Dai Chung la su suy ngam cua toi ve cuoc doi, xa hoi, nhan sinh
HIỆN THỰC KỲ ẢO 97
Nhận đường liên kết
Facebook
X
Pinterest
Email
Ứng dụng khác
-
(ĐC sưu tầm trên NET)
Quần Đảo Kì Lạ: "Nơi Cùng Lúc Nhìn Thấy Quá Khứ Và Tương Lai..."
Quần đảo kỳ lạ nơi cùng lúc nhìn thấy “quá khứ” và “tương lai”
Ngọc Bích |
5
Hình minh họa
Diomede khác biệt với tất cả các quần đảo trên thế giới khi có thể cho con người thấy được "quá khứ" và "tương lai".
Các hòn đảo Big Diomede và Little Diomede thuộc quần đảo Diomede, nằm trong eo biển Bering, giữa Alaska (Mỹ) và Siberia (Nga).
Xét
về địa lý, chúng cách nhau khoảng 3,8km nhưng lại được đánh dấu biên
giới quốc tế giữa hai nước Nga và Mỹ. Do vậy, chúng có sự cách biệt khá
lớn về múi giờ.
Điều này có thể hiểu nôm na rằng, nếu một người
đứng ở đảo Little Diomede để ngắm Big Diomede, có nghĩa là họ đang chiêm
ngưỡng thế giới ở 23h trong tương lai và ngược lại. Chính điểm thú vị
này khiến nhiều người gọi chúng với cái tên là Đảo Ngày mai và Đảo Hôm
qua.
Little Diomede thuộc biên giới của Mỹ, trong khi đó Big Diomede lại do Nga cai quản. Ảnh: Tripandtravel blog
Nếu ở Little Diomede (bên phải) đang là buổi trưa thì tại Big Diomede (bên trái) lại là 9h ngày hôm sau. Ảnh: Amusingplanet
Không
chỉ có thể nhìn được “quá khứ” và “tương lai”, mà những ai khi đặt chân
tới đây còn có thể trực tiếp đi bộ “xuyên không”. Vào mùa đông, khí hậu
tại quần đảo này rất khắc nghiệt, toàn bộ nước tại đây sẽ đóng thành
băng, vô tình tạo thành cây cầu kết nối giữa hai đảo.
Vào thời
điểm này, người ta có thể đi bộ giữa Mỹ và Nga. Tuy vậy, đây chỉ là lý
thuyết, vì việc vượt qua eo biển Bering là bất hợp pháp.
Bạn có thể đi lại thoải mái giữa “quá khứ” và “hiện tại” nếu được cho phép. Ảnh: Tripandtravelblog
Cả
hai đảo đều có địa hình khá bằng phẳng và bị cô lập. Vào mùa hè, chúng
bị bao phủ bởi lớp sương mù dày đặc. Ảnh: Amusingplanet
Năm
1648, nhà thám hiểm Nga - Semyon Dezhnyov là người đầu tiên đặt chân
tới quần đảo này, lúc đó, chúng chưa có sự khác biệt về mặt thời gian.
80 năm sau, nó một lần nữa được khám phá bởi một người Đan Mạch vào đúng
ngày Giáo hội Chính thống Nga kỷ niệm tưởng nhớ tử đạo St. Diomede, vì
vậy nó được đặt tên theo vị thánh này.
Năm
1867, Mỹ mua lãnh thổ Alaska từ Nga, bao gồm cả Little Diomede. Chính
lúc này, ranh giới giữa hai đảo Little Diomede và Big Diomede mới được
phân chia rõ ràng.
Trong khi Little Diomede được Mỹ phát
triển thành một cộng đồng nhỏ, có khoảng 75 người sinh sống, bao gồm cả
nhà thờ và trường học, thì Big Diomede lại trở thành căn cứ quân sự của
Nga.
Sau Thế chiến II, người dân bản
địa tại Little Diomede bị đuổi ra khỏi hòn đảo để tránh việc liên lạc
qua biên giới. Bên cạnh đó, bất kỳ cư dân Little Diomede nào “đi lạc”
trên vùng biển gần sát biên giới với Big Diomede cũng sẽ bị quân đội Nga
giam giữ.
Ngôi làng Diomede (Inalik) ở bờ biển phía tây của đảo Little Diomede, Alaska. Ảnh: Amusingplanet
Đến
ngày nay Big Diomede vẫn là căn cứ địa của quân đội biên phòng Nga,
ngoài ra nó được “trang bị” thêm một trạm khí tượng thủy văn. Ảnh:
Tripandtravel blog
theo Saostar
Tình Huống Khẩn : Con Tàu Apollo 13
Bí mật "vùng tử thần" dưới đáy đại dương: Nghìn năm không có sinh vật sống, NASA cố lờ đi!
Trang Ly |
14
48 năm sau sứ mệnh bất thành của con tàu Apollo 13 (của NASA), hệ lụy "chết chóc" mà nó để lại kéo dài hàng nghìn năm!
Bao phủ 71% bề mặt Trái Đất, đại dương là một thế
giới rộng lớn ẩn chứa nhiều bí mật khiến nhân loại không ngừng khám phá,
giải mã.
Tuy có mặt ngay trên hành tinh chúng ta nhưng
những điều con người biết về đại dương còn ít hơn vũ trụ. Con người có
thể nắm rõ địa hình sao Hỏa, sao Kim dễ dàng hơn đáy biển. Ước tính,
giới khoa học chỉ mới phát hiện và định danh cho 230.000 trong khoảng 2
triệu loài sinh vật sống dưới đại dương!
Trên Trái Đất tồn tại một vùng đáy đại dương không chỉ bí ẩn mà còn là "vùng tử thần", không một sinh vật nào có thể sinh sống.
Kỳ 12 trong series Những Khu Vực Nguy Hiểm Nhất Hành Tinh kể về Vực thẳm Tonga và sứ mệnh thất bại của tàu Apollo 13 - "thủ phạm" khiến cho Tonga trở thành vùng chết chóc nguy hiểm bậc nhất hành tinh.
Ngày
20/2/1962, chuyến bay Mercury-Atlas 6 đầu tiên thuộc sứ mệnh Mercury
(Project Mercury tiêu tốn 1,5 tỷ USD) đưa con người lên quỹ đạo Trái Đất
của Mỹ được phi hành gia John Glenn thực hiện thành công.
Ngay
sau sứ mệnh hoàn thành của John Glenn - phi hành gia đầu tiên trong
lịch sử nước Mỹ bay ra ngoài Trái Đất, Tổng thống thời bấy giờ là John
F. Kennedy lập tức hạ lệnh cho NASA khởi động chương trình đưa người lên
Mặt Trăng. Chương trình Apollo (Project Apollo) ra đời.
Gần 10 năm sau, nếu như người Liên Xô "có công" đưa người bay ra vũ trụ đầu tiên trong lịch sử nhân loại (đọc thêm)
thì người Mỹ "hái quả ngọt" với thời khắc ngày 20/7/1969: Con tàu
Apollo 11 đưa các phi hành gia Neil Armstrong và Edwin "Buzz" Aldrin đặt
dấu chân của loài người đầu tiên lên Mặt Trăng.
Để có
được thành quả "vô tiền khoáng hậu" này, ngành vũ trụ nước Mỹ đã phải
trải qua rất nhiều thăng trầm, mất mát. Nhiều vụ nổ tàu vũ trụ gây thiệt
hại về người và tiền bạc khiến NASA không ít lần lao đao. Sứ mệnh không
thành công của phi thuyền Apollo 13 là một ví dụ như thế.
13 giờ 13 phút, ngày 11/4/1970...
Phi
thuyền Apollo 13 được phóng đi từ Trung tâm Vũ trụ Kennedy, Florida,
mang theo ba phi hành gia tài năng của Mỹ là Jim Lovell (42 tuổi, chỉ
huy tàu), Jack Swigert (38 tuổi, phi công mô-đun chỉ hủy), và Fred Haise
(36 tuổi, phi công mô-đun Mặt Trăng) tiến thẳng vào không gian rộng lớn
của vũ trụ.
Tên lửa đưa phi thuyền Apollo 13 ra ngoài không gian, ngày 11/4/1970, từ Trung tâm Vũ trụ Kennedy, Florida, Mỹ. Nguồn: NASA
Trong
Chương trình Apollo, Apollo 13 là chuyến tàu không gian có người lái
thứ 7 của Mỹ và là sứ mệnh thứ 3 đáp xuống bề mặt Mặt Trăng.
Tối cùng ngày,
Khi phi hành đoàn cách Trái Đất 321.868 km và đang tiến dần về phía Mặt Trăng, thì con tàu Apollo 13 gặp sự cố: Một bồn chứa oxy trên con tàu phát nổ.
Lập tức các mô-đun phụ thuộc (mô-đun dịch vụ và mô-đun chỉ huy) bị ảnh
hưởng ngay lập tức. Oxy đang mất dần! Phi hành đoàn ở cách mặt đất hơn
300.000km trong tình huống đó thật khó mà bình tĩnh được.
Sau
sự cố, phi hành đoàn phải sống trong điều kiện oxy khan hiếm, thiếu
nước uống, nhiệt độ giảm mạnh khiến thực phẩm như hóa đông và điện chập
chờn. Lượng pin dữ trữ chỉ còn dùng được trong 40 giờ, trong khi để về
được Trái Đất, họ phải cần 70 giờ!
Thời gian là điều
sống còn của phi hành đoàn lúc này. Phi hành gia lão luyện Jim Lovell
nhận định: Nếu không tìm cách quay về Trái Đất càng sớm càng tốt thì cả 3
người cùng Apollo 13 sẽ trôi lạc mãi mãi trong không gian, tất nhiên là
không còn sinh khí để thở!
Phi hành đoàn của Apollo 13 trước giờ bay: Nhìn từ trái sang - Fred Haise, Jack Swigert, và Jim Lovell. Nguồn: NASA
Phi
hành đoàn đã tự giải cứu mình bằng cách nghiên cứu cấu tạo tỉ mỉ của
Apollo 13, để rồi, cuối cùng quyết định dùng hệ thống điều khiển và
khoang đổ bộ (hay mô-đun đổ bộ) dự định đáp xuống Mặt Trăng của con tàu
làm "phao cứu hộ" quay trở về Trái Đất.
Điều đáng
nói là, khoang đổ bộ chỉ có không gian và oxy dành cho hai người. Điều
này có nghĩa, phi hành đoàn 3 người đang hít thở và ngồi trong mô-đun
dành cho hai người. Oxy ngày càng giảm trong khi nồng độ CO2 ngày càng
tăng.
Không những thế, phi hành đoàn còn phải tiết kiệm
pin để hướng tàu bay đúng hướng về Trái Đất. Họ phải tắt hết hệ thống
chỉ dẫn và máy tính, chỉ bật radio để liên lạc với Trái Đất.
Hình ảnh con tàu Apollo thiệt hại 1/4 sau vụ nổ. Nguồn: NASA.
Khi
sắp đến khí quyến Trái Đất, Apollo 13 đối mặt với một vấn đề sống còn:
Vụ nổ bồn chứa oxy khiến 1/4 con tàu bị hư hỏng nặng. Sự hư hỏng lan
sang cả hệ thống chịu nhiệt của tàu - đây là lớp giúp cho phi hành đoàn
không bị chết cháy vì nhiệt độ khi hạ cánh lên đến 3.000 độ C.
Sau
6 ngày bay trong vũ trụ, phi hành đoàn đã rời khỏi khoang đổ bộ để sang
khoang chỉ huy. Đội tách hoàn toàn với con tàu, chỉ giữ lại khoang chỉ
huy cùng 3 phi hành gia trở đáp về Trái Đất.
Ngày 17/4/1970 - Thời khắc huy hoàng của người Mỹ...
Sau hơn 3 phút mất liên lạc với sở chỉ huy mặt đất, khoang chỉ huy xuất hiện với 3 chiếc dù khổng lồ.
Phi hành đoàn trở về Trái Đất an toàn! Những gì họ đã trải qua trong không gian thực sự rất đáng sợ. Cả phi hành đoàn đều bị sụt cân.
Riêng Fred Haise bị nhiễm trùng thận. Tất cả những người hùng ấy đều
kiệt sức. Bởi họ đã chiến đấu và trở về một cách ngoạn mục.
Đó
là câu chuyện thoát hiểm khó ngờ của ba phi hành gia tàu Apollo 13 năm
1970. NASA như thở phào nhẹ nhõm trước cái cách mà phi hành đoàn tài
năng cùng sở chỉ huy mặt đất phối hợp cùng nhau để giành giật lại sự
sống cho các tài năng vũ trụ Mỹ của họ.
Mặc dù sứ mệnh
đặt ra của Apollo 13 không thành nhưng việc phi hành đoàn sống sót trở
về đã khiến NASA "nở mày nở mặt" vì đã tôi luyện nên những tài năng vũ
trụ biết thể hiện tinh thần đồng đội cũng kỹ năng thoát hiểm cao nhất
trong lịch sử.
Nhờ thế mà báo chí ít chú ý đến mặt
trái của "thảm họa huy hoàng" mang tên Apollo 13 đó là sự cố kỹ thuật.
Song, có một thảm họa ngoài ý muốn của phi hành đoàn và NASA đã xảy
ra...
Xếp
sau vực thẳm Mariana, vực thẳm Tonga ở tây nam Thái Bình Dương là vực
thẳm sâu thứ hai trên Trái Đất. Điểm sâu nhất của Tonga là Horizon Deep,
sâu khoảng 10.800m. Các nhà khoa học nhận định, vực thẳm Tonga có lớp
vỏ địa chất hoạt động mạnh nhất trên hành tinh.
Năm 1970 khi đó,
Sau
khi phi hành đoàn xoay sở để trở về Trái Đất, người ta nhìn thấy khoang
chỉ huy của Apollo 13 lao nhanh xuống đại dương. Ba phi hành gia rơi
xuống vùng biển cách tàu sân bay USS Iwo Jima của Mỹ (có sẵn đội cứu hộ)
hơn 6km.
Người ở lại nhưng một "vật thể cực kỳ nguy
hiểm" đã tách khỏi khoang chỉ huy và lao thẳng xuống vùng tây nam Thái
Bình Dương: Một thùng chất phóng xạ plutonium nặng 3,9kg!
Đáng buồn thay, số phận của thùng chất phóng xạ plutonium-238 đã bị lu mờ trước sự trở về ngoạn mục của ba phi hành gia NASA.
Chất
phóng xạ plutonium được NASA mang theo nhằm cung cấp năng lượng cho Hệ
thống phụ trợ hạt nhân, hoặc Máy phát điện nhiệt phát quang SNAP-27
(RTG), được thiết kế để cung cấp năng lượng cho một bộ thí nghiệm trên
bề mặt Mặt Trăng. Tuy nhiên, sự cố bồn chứa oxy trên Apollo 13 phát nổ
đã khiến kế hoạch không được thực hiện như mong đợi.
Trái ngược với lo ngại của dư luận, các quan chức NASA tự tin nói trên tờ The New York Times rằng
rủi ro lớn nhất là SNAP-27 nặng 18kg (chứa thùng plutonium) rơi trúng
người dân vô tội nào đó trong quá trình khoang chỉ huy trở về Trái Đất.
Mặt khác, Ủy ban Năng lượng Nguyên tử thừa nhận khả năng nhỏ nó có thể
trở thành bụi và đã phân tán.
Trên thực tế, thùng nhiên
liệu chất phóng xạ cho SNAP-27 của Apollo 13 đã rơi ra ngoài trong quá
trình mô-đun chỉ huy chứa 3 phi hành gia đáp xuống vùng biển tây nam
Thái Bình Dương.
Thùng chất phóng xạ này được cho là đang ở độ sâu từ 6.000m đến 9.000m ở Vực thẳm Tonga - một trong những điểm sâu nhất trên hành tinh.
Vực thẳm Tonga là điểm sâu thứ hai trên hành tinh. Ảnh minh họa.
Bộ
Năng lượng Mỹ cho biết, khu vực này không thấy xuất hiện sự tăng đột
biến về nhiễm phóng xạ. Đó là những báo cáo trên giấy tờ của Mỹ. Thực tế
thì, NASA không muốn có bất cứ phản ứng dư luận trái chiều nào về việc
sử dụng thêm plutonium 238 cho các nhiệm vụ không gian sâu trong tương
lai. Lẽ dĩ nhiên, họ phải đưa ra những kết luận có lợi cho mình.
Còn thực tế thì sao?
Tại
khu vực sâu 6.000m đến 9.000m, thùng chứa chất phóng xạ plutonium-238
đã gây nhiễm phóng xạ cho nước và hệ động-thực vật nơi đây.
Tệ
hại là thế nhưng người ta chỉ biết rằng, 3,9kg chất phóng xạ
plutonium-238 sẽ không được trục vớt lên trong khoảng 800 năm nữa.
Nếu kịch bản là vậy thì ước tính, tại khu vực này còn nhiễm phóng xạ độc hại trong vài nghìn năm nữa!
Vực thẳm Tonga không chỉ là nơi bí ẩn bậc nhất trên Trái Đất, nó còn là "vùng tử thần" sâu gần 10.000m dưới đại dương.
Để đắp xây những "đôi cánh" bay xa vào vũ trụ, con người, đôi khi đã đánh đổi sự an toàn ngay trên chính hành tinh của mình!
Bài viết sử dụng nguồn: Space.com, Spacesafetymagazine,Sciencefocus
Tấn bi kịch ẩn sau thời khắc Mỹ đổ bộ Mặt Trăng: Thi thể phi hành gia không thể nhận diện!
Trang Li |
11
Trước khi lịch sử ghi danh sự kiện người Mỹ đặt chân đầu tiên
lên Mặt Trăng năm 1969, NASA đã trải qua tấn bi kịch hàng không tàn
khốc!
Không ít lần, trong cuộc chạy đua vào không gian giữa Mỹ và
Liên Xô - hai cường quốc đối địch nhau trong cuộc Chiến tranh Lạnh (1946
- 1989) - lịch sử phải cay đắng chứng kiến những tấn bi kịch hàng không
thảm khốc của cả hai quốc gia này.
Nếu như người Liên Xô mở ra
buổi bình minh khai phá vũ trụ với sự kiện đưa người lần đầu tiên bay ra
ngoài quỹ đạo Trái Đất năm 1961 thì người Mỹ lại thành công vang dội
với chương trình đưa người lên Mặt Trăng Apollo lần đầu tiên trong lịch
sử nhân loại năm 1969.
Cứ thế, năm nối tiếp năm, sự kiện nối tiếp
sự kiện, những "Christopher Columbus" của vũ trụ không ngừng xuất hiện
khiến cho ước mơ ngàn đời của nhân loại (bay ra vũ trụ, sinh sống và làm
việc ngoài không gian) dần hiện thực hơn rất nhiều. Hào quang của những
chiến thắng trên "mặt trận" không gian vũ trụ giữa Mỹ và Liên Xô khiến
dư luận quốc tế vui mừng, tự hào khôn xiết.
Lẽ dĩ nhiên, khi dư
luận đổ xô khen ngợi các phát kiến vũ trụ vĩ đại của cả người Mỹ và
người Liên Xô, thì những thảm họa hàng không tất yếu được chính phủ hai
nước bưng bít. Họ không muốn đưa mình vào thế yếu trước một địch thủ
mạnh và trước những lời tung hô không ngừng của thế giới.
Trong
suốt hơn 4 thập kỷ dài của cuộc chiến không đổ máu, rất nhiều tài năng
vũ trụ của Mỹ (và Liên Xô) phải âm thầm hy sinh để những ánh hào quang
sau này được tỏa sáng.
Trước khi chứng kiến hai tấn bi kịch hàng không đau đớn bậc nhất trong lịch sử khai phá vũ trụ của NASA - là tàu con thoi Challenger nổ tung sau 73 giây rời bệ phóng khiến toàn bộ phi hành đoàn 7 người tử nạn năm 1986 (đọc chi tiết), và số phận bi thảm của tàu con thoi Columbianổ tung trước khi trở về mặt đất khiến 7 phi hành gia thiệt mạng năm 2003 (đọc chi tiết) -
thì lịch sử NASA nói riêng và lịch sử Mỹ nói chung đã phải đối mặt với
thảm kịch hàng không cay đắng đúng vào lúc người Liên Xô đang ở đỉnh cao
của người tiên phong.
Vụ tai nạn của tàu Apollo 1 năm 1967 là nỗi đau còn day dứt mãi trong ký ức của những người tham dự chương trình Apollo những năm 1960.
Một
trong những sự kiện "thức tỉnh" người Mỹ trong cuộc chạy đua vào không
gian diễn ra vào ngày 4/10/1957: Khi đó, Liên Xô phóng thành công vệ
tinh nhân tạo đầu tiên của thế giới có tên Sputnik 1 lên thẳng quỹ đạo
Trái Đất. Người Mỹ bất ngờ!
Chưa hết, ngày
12/4/1961: Phi hành gia Liên Xô Yuri Gagarin lái con tàu Phương Đông 1
ra ngoài không gian. Chuyến bay lần đầu tiên của nhân loại ra ngoài vũ
trụ kéo dài 108 phút ấy trở thành "cú hích" đánh mạnh vào niềm kiêu hãnh
của người Mỹ. Người Mỹ lo sợ!
Bắt đầu từ đó,
hàng loạt các chương trình đưa người ra vũ trụ (Project Mercury), đưa
người lên Mặt Trăng (Apollo Program)... được Mỹ tức tốc thực hiện.
Dưới
áp lực từ giới lãnh đạo, NASA cũng vì thế mà nôn nóng với các chương
trình không gian của mình. Để rồi, trong lúc người Liên Xô còn hân hoan
với sự kiện trọng đại ngày 12/4/1961 cùng "huyền thoại vũ trụ" mang tên
Yuri Gagarin thì người Mỹ đã không "hái được quả ngọt" nào lại còn phải
chịu nỗi đau mang tên Apollo 1.
Ngày 27/1/2017 đánh dấu thời điểm tròn 50 năm sau thảm kịch hàng không tồi tệ bậc nhất trong lịch sử khám phá vũ trụ của Mỹ.
Phi
thuyền Apollo 1, ban đầu có tên AS-204, theo kế hoạch là con tàu thực
hiện sứ mệnh bay vào vũ trụ có người đầu tiên thuộc Chương trình đổ bộ
Mặt Trăng có người (Apollo) của NASA, dự kiến phóng vào ngày 21/2/1967.
Nhưng
ngày 21/2 cách đây 51 năm đã không bao giờ trở thành một phần quan
trọng trọng lịch sử của NASA và nước Mỹ, bởi trước đó, Apollo đã "tử
nạn" ngay trước khi thực hiện sứ mệnh đổ bộ Mặt Trăng.
Ngày 27/1/1967
Phi
hành đoàn gồm 3 tài năng vũ trụ Mỹ là Trung tá Gus Grissom, phi công
chính Ed White - người Mỹ đầu tiên bước ra vũ trụ, và phi công Roger B.
Chaffee nhận nhiệm vụ tiến hành buổi phóng thử tàu Apollo 1 mô phỏng tại
bãi phóng thuộc Trung tâm vũ trụ Kennedy.
Nếu thử nghiệm này thành công, Apollo 1 sẽ chính thức được phóng vào không gian theo lịch dự kiến vào ngày 21/2/1967.
Phi hành đoàn Apollo 1 năm 1967.
Thử
nghiệm được nhận định là không nguy hiểm bởi vì cả chiếc xe phóng cũng
như tàu vũ trụ Apollo 1 đều không được nạp nhiên liệu, và tất cả các hệ
thống tên lửa đều bị vô hiệu hóa. 13 giờ cùng ngày,
Phi
hành đoàn sau khi được trang bị bộ đồ phi hành gia đầy đủ, họ bước vào
khoang chỉ huy của Apollo 1. Mô-đun này được thiết kế không gian vừa vặn
cho 3 chiếc ghế. Điều này đồng nghĩa với việc các phi hành gia như "bị
trói" khi ngồi xuống ghế trang bị đầy đủ hệ thống kết nối thông tin với
chỉ huy mặt đất và hệ thống oxy của Apollo 1.
Ba phút sau khi đếm
ngược, quá trình khởi động bắt đầu. Tất cả các cửa khoang đóng kín,
không khí bên trong mô-đun được thay thế bằng oxy tinh khiết 16,7psi,
cao hơn 2psi so với áp suất khí quyển.
Khi tiến hành liên lạc với
trạm chỉ huy mặt đất, hệ thống microphone gặp trục trặc. Chỉ huy tàu Gus
Grissom nói rằng: "Làm sao chúng ta có thể đổ bộ Mặt Trăng nếu như
không thể liên lạc với thành viên phi hành đoàn cũng như với trạm chỉ
huy!?"
Ba phi hành gia trong mô-đun chỉ huy của Apollo 1. Nguồn: NASA
17:40 chiều cùng ngày,
Quá
trình phóng thử Apollo 1 được thực hiện lại sau khi đội kỹ thuật khắc
phục sự cố liên quan đến microphone. Buổi phóng thử đếm ngược diễn ra
thuận lợi cho đến 18:30 phút - khi phi hành đoàn đang hoàn tất việc kiểm
tra cuối cùng trước khi rời khỏi mô-đun. 9 giây sau,
Trạm chỉ huy bỗng nghe thấy tiếng kêu thất thanh từ một phi hành gia: "Lửa. Ở đây có lửa!"
Tiếp
theo đó là tiếng ồn ào từ phía bên kia. Chỉ huy tàu Gus Grissom nói
vội: "Báo cáo... có một đám cháy lớn...Chúng tôi đang cố thoát ra...
tút.... tút... tút..."
Người ta không còn nghe thấy bất cứ âm
thanh nào ngoài tiếng kêu đau đớn của phi hành đoàn Apollo 1. Từng giây
trôi qua khiến cho những người liên lạc hoang mang.
Lập tức, đội cứu hộ chạy đến khoang chỉ huy của con tàu. Họ hy vọng mọi chuyện vẫn nằm trong tầm kiểm soát. Thế nhưng, tất cả đã quá muộn màng!
Nhờ
oxy tinh khiết mà ngọn lửa bùng cháy nhanh và dữ dội hơn bao giờ hết.
Nhiệt độ cao, khói dày đặc, các cánh cửa tàu nóng rãy và mặt nạ không
khí hoạt động không hiệu quả... tất cả cản trở nỗ lực cứu hộ của những
người bên ngoài khoang chỉ huy.
Đồng đội của 3 phi hành gia như
điên cuồng tìm mọi cách đưa các anh ra ngoài, bất chấp cả việc mô-đun
chỉ huy có thể phát nổ, gián tiếp gây vụ nổ cho quả tên lửa dùng để
phóng tàu cách đó không xa.
Khi oxy tinh khiết trong khoang bị đốt
cháy gần hết, ngọn lửa tàn dần. Nhưng bên trong nó là nồng độ khí CO2
đậm đặc. Phải mất 5 phút, người ta mới có thể mở cửa khoang của mô-đun
chỉ huy. Khung cảnh trước mắt những người có mặt hôm đó trở thành ký ức
đau thương, ám ảnh vô cùng: Tất cả... 3
phi hành gia tài năng của Apollo 1 không còn chút sinh khí. Tồi tệ hơn
nữa. Ngọn lửa nghiệt ngã đã thiêu đốt họ biến dạng đến nỗi người ta
không thể nhận ra ai với ai. Ba thi thể bị cháy đen. Quần áo phi hành
dính chặt vào những phần còn lại của thi thể các anh. Pháp y về sau gặp khó khăn trong việc tách quần áo với phần xương thịt còn lại của phi hành đoàn.
Thi thể còn lại của phi hành đoàn Apollo 1. Nguồn: NASA
Ngay
sau vụ cháy tàn khốc của Apollo 1 xảy ra, giám đốc NASA khẩn thiết xin
Tổng thống Mỹ thời đó là Lyndon B. Johnson cho phép cơ quan này "bí mật"
điều tra nguyên nhân vụ việc và hứa sẽ báo cáo trung thực toàn bộ sự
việc trước khi cho công chúng biết.
Ngày 5/4/1967, NASA đệ trình bản báo cáo nguyên nhân sự cố tàu Apollo 1 lên Tổng thống.
Giới
pháp y khám nghiệm tử thi xác định, nguyên nhân chính gây tử vong cho
cả ba phi hành gia là tim ngừng đập do nồng độ CO2 cao. Các mức độ bỏng
khác nhau của phi hành đoàn không phải là nguyên nhân chính dẫn đến cái
chết của họ. Các cấp độ bỏng đều được xác định là xảy ra sau khi 3 phi
hành gia tử nạn.
Cũng theo khám nghiệm tử thi, chỉ huy Gus Grissom
bị bỏng cấp độ 3. Bộ độ phi hành bị phá hủy hoàn toàn; Phi công chính
Ed White bị bỏng cấp độ 2. Bộ quần áo bị cháy hoàn toàn; Phi công Roger
B. Chaffee bị bỏng cấp độ 3, một phần quần áo bị cháy nặng.
Về nguyên nhân gây nên vụ hỏa hoạn, NASA báo cáo: Thứ
nhất, nguồn đánh lửa có thể liên quan đến "hệ thống dây điện nguồn của
Apollo 1" hoặc có thể do "ống dẫn nước mang theo chất làm mát dễ cháy và
ăn mòn trên tàu". Thứ hai, nguồn oxy trong khoang ở mức tinh khiết cao nhiều so với áp suất khí quyển. Thứ ba, cabin (môn-đun chỉ huy) kín không dễ dàng đóng-mở khiến cho quá trình thoát hiểm trong tình huống nguy cấp gặp khó khăn. Thứ tư, trong cabin chỉ huy có quá nhiều vật liệu gây cháy. Thứ năm, công tác cứu hộ bên trong và bên ngoài cabin chưa đầy đủ và hiệu quả.
Sứ
mệnh Apollo sau sự kiện tàn khốc của tàu Apollo 1 ngày 27/1/1967 đã
thay đổi hoàn toàn về sau. 18 tháng sau vụ tai nạn khiến 3 phi hành gia
Mỹ hy sinh, NASA mới lại thực hiện sứ mệnh đưa người lên Mặt Trăng. Và
họ đã thành công.
Ngày 20/7/1969, hai năm sau cái chết của phi
hành đoàn Apollo 1, người Mỹ đổ bộ Mặt Trăng thành công. Họ chính thức
trở thành quốc gia đi tiên phong trong cuộc chạy đua lên vệ tinh tự
nhiên của Trái Đất. Tạm thời bỏ xa người Liên Xô trong sứ mệnh thăm dò
Mặt Trăng tiêu tốn hàng tỷ đô.
Quay lại thập niên 1960, một cựu
phi hành gia của NASA từng thú nhận: "Khi giới lãnh đạo đặt mục tiêu đổ
bộ Mặt Trăng trong vòng chưa đầy 10 năm là một tham vọng quá sức!"
Bởi
có lẽ, bi kịch của Apollo 1 có thể chấm dứt mọi nỗ lực tiếp cận Mặt
Trăng của người Mỹ nếu như chính nước Mỹ không bị cuốn vào cuộc chạy đua
khổng lồ vào không gian với người Liên Xô thời Chiến tranh Lạnh.
Áp lực trước một Liên Xô hùng cường trong vũ trụ khiến giới lãnh đạo Mỹ đứng ngồi không yên.
Trước
những toan tính chính trị và tham vọng muốn vượt mặt Liên Xô đã khiến
Mỹ gây áp lực lên NASA. Công thức cho thảm họa hàng không được giải khi
NASA phải thực hiện một trong những sứ mệnh tham vọng và khó khăn nhất
trong lịch sử của mình.
Thực tế cho thấy, Apollo 1 không phải là
một phiên bản sửa đổi của tàu vũ trụ Gemini, nó là một tàu vũ trụ hoàn
toàn mới và Apollo 1 có khoảng năm năm phát triển, nhưng nó chưa sẵn
sàng bay vào tháng 1 năm 1967 định mệnh đó.
Khi sự thúc giục
bất chấp những nguyên tắc an toàn bay cộng với những mưu toan chính trị
thì thảm họa xảy ra là điều dễ hiểu. Bài học này có lẽ chính NASA thấm
nhuần hơn cả.
Dưới góc độ nhân văn, sự hy sinh của 3 tài năng vũ
trụ Mỹ trên con tàu Apollo 1 khi chưa kịp cất cánh bay vào vũ trụ phần
nào đã giúp NASA có được kinh nghiệm cho các chuyến bay về sau an toàn
hơn.
Neil Armstrong cùng Buzz Aldrin và Michael Collins đã trở
thành những người đầu tiên trong lịch sử thế giới đổ bộ lên Mặt Trăng
trên con tàu Apollo 11 ngày 20/7/1969.
Chúng ta hẳn còn mãi nhớ câu nói trong thời khắc phi hành gia Neil Armstrong đặt dấu chân đầu tiên lên Mặt Trăng: "Đây là bước đi nhỏ bé của một người, nhưng là bước tiến khổng lồ của nhân loại".
Phi hành đoàn Apollo 1 (trái sang phải): Gus Grissom, Ed White, Roger B. Chaffee. Nguồn: NASA
Để
ghi nhớ công lao của ba phi hành gia tàu Apollo 1, người Mỹ trang trọng
đặt thi thể của chỉ huy Gus Grissom và phi công Roger Chaffee tại Nghĩa
trang Quốc gia Arlington. Phi công Ed White được chôn cất tại nghĩa
trang West Point trên khuôn viên của Học viện Quân sự Mỹ ở West Point,
New York.
Tên của họ nằm trong danh sách những phi hành gia đã
chết trong nhiệm vụ, được khắc trên Đài tưởng niệm Space Mirror tại
Trung tâm vũ trụ Kennedy ở đảo Merritt, Florida.
Tổng thống Mỹ
Jimmy Carter đã trao tặng Huân chương danh dự cho Gus Grissom vào ngày
1/10/1978. Tổng thống Bill Clinton trao tặng huân chương cùng loại cho
Ed White và Roger Chaffee vào ngày 17/12/1997.
NASA dành riêng "Ngày Tưởng niệm - Day of Remembrance" để tưởng nhớ 3 thảm kịch đáng nhớ trong lịch sử cơ quan này, gồm: Apollo 1 - Challenger - và Columbia.
Lịch
sử mãi khắc ghi những cống hiến to lớn của các anh hùng vũ trụ, nhờ họ,
không chỉ người Mỹ, mà cả nhân loại có những bước tiến lớn trong công
cuộc khai phá không gian.
(ĐC sưu tầm trên NET) Oscar Là Ai? Câu Chuyện Về Cuộc Đời Bi Kịch Của “Thiên Tài Bị Xã Hội Vùi Dập” Ít ai biết rằng, giải thưởng danh giá của làng điện ảnh – Oscar - được lấy theo tên của nhà văn nổi tiếng Oscar Wilde. Năm 1854, khi rửa tội cho con trai thứ hai nhà Wilde, Đức cha Prideaux Fox không hề biết rằng cậu bé này rồi sẽ là “thiên tài bất thường” của Ireland. Về sau, Oscar Wilde đã trở thành một trong những nhân vật đặc biệt nổi bật của giới văn chương, người luôn ở giữa tôn vinh và hạ nhục, giữa cái đẹp và sự tăm tối, giữa sa hoa và khốn cùng. Không nhiều người có thể trả lời câu hỏi: " Oscar là ai?" Quang Thạch | 01/03/2016 10:07 7 Theo một video phỏng vấn ngay trước thềm Oscar 2016, các diễn viên tới dự giải Oscar cũng không thể trả lời câ...
(ĐC sưu tầm trên NET) Thời sự quốc tế sáng 10/5/2018 TIN TỨC VIỆT NAM MỚI NHẤT TRONG NGÀY 10/5/2018 60 Giây Chiều - Ngày 09/05/2018 - Tin Tức Mới Nhất An ninh ngày mới ngày 09.05.2018 - Tin tức cập nhật TRỰC TIẾP THỜI SỰ BIỂN ĐÔNG 10/05 Cận cảnh Tàu Việt Nam trong diễn tập Komodo 2018 Hai Chị Em - Trung Hậu và Thuỵ Vân Hội nghị Trung ương 7: Sẽ có quyết sách dẹp vấn nạn "cả họ làm quan" (TTXVN/Vietnam+) 09/05/2018 21:06 GMT+7 Bản in Đại biểu dự hội nghị. (Ảnh: Phương Hoa/TTXVN) Hội nghị lần thứ 7, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII, diễn ra từ ngày 7-12/5, tập trung thảo luận, cho ý kiến về các nội dung: xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; cải cách chính sách tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang và người lao động trong các doanh nghiệp; cải cách chính sách bảo hiểm xã hội; và một ...
(ĐC sưu tầm trên NET) Giang hồ Sài Gòn trước 1975: Trùm du đãng Mã Thầu Dậu Mã Thầu Dậu nhận tất cả đơn đặt hàng giải quyết ân oán trong đời thường và trong làm ăn. "Tiền nào của ấy" nên mỗi dịch vụ đều có mức giá khác nhau. Trùm du đãng một vùng rộng lớn không hành xử như đám du đãng cắc ké. Chợ Lớn có trùm du đãng ba Tàu Mã Thầu Dậu (Con ngựa đầu gà) nổi tiếng với vai trò đâm thuê chém mướn. Trùm bảo kê Mã Thầu Dậu xuất thân từ một đứa bé con nhà người Hoa gốc Quảng Đông nghèo. Tuổi thơ Mã Thầu Dậu trải qua nhiều cơ cực, từ bửa củi thuê, bưng cà phê, bưng hủ tiếu đến cả rửa chén bát thuê. Mã Thầu Dậu khởi nghiệp trùm du đãng khét tiếng trên hè phố La Kai (đường Nguyễn Tri Phương, quận 5 ngày nay). Hắn nổi danh nhờ những vụ trừ khử đám du thủ du thực cho các chủ tiệm buôn giàu có người Hoa và dần đi theo con đường đâm thuê chém mướn chuyên nghiệp. Khu vực chợ Lớn xưa Băng du đãng Mã Thầu Dậu h...
Nhận xét
Đăng nhận xét