cấp của ông Tôn Trung Sơn. Sau
gần chục năm luyện tập võ nghệ, khi tuổi ngoài 20, đại sư Đoàn Tâm Ảnh
đã được Mộc Đức Thiền Sư cùng đại sư Bắc Phong Hoà Thượng, Chưởng môn
phái Thiếu lâm Bắc phái đứng ra tác hợp để cậu học trò yêu được kết tóc
se duyên cùng cô nương Hoa Cẩm Tú (môn đồ của Bắc Phong Hoà Thượng).
Sau đó, được sự đồng ý của hai vị đại sư phụ, vợ chồng Tâm Ảnh xuống núi
hành hiệp với pháp hiệu là Ta Lô. Từ ngày xuống núi, tiếng tăm về cặp
vợ chồng Tâm Ảnh- Cẩm Tú cũng lẫy lừng khắp mọi dẻo đất Trung Hoa.
Người chồng thì khiến đối phương nể sợ bởi đường côn dũng mãnh, biến hoá
khó lường. Người vợ thì nức tiếng giang hồ với vuông lụa bạch, mỗi lần
xuất chiêu thì lấy mạng người ngay trong chớp mắt.
Chiến tranh Hoa- Nhật bùng nổ, vợ chồng ly tán mỗi người một phương. Sau
nhiều năm tìm kiếm nhưng vô vọng, Đoàn Tâm Ảnh đành phải quay trở lại
quê nhà. Về đất Quảng Ngãi vào năm 1932, nhưng máu phiêu bạt, ông lại
khăn gói sang Lào và Cam pu chia. Năm 1944, Tâm ảnh trở về Việt Nam, trú
tại Bạc Liêu.
Lúc này, ông nương nhờ cửa phật, sống ẩn dật ở các chùa chiền với pháp
danh Thiện Tâm. Cũng thời kỳ này, bởi nạn cường hào ác bá, bởi sự hung
đồ của quân cướp nước, ông đã đứng ra thành lập đảng Sao trắng với sứ
mệnh là trừ khử những tên tham quan, ô lại, nhũng nhiễu dân nghèo.
Chuyện đại sư Đoàn Tâm Ảnh hành hiệp trượng nghĩa thì bây giờ, dân các
tỉnh miền Tây vẫn truyền tai nhau như một huyền thoại. Cứ khi mọi người
yên giấc, bỏ áo thầy tu, khoác lên người bộ y phục kín mít, đại sư băng
mình vào màn đêm tĩnh lặng. Và, lần nào đi thì lần chí ít cũng một tên
ác ôn phải đền tội ác.
Cứ sau mỗi lần ra tay, hiệp khách ấy luôn để lại trên “hiện trường” ám
hiệu riêng của mình. Đó chính là chữ ký của ông. Chữ ký có hình ngôi sao
5 cánh.
Suốt mấy năm trời, tại 6 tỉnh miền tây, uy danh, sự lợi hại của vị đại
hiệp có chữ ký lạ lùng ấy đã làm thực dân Pháp và bè lũ tay sai khiếp
đảm. Bởi thế, nhiều dinh thự của những tên quan lại nợ máu với nhân dân
đã vội vàng “nâng cấp”, che chắn kín cổng cao tường để đề phóng thích
khách.
Thế nhưng, như từ dưới đất chui lên, như từ trên trời rơi xuống, tất cả
các hệ thống canh phòng ấy đều là vô dụng. Hễ hiệp khách muốn “đòi nợ”
ai thì dù có phòng bị nghiêm ngặt đến mấy thì kẻ đó vẫn phải rơi đầu.
Năm 1944, đại sư Đoàn Tâm Ảnh lại tiếp tục cuộc đời phiêu bạt của mình.
Ông đã lưu dấu chân mình ở khắp các nước như Mã Lai, Thổ Nhĩ Kỹ, Nhật
Bản, Phi Luật Tân… Tại những nơi đó, ông đã truyền bá công phu cho rất
nhiều người. Về lại Việt Nam năm 1954, ông bắt đầu thâu nạp môn sinh, mở
võ đường dạy võ. Năm 1960 ông đã sáng lập Võ lâm đạo Việt Nam và thành
lập Tổng hội Võ lâm Việt Nam tại Cần Thơ.
Còn nữa
Võ sư Băng Sơn kể, hành trình ông diện kiến Thiện Tâm Thiền Sư cũng
vô cùng gian khổ. Vào đến Sài Gòn, thấy người muốn theo đại sư luyện võ
nhan nhản ở khắp nơi ông mới nhận ra “cái khó” của mình. Đại sư là người
danh tiếng, người luyện võ đều muốn được một lần diện kiến người chứ
chưa nói chuyện được làm đệ tử, vậy mà ông lại muốn được người tận tâm
chỉ giáo để hoàn thiện những kỹ năng võ thuật của mình trong thời gian
ngắn thì quả thật, khó như chuyện bắc thang lên trời.
Môn đồ cuối cùng trong Thập nhị đại đồ đệ
Bởi lý do đó, vào Sài Gòn suốt mấy tuần trời, tìm đến khắp các võ đường
của Võ lâm Côn Luân nhưng ông vẫn không một lần được thấy mặt người.
Thấy ông vất vả, kỳ công, các trợ giáo của đại sư đã thương cảm, khuyên
ông nên ra Bắc bởi đại sư không bao giờ tùy tiện gặp người mình không
quen biết. Thế nhưng, nhớ lời dạy của Lý sư phụ trước lúc chia tay, ông
quyết chí tìm gặp Thiện Tâm Thiền Sư cho kỳ được, dù có phải đi làm thuê
để kiếm kinh phí trang trải trong những ngày chờ đợi.
Thế rồi, cơ duyên, một lần đến viếng thăm một võ đường của đại sư nằm
khuất sâu trong con hẻm nhỏ yên tĩnh, ông đã được một trợ giáo của đại
sư đon đả mời vào. Chưa hết ngạc nhiên thì vị trợ giáo ấy đã bảo: “Đại
sư đang chờ ông ở trong. Người biết thế nào ông cũng đến nên đã cố tình
chờ đấy!”.
Võ sư Băng Tâm kể, nghe câu nói đó, ông đã mừng đến nỗi ú ớ chẳng nói
được câu nào. Quãng đường từ võ đài vào phòng đại sư chỉ vòng vèo qua
mấy gian nhà mà ông thấy như xa vời vợi. Thế rồi, cái giây phút căng
thẳng ấy đã nhanh chóng trôi qua khi cánh cửa phóng của đại sư bật mở.
Đang ngồi trầm ngâm, thấy ông đại sư đã bật dậy, vồn vã: “Con vào đây!
Ta chờ con cũng đã lâu rồi!”. Khi vừa an vị, một câu hỏi nữa của đại sư
càng khiến ông thêm phần bối rối, khó hiểu: “Có phải Lý sư phụ giới
thiệu con tới tìm ta?”. “Ôi, sao đại sư biết!?”.
Trước câu hỏi đầy sự kinh ngạc ấy của ông, Thiện Tâm Thiền Sư chỉ khẽ
mỉm cười. Sau này, ông đoán rằng, trước đây, bôn tẩu giang hồ, hai vị
đại sư đã có lần hội ngộ nên đã hứa hẹn chuyện dìu dắt đệ tử cho nhau.
Võ sư Băng Sơn kể ngay buổi gặp gỡ ấy, đại sư Đoàn Tâm Ảnh đã thử tài
năng võ nghệ của người đệ tử tương lai của mình. Ngồi trên sập, đại sư
bảo ông thi triển quyền cước ngay trong gian nhà chật chội ấy.
Ban đầu, đại sư bắt ông đánh phá 2 cửa, rồi tăng lên 4 cửa, 6 cửa. Sau
một thôi một hồi tri triển tất cả những kỹ năng mà mình có được, đã thấm
mệt, đang chực dừng lại thì Thiện Tâm Thiền sư lại giục tiếp: “Đánh 8
cửa!”. Mệt, thêm nữa, trong căn phòng nhỏ ấy, không đủ diện tích để ông
thực thi “mệnh lệnh” lạ lùng của vị đại sư nên ông đành chắp tay mà
rằng: “Cái đó thầy con chưa dậy!”.
Nghe ông nói vậy, đại sư bỗng phì cười. Thế nhưng, sau nụ cười ấy ông
bỗng trầm ngâm, như đang mải mê với một suy nghĩ vô cùng sâu sắc.
Đăm đăm nhìn ông, bất chợt đại sư hỏi: “Con có muốn làm đệ tử ta không?
Nếu đồng ý, ta sẽ đích thân chỉ giáo!?”. Câu hỏi ấy đã làm ông vô cùng
sung sướng bởi đó là mục đích của chuyến đi này. Thế nhưng, nghĩ đến
hàng ngàn đệ tử của đại sư, có mấy người được hưởng ân sủng đặc biệt ấy
của người. Sợ hiềm khích, đố kỵ nên ông đã e dè: “Con sợ mình không có
khả năng với lại còn sư huynh, sư đệ…”. “Cái đó thì con khỏi phải lo,
khả năng của con đến đâu ta biết! Còn về môn phái, ta sẽ đặc cách cho
con!”.
Sự kiện Thanh Hư Chân Nhân đặc cách thu nạp đệ tử ấy chẳng mấy chốc lan
rộng ra khắp sư môn, thậm chí cả làng võ phía Nam. Thế nhưng, với những
người luyện võ chân chính thì lại cho đó là một điều vô cùng có lợi cho
võ lâm, bởi họ tin vào con mắt tinh đời của Thiện Tâm.
Và, cũng qua sự kiện ấy, võ lâm mới hiểu hết khát khao cháy bỏng mà suốt
cả cuộc đời, Thanh Hư Chân Nhân chưa hội đủ điều kiện để thực hiện. Từ
năm 1960, khi sáng lập Tổng hội Võ lâm Việt Nam và Võ lâm đạo Việt Nam,
sáng tổ Đoàn Tâm Ảnh đã có dự định hưng chấn võ đạo Việt Nam cùng với
Thập nhị đại đồ đệ như truyền thống của các danh sư Côn Luân thủa trước ở
Trung Hoa. (Mỗi danh sư của phái Côn Luân đệ tử thì có thể có nhiều
nhưng chỉ có 12 người được phong pháp danh và được truyền thụ tất cả
những bí kíp võ công của môn phái). Võ sư Băng Tâm kể, trước đó, đã có
11 đại đồ đệ được đại sư Đoàn Tâm Ảnh thu nạp.
Trong số họ, đã có nhiều người danh chấn giang hồ như Hàng Thanh, Lạc
Hà, Hùng Phong, Vũ Đức… (các cao thủ này hiện đang sinh sống và truyền
bá võ thuật ở nước ngoài). Thu nạp ông làm đại đồ đệ cuối cùng, thứ 12,
Thanh Hư Chân Nhân đã đặt pháp danh cho ông là Bắc Phong Chân Nhân với
uớc muốn, ông sẽ đưa môn phái phát triển rực rỡ ở miền Bắc. Được tặng bí kíp võ công giá hơn cả… 200 cây vàng
Từ dạo đó, ngày nào cũng vậy, võ sư Băng Sơn kể, ông được đại sư trực
tiếp truyền thụ võ công. Tuy là vô cùng yêu mến nhưng đại sư là người
rất nghiêm khắc trong việc dạy học trò.
Còn nhớ, khi mới vào, tiếp xúc với một số đồ đệ của đại sư, ai cũng bảo:
“Ổng khó tính lắm! Lôi thôi là ông uýnh liền à!”. Và, võ sư Băng Sơn
cũng không ngoại lệ. Tuy chưa bị “uýnh liền” nhưng Thanh Hư Chân Nhân đã
ra với ông một điều kiện, các bài mà người dạy ngày hôm trước, hôm sau
phải tinh thông cho kỳ được. Nếu không làm được như thế thì đại sư sẽ
không dạy nữa và coi như duyên số giữa hai thầy trò đã đến ngày cạn
phai.
Chỉ ít lâu theo đại sư Đoàn Tâm Ảnh, ông đã lãnh hội được toàn bộ Thập
bát chưởng công, võ công cơ bản của Côn Luân Bắc phái. Theo võ sư Băng
Sơn thì võ công của Côn Luân thiên về việc tu thân luyện sức, toát lên
tinh thần nhân ái, các môn sinh thích sống cuộc đời ẩn dật, không phô
trương.
Bởi thế, võ lâm giang hồ bảo, võ của Côn Luân là Võ tiên. Bởi còn công
việc ngoài Bắc, nên khi đã thấm nhuần cái đạo của Võ tiên, thầy trò đành
phải nói lời giã biệt. Năm 1991, nhân Đại hội Võ thuật toàn quốc lần
thứ nhất, Thanh Hư Chân Nhân ra Hà Nội.
Tái ngộ nhau, hai thầy trò mừng mừng tủi tủi. Võ sư Băng Tâm kể, lần gặp
gỡ ngắn ngủi ấy, đại sư đã trao cho ông cuốn Cẩm nang bí kíp. Đây là
cuốn sách ghi lại đầy đủ những bí kíp võ công của môn phái Côn Luân, do
đại sư tự tay mình chép lại.
Về cuốn sách đặc biệt này, võ lâm giang hồ xem như báu vật. Có giai
thoại rằng, trước đó, đã có rất nhiều nhà xuất bản đến nài nỉ xin mua
lại bản thảo với số tiền khổng lồ. Riêng nhà sách Khai Trí ở Sài Gòn đã
trả cho đại sư 200 cây vàng nhưng ngài vẫn không chịu bán. Tiếp những
nhà xuất bản ấy, đại sư chỉ bảo: “Sách quý, không bán được! Nhưng gặp
ai, thấy thích, tôi sẽ tặng ngay!”.
Cũng trong lần gặp ấy, đại sư đã bảo ông rằng: “Ta 18 năm lang bạt học
võ thì đến giờ đã truyền cho con được 9 năm rồi. Khi nào vào đó (Sài
Gòn) ta sẽ truyền nốt 9 năm con lại cho con!”. Nghe lời dạy của đại sư,
thu xếp ổn thỏa công việc, năm 1995, ông lại khăn gói vào Sài Gòn hội
ngộ với sư phụ mình. Và, chuyến đi này, theo võ sư Băng Tâm, khả năng
hấp thụ võ công của ông đã khiến Thanh Hư Chân Nhân vô cùng mãn nguyện. Thọ giáo “Vương kiếm” Huyền Công Đạo
Ra Bắc, vừa tập trung sức lực gây dựng môn phái, võ sư Băng Sơn còn được
“Vương kiếm” Huyền Công Đạo Trần Công quý mến chỉ giáo thêm. Nhờ sự tận
tình ấy, ông đã lãnh hội được ở đại sư nhiều môn binh khí đặc dị và
những bí pháp có một không hai.
Chuyện võ sư Băng Sơn diện kiến Huyền Công Đạo Trần Công giờ giới võ
thuật vẫn truyền tai nhau như một giai thoại đẹp. Võ sư Băng Sơn kể,
nghe tiếng tăm của cụ Trần Công đã lâu, đặc biệt là khả năng khí công
siêu phàm của cụ, đã nhiều lần ông muốn thử.
Thế nhưng, ngại mình là bậc hậu sinh, lại thêm phần Huyền Công Đạo nổi
tiếng kỹ tính nên loay hoay mãi mà ông chẳng biết chọn cách nào. Cho đến
một buổi, sau hôm gặp đại võ sư ở Hội võ thuật Hà Nội, ông đã quyết
định “diện kiến” sự cao thâm của bậc danh nhân làng võ ấy.
Ông lấy côn và tự đánh một đòn rất nặng vào tay trái của mình. Cú “tự
xử” ấy khiến tay ông bầm tím, xưng vù. Ôm cánh tay đau đớn ấy, ông đã gõ
cửa nhà Huyền Công Đạo. Võ sư Băng Sơn kể, hôm ấy, ông đã được mấy phen
kinh ngạc.
Thấy bộ dạng của ông, Huyền Công Đạo như đã biết tỏng sự việc, nhưng ông
vẫn vui vẻ mời ông vào. “Ông muốn ta phóng khí chữa vết thương phải
không, được rồi, ông cứ ngồi nguyên đó, ta sẽ chữa cho!”. Nghe đại sư
nói thế, biết là “âm mưu” của mình đã bị đại sư “bắt vị”, nhưng ông vẫn
ngồi xuống và toan cởi bỏ hết áo rét để xem bậc trưởng lão… phóng khí
chữa bệnh thế nào. Thế nhưng, việc ấy đã bị Huyền Công Đạo ngăn lại.
“Không cần, ông cứ ngồi nguyên đó!”.
Lời của đại sư khiến ông rất kinh ngạc bởi hôm đó trời rét như cắt da
cắt thịt nên ông đã ních vào người rất nhiều áo rét. Ngoài 2 chiếc áo
len, ông còn khoác thêm cả chiếc áo Na- tô ở ngoài. Bởi ăn vận như vậy
nên ông không thể tin lão võ sư có thể truyền khí xuyên qua ngần ấy áo
để mà chữa thương cho mình.
Thế nhưng, lạ kỳ thay, sau khi vận khí, tay đại lão võ sư để cách vết
thương của ông đến cả gang tay. Vậy mà, chỉ trong tích tắc, ông đã cảm
nhận được sự thay đổi rõ rệt ở ngay tại nơi “mình tự làm mình khổ” ấy.
Tay ông lúc thì nóng ran, lúc thì lạnh toát.
Chừng 3 phút sau, Huyền Công Đạo kết thúc công việc của mình. Và, thật
bất ngờ, ngay sau đó, ông đã thấy tay mình tuyệt nhiên không còn đau đớn
nữa. Vết thương thì chỉ qua đêm đó đã lành lại như chưa hề bị va đập
gì. Một lần xuất chiêu cả đời day dứt
Năm 1985, sau khi đi bộ đội về, võ sư Băng Sơn mở võ đường ở Hà Nội. Ông
kể, cái thủa ban đầu cam khó ấy, để võ đường tồn tại được, ông đã phải
nhiều lần đích thân đứng ra thi thố võ nghệ để giữ vững uy danh của võ
đường.
Trong số những đối thủ ấy, có cả những kẻ cố tình phá đám, dẫm đạp lên
tinh thần võ đạo. Thế nhưng, từ sau trận đấu với một võ sư ở quận Hoàng
Kiếm, ông đã rất ăn năn, tự hứa với mình không bao giờ ra tay nếu thật
sự thấy không cần thiết.
Võ sư Băng Sơn kể, nghe tiếng ông đã từng thọ giáo nhiều bậc đại sư
tiếng tăm lừng lẫy, đặc biệt lại là đệ tử chân truyền của Băng Tâm sư
phụ, Chưởng môn Lý Chấn Hòa, một võ sư cũng học thầy Tàu ở quận Hoàn
Kiếm đã nhiều lần gửi lời thách đấu. Vị võ sư ấy lực lưỡng, sức mạnh thì
kinh hồn, mỗi cú thôi sơn có sức nặng ngàn cân.
Để biểu diễn sức mạnh của mình trước võ lâm đồng đạo, vị võ sư ấy từng
dùng tay trần đấm tróc vỏ cây. Khiêu chiến mãi không được, vị võ sư đó
đành qua một người quen của ông mời ông tới nhà uống rượu. Nghĩ đó là sự
ân tình, ông đã vui vẻ nhận lời.
Võ sư Băng Sơn kể, ban đầu cuộc rượu đó diễn ra rất vui vẻ, thế nhưng,
rượu vào thì lời ra, chủ đề võ thuật lại được chủ nhà nhắc tới. Và, ông
ta có những lời miệt thị, xúc xiểm đến việc mấy lần ông từ chối lời
thách đấu. Cùng với sự chế nhạo đó, ông ta khoe những thế võ độc của
mình.
Rượu cũng đã ngà ngà, trước sự khoe khoang vô lối của đối phương, võ sư
Băng Sơn bảo, những thế võ đó, ông có thể hóa giải được. Và, ngay trong
cuộc rượu đó, ông đã “diễn thuyết” cách thức phá chiêu của mình. Bị bóc
mẽ, trước đám đệ tử của mình, gia chủ đã vô uất ức.
Ông ta bảo, Băng Sơn chỉ giỏi… võ mồm, còn quyền cước thì chẳng đến đâu.
Vẫn bằng cái giọng khiêu khích, hợm hĩnh, ông ta thách người ngồi đối
diện với mình ra sân thi đấu. Trước thái độ hỗn hào, quá quắt ấy, hơi
men trong người đã làm võ sư Băng Sơn tức giận. Ông đứng phắt dậy, ra
sân. Nhưng, với “thói quen” vốn có khi thi đấu của mình, võ sư Băng Sơn
kể, ông vẫn nhường cho đối thủ tấn công trước 3 đòn.
Và, đúng như đã nói ở trong mâm rượu, hai đòn đầu, khi đối phương tung
chiêu độc, ông đã lần lượt hóa giải và nhứ đòn vào những chỗ hiểm của
đối phương. Đòn thứ ba cũng vậy, như mãnh thú say mồi, đối phương hùng
hục lao tới, nhưng ông cũng nhanh chóng vô hiệu hóa chiêu thức ấy. Thế
nhưng, đã quy ước trước, khi hai bên giao đấu, không được cố tình đánh
vào những tử huyệt của nhau như yết hầu, mắt, hạ bộ… Thế nhưng, đòn thứ 3
này, đáng ra, khi đã bị triệt tiêu, vị võ sư kia phải dừng lại và coi
như cuộc đấu đã phân biệt rõ kẻ thắng người thua.
Vậy mà, võ sư Băng Sơn kể, khi ông đã dừng đòn, bởi cay cú bất thình
lình gia chủ chơi ngay đòn hiểm, xỉa thẳng tay vào mắt đối phương. Không
đề phòng nên trước cú đánh bẩn ấy, ông chỉ kịp ngửa mặt tránh. Tuy thế,
ngón tay của đối phương vẫn cầy rách mí mắt trái của ông. Sau cú đánh
đó, tiện tay, gia chủ tung ngay một đòn như trời giáng vào vai trái
khiến ông loạng choạng.
Biết đối phương quyết hạ độc thủ, hết đường lùi, ông quyết định phản
đòn. Lấy lại thăng bằng, sau cú thôi sơn vào vai đối phương, chưa kịp
thu tay về thì đã bị võ sư Băng Sơn túm lấy giật mạnh về phía trước. Võ
sư Băng Sơn kể, khi đối phương lỡ chớn, lao theo cú giật đó thì ngay lập
tức, ông lách sang bên rồi giáng luôn một đòn vào mang tai đối phương
và tiếp theo là một đòn vào phần gáy.
Đồng thời với sê- ri đó là một cú gối thốc ngược lên phản đà đổ xuống
của đối thủ. Dính 3 đòn liên tiếp, vị võ sư cao to ấy bật ngược ra phía
sau và nằm bất động.
Võ sư Băng Sơn kể, vài tuần sau, có người đến tìm ông báo tin, vị võ sư ở
Hoàn Kiếm đó sau lần tỉ thí với ông đã nằm liệt giường, không thể nào
đi lại được nữa. Tin ấy làm ông giật mình, kinh hãi.
Có lẽ tại bởi uống rượu, bởi tức giận nên hôm đó ông đã xuống tay quá
nặng và những cú đòn đó đã làm kinh mạch của đối phương bị tổn thương,
sinh ra bại liệt. Ăn năn, hối hận, ông đã vội vàng đường sữa lên thăm.
Gặp ông, vị võ sư đó đã thiểu não bảo: “Lỗi này do tôi, ông không phải
bận tâm gì. Suốt mấy tuần qua, nằm suy nghĩ, tôi biết, với tính khí ấy
của mình thì sớm muộn gì tôi cũng sẽ gặp cảnh này!”.
Theo võ sư Băng Sơn thì cho đến tận bây giờ, vị võ sư ấy vẫn phải sống
cảnh liệt giường. Tâm sự với tôi, day dứt ông bảo, nếu có thể thì qua
bài báo này, một lần nữa ông gửi lời xin lỗi tới vị võ sư đó và gia
đình. Một lời xin lỗi tự đáy lòng mình. Môn phái… nhường đòn
Sự day dứt ấy của võ sư Băng Sơn đã “ngấm” rất sâu vào phong cách dạy
môn đồ. Nội quy môn phái, ông nhấn mạnh tinh thần võ đạo, ấy là không
được dùng võ công để khuất phục người khác. Đặc biệt hơn, môn sinh của
ông, nếu thi đấu với ai mà không được sự đồng ý của thầy thì coi như tự
xóa tên mình ra khỏi môn phái.
Đặc biệt, tinh thần ấy đã “chuyển hóa” thành sự trượng nghĩa, nhân ái:
Tất cả các môn đồ, nếu cực chẳng đã phải thi đấu thì dứt khoát phải
nhường đối phương trước 3 đòn rồi mới được ra tay. “Quy chế” đó đã bất
di bất dịch từ lâu lắm rồi!
Mấy lần tôi đến, trong căn nhà cấp 4 tuềnh toàng ở ngay cạnh hồ Thanh
Nhàn, đều bắt gặp cảnh võ sư Băng Sơn đang loay hoay viết sách. Ông đang
tập trung sức lực của mình để cho ra đời bộ sách Võ lâm Việt Nam tùng
thư. Theo võ sư Băng Sơn thì đó là bộ sách ghi chép khá đầy đủ những
chặng đường phát triển của võ học Việt Nam.
(Sưu Tầm)
Bài 6: Người học trò yêu của sư bá Lý Tiểu Long
Ông là võ sư cao cấp, một trong số ít các võ sư được giới võ thuật
bầu chọn là danh nhân làng võ Việt Nam. Võ lâm giang hồ đồn rằng, ông
luyện được tuyệt kỹ “Xúc cốt công” nên trong chốc lát có tự co rút
xương, khiến cơ thể mềm oặt, có thể thu mình nằm gọn gàng trong... rổ
bún. Bởi thế, suốt mấy chục năm trời, võ lâm đồng đạo gọi võ sư Phan
Dương Bình, cao thủ môn phái Vịnh Xuân, bậc trưởng lão của Vovinam phía
Bắc bằng cái tên thân mật Bình “bún”.
Cao nhân đến từ phương Bắc
Võ sư Phan Dương Bình sinh năm 1929, là người Việt gốc Hoa, (bởi thế mọi người còn gọi ông bằng cái tên Trung Quốc là Xếnh Xáng.
Võ sư Phan Dương Bình (bên phải ảnh)
Ông trông không giống người học võ bởi vóc thái thư sinh. Nếu không có
sự giới thiệu của các võ sư thì khi gặp, tôi cứ ngỡ ông là một ông giáo
nghỉ hưu, đang thảnh thơi an hưởng tuổi già. Mê truyện kiếm hiệp từ nhỏ
nên suốt thời niên thiếu, ông ước ao được hoá thân thành những nhân vật
trượng nghĩa như trong truyện. May mắn lớn trong đời, ông đã được nhận
làm đệ tử của một cao thủ đệ nhất: Thầy Tế Công của môn Vịnh Xuân quyền.
Có lẽ, trong số các võ sư người Trung Quốc lánh nạn dạt đến Việt Nam thì
võ sư Tế Công là người nổi tiếng và có nhiều công lao nhất. Nhờ có ông
mà các võ sinh người Việt biết đến một võ phái lừng danh, và cũng nhờ có
ông mà Vịnh Xuân Việt Nam đã có những viên gạch vững chắc đầu tiên.
Cụ Tế Công tên đầy đủ là Nguyễn Tế Công, là sư huynh của danh sư Diệp
Vấn, Chưởng môn phái Vịnh Xuân ở Hồng Kông (tôn sư của võ sĩ, hiện tượng
điện ảnh Lý Tiểu Long. Như vậy Tế Công là sư bá của Lý Tiểu Long). Với
vị sư tổ của môn phái Vịnh Xuân Việt Nam này, thì võ sư Phan Dương Bình
có rất nhiều kỷ niệm dù người đã đi xa cả nửa thế kỷ rồi.
Năm 1907, võ sư Tế Công đến Việt Nam. Ban đầu, bởi muốn che giấu thân
phận, vị võ sư tiếng nổi như cồn ở Trung Quốc ấy đã không truyền dạy võ
nghệ cho ai. Thế nhưng, ngặt nỗi gia sản của bậc cao nhân ấy ngày một sa
sút. Ngày ấy, ở Hàng Buồm, cửa hàng thuốc của gia đình cụ Trần Thúc
Tiển đang thời bán buôn gặp nhiều phát đạt nên của ăn của để dôi dư.
Thấy cảnh ngộ cụ Tế Công bần hàn, cụ Tiển đem lòng thương xót. Cụ Tiển thường qua lại thăm hỏi và giúp đỡ luôn.
Cụ Tiển mắc chứng lao mãn tính, thuốc thang đã nhiều mà bệnh tình chẳng
hề thuyên giảm. Chứng nan y ấy làm thân thể cụ héo mòn, đỉnh điểm trọng
lượng cơ thể chỉ xấp xỉ 35 kg. Thấy người thật lòng hậu đãi mình vướng
vào bạo bệnh, sau nhiều đêm đắn đo, cụ Tế Công đã quyết định dạy võ cho
cụ Tiển, bởi từ khi ra đời, nội công của Vịnh Xuân đã chiến thắng nhiều
căn bệnh nan y.
Và, thật diệu kỳ, chỉ sau một thời gian luyện tập, bạo bệnh vốn hành hạ
cụ Tiển bao nhiêu năm đã bị đẩy lùi. Và, cũng từ khi dạy võ cho cụ Tiển
thì cụ Tế Công mới bắt đầu nhận đệ tử để truyền thụ những tinh hoa võ
học mà mình có được.
Buổi tiếp khách có một không hai
Vịnh Xuân thiên về nhu, lấy nhu chế cương và phân biệt rạch ròi giữa nội
công và nội lực. Nội công là khả năng chịu đòn, nội lực là lực đánh ra.
Cả hai thứ trên, trong làng võ hiếm môn phái nào sánh kịp. Theo cụ Tế
Công, học võ chỉ vỏn vẹn 2 năm nhưng những khả năng siêu phàm ấy của sư
phụ mình, đến giờ, lão võ sư Phan Dương Bình vẫn còn ấn tượng.
Ông kể, đã có lần, với nội lực kinh hoàng, chỉ một chưởng, cụ Tế Công đã
đánh bật một bao tải gạo nặng đến gần 2 tạ văng tuột cả bốn năm thước
từ đầu bàn này sang đầu bàn kia. Lần nữa, ở ngay nhà cụ Tế Công, ông đã
được tận thấy sức mạnh kinh hoàng của sư phụ mình. Hôm ấy, nhác thấy hai
người Tàu đang ngáo ngơ trên phố, cụ Tế đã vẫy ông và bảo: “Pha cho
thầy ấm trà ngon, sắp có khách quý!”.
Quả như lời thầy, khi chén trà nóng hôi hổi vừa được rót ra thì hai vị
khách người Tàu đã đứng ngay trước mặt. Cầm chén nước trên tay, cụ Tế
cung kính mời khách theo đúng nghi thức của người Trung Hoa. Thế nhưng,
đó chẳng phải là kiểu mời nước bình thường. Chủ tay nắm chặt chén nước,
khách thì phùng mồm trợn mặt bóp chặt tay chủ phía ngoài.
Chủ vẫn vẻ mặt điềm nhiên, nói nói cười cười tiến ra cửa và đẩy khách ra
theo. Bị đẩy, người khách thứ hai vội vã nhảy vào tiếp sức nhưng cũng
chẳng thấm tháp gì. Cả hai bị chủ dồn ra tận ngoài cửa, trong khi chén
nước trên tay chủ vẫn không hề sóng sánh. Đến khi ấy thì hai vị khách
phải nhượng bộ, nhảy dạt sang hai bên và chắp tay, nói những lời khâm
phục.
Lão võ sư Phan Dương Bình kể, khi mời khách trở lại nhà, trò chuyện, ông
được biết, hai vị khách ấy 10 năm trước, trong cuộc tỉ thí đã bị sư phụ
Tế Công đánh bại. Mười năm, họ đã dồn hết tâm trí, sức lực để luyện võ
và lặn lội khắp nơi để tìm cụ Tế, những mong trả được mối hận năm nào.
Thế nhưng, chỉ bằng động tác thử trên, họ đã biết, võ công của mình còn
kém cụ Tế rất nhiều.
Nối gót sáng tổ Nguyễn Lộc phát dương Việt Võ đạo
Cụ Tế Công có người bạn thân là Chung Cảnh Vân, cũng một cao thủ của đất võ Trung Hoa, thuộc phái Thiếu lâm Hồng gia.
Cụ Chung thích phiêu bạt giang hồ, bởi vậy, khi thấy bạn mình tới Việt
Nam, ngay lập tức cụ Tế đã giới thiệu ông tới học để mở mang thêm kiến
thức. Chung sư phụ là người có cá tính, nóng nảy. Lão võ sư Phan Dương
Bình kể, tuy là chỗ thâm giao (rất nhiều lần Chung sư phụ đến tận nhà
ông để uốn nắn võ nghệ) nhưng là người nghiêm khắc nên sư phụ ông vẫn
giáo cậu học trò cưng của mình vô cùng khắt khe. Chỉ nguyên chuyện đứng
tấn thôi mà đến giờ nghĩ lại ông vẫn còn... thấy hãi.
Bắt cậu học trò đứng như tượng gỗ ở một góc, Chung sư phụ cứ thế mải mê
cuộc cờ, chén rượu. Ấy vậy mà nếu cậu học trò chân tay rã rời mà nhúc
nhích là y rằng... ăn chưởng.
Truyền thụ vừa hết những công phu của mình cho cậu học trò ham học thì
bởi lý do riêng, cụ Chung phải về Trung Quốc. Thầy trò chia tay nhau,
nước mắt vắn dài.
Như cánh chim không biết mỏi trên bầu trời võ thuật, muốn hấp thụ thêm
những tinh tuý võ công của các môn phái khác, ông quyết định bôn ba tiếp
trên con đường tầm sư học đạo. Lúc này, ở Hà Nội, danh tiếng của võ sư
Nguyễn Lộc, sáng tổ môn phái Vovinam - Việt võ đạo đang nổi như cồn.
Võ sư Nguyễn Lộc, sinh năm 1912 tại làng Hữu Bằng, Thạch Thất, Hà Tây.
Dựa trên môn võ vật cùng các môn võ cổ truyền của Việt Nam, chắt lọc
những tinh hoa của võ thuật trên thế giới, cụ đã phát triển một môn phái
võ rất riêng lấy tên là Vovinam, ra đời năm 1938.
Lão võ sư Phan Dương Bình kể, tìm hiểu, thấy tinh thần vẻ vang của
Vovinam và của võ sư Nguyễn Lộc rất phù hợp với mình, ngay lập tức ông
khăn gói tìm đến võ đường đang là nơi sinh hoạt của rất nhiều thanh niên
Hà thành ấy. Ngay buổi đầu tiếp xúc, võ sư sáng tổ của môn phái giờ đã
nổi tiếng khắp năm châu đó đã vô cùng quý mến ông.
Thấy ông đã có căn bản, quyền cước thì vô cùng uyển chuyển, võ sư Nguyễn
Lộc đã mời ông lưu lại ngay tại nhà mình để rèn dạy và phụ trách việc
trợ giảng. Võ sư Nguyễn Lộc hơn ông 18 tuổi, tuy danh nghĩa là thầy trò
nhưng chỉ ít bữa biết nhau, hai người đã tình thâm như ruột thịt.
Những ngày ở bên võ sư Nguyễn Lộc, ông không những được trau dồi rất
nhiều kiến thức võ học uyên thâm mà còn học được ở người thầy, người anh
ấy rất nhiều đức tính quý báu mà cả đời ông sẽ chẳng thể nào quên. Có
lần, tâm sự, võ sư Nguyễn Lộc đã nói với ông rằng: “Là võ sinh thì phải
tôn thờ danh dự võ sĩ Việt Nam. Hiểu biết nhiệm vụ và nguyện hi sinh cho
lý tưởng của người võ sĩ, xứng đáng với tên gọi vì nghệ thuật và nhân
loại.”.
Cuộc thượng đài chấn động bất thành
Trước năm 1954, trước làn sóng đấu tranh sôi nổi của thanh niên Việt
Nam, thực dân Pháp đã đứng ra thực hiện rất nhiều hoạt động thể thao,
mục đích là ru ngủ phong trào quần chúng. Bởi thế, tại Hà Nội, các võ
đài mọc lên ở khắp nơi và cũng thu hút rất nhiều cao thủ từ khắp mọi
miền về tranh tài, thi thố.
Những võ đài ấy không những có sức hút với các võ sĩ trong nước mà còn
hấp dẫn cả những cao thủ nước ngoài. Với các võ sĩ ngoại quốc, khi được
nhà cầm quyền bật đèn xanh, họ đến Việt Nam không chỉ là tìm đối thủ để
tranh tài, phân biệt cao thấp mà còn biến đó thành cơ hội để kiếm bộn
tiền.
Mỗi trận thượng đài của họ đều tổ chức bán vé và thu hút rất nhiều khán
giả tới xem. Với chủ đích trên, khoảng đầu năm 1953, hai anh em võ sư
nổi tiếng ở Hồng Kông là Vương Bang Phu, Vương Bang Dân cũng tìm về Hà
Nội.
Trong hai anh em thì Vương Bang Phu sức khoẻ phi thường. Đại lực sĩ này
có thể vật ngã cả con bò mộng, tay không bẻ cong nhíp ô tô, kê ván trên
người để mấy chục khán giả trèo lên nhún nhảy mà mặt vẫn không hề biến
sắc.
Người em Vương Bang Dân thì thân thủ nhanh nhẹn, quyền thuật biến ảo
khôn lường. Tại Hông Kông, suốt gần chục năm, hai anh em thượng đài mà
vẫn chưa tìm ra đối thủ.
Bởi thế, đến Hà Nội, thách đấu đã vài ngày mà chưa tìm thấy ai nhận lời
thách đấu, Phu, Dân đành dùng kế khích tướng và cũng là để lôi kéo khán
giả đến xem những trận thượng đài của mình. Hai anh em Vương đã loan tin
rằng, họ vừa đánh gục thần tượng của thanh niên thủ đô, võ sư Nguyễn
Lộc. Tin ấy truyền đi khắp mọi nơi khiến nhiều người, dù biết là tin vịt
vẫn vô cùng phẫn nộ.
Tại võ đường của Vovinam, là người điềm đạm nên võ sư Nguyễn Lộc chẳng
chút bận tâm tới sự hỗn hào của hai võ sĩ ngoại quốc. Tuy thế, các học
trò của ông, đặc biệt là võ sư Phan Dương Bình thì hết sức bức xúc, nằng
nặc đòi rửa nhục cho thầy, cho môn phái. Và, bí mật, ông đã tìm hai anh
em họ Vương để nhận lời thách đấu.
Thông tin ấy ngay lập tức thành đề tài nóng hổi của báo giới trong nước
và nước ngoài. Dân tình sôi sục, chờ mong đến ngày hổ đấu, long tranh.
Sự căng thẳng của trận đấu trên đã khiến nhà chức trách lo lắng và ngay
lập tức phải nhảy vào can thiệp.
Ngay trước ngày thượng đài, võ sư Phan Dương Bình bị nhà cầm quyền bắt
nhốt. Vậy là, trận đấu được rất nhiều người mong đợi trên đành phải huỷ
bỏ. Võ sư Phan Dương Bình kể, biết đã đụng chạm đến tinh thần thượng võ
của người Việt nên ngay ngày ông bị bắt nhốt thì hai anh em Phu, Dân gửi
lời xin lỗi chính thức đến ông, đến võ sư Nguyễn Lộc và toàn thể những
người học võ ở Hà Nội. Lời xin lỗi đó được đăng tải trên khắp các mặt
báo khiến dư luận được một phen hả hê, phấn khích.
Một ngày chịu hàng ngàn cú đấm
Sau sự nổi tiếng của hiện tượng Lý Tiểu Long vào thập niên 70 của thế kỷ
trước, Vịnh Xuân quyền đã được rất nhiều môn sinh theo học. Và, trên
khắp thế giới, rất nhiều những võ đường của Vịnh Xuân đã được khai
trương. Thế nhưng, ngoài cái nôi là Trung Hoa, chỉ có hai nơi Vịnh Xuân
thu gặt hái được nhiều thành công, hội tụ nhiều cao nhân nhất, đó là
Hồng Kông và Việt Nam. Điều ấy đã được danh sư Tế Công thừa nhận khi ông
rời Hà Nội vào Nam sinh sống.
Lúc chia tay, nhìn sự trưởng thành của đám học trò mình, buột miệng ông
bảo: “Vịnh Xuân đã sang Việt Nam mất rồi!”. Ở Hồng Kông, sư đệ của cụ Tế
Công là danh sư Diệp Vấn cũng đưa Vịnh Xuân phát dương quang đại với
Vịnh Xuân Hồng Kông. Tại chi phái này, ngoài Lý Tiểu Long, tông sư Diệp
Vấn còn có một đệ tử chân truyền, tiếng tăm lừng lẫy là Ngũ Sáng. Ngũ
Sáng có trưởng tràng là Trần Nghị Khiêm, một thần đồng võ thuật.
Lão võ sư Phan Dương Bình kể, 15 năm trước, Trần Nghị Khiêm có đến Việt
Nam. Và, người đầu tiên mà Trần sư phụ muốn gặp là lão võ sư Phan Dương
Bình.
Ông Bình kể, Trần Nghị Khiêm là người cao lớn, quyền thuật nặng tính
cương. Hai người đã vài lần thử sức, nhưng bất phân thắng bại. Sau những
trận thử tài ấy, khâm phục về nội công của người đồng môn, Trần Sư phụ
đã nhờ ông chỉ giáo.
Lão võ sư Phan Dương Bình giờ có nhiều học trò, không chỉ ở trong nước
mà còn ở nhiều nơi trên thế giới. Họ là những người ngưỡng mộ Vịnh Xuân
nên tìm về Hà Nội.
Lão võ sư bảo, người Tây học võ thực dụng hơn người Á Đông, bởi thế,
trước khi bái ai đó làm sư thì họ thường... thử luôn tài sức của người
đó. Từ năm 1982, khi phong trào võ thuật của Hà Nội được khôi phục đến
giờ không biết bao nhiêu lần ông được (bị) các võ sinh phương Tây thách
đấu. Sau tất cả các cuộc thử tài ấy, ông đều nhận được thêm những đệ tử
một lòng hướng về võ thuật chân chính.
Năm 1995, một câu lạc bộ võ thuật nổi tiếng ở Đức, sau khi cho thành
viên của mình sang Việt Nam thăm dò, đã mời đích thân ông sang đó dạy
võ. Cuộc “ly hương” này đến giờ nhiều người vẫn còn ấn tượng và được
nhiều tờ báo lớn ở Đức đăng tải. Tại đó, với nội công siêu phàm của
mình, ông lão võ sư tuổi đã ở ngưỡng xưa nay hiếm ấy đã lên một lịch tập
kinh hoàng. Từ 14 giờ đến 18 giờ mỗi ngày, các môn sinh lực lưỡng có
thể thoải mái tung hàng ngàn cú đấm vào thân
Kỹ năng “thần đả”
Bây giờ, tuổi đã gần 80 nhưng lão võ sư Phan Dương Bình vẫn còn nhanh
nhẹn lắm. Gặp ông tại căn gác yên tĩnh tại phố Hàng Bạc, ông bảo, chính
nghiệp võ đã cho ông một sức khoẻ dồi dào.
Sáng nào cũng vậy, cứ như đồng hồ, 3 giờ sáng đã thấy ông ngồi dậy với
bài khí công quen thuộc. Khí lực siêu phàm, như nhiều cao thủ Vịnh Xuân
khác, tuổi ấy, ông vẫn có thể để mọi người thẳng tay nện hết sức vào
người mà sắc mặt vẫn không hề suy chuyển.
Về quyền cước, hiện tại, ông cho biết, kỹ năng của ông đã đạt tới mức
“thần đả”, đỉnh giới cao siêu của võ thuật. Đỉnh giới ấy là “tâm ứng
thủ”, nghĩa là nghĩ ra đòn ở bộ phận nào thì lực đã có sẵn ở bộ phận đó,
không cần vận đà nhiều. Luyện tới đỉnh giới đó thì người võ sư chỉ cần
nghĩ ra động tác, chiêu thức thì ngay lập tức chân tay thực hiện chính
xác, thành công chứ không cần qua tập luyện.
Tuổi cao, nhưng ông còn rất nhiều dự định với nghiệp võ của mình. Tâm
sự, ông bảo, ông rất thần tượng Hoắc Nguyên Giáp, một võ sư nổi tiếng
của Trung Quốc. Vị võ sư ấy bằng tài năng đã dựng lên Tinh võ quán oai
danh một thuở và hội tụ nhiều võ sư tài nghệ cao thâm.
(Sưu Tầm)
Bài 7: "Vua ám khí" và cuộc đời tiếu ngạo giang hồ
Phần 1: Cao nhân Không Động phái và triệu bước chân tìm đệ tử chân truyền
Ngoài cặp song kiếm vô địch hùng bá trên võ đài suốt bao năm, lão võ
sư huyền thoại này còn làm chủ 20 binh khí và nhiều ám khí độc môn hiếm
có trên đời.
Làng võ nói về Huyền Công Đạo Trần Công, Nguyên chủ tịch Hội đồng cố vấn
tối cao của Hội võ thuật Hà Nội, thế này: Từ thủa nhỏ, ông đã được sư
phụ người Trung Hoa rèn cặp nên vũ thuật kinh hồn, nhất là khi thi triển
Song hổ vĩ côn, Tam tiết côn, Không động kiếm, Cửu long tiên, Huyết
kỳ... Lão võ sư là một cây đại thụ, một tên tuổi lẫy lừng trong làng võ
Việt, luận về võ học thì là bậc kỳ tài, thiên hạ ít người sánh kịp...
Chính bởi công phu xuất chúng nên lão võ sư Trần Công đã nhiều lần được
biểu diễn võ cho Bác Hồ xem, thậm chí còn được Người bất ngờ vào tận nhà
ân tình thăm hỏi.
Huyền Công Đạo Trần Công
Cao nhân ẩn tích
Tuy tên tuổi lẫy lừng nhưng trong số những võ sư cao thủ mà tôi đã may
mắn được gặp thì lão võ sư Trần Công là người... khó tìm nhất. Ông mai
danh ẩn tích đã hơn chục năm nay. Hỏi nơi ở của ông, người thì bảo, đã
đến nhà rất nhiều lần, nhưng chính bởi cái sự thân thuộc ấy nên chẳng ai
nhớ số nhà. Người khác thì lại nói, bởi lão võ sư thích lang bạt giang
hồ nên duyên số gặp nhau... ngoài đường chứ nhà ở đâu thì không được
biết.
Chính bởi sự quy ẩn lạ lùng ấy mà nhiều năm nay, nhiều môn sinh mến mộ
ông đã nháo nhác kiếm tìm ông khắp nơi những mong được ông chỉ giáo, san
sẻ cho ít nhiều những tinh hoa võ thuật mà ông đã cần mẫn gom góp cả
đời, mà vẫn không gặp được.
Điện thoại khắp nơi, tôi cũng kiếm được một thông tin... mù mờ: Có người
đã từng gặp lão võ sư ở gần dốc Tam Đa, đường Hoàng Hoa Thám.
Lang thang tìm kiếm ở đó suốt mấy ngày trời, mới hay rằng, trước đây lão
võ sư từng sống ở đó, nay chuyển nhà đi đâu thì không ai biết. Mãi sau
này, may mắn được lão võ sư Phan Dương Bình (làng võ còn gọi là Bình
“bún”, môn phái Vịnh Xuân, Vovinam) và võ sư Nguyễn Ngọc Nội (phái Vịnh
Xuân) giúp đỡ, tôi mới biết được nơi ở mới của bậc tiền bối tài danh.
Sau cuộc họp Liên đoàn Võ thuật cổ truyền Hà Nội, hỏi các đồng đạo, võ
sư Nội đã điện thoại báo rằng, lão võ sư Trần Công ở dốc Liễu Giai, gần
sân Quần Ngựa. Ra tận nơi hỏi, nhưng lạ lùng thay, lão võ sư nổi tiếng
thì không ai biết, chỉ biết một ông già tuổi trạc 90 da dẻ hồng hào vẫn
thường hay đạp xe qua lại. Đoán rằng ông cụ khoẻ khoắn ấy đích thị là
người tôi muốn gặp nên tôi đã vội vàng tìm tới tận nhà. Cơ duyên, người
như tiên như phật ấy chính là lão võ sư.
“Chú khách” kỳ dị
Lão võ sư đón tôi trong căn phòng chật chội, trên tường, xung quanh
chiếc giường một, treo chi chít những binh khí, nào côn, nào kiếm, thứ
nào cũng bóng nhẫy mồ hôi.
Ông bảo, đó là những bảo vật kỉ niệm của cả cuộc đời theo đuổi nghiệp võ
của ông. Tuổi đã 90 nhưng lão võ sư còn tráng kiện lắm. Nhìn ông, tuyệt
nhiên không thấy dấu hiệu gì của bệnh tật. Ông theo nghề võ từ năm lên 8
tuổi. Ông bảo, với võ thuật, ông như có duyên tiền định.
Sinh ra ở Nam Định, thế nhưng vì đói, mẹ ông đã cho ông vào thúng, quẩy
đi khắp nơi bởi cuộc mưu sinh. Bát cơm, manh áo đã đưa hai mẹ con ra Hà
Nội, trọ ở xóm Dinh, làng Vạn Bảo bây giờ. Hai mẹ con sống qua ngày bằng
thúng ốc luộc mà mẹ ông tần tảo đội trên đầu đi bán rong khắp phố.
Năm ông lên 8 tuổi, có chút vốn, mẹ ông mở sạp hàng sáo ngay tại nhà.
Ông tung tăng phụ giúp bà bán hàng, khi rảnh lại cùng đám bạn cùng tuổi
mải mê đánh khăng, đánh đáo ngay trước cửa nhà.
Ông còn nhớ lắm, nhà ông khi ấy ở tận cuối con ngõ vắng vẻ, vậy mà hầu
như hôm nào cũng thấy “chú khách” (người Trung Quốc) quẩy đôi xọt thuốc
qua, rao bằng cái giọng lơ lớ: “Ai thuốc đê!”. Mỗi lần đi qua chỗ ông và
đám bạn đang chơi, chú khách lại dừng bước, rồi cứ thế, đứng nhìn ông
đăm đăm.
“Chú khách” là người tốt bụng, mặc dù suốt ngày nhễ nhại mồ hôi với gánh
thuốc trên vai, nhưng “chú” chỉ bốc thuốc và chữa bệnh không công. Ông
chưa từng thấy “chú khách” lấy tiền của ai bao giờ.
Một trưa, trời nắng như đổ lửa, dừng chân trước nhà ông, sau khi ngắm
nhìn ông vẫn ánh mắt đăm đăm ấy, “chú khách” bỗng quay sang mẹ ông hỏi:
“Trời nắng tôi khát quá hà. Bà cho tôi xin hớp nước cho đỡ khát à!”.
Nói vừa dứt câu, chẳng cần biết chủ nhà đồng ý hay không, “chú khách” đã
quẳng đôi sọt thuốc, chạy ào về phía sau nhà, nơi có chum nước mà mẹ
con ông vẫn dùng để thổi nấu. Thấy vậy, mẹ ông đã hoảng hốt: “Không uống
nước ở đó được đâu bác ạ! Đau bụng chết, bác vào đây, nhà tôi có nước
chè xanh!”. Vừa nói, mẹ ông vừa rót bát nước chè khói vẫn còn nghi ngút.
“Bà tốt quá à! Thật ra, tôi vào đây không phải để xin nước đâu à!”. “Chú
khách” đáp lời mặt đầy bí ẩn. “Thế bác không khát nước à?! Bác vào đây
làm gì vậy?”. Mẹ ông hốt hoảng hỏi. “Tôi thấy bà có đứa con tốt quá à!
Tôi muốn xin nó về làm con nuôi à?!”.
Nốt ruồi son đặc chủng
“Không! Không được đâu! Tôi có mỗi mình nó thôi!”. Mẹ ông phản đối quyết
liệt nguyện vọng của vị khách vừa thân quen lại vừa xa lạ ấy. “Không,
tôi không mang nó đi đâu đâu! Tôi chỉ muốn nhận nó làm con nuôi để giáo
nó thôi à!”.
“Giáo nó, bác định giáo nó cái gì?”. Mẹ ông xuôi giọng. “Tôi muốn dạy võ
cho nó. Dạy võ cho nó khoẻ, không bị ai bắt nạt nữa à! Mấy lần nhìn nó,
tôi biết nó là nhân tài để luyện võ đấy à. Nó có một nốt ruồi nhỏ ở
trên thái dương bên trái đấy, nốt ruồi ấy là tốt lắm à!”.
Thấy “chú khách” nói về đặc điểm kỳ lạ của cậu con trai mình, mẹ ông vội
vàng kéo ông lại, vén mớ tóc bờm xờm cạnh tai trái của ông lên. Bà giật
mình khi biết “chú khách” nói chẳng sai. Ông có một nốt rồi son ngay
giữa thái dương bên trái, nốt ruồi ấy bấy lâu tóc che kín, chẳng để tâm
nên bà cũng không hề hay biết. Nghĩ đây là ý trời, vả lại, bấy lâu thấy
“chú khách” là người tốt bụng, đường hoàng, nên bà đã gật đầu đồng ý.
Sau bữa ấy, “chú khách” ghé qua nhà ông luôn. Mỗi lần đến thăm, “chú”
chỉ xoa đầu, nắn tay nắn chân ông chứ chẳng dạy võ thuật như là đã nói.
Mãi vài tháng sau, khi tình cảm giữa “chú” và mẹ con ông đã trở lên thân
thiện, “chú” đã xin mẹ ông để “chú” được đưa ông về Hàng Buồm, nơi có
cửa hàng thuốc và gia đình “chú” ở.
Ngay hôm đầu tiên, “chú khách” đã gọi các con của mình lại và bảo họ
biểu diễn võ thuật cho ông xem. Nghe lời cha, mấy đứa con lau nhau của
chú khách lao vào thử tài nhau bằng những chiêu thức võ thuật vô cùng
đẹp mắt. Xem bọn họ đánh nhau, ông thích lắm. Nhận ra vẻ thích thú của
ông, “chú khách” khẽ gật đầu, ra chiều vô cùng mãn nguyện. Bữa ấy, “chú
khách” cũng vẫn chưa dạy võ cho ông mà ngay lập tức lại đèo ông về bằng
chiếc xe đạp bóng loáng.
Trên đường đi, “chú khách” đã nói với ông rằng: “Sang Việt Nam, mục đích
của ta là không phải đi bán thuốc đâu à! Ta muốn đi tìm một đệ tử chân
truyền. Tìm được con rồi, ta muốn con chăm chỉ luyện tập theo tất cả
những gì ta chỉ bảo! Con nhớ không!”.
Hồi ấy, còn bé, nghe “chú khách” nói thế nào thì ông chỉ biết gật đầu
thế đó chứ biết gì về hoài bão của người thầy đến từ Trung Quốc xa xôi.
Sau này, khi lớn hơn một chút, ông mới biết “chú khách”, người đã coi
ông như con, suốt đêm ngày truyền thụ cho ông những tinh hoa võ học
chính là Mao Diệp Xi, giang hồ còn gọi là Xần Xi, là đệ tử nổi danh của
môn phái Không Động, một môn phái lừng lẫy ở Trung Hoa đại lục.
Vì những biến cố của đất nước, Mao sư phụ đã phải đem gia đình sang sinh
sống ở Hà Nội. Đã nhận nhiều đệ tử, nhưng chưa tìm được bậc kỳ tài, sợ
những bí kíp võ công của môn phái mà mình đã dày công tu luyện bị thất
truyền nên Xần Xi đã phải mượn gánh thuốc, đi triệu bước chân lang thang
khắp nơi để tìm người nối nghiệp.
Bắc tiến
Từ hôm đó, chiều nào cũng vậy, Mao sư phụ đạp xe đến tận nhà để đón ông
về Hàng Buồm luyện võ. Thời gian đầu, Mao sư phụ chỉ dạy ông mỗi hai
“chiêu thức” vô cùng đơn giản ấy là xoay bi và đẩy bóng. Đưa cho ông
những viên bi sắt to như quả quýt, Mao sư phụ bảo, cứ vê, xoay chúng
trong lòng bàn tay, khi thì một, lúc thì hai, khi nữa thì ba viên liền
lúc.
“Chơi” với bi chán thì quay sang đẩy bóng. Những quả bóng cao su rất lạ,
thứ đó ông cũng không biết sư phu mình kiếm từ đâu. Mới đầu, Mao sư phụ
bảo ông phải đẩy, ép quả bóng nhỏ nhất vào tường. Khi quả bóng đó bị
lực từ tay ông đẩy, ép chặt hai mặt vào nhau thì mới thôi.
Đẩy được hai tay thì chuyển sang dùng một tay. Những quả bóng cứ to dần
lên theo thời gian ông luyện tập. Gần hai năm sau, khi mà đứng kẹp giữa
hai bức tường, hai bên là hai quả bóng to nhất, dùng lực, ông đẩy chúng
bẹp dúm sát tường thì Mao sư phụ mới bắt đầu dạy ông quyền cước.
Cứ thế, thời gian thấm thoắt thoi đưa, năm ông 12 tuổi, ông đã thông
thạo tất cả những chiêu thức võ thuật mà Mao sư phụ truyền dạy. Luyện võ
10 năm mà không luyện khí thì cũng coi như chưa từng biết võ, điều này
thì những đệ tử của Không Động, môn phái thiên về nội công rành hơn ai
hết. Bởi thế, muốn rèn rũa “viên ngọc quý” của mình được toả sáng muôn
bề, Mao sư phụ đã đi đến một quyết định quan trọng: Đưa cậu học trò cưng
về Trung Quốc. Theo Mao sư phụ thì ở quê hương ông có một nơi luyện khí
công vô cùng lý tưởng, đó là đỉnh Thái Sơn, cách nơi ở cũ của ông vài
chục cây số.
Vậy là, dù không muốn phải xa đứa con duy nhất của mình, nhưng trước sự
tận tình của Mao sư phụ, mẹ ông cũng đành gạt lệ tiễn ông đi.
Luyện nội công ở đỉnh Thái Sơn
Nhà Mao sư phụ ở huyện Tân Hội, tỉnh Quảng Đông. Lão võ sư Trần Công
bảo, đến giờ, ông vẫn còn nhớ như in ngôi nhà số 3 phố huyện ấy. Sang
đến nơi, ông mới biết mình có rất nhiều sư ca, sư tỉ. Thấy Mao sư phụ
về, họ đã lũ lượt kéo đến nhà chúc mừng. Thấy ông lanh lẹ lại rất đỗi
hồn nhiên, nói tiếng Trung Quốc thì ngô nghê nên họ rất thích. Họ chiều
chuộng ông hệt như cậu út trong nhà.
Tại đây, ông được Mao sư phụ đặt cho một cái tên Trung Quốc: Xần Cóng.
Và, cũng tại đây, ngày nào cũng vậy, khi trời mới tờ mờ sáng, Mao sư phụ
đã kéo ông dậy, rồi bằng xe đạp, đèo ông vượt mấy chục cây số tới núi
Thái Sơn. Để xe dưới chân, hai thầy trò chạy bộ lên đỉnh núi. Nơi chân
mây ấy, hai thầy trò mải miết luyện khí công, hệt như... đôi bạn tri âm.
Khi mặt trời khuất bóng, thầy trò mới ngừng việc luyện tập, xuống núi
và thầy lại đèo trò về.
Đến giờ, lão võ sư Trần Công không thể nhớ chính xác mình đã luyện võ
với Mao sư phụ ở Trung Quốc bao nhiêu năm. Chỉ biết, khi đi ông còn là
một cậu bé ngây ngô, khi trở về thì đã là một chàng trai cường tráng,
sức mạnh phi thường.
Ngày ấy, bởi nhớ thương đứa con độc nhất, mẹ ông đã mấy lần biên thư gọi
ông về. Thương mẹ, ông đành lưu luyến tạm biệt người thầy khả kính.
Trước hôm lên đường trở về Việt Nam, trước mặt tất cả các đệ tử của
mình, Mao sư phụ đã gọi ông lại mà rằng: “Tất cả những tuyệt kỹ võ công,
ta đã dạy cho con hết cả. Con phải nhớ rằng, sau này khi ra đời, không
bao giờ được dùng võ để chèn ép mọi người. Nếu làm trái lời thì đừng bao
giờ nghĩ đến ta nữa!”.
Cũng buổi ấy, Mao sư phụ đã làm một việc khác thường, ấy là đặt cho ông
pháp danh Huyền Công Đạo. Việc đặt pháp danh đó, từ trước đến nay, Mao
sư phụ chưa từng ưu ái với bất cứ đệ tử nào...
Ông về Việt Nam được ít lâu thì Mao sư phụ mất. Theo các sư ca, sư tỉ
của ông nói lại thì khi hấp hối, Mao sư phụ đã luôn miệng gọi tên ông.
Theo nguyện vọng của Mao sư phụ là muốn được về phương Nam thăm ông,
người đệ tử hiếu đễ, tài ba, các sư ca của ông đã tiễn đưa người thầy
của mình về cõi vĩnh hằng bằng không táng. Thi hài của Mao sư phụ được
hoả táng, sau đó gói gọn gàng trong ống nứa hệt như người ta làm pháo
thăng thiên, hướng về phương Nam mà đốt...
Phần 2: Tuyệt kỹ vô song và món quà của Bác Hồ
Một que tăm, một chiếc lá, một nhúm cát cũng có thể được Huyền Công
Đạo Trần Công biến thành “vũ khí tối thượng” để hạ gục đối phương trong
nháy mắt. Đó không phải là những điều chỉ có trong phim chưởng...
Những mũi tiêu kinh hoàng
Khi còn ở Việt Nam, ông đã được Mao sư phụ truyền dạy rất nhiều môn ám
khí độc chiêu. Ông bảo, muốn ám khí đạt hiệu quả tốt nhất thì ngoài khả
năng về nội công, đòi hỏi người sử dụng phải tập luyện thường xuyên,
kiên trì. Ngưng luyện tập thì chỉ ít lâu, ám khí phóng ra sẽ không trúng
đích như mong muốn.
Ông Trần Công và những mũi tiêu
Môn ám khí đầu tiên ông được sư phụ truyền dạy là phóng tiêu. Tiêu của
Mao sư phụ rất đơn giản, chỉ là những chiếc đũa được chế từ những cây
thép nhỏ, vát nhọn một đầu, sức đàn hồi lớn. Khi cần phóng tiêu, tuỳ
khoảng cách xa, gần mà người sử dụng chỉ cần giữ cố định một đầu, vít
cong đầu còn lại, dựa vào lực đàn hồi mà bật tiêu đi. Điều quan trọng
nhất khi dùng ám khí đó là độ chính xác. Chính thế, người sử dụng phải
luyện tập không ngừng.
Lão võ sư Trần Công kể, ban đầu tập phóng tiêu, Mao sư phụ dựng cho ông
một hình nhân bằng rơm rồi bắt ông đứng cách chừng 7 - 10 m, phóng đũa
sắt tới. Bước đầu là phóng sao cho trúng được phần ngực của hình nhân;
Bước sau cao hơn, đó là phóng vào phần đầu; Tiếp đến là phóng vào phần
mắt. Bài ám khí này chỉ được coi là thành công khi người tập trong tích
tắc với cả chục chiếc đũa sắt trên tay, phóng đích xác vào phần mắt hình
nhân.
Ngày còn ở bên Mao sư phụ, cũng như sau này, dạy độc chiêu phóng tiêu
cho một số đệ tử, võ sư Trần Công thường lấy mục tiêu là những quả
trứng, khi thì đặt ở khắp nơi, khi thì rút hết ruột, treo lên để gió đẩy
đưa tứ phía. Nắm đũa dắt bên hông, tả xung hữu đột, chỉ nghe tiếng gió
rít lên rất khẽ thì những chiếc đũa nhọn hoắt đã được ông phi bách phát
bách trúng vào những quả trứng.
Búng ngón tay, đối phương mù mắt
Biến thể của tiêu đũa là tăm. Những chiếc tăm cật tre già, vót nhọn một
đầu, trừ phần cật tre, với người bình thường thì chỉ dùng để vệ sinh
răng, nhưng với Huyền Công Đạo Trần Công thì chúng là một ám khí vô cùng
lợi hại, sát thương kinh hồn. Chỉ bằng động tác búng ngón tay, trong
vòng 3 - 5 thước, chiếc tăm nhọn của ông có thể khiến đối phương mù mắt.
Thủa thanh niên, phiêu bạt giang hồ, lúc nào trong túi áo ngực của ông
cũng có những chiếc tăm ấy để phòng thân. Chỉ có điều, chúng không làm
từ tre mà được ông cần mẫn chế từ dây tanh của lốp xe đạp. Bởi luyện tập
nhiều nên giờ, trông chúng vẫn sáng bóng, tựa như những chiếc kim mà
người ta vẫn dùng để khâu giày dép.
Một loại ám khí khác mà nhiều người vẫn thấy trong phim chuyện chưởng
của Trung Quốc, ấy là cát. Ngày trước, tập loại ám khí này, tuy chưa một
lần phải sử dụng nhưng bôn tẩu giang hồ, Huyền Công Đạo vẫn “trang bị”
cho mình.
Chế loại ám khí này cũng công phu lắm. Ban đầu là phải chọn tìm cát hạt
mịn, sau đó lọc qua nước để gạt bỏ rác bẩn và đất. Phơi khô rồi cho vào
rang lẫn với muối, bột ớt, bột tiêu... Những “hợp chất” ấy khi quyện vào
nhau sẽ vo thành những viên nhỏ xíu, tựa như hạt vừng. Lão võ sư đổ
những “sản phẩm” ấy vào những lọ nhỏ, khi ngược xuôi thì bỏ trong tay
nải, để ở tư thế tiện dùng.
Tao ngộ chiến, bị vây hãm bởi đông đối thủ, chỉ cần nhanh tay hất một lọ
hỗn hợp ấy ra thì đảm bảo rằng không kẻ nào còn nhìn thấy nổi ánh sáng
mặt trời. Khi đó, nếu cảm thấy cần phải đánh thì đánh, không cần thiết
thì chỉ việc... đủng đỉnh bỏ đi.
Sát thương kẻ thù cách 50m bằng tiêu
Một loại ám khí nữa đã đưa tên tuổi Huyền Công Đạo nổi như cồn suốt mấy
chục năm hành tẩu giang hồ ấy là thuật thổi tiêu. Bởi là người có nội
công thâm hậu, nên đường tiêu của lão võ sư vừa đi xa, vừa vô cùng chuẩn
xác.
Theo lão võ sư thì ống tiêu làm từ trúc, từ gỗ, thậm chí từ thanh sắt
rỗng ruột. Loại ám khí này tàn khốc và nguy hiểm ở chỗ mũi tiêu được ông
làm từ những cây kim mà mọi người vẫn dùng để khâu vá hàng ngày. Đầu
mũi kim, ông đánh ngạnh, khi găm vào người đối phương chỉ tạo cảm giác
hơi buốt. Tuy nhiên, sự nguy hiểm là ở chỗ, khi đối phương rút tiêu ra,
phần mũi tiêu sẽ gãy và nằm lại trong ra thịt.
Theo Huyền Công Đạo, loại ám khí vô cùng lợi hại này có thể gây sát
thương ở khoảng cách tới 50m. Chính thế, khi còn lãng du ở vùng cương
thổ, ông vẫn dùng nó để... bắn chim. Thậm chí, cá dưới sông, dùng loại
ám khí này, ông vẫn đều đều đánh bắt.
Cuộc biểu diễn lạ lùng trong sân vận động
Có lẽ trong làng võ Việt, ông là người may mắn được gặp Bác Hồ nhiều lần
nhất. Lão võ sư kể, một sớm (năm 1961) có người đi ô tô tìm đến nhà
ông, nói là ra sân Hàng Đẫy gấp, khi đi nhớ mang theo đôi Song hổ vĩ
côn. Ngạc nhiên vì lời mời lạ lùng ấy, nhưng khi thấy phong thái của
người khách lạ, linh tính mách bảo rằng đó chẳng phải chuyện bình
thường, nên chẳng suy nghĩ nhiều, ông vào nhà xách côn đi luôn.
Gần đến nơi, vị khách mới cho ông biết một tin bất ngờ, Bác Hồ muốn xem
ông múa võ nên đã bí mật mời ông đến. Thông tin ấy làm ông sững sờ. Ông
không ngờ mình lại có được vinh dự lớn lao đến vậy. Niềm vui sướng đó
khiến trống ngực ông nện liên hồi. Vào sân, ông đưa mắt nhìn khắp lượt,
khán đài chẳng có ai, cũng chẳng thấy Bác đâu. Người dẫn đường chỉ lên
góc khán đài cao nhất. Ngước mắt lên, ông thấy Bác cười hiền, giơ tay
vẫy, ông cảm động đến suýt rơi nước mắt.
Không để mất thời gian của Người, ông ra sân với một suy nghĩ, sẽ tung
tất cả những tuyệt kỹ công phu mà suốt mấy chục năm trời mình rèn luyện
để Bác thưởng thức. Thế nhưng, ra đến giữa sân, có lẽ chưa bao giờ biểu
diễn trước một khán giả vĩ đại đến vậy, nên dù mấy lần xuống tấn nhưng
ông vẫn thấy chân tay mình mềm nhũn. Sau cùng, thêm một lần nữa ngước
lên khán đài, thêm một lần nữa bắt gặp nụ cười đôn hậu của Bác, ông trấn
tĩnh lại.
Ông Trần Công đã nhiều lần được gặp Bác, biểu diễn võ thuật
Và, hôm ấy, với đôi Song hổ vĩ côn, một binh khí sở trường, ông múa vun
vút, để trên khán đài, những tiếng vỗ tay của Bác và những tùy tùng cứ
vang lên không ngớt.
Kết thúc buổi biểu diễn, người dẫn đường khi trước đã từ chỗ Bác ngồi
chạy xuống, đưa cho ông một chiếc phong bì nói là Bác tặng và Người dặn
rằng khi về đến nhà mới được mở ra xem.
Ông cho chiếc phong bì đó vào túi ngực, hướng về phía Người cúi chào và
ra về. Trên đường đi, ông như thấy túi áo mình nóng ran bởi ý nghĩ,
không biết Bác tặng mình thứ gì mà bí mật đến vậy? Về đến nhà, ông vội
vàng bóc chiếc phong bì đó ra xem. Thì ra Người tặng ông mấy vần thơ
giản dị: “Thể lực đứng đầu há phải tiền. Luyện rèn vũ thuật vẫn thường
xuyên. Tiền nhiều thượng võ mua chẳng được. Vui mạnh sống lâu khác gì
tiên”.
Triết lý của người học võ
Đến giờ, ông vẫn nhớ như in câu chuyện võ học mà ông từng may mắn được
đàm đạo cùng với Bác. Sau lần biểu diễn võ cho người xem ở sân vận động
Hàng Đẫy, có lần Bác đã mời ông vào nơi mình ở.
Tại đây, thấy Bác đang mải miết tập quyền cước, ông buột miệng hỏi: “Dạ
thưa, Bác cũng tập võ Tàu?”. Nghe câu hỏi của ông, ngừng tập Bác quay
sang từ tốn: “Sao chú lại hỏi thế?”. “Dạ, cháu thấy bài quyền Bác đang
tập có xuất xứ từ Trung Quốc”.
“Đúng, chú nói đúng rồi! Đây chính là bài quyền bác học được của người
Trung Quốc, nhưng không thể gọi là võ Tàu được!”. “Thế gọi là võ Trung
Quốc, thưa Bác!”. “Chú nói thế cũng không phải, mà phải gọi là võ Việt
Nam!”.
Câu khẳng định của Bác làm ông ngạc nhiên, không hiểu. Thấy vẻ bối rối
của ông, Bác khẽ mỉm cười, kéo ông ngồi xuống, Người nói: “Nhà chú có ao
thả cá, nhà hàng xóm của chú cũng có ao thả cá. Một hôm, trời mưa, nước
lớn, cá nhà chú tràn sang ao nhà hàng xóm thì chú có sang đó mà nhận
hay đòi lại cá nhà mình được không? Võ cũng vậy, từ Trung Quốc chảy
xuống nước ta thì phải gọi là võ ta chứ!”. Triết lý đơn giản nhưng vô
cùng chí lý của Người khiến ông suy nghĩ.
Thấy thế, Bác liền vỗ vai, thân mật: Chú là người giỏi võ, chú phải cố
gắng làm sao để cả dân tộc ta học được võ, có thế thì mới có sức khoẻ để
bảo vệ và kiến thiết đất nước! Phong trào học võ, rèn luyện sức khoẻ
phải nở như hoa! Ông bảo, chỉ một lần gặp ấy thôi, ông đã phục sát đất
sự uyên bác của Bác Hồ, người mà ông cả đời kính trọng, quý yêu.
Anh thợ cắt tóc và chuyến thăm bí mật của Bác Hồ
Ông từng được Bác Hồ đến thăm ông. Chuyện đó, trong giới võ lâm, có lẽ
chẳng có võ sư nào được vinh hạnh ấy. Lão võ sư Trần Công bảo, ấy là
phần thưởng cao quý nhất mà cả đời ông không thể nào quên được.
Ngày đó, ông thuê nhà ở dốc Tam Đa, sống bằng nghề cắt tóc. Hôm ấy, một
sáng mùa Thu, đang tha thẩn trước sân thì ông thấy một chiếc xe ô tô con
đậu gần cửa nhà mình.
Cứ ngỡ đó là khách của hàng xóm nên chẳng bận tâm, ông vẫn mải mê với
những suy nghĩ riêng tư của mình. Thế nhưng, một cái vỗ vai đã làm ông
giật mình bừng tỉnh. Chưa kịp hỏi thì ông đã bàng hoàng khi vị khách đó
từ từ tháo mũ ra. “Bác!”. Thấy ông mừng rỡ quá đỗi, “vị khách lạ” vội
vàng ra dấu, ý rằng, không nên để người khác biết sự xuất hiện của
Người.
Kéo ông vào nhà, Bác hỏi: “Thế chỗ chú luyện võ đâu?”. Câu hỏi của Bác
làm ông bối rối bởi khi ấy, gia cảnh khó khăn, ông thuê một gian nhà rất
chật, chỗ ông tập võ hàng ngày cũng là chỗ ông cắt tóc kiếm sống qua
ngày. Chỗ ấy lổn nhổn những gạch đá, khi dọn về đó ở ông vẫn chưa kịp
sửa sang.
“Chú tập võ ở đây?”. Chỉ vào khu nền nhà mấp mô đó, Bác ngạc nhiên hỏi.
Không muốn Bác phải bận tâm nhiều về hoàn cảnh của mình, ông vội vàng
đáp: “Dạ, chỗ này cháu xới lên đó! Luyện võ ở đây chân sẽ cứng cáp
hơn!”. Nghe ông nói vậy, Bác gật đầu cười: “Chú này tập chi mà lạ!”. Cứ
thế, câu chuyện về nghiệp võ và đời võ được ông và Bác đàm đạo say sưa,
mãi khi phía ngoài, khách đến cắt tóc đã đứng chờ lố nhố, Bác mới lặng
lẽ ra về.
Lão võ sư Trần Công bảo, dù thành thạo nhiều ám khí độc môn như vậy,
nhưng cả đời ông, ông mới sử dụng nó bất đắc dĩ một lần. Đó là trận
chiến kinh hồn với một băng đảng giặc cướp.
Phần 3(Phần cuối): Khuất phục toán cướp bằng ám khí độc môn
Khi nội công đã tu luyện tới mức thượng thừa, lão võ sư Trần Công
bảo, tất cả các vật dụng ở xung quanh, với ông đều có thể là một loại ám
khí kinh hồn. Dùng một chiếc lá cứng, một hòn sỏi, một mẩu que... ông
vẫn có thể hạ gục đối thủ chỉ trong chớp mắt.
Theo học chủ nhân của bí kíp Gồng trà kha
Tuy thiên hạ vô song về độc chiêu ám khí nhưng theo lão võ sư Trần Công,
trong suốt cuộc đời bôn tẩu giang hồ, ông chỉ duy nhất sử dụng chúng
một lần khi giao chiến. Ông bảo, ám khí đã phóng ra là tàn khốc, là gây
sát thương cho đối thủ, nên tuyệt đối không được dùng khi chưa thấy thực
sự cần thiết.
Võ sư Trần Công
Lần phải vận đến tuyệt chiêu của mình đã diễn ra cách đây lâu lắm rồi,
ông cũng không còn nhớ rõ đích xác vào năm nào nữa. Khi ấy, ông mới từ
biệt Mao sư phụ trở về Việt Nam, lên khu Nghĩa Đô, bái danh sư Lại Phú
Dương, cũng một sư phụ rất giỏi về võ Tàu làm thầy để tiếp tục rèn thêm
kĩ năng chiến đấu cho mình.
Nói thêm về võ sư Lại Phú Dương, theo lão võ sư Trần Công, thì trước
cách mạng, danh tiếng của cụ Lại đã nổi như cồn, đặc biệt với tuyệt
chiêu Gồng trà kha. Lão võ sư Trần Công kể, có lần ngay gần chợ Bưởi,
với tuyệt chiêu trên, cụ Lại đã để cho mọi người thẳng tay dùng dao chém
vào người mà da thịt không hề xây xát, hệt như người ta dùng thanh gỗ
mà nện vào bị bông.
Cụ Lại theo cách mạng. Một lần, tại nhà người bạn của mình, Lại sư phụ
bị giặc Pháp vây hãm. Chạy vọt lên tầng thượng của toà nhà cao 3 tầng
nhưng quân giặc vẫn rầm rập đuổi theo. Trong cơn khốn quẫn, tài trí và
sức mạnh phi thường của cụ đã vô cùng hữu dụng.
Thấy trên lầu có chiếc cối đá nặng đến cả trăm cân, phía dưới, bên nhà
hàng xóm lại có chiếc ao rộng, cụ liền bê luôn chiếc cối ấy mà ném sang
ao. Thấy tiếng động mạnh, tưởng cụ đã liều mình nhảy xuống ao, hòng tìm
đường thoát, quân Pháp liền xì xồ hô nhau quay xuống, vây kín khắp bờ
ao, chờ “con mồi” nổi lên để... bắt. Đánh lạc hướng kẻ thù, Lại sư phụ
đã ung dung tìm đường thoát thân.
Cơ hội hiếm hoi dùng tuyệt kỹ
Lão võ sư Trần Công kể, ngày ấy, bởi nhớ lời dặn của Mao sư phụ nên ông
đã giấu biệt không cho cụ Lại biết khả năng võ công của mình. Theo học
cụ Lại được chừng một năm, một đêm, cụ dựng ngược ông dậy nói là đi đánh
nhau. Tưởng thầy mình nói chơi, hoá ra đúng là đi đánh nhau thật.
Đối thủ của hai thầy trò là đảng cướp hung hãn ở khu chùa Thầy, cứ đêm
đến chúng kéo nhau về khu ven Hà Nội ngang nhiên cướp bóc. Mỗi lần “ra
quân” chúng thường gửi tối hậu thư cho gia chủ, thông báo luôn ngày giờ
và những thứ... cần cướp. Nhận được thông báo ấy, nếu khổ chủ không kiếm
đủ những thứ trên, hay cố tình tẩu tán tài sản thì chúng sẽ xuống tay
vô cùng tàn bạo.
Đêm đó, địa chỉ mà chúng định mò tới là một gia đình ở ngay trong làng
Nghè, nơi võ sư Lại Phú Dương sinh sống. Hoảng hốt, không biết cầu cứu
ai, khổ chủ bèn tìm tới cụ Lại, những mong vì lòng trượng nghĩa mà lão
võ sư ra tay cứu giúp.
Bất bình với toán cướp đã lâu, cụ Lại đã gật đầu ưng thuận. Trước lúc
lên đường, cụ Lại nói với đệ tử mình: “Binh khí cho con tự chọn, nên nhớ
đây là toán cướp giết người không gớm tay!”. Lão võ sư Trần Công kể,
nghe sư phụ mình nói thế, ông... mừng lắm, bởi toán cướp càng hung dữ
bao nhiêu thì ông càng “có điều kiện” để thử nghiệm võ công của mình,
thứ mà ông còn thấy thiếu vì từ trước tới giờ, ngoài mấy trận đánh võ
đài toàn thắng ra, ông chưa bao giờ có cơ hội để dụng võ ngoài đời.
Đường phi tiêu thần sầu quỷ khốc
Khoác đôi song hổ vĩ côn vào tay, ra cửa, như sực nhớ ra điều gì, ông
quay lại cầm thêm nắm đũa sắt, món ám khí mà ông tập luyện đã lâu. Đến
nơi, bởi chưa đến giờ như đã hẹn nên toán cướp kia chưa xuất đầu lộ
diện. Thấy hai thầy trò, gia chủ mừng quýnh nhưng vẫn có phần e ngại. Có
lẽ, họ sợ hai thầy trò không phải là đối thủ của toán cướp tàn bạo kia.
Vẻ ái ngại, lo lắng ấy càng trầm trọng hơn khi vào đến nhà, cụ Lại sai
cậu học trò miệng còn hôi sữa của mình ra cửa đứng canh, còn cụ thì cứ
ngồi ung dung uống trà.
Đứng gác chưa mỏi chân thì phía đầu làng, đèn đuốc đã sáng rực. Quân ăn
cướp đến. Thấy ầm ĩ, mấy nhà bên cạnh vội vàng tắt đèn, đóng cửa đánh
rầm. Đạp cổng, ập vào sân, chúng hùng hổ quát mắng tựa như đang ở chỗ
không người.
“Bọn kia đi đâu?” - đứng ngoài cửa, dù đã lấy hơi để dương oai, nhưng
giọng quát bọn cướp của ông là cái giọng trẻ con, nghe rất đỗi buồn
cười. “Á, thằng này láo! Các ông đi ăn cướp chứ còn đi đâu! Khôn hồn thì
cút để các ông vào!” - một tên trong đám sừng sộ.
“Thích vào à? Thích vào thì cứ chui qua đây mà vào!” - chỉ tay xuống dưới háng mình, ông khiêu khích.
“Chúng mày đâu, lôi thằng nhãi nhép này ra tẩm dầu đốt cho tao!” - không
chịu được màn khiêu khích ấy, tên tướng cướp đùng đùng nổi giận, quát
nạt đám lâu la.
Tiếng quát như sư tử hống ấy chưa dứt, một tên tiên phong đã vác binh
khí lao lên tưởng sẽ ăn tươi nuốt sống cậu nhóc thư sinh mang gan cóc
tía. Thế nhưng, vừa tiến lên được vài bước, hắn bỗng rú lên rồi ôm chân
qụy xuống. Một chiếc đũa sắt từ tay cậu thiếu niên phóng ra đã cắm phập
vào đầu gối, khiến hắn không thể lê bước.
Thấy thuộc hạ bị dính đòn quá nhanh, tên tướng cướp đã giật mình lùi
lại. Sợ mất mặt với đám đàn em, hắn lại rống lên đồng thời tuốt kiếm
chực xông lên. Nhưng, cũng chỉ trong chớp mắt, một chiếc đũa nữa được
“thằng nhóc láo toét” phóng ra. Lần này, chiếc tiêu đi một đường kinh
hãi hơn, sượt qua mặt, xuyên qua vành tai của tên trùm sỏ. Vừa thoảng
nghe tiếng gió rít bên tai, đã thấy máu rơi xuống vai áo lạnh toát, mặt
cắt không còn giọt máu, quá kinh hãi, tên tướng cướp thối lui mấy bước
rồi chẳng kịp hô đám lâu la, hắn co cẳng chạy.
Ngồi trong nhà, thấy “kỹ nghệ” lạ lùng ấy của ông, cụ Lại lấy làm ngạc
nhiên lắm. Hỏi ai dậy, ông chỉ cười trừ nói rằng cái đó là ông tự mày
mò, rồi năng luyện tập mà thành.
Từ lần bị dính đòn thảm khốc đó, toán cướp bỗng bặt vô âm tín. Người dân
ven đô ai cũng mừng như vừa trải qua một kiếp nạn kinh hoàng.
Một mình vào hang cọp dữ
Sau đó chừng gần một tháng, ông nhận được một lá thư do một người lạ mặt
chuyển đến. Người viết lá thư ấy chính là tên tướng cướp đã dính đòn
của ông tháng trước. Hắn mời ông về đại bản doanh của hắn ở gần chùa
Thầy để dự một bữa cơm giao hảo. Nhận bức thư ấy, nghĩ không đi không
được, nên ông đã viết thư trả lời, hứa sẽ đến như đã hẹn. Theo yêu cầu
của tên tướng cướp, ông đi một mình và tuyệt nhiên không mang binh khí
gì, đặc biệt là những que đũa sắt, thứ mà bọn chúng đã được một lần...
“nếm mùi đau khổ”.
Lão võ sư Trần Công kể, đợt ấy, không muốn cụ Lại và gia đình lo lắng,
ông đã giấu nhẹm chuyện mình được mời vào “hang cọp”. Hôm đó, đúng hẹn,
ông cứ một mình chạy bộ vào chùa Thầy cùng chiếc khăn mặt vắt vai.
Gần đến nơi, qua mương nước, ông nhúng ướt chiếc khăn mặt và nghĩ, nếu
trúng gian kế, bị phục kích thì đó cũng là một vũ khí có sức công phá
kinh hồn, có thể đánh bại cả chục tên lưu manh trong vòng vài phút.
Sào huyệt của đảng cướp nằm trong một ngôi nhà kiên cố. Nhác thấy bóng
ông, tên đầu lĩnh với vết thương trên tai còn chưa lành, vội vàng ùa ra
vồn vã, xun xoe: “Cậu đến rồi à? Mời cậu vào trong! Biết hôm nay thế nào
cậu cũng đến nên tôi đã triệu tập tất cả anh em đến đây để đón tiếp
đấy!”.
Vừa ngoắc tay mời, hắn vừa gỡ chiếc khăn trên vai rồi đẩy ông vào gian
nhà trong, nơi đã đặt sẵn mâm cỗ với ê hề rượu thịt. Bị đẩy vào góc
trong, tì lưng vào tường, ông hơi nghi ngại vì tư thế ngồi đó, nếu bị
chúng dùng bàn ép chặt vào trong mà tấn công trực diện thì sẽ vô cùng
nguy khốn.
Tuy thế, ông vẫn vui vẻ ngồi vào nơi mà tên đầu lĩnh đã định sẵn cho
mình và hai tay thì luôn đặt trên mặt bàn để nếu có biến, ngay lập tức
những chiếc thìa, đũa trong tầm với sẽ giúp ông chống trả.
Song thật lạ lùng, khi tất cả đều đã yên vị, tên đầu lĩnh bỗng đẩy ghế,
quỳ thụp xuống rồi khẩn khoản: “Cám ơn cậu đã đến với chúng tôi! Thưa
cậu, từ hôm ở làng Nghè về đến giờ, chúng tôi đã không còn đi cướp nữa!
Cảm ơn cậu hôm đó đã nương tay!”. Nói vừa dứt câu, hắn tu ực bát rượu
như vừa để cảm ơn, vừa để chuộc lỗi. Cuộc rượu cứ thế kéo dài mấy tiếng
đồng hồ, ai lấy đều say nghiêng ngả...
Kiếp lãng du và một lần chết hụt
Ông là người thích lãng du, phiêu bạt. Ông bảo, giờ có tuổi, ông mới
chịu xếp chân ở yên một chỗ chứ khi trước, đời ông là những chuyến đi.
Bởi yêu thích cảnh tự do tự tại, ông đã từng bỏ phố xá, ngược lên biên
giới ở đến cả chục năm.
Đến đâu, ông cũng truyền dậy võ công hay bốc thuốc giúp mọi người nên luôn được đối đãi như thượng khách.
Ông kể, hồi ở Lào Cai, khi giặc phỉ hoạt động mạnh, với những độc chiêu
võ thuật của mình, ông đã được mời dậy võ cho rất nhiều đơn vị tham gia
tiễu phỉ.
Ở Lào Cai chán, ông lại vòng vào Quảng Trị, nơi bom đạn đang thời khốc
liệt. Tại đây, ông lại được mời huấn luyện võ thuật cho các đơn vị đặc
công. Ông tâm niệm, người luyện võ thì phải nay đây mai đó, có vậy thì
mới trau dồi được vốn liếng võ thuật của mình. Nhưng cũng vì thế mà
trong một chuyến phiêu bồng, ông đã suýt bỏ mạng.
Năm 1960, ông và một số võ sư nổi tiếng khác về Ninh Bình để phát động
phong trào học võ và dạy võ cho dân quân tự vệ tại Phát Diệm. Để dập tắt
phong trào trên, gián điệp đã dùng thủ đoạn thâm độc là hạ sát các võ
sư, đặc biệt là ông, người được quần chúng vô cùng yêu mến.
Chúng bỏ độc vào nồi canh tại nhà ăn tập thể. Vì thế, vừa buông đũa, gần
100 võ sư cùng các môn sinh bỗng thấy ruột mình quặn thắt, sau đó lịm
đi. Biết là bị kẻ gian hạ độc, ông bình tĩnh ngồi xuống, vận khí bế
huyệt để chất độc không thể ngấm nhanh chóng vào cơ thể mình.
Sau khi giúp đỡ các nhân viên y tế đưa mọi người ra Bệnh viện huyện chạy
chữa, ông bắt đầu thấy mình choáng váng. Chất độc đã bắt đầu ngấm. Khi
bác sĩ đưa ông lên giường bệnh, trong cơn đau đớn, vật vã, để giải toả,
ông đã bẻ gãy cả... hai chiếc chân giường.
Nhờ các bác sĩ cứu chữa tận tình, cùng với một thể trạng khoẻ mạnh vốn có, sự nguy kịch cũng dần qua.
Phát công chữa bệnh cứu người
Từ ngày thôi làm Chủ tịch Hội đồng cố vấn cao cấp của Liên đoàn Võ thuật
cổ truyền Hà Nội, Huyền Công Đạo Trần Công đã lui vào sống đời ẩn dật.
Tuy thế, hầu như ngày nào ông cũng có khách. Đó là những người vì mến mộ
ông mà cố gắng tìm đến để thỉnh giáo võ công. Đó là những bệnh nhân
không may gặp chứng nan y, từ khắp mọi nơi, nghe dân tình mách bảo mà
lặn lội tìm về, những mong nhờ thành tâm của mình mà được ông cứu chữa.
Lão võ sư Trần Công bảo, khách võ thì ông có thể chẳng mặn mà nhưng bệnh
nhân thì ông vô cùng chu đáo. Cũng giống như Mao sư phụ, ông chữa bệnh
là để cứu người chứ không bao giờ tính chuyện nhận thù lao.
Với tuyệt chiêu dùng công lực phát công chữa bệnh, ông đã cứu sống được
nhiều người, trong số ấy, có cả những bệnh nhân đã bị các bệnh viện lớn
trả về bởi hết đường chữa chạy.
Hết
(ĐC sưu tầm trên NET) Oscar Là Ai? Câu Chuyện Về Cuộc Đời Bi Kịch Của “Thiên Tài Bị Xã Hội Vùi Dập” Ít ai biết rằng, giải thưởng danh giá của làng điện ảnh – Oscar - được lấy theo tên của nhà văn nổi tiếng Oscar Wilde. Năm 1854, khi rửa tội cho con trai thứ hai nhà Wilde, Đức cha Prideaux Fox không hề biết rằng cậu bé này rồi sẽ là “thiên tài bất thường” của Ireland. Về sau, Oscar Wilde đã trở thành một trong những nhân vật đặc biệt nổi bật của giới văn chương, người luôn ở giữa tôn vinh và hạ nhục, giữa cái đẹp và sự tăm tối, giữa sa hoa và khốn cùng. Không nhiều người có thể trả lời câu hỏi: " Oscar là ai?" Quang Thạch | 01/03/2016 10:07 7 Theo một video phỏng vấn ngay trước thềm Oscar 2016, các diễn viên tới dự giải Oscar cũng không thể trả lời câ...
(ĐC sưu tầm trên NET) Thời sự quốc tế sáng 10/5/2018 TIN TỨC VIỆT NAM MỚI NHẤT TRONG NGÀY 10/5/2018 60 Giây Chiều - Ngày 09/05/2018 - Tin Tức Mới Nhất An ninh ngày mới ngày 09.05.2018 - Tin tức cập nhật TRỰC TIẾP THỜI SỰ BIỂN ĐÔNG 10/05 Cận cảnh Tàu Việt Nam trong diễn tập Komodo 2018 Hai Chị Em - Trung Hậu và Thuỵ Vân Hội nghị Trung ương 7: Sẽ có quyết sách dẹp vấn nạn "cả họ làm quan" (TTXVN/Vietnam+) 09/05/2018 21:06 GMT+7 Bản in Đại biểu dự hội nghị. (Ảnh: Phương Hoa/TTXVN) Hội nghị lần thứ 7, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII, diễn ra từ ngày 7-12/5, tập trung thảo luận, cho ý kiến về các nội dung: xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; cải cách chính sách tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang và người lao động trong các doanh nghiệp; cải cách chính sách bảo hiểm xã hội; và một ...
(ĐC sưu tầm trên NET) Giang hồ Sài Gòn trước 1975: Trùm du đãng Mã Thầu Dậu Mã Thầu Dậu nhận tất cả đơn đặt hàng giải quyết ân oán trong đời thường và trong làm ăn. "Tiền nào của ấy" nên mỗi dịch vụ đều có mức giá khác nhau. Trùm du đãng một vùng rộng lớn không hành xử như đám du đãng cắc ké. Chợ Lớn có trùm du đãng ba Tàu Mã Thầu Dậu (Con ngựa đầu gà) nổi tiếng với vai trò đâm thuê chém mướn. Trùm bảo kê Mã Thầu Dậu xuất thân từ một đứa bé con nhà người Hoa gốc Quảng Đông nghèo. Tuổi thơ Mã Thầu Dậu trải qua nhiều cơ cực, từ bửa củi thuê, bưng cà phê, bưng hủ tiếu đến cả rửa chén bát thuê. Mã Thầu Dậu khởi nghiệp trùm du đãng khét tiếng trên hè phố La Kai (đường Nguyễn Tri Phương, quận 5 ngày nay). Hắn nổi danh nhờ những vụ trừ khử đám du thủ du thực cho các chủ tiệm buôn giàu có người Hoa và dần đi theo con đường đâm thuê chém mướn chuyên nghiệp. Khu vực chợ Lớn xưa Băng du đãng Mã Thầu Dậu h...
Nhận xét
Đăng nhận xét