Dai Chung la su suy ngam cua toi ve cuoc doi, xa hoi, nhan sinh
LỊCH SỬ LOÀI NGƯỜI 3/c (nghi vấn)
Nhận đường liên kết
Facebook
X
Pinterest
Email
Ứng dụng khác
-
(ĐC sưu tầm trên NET)
Kỳ công sáng tạo của Đấng Tạo Hoá
8 Bí Ẩn Của Thiên Chúa Giáo Khoa Học Chưa Thể Giải Thích
TẠI SAO CON NGƯỜI KHÔNG ĐI BẰNG BỐN CHÂN?
Rải rác đâu đó giữa những phiến đá
màu nâu sẫm trầm mình dưới đáy dòng sông khô cạn ở miền bắc Tanzania có
lẽ là một trong những di tích hấp dẫn nhất về lịch sử tiến hóa của loài
người.
Hằn sâu vào lớp tro tàn núi lửa hóa thạch
là ba nhóm dấu chân. Sinh vật có dấu chân lớn có lẽ đã dẫn đầu sinh vật
có dấu chân nhỏ hơn dọc theo đoạn đường uốn lượn dài khoảng 27m xuyên
qua vùng đất một thời phủ đầy bụi.
Các dấu chân đó được tạo thành bởi tổ tiên
sơ khai của loài người, những sinh vật đã tự tin đi dạo trên vùng đất
này 3,66 triệu năm trước, rất lâu trước khi loài người thông minh, Homo
sapiens, xuất hiện trên Trái Đất.
Ngang dọc quanh dấu chân là vết tích của
những chú thỏ, linh dương, linh cẩu, khỉ đầu chó, hươu cao cổ và tê giác
thời cổ đại. Các sinh vật có lẽ đã kéo đến đây vì có một hố nước từng
nằm ở vị trí gần đó.
Chúng ta chỉ có thể phán đoán những gì mà
tổ tiên loài người đã làm khi họ để lại dấu vết mờ nhạt trên bề mặt Trái
Đất trong suốt thời kỳ cuối của thế Thượng Tân (thế Pliocene). Liệu là
những người đó đang săn đuổi con mồi, rình rập các con thú đến hố nước,
hay đang đi dạo sau bữa tối?
Nhưng có một điều rõ ràng nhất mà bất cứ
ai nhìn dấu chân cũng thấy rõ. Đó là cho dù đang làm gì lúc đó, thì
những tổ tiên đó của chúng ta cũng làm trong tư thế đứng trên hai chân.
Các dấu chân này đã bị chôn vùi dưới đất ở
vùng Laetoli, gần Hẻm núi Olduvai của Tanzania, một khu vực có nhiều
hóa thạch tổ tiên tiền sử của loài người. Đó là những bằng chứng sớm
nhất không thể bác bỏ cho thấy tổ tiên xa xôi của con người đã chuyển từ
việc di chuyển bằng bốn chân thành hai chân, trở thành "loài đi hai
chân".
Lý do chính xác vì sao tổ tiên của chúng ta đứng thẳng người lên và bắt đầu đi bằng hai chân đến giờ vẫn còn là bí ẩn.
Cộng đồng nghiên cứu khoa học đến nay vẫn
chưa thống nhất được với nhau về lý do khiến người tiền sử từ bỏ tập
tính di chuyển trên bốn chân và chuyển sang đi bằng hai chân, mặc dù đây
rõ ràng là một trong những đặc điểm rõ ràng nhất định hình giống loài
chúng ta.
Tuy nhiên, một nghiên cứu mới nhất giờ đây đã cung cấp những bằng chứng mới lý giải nguyên do dẫn đến sự thay đổi này.
Dấu vết của sự tiến hóa từ bốn chân lên hai chân:
Việc biết được lý do bằng cách nào mà
chúng ta trở thành sinh vật đi hai chân hứa hẹn sẽ giải đáp được rất
nhiều câu hỏi về quá trình tiến hóa của loài người.
Đại đa số chúng ta đều thừa nhận rằng việc
chọn tư thế đứng thẳng vĩnh viễn mở ra nhiều cơ hội mới cho tổ tiên
loài người, giúp họ có khả năng sờ mó, khám phá, hái lượm, ném vứt và
học hỏi.
"Đứng thẳng dậy để bước đi đã giúp giải
phóng hai tay để mang vác và sử dụng các công cụ," Chris Stringer, nhà
nhân chủng học hàng đầu tại Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên London lý giải.
"Điều này cho phép đi bộ quãng đường dài và có thể chạy được lâu hơn.
Sau cùng, đó có thể là bước tiến hóa then chốt khiến bộ não tổ tiên
chúng ta phát triển."
Tổ tiên "người" sớm nhất của chúng ta được
cho là đã tách ra từ tổ tiên chung với loài tinh tinh khoảng từ 13
triệu năm đến sáu triệu năm trước. Hầu hết các khoa học gia đồng ý rằng
các sinh vật này sống trên cây cao ở phần lớn Châu Phi thời đó.
Chúng ta chỉ cần quan sát trẻ sơ sinh để
thấy một số dấu tích còn sót lại từ thời sống trên cây. Đặt một ngón tay
dưới các ngón chân của bé và chúng sẽ tự nhiên cuộn các ngón chân bé
nhỏ vòng quanh để bám lấy. Trên cây, bọn linh trưởng con cũng bám lấy mẹ
và cành cây từ khi chào đời. Nếu không bám chặt, chúng sẽ rơi xuống và
mất mạng.
Tổ tiên của con người đã trải qua rất nhiều biến đổi về giải phẫu học để chuyển từ việc di chuyển trên bốn chân sang hai chân.
Xương chậu biến đổi từ hình dáng cao và
phẳng từ phía trước ra sau, thành dáng ngắn hơn và tròn hơn, trợ lực tốt
hơn cho cơ bắp để di chuyển hông khi bước đi thẳng đứng.
Góc của xương đùi hướng vào trong hơn,
khiến bàn chân chúng ta có vị trí chính xác ngay ở trung tâm cơ thể.
Xương sườn cũng uốn con, tạo thành hình chữ S đặc thù, giúp nâng đỡ
trọng lượng cơ thể qua hông và khiến phần đầu được đỡ êm ái hơn khi cơ
thể bước đi. Cuối cùng, các chi dưới của chúng ta phát triển dài hơn,
giúp ta bước đi những bước dài và hiệu quả hơn.
Bàn chân chúng ta cũng biến đổi. Loài vượn
có ngón chân dài và có thể cầm nắm để bám cành cây. Ngón chân con người
ngắn hơn và xếp thành hàng thẳng cạnh các ngón khác để tạo ra lực bẩy ở
cuối mỗi bước chân.
Tại sao lại có biến đổi này và chúng đã diễn ra thế nào?
Giả thuyết tiến hóa do biến đổi khí hậu:
Một thuyết khá nổi bật, có từ lâu, cho rằng biến đổi khí hậu chính là chìa khóa dẫn đến quá trình thay đổi này.
Theo thuyết này thì vài triệu năm trước,
Châu Phi bắt đầu mất đi cách cánh rừng vì các đồng cỏ phát triển, vì thế
tổ tiên của chúng ta dần dần rời khỏi các khu rừng xa xưa và chuyển đến
sống trên thảo nguyên.
Chuyển thành loài hai chân có vẻ hợp lý
hơn trong điều kiện môi trường ít cây. Đứng thẳng giúp con người nhìn
rộng hơn trên đồng cỏ và phát hiện thú săn mồi và con mồi.
Tổ tiên loài người biết đứng thẳng dường
như có cơ hội sinh tồn cao hơn và sẽ di truyền lại gene của họ cho thế
hệ sau, vì thế người ta có thể dễ dàng tưởng tượng ra cách mà chọn lọc
tự nhiên đã dẫn đến việc biến đổi từ tư thế đứng thẳng tạm thời thành
cách di chuyển vĩnh viễn bằng tư thế thẳng đứng.
Các di chỉ hóa thạch cho thấy việc đi trên hai chân có thể xảy ra khá sớm trong quá trình tiến hóa của chúng ta.
Chẳng hạn như các mảnh xương sọ hóa thạch
được tìm thấy ở Chad, khu vực ở phía tây của trung Phi, vào năm 2001 và
2002. Xương sọ của sinh vật giống khỉ này thuộc về loài Sahelanthropus
tchadensis, và sinh vật này sống cách đây khoảng bảy đến sáu triệu năm
trước.
Phần đáy hộp sọ cho thấy cổ gắn liền trực
tiếp ngay dưới đầu với vị trí thẳng đứng, giống như hộp sọ của chúng ta,
trong khi loài tinh tinh thường giữ cổ chúng ở chiều ngang.
Điều này cho thấy, theo những người khám phá ra hộp sọ, là có thể loài Sahelanthropus đã di chuyển bằng hai chân.
Và nếu loài Sahelanthropus không đi bằng
hai chân, thì một tổ tiên khác của loài khỉ sống khoảng sáu triệu năm
trước có thể đã làm được việc đó.
Sinh vật này, được gọi là Orrorin
tugenensis, có vẻ như đã có xương đùi rất giống với hình dáng của người
hiện đại, cho thấy nó đã bước đi trong tư thế thẳng người.
Tuy nhiên, nhiều người cho rằng vẫn còn
một số vấn đề chưa rõ trong thuyết về thảo nguyên. Rõ ràng nhất là việc
khí hậu Châu Phi không đủ khô hạn để tạo ra thảo nguyên cho tới tận một
thời gian dài sau khi loài Sahelanthropus và Orrorin đã tiến hóa.
Trong thực tế, khí hậu Châu Phi đã trải
qua rất nhiều chu kỳ cùng với sự tiến hóa của loài người, mỗi chu kỳ đều
dẫn đến biến đổi trên cảnh quan thực vật. Không hẳn là có đợt biến đổi
sinh cảnh nào thúc đẩy sự thay đổi căn bản về lối sống như chuyển từ
cách di chuyển bằng bốn chân thành hai chân.
Và sau đó, còn một vấn đề nhỏ nữa. Đó là
tại sao có rất nhiều các loài động vật khác đã thích nghi với thảo
nguyên và vẫn di chuyển bằng bốn chân? Thậm chí còn có một số loài linh
trưởng khác đã trải qua thời gian khá dài trên đồng cỏ, như loài khỉ đầu
chó, nhưng chúng vẫn di chuyển bằng bốn chân.
Giả thuyết tiến hóa từ đời sống leo trèo trên cây:
Cuối cùng, còn một điểm rất thú vị ở hóa
thạch tổ tiên người đi hai chân. Đó là các hóa thạch này được tìm thấy
bên cạnh xương hóa thạch của một số loài sống trong rừng và một số hóa
thạch cây cỏ khác.
"Nghe có vẻ khác thường, nhưng có lẽ hành
vi này thực sự được bắt đầu từ trên cây," ông Stringer cho biết. Ông
cũng đề cập đến nghiên cứu gần đây cho thấy tổ tiên của loài người đã di
chuyển bằng hai chân một thời gian dài trước khi họ rời khỏi rừng rậm.
Các quan sát trên đười ươi orangutan ở
Sumatra cho thấy loài linh trưởng này di chuyển qua lại trong cây rừng
bằng cách đi trên cành cây bằng hai chân, dùng cánh tay đỡ sức nặng cơ
thể hoặc để đu cành cây. Điều này giúp chúng có thể di chuyển qua các
nhánh cây nhỏ hơn so với cách mà các loài vượn bốn chân nặng nề thường
làm, giúp chúng hái được nhiều quả hơn và dễ dàng chuyền từ cây này sang
cây khác hơn.
Tổ tiên của con người có lẽ đã tách khỏi
nhánh tiến hóa của loài đười ươi này khoảng 10 triệu năm trước, mặc dù
đười ươi orangutan có khớp gối rất giống với người hiện đại.
Theo Robin Crompton, nhà nhân chủng học
tại Đại học Liverpool, và Susannah Thorpe, một nhà linh trưởng học tại
Đại học Birmingham, điều này cho thấy nguồn gốc của loài đi hai chân
phải có từ rất lâu trước thời điểm mà người ta trước nay vẫn tin vào.
"Loài orrorin có hàng loạt các đặc tính
khiến tôi thấy rất thuyết phục khi cho rằng đã có một sự kết hợp khá tốt
cho loài sống trên cây... có tay hỗ trợ hai chân như chúng tôi tưởng
tượng," Crompton giải thích.
Đây là thuyết đang dần có căn cứ hơn,
nhưng nó cũng chỉ là một trong hàng loạt ý tưởng được đưa ra để giải
thích vì sao tổ tiên của chúng ta ban đầu đứng trên hai chân.
Nhiều giả thuyết khác biệt:
Một số nhà nghiên cứu đã liên hệ sự biến
đổi này đến những thay đổi trong chiến thuật săn bắt. Loài vượn hai chân
có thể ném vũ khí và săn bắt những con mồi lớn hơn, di chuyển nhanh
hơn.
Một số nhà nghiên cứu khác cho rằng tư thế
đứng thẳng giúp tổ tiên chúng ta cảm thấy mát mẻ hơn dưới sức nóng của
Châu Phi. Thêm vào đó, ý tưởng này cũng giải thích vì sao tổ tiên chúng
ta rụng lông và trở thành loài vượn trần.
Đứng thẳng có nghĩa là chỉ có phần cao
nhất của cơ thể cần có tóc để tránh mặt trời chói chang, trong khi đó cơ
thể rụng lông ở các phần khác nhằm giúp làm mát tốt hơn khi có làn gió
thổi qua.
Các tranh luận vẫn ồn ào xung quanh việc
chính xác là các đặc điểm và khả năng khác biệt này xảy ra tại thời điểm
nào trong quá trình tiến hóa của loài người, và liệu chúng có xảy ra đủ
sớm để thúc đẩy tổ tiên của chúng ta đứng thẳng lên trên hai chân hay
không.
Nhưng có một số nghiên cứu gần đây chỉ ra
có thể có một bước trung gian lớn trong quá trình tiến lên hay chân của
chúng ta đã bị bỏ sót. Và điều này đưa ta quay lại với dấu chân hóa
thạch ở Tanzania.
Giả thuyết tiến hóa từ đời sống leo trèo vách đá:
Một số nhà nghiên cứu giờ đây sử dụng công
nghệ quét 3D và mô hình hóa trên máy tính để tái dựng kiểu một số loài
bước đi, thông qua nghiên cứu dấu chân tiền sử mà chúng bỏ lại. Kết hợp
điều này với những gì chúng ta biết về đặc điểm giải phẫu học của chúng
có thể giúp các nhà khoa học so sánh chi tiết giữa dáng đi của tổ tiên
xa xưa và dáng đi chúng ta ngày nay.
Hai nghiên cứu gần đây sử dụng cách tiếp
cận này để nghiên cứu dấu chân Laetoli. Các dấu chân được cho là thuộc
về một số cá thể cùng loài với hóa thạch Lucy nổi tiếng, là loài
Australopithecus afarensis.
Sống cách đây khoảng 3,9 -2,9 triệu năm,
loài này được cho là đã trải qua rất nhiều biến đổi giải phẫu học để tổ
tiên chúng ta có thể bước đi thẳng đứng, thậm chí có thể còn có những
cách di chuyển nào đó khác nữa trước khi sinh vật đó bước đi thẳng đứng.
Một nghiên cứu do các nhà nghiên cứu tại
Viện Nhân chủng học Tiến hóa Max Planck và Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Hoa
Kỳ tiến hành cho rằng hóa thạch Lucy và họ tộc của bà đã bước đi theo
cách hơi khác thường.
Những tái tạo từ dấu chân Laetoli được các
nhà nghiên cứu công bố hồi tháng 8/2016 cho rằng loài A. afarensis đã
bước đi bằng hai chân với đầu gối khuỳnh ra thành tư thế hơi khòm người.
Điều này tất nhiên không gây hậu quả gì khủng khiếp khi di chuyển trên
đồng cỏ dù đi với tốc độ nào.
"Có vẻ như họ không đi lại với kiểu cực kỳ
khác so với người hiện đại, nhưng dấu chân Laetoli vẫn cho thấy một
chút khác biệt nhỏ có thể khiến việc di chuyển trên hai chân là cách đi
rất tốn sức," Kevin Hatala từ Viện Nhân chủng học Tiến hóa Max Planck,
người đứng đầu nhóm nghiên cứu, cho biết.
Và câu chuyện ngày càng trở nên rắc rối hơn.
Một phân tích mới về xương sọ Lucy, cũng
được công bố vào tháng 8/2016, cho thấy bà bị gãy xương nhiều chỗ trước
khi chết, và điều này có vẻ là do ngã từ nơi rất cao.
Nghiên cứu này và một nghiên cứu khác do
cùng nhóm thực hiện và công bố vào tháng 11/2016 cũng cho thấy loài A.
afarensis có thể đã dành nhiều thời gian để leo trèo cây.
Một số nghiên cứu mới tìm hiểu một góc độ
đáng kinh ngạc giờ đây cho thấy một khả năng khác: Lucy có thể là một
người leo núi đá.
"Về góc độ tiến hóa, sẽ dễ dàng hơn khi
một con vượn dần thích nghi từ việc leo trèo tới cách di chuyển trên địa
hình gồ ghề và leo trèo qua chúng, dần dần dành nhiều thời gian hơn
trên mặt đất, và cuối cùng, dành nhiều thời gian hơn trên những cánh
đồng bằng phẳng, thay vì việc một con vượn ngay lập tức đứng thẳng dậy
và đi dạo trên đồng cỏ," Isabbelle Winder, một nhà nhân chủng học cổ đại
tại Đại học York nhận định.
Trong một nghiên cứu được công bố năm
2015, Winder và đồng nghiệp của bà cho rằng có thể đã có biến đổi với
cảnh quan địa chất khiến tổ tiên của chúng ta dần định hình việc di
chuyển bằng hai chân.
Các nhà nghiên cứu cho thấy tại nhiều khu
vực ở Đông Phi nơi đa số hóa thạch người cổ xưa được tìm thấy cũng là
những nơi có biến đổi địa chất. Sống trong Thung lũng Rift xô bồ, tổ
tiên loài người ở ngay giữa những địa hình bất ổn, rải rác những vách đá
cheo leo.
"Tôi nghĩ chúng ta đã thích nghi với địa
hình không ổn định và bàn chân của chúng ta cho thấy điều đó," Matthew
Bennett, một nhà nhân chủng học tại Đại học Bournemouth nhận xét. "Đông
Phi có rất nhiều vách đá và mỏm núi tạo ra các điểm tránh thú săn mồi và
các chỗ ngủ an toàn."
Bàn chân đa năng:
Công trình của Bennett tập trung vào tìm
ra các hướng đi mới trong nghiên cứu bàn chân loài người và so sánh dấu
chân này bàn chân tổ tiên chúng ta. Sử dụng công nghệ quét 3D, ông đã
tạo ra mô hình dấu chân Laetoli và những dấu chân khác ở Ileret, Kenya
cách đây khoảng 1,5 triệu năm.
Các mô hình này cho thấy loài này đã đi
lại như chúng ta ngày nay và có những khác biệt so với con người hiện
đại ở các đặc điểm tự nhiên ở cách di chuyển.
Bennett tin rằng bàn chân người thực sự là
một công cụ khéo léo và linh hoạt hơn chúng ta tưởng, có lẽ vì chúng ta
thường bọc kín bàn chân mình trong giày.
"Chúng ta nhìn nhận bàn chân chỉ là một
đòn bẩy cho phép chúng ta nhấc chân lên khi đi," ông nói. "Đó là một
hành động bị đơn giản hóa quá mức. Chúng ta có rất nhiều khả năng linh
hoạt ở bàn chân cho phép ta làm được nhiều thứ.
"Bạn có thể trèo lên cây nếu bạn cần, bạn
có thể trèo lên trú ẩn ở một dốc đá, hoặc bạn có thể làm tốt tương tự,
khi di chuyển từ nguồn nước này đến nguồn nước khác trên nền đất trơn
trượt."
Vì thế, trong khi các dấu vết mờ nhạt ở
nhiều nơi như Laetoli đem lại mối liên hệ mạnh mẽ với tổ tiên của con
người, có vẻ chúng còn tiết lộ một điều là bàn chân chúng ta không quá
khác biệt với bàn chân cổ xưa, những bàn chân đã để lại dấu vết từ hơn
ba triệu năm về trước.
Richard Gray, 10-2-2017
5 hiểu lầm thường gặp nhất khi mọi người nói về thuyết tiến hóa
zknight |
3
Rất nhiều người đang hiểu lầm về thuyết Tiến hóa.
Nếu con người tiến hóa từ khỉ, tại sao khỉ ngày nay không tiến hóa?
Trong vòng hơn 150 năm qua, thuyết Tiến hóa của Charles Darwin
đã rất thành công trong việc mô tả và giải thích thế giới tự nhiên. Tuy
nhiên, nó cũng để lại cho nhiều người không ít những hiểu lầm nghiêm
trọng.
Nhiều người không hề tin và chấp nhận thuyết Tiến hóa. Một số khác hỏi những câu hỏi ngô nghê như: “Nếu con người tiến hóa từ khỉ, tại sao khỉ ngày nay không tiến hóa?”.
Vậy mà chẳng có mấy ai hỏi tại sao một quả táo lại không rơi lên
trời, nghi ngờ định luật Vạn vật hấp dẫn của Newton hay thuyết Tương đối
của Einstein.
Dưới đây có lẽ là 5 hiểu lầm thường gặp nhất khi mọi người đề cập đến
thuyết Tiến hóa. Hi vọng những lời giải thích có thể khiến họ hài lòng: 1. Thuyết Tiến hóa chỉ là "lý thuyết" và không có thật
Theo một cuộc khảo sát trong năm 2005 tại Anh, hơn 20% dân số không
chắc chắn về sự chính xác của thuyết Tiến hóa cũng như không chấp nhận
nó.
Trong khi đó, thuyết Tiến hóa được giảng dạy xuyên suốt trong nhiều
bài học từ khi trẻ em ở Anh lên 10 tuổi đến khi học hết phổ thông.
Mới đây, chính một hiệu trưởng trường tiểu học ở Anh phát biểu trên mạng xã hội rằng: “Tiến
hóa không phải là một thực tế. Đó là lí do tại sao nó được gọi là một
lý thuyết. Có nhiều bằng chứng rằng Kinh Thánh mới là sự thật”.
Ngay lập tức, nó nhận rất nhiều phản ứng từ phía dư luận.
Bạn tin quả táo rơi xuống đất, tại sao lại không tin thuyết Tiến hóa?
Trên thực tế, thuyết Tiến hóa đúng là một lý thuyết nhưng nó được
hiểu theo nghĩa khoa học. Lý thuyết khoa học là hình thức đáng tin cậy
nhất, chặt chẽ nhất và toàn diện về kiến thức.
Nó khác xa với cách nói “lý thuyết” phổ thông, để ám chỉ một điều gì đó không thể trở thành hiện thực và không được chứng minh.
Nếu ai đó không tin lý thuyết khoa học không có thật, dường như họ
cũng không thể tin một quả táo sẽ rơi xuống đất, theo định luật Vạn vật
hấp dẫn của Newton. 2. Con người có nguồn gốc từ khỉ
Sai hoàn toàn. Tổ tiên của chúng ta không phải một con khỉ. Thuyết
Tiến hóa chỉ ra rằng con người, khỉ và vượn đều bắt nguồn từ một loài.
Chúng chỉ là họ hàng gần gũi với chúng ta.
Con người cũng chia sẻ nhiều hơn 90% chuỗi gen với tinh tinh. Tuy nhiên, tổ tiên chung của tất cả không phải một con khỉ.
Những nghiên cứu gần đây nhất chỉ ra rằng một loài giống vượn, có
những đặc điểm phù hợp với việc sử dụng công cụ mới là tổ tiên của con
người. Chúng đã thống trị Trái Đất cách đây 7 triệu năm.
Khỉ là họ hàng, không phải tổ tiên của con người
3. Chọn lọc tự nhiên là có mục đích
Nếu chọn lọc tự nhiên là có mục đích, nó đã biến mọi sinh vật sống
thành siêu sinh vật rồi. Trên thực tế, có nhiều loài không thích nghi
hoàn toàn với điều kiện sống của môi trường.
Điển hình như cá mập, nó không có các túi khí để kiểm soát sự nổi của mình, thứ mà các loài cá có xương các đều sở hữu.
Mặc dù vậy, điều này không hề bác bỏ thuyết Tiến hóa. Chọn lọc tự
nhiên chỉ ngẫu nhiên ủng hộ một số tính trạng và đặc điểm tốt của sinh
vật phù hợp với môi trường và chúng phải có sẵn.
Con người không thể quang hợp, chọn lọc tự nhiên không có lỗi
Con người không thể quang hợp giống như thực vật. Lí do vì quang hợp không phải một đặc tính có sẵn ở động vật.
Chọn lọc tự nhiên chỉ giúp một đặc tính sinh học trở nên nhiều hoặc
ít phổ biển hơn trong quần thể. Nó không biến sinh vật thành hoàn hảo. 4. Các cơ quan phức tạp được tạo ra không nhờ tiến hóa
Một lập luận phổ biến của những người ủng hộ thuyết Sáng tạo: mắt của
chúng ta quá hoàn hảo, nó có các bộ phận được sắp xếp một cách hoàn hảo
để giúp con người và động vật có thể nhìn.
Họ cho rằng không có bằng chứng nào cho thấy mắt đã được tiến hóa, nó phải được “ai đó” tạo ra.
Tuy nhiên, ngay khi lập luận được đưa ra, Darwin đã có lời giải
thích. Ông cho rằng mắt có nguồn gốc từ các cơ quan trước đó. Chúng có
thể chỉ là các bộ phận phát hiện ánh sáng mà không cung cấp tầm nhìn cho
sinh vật.
Sự tiến hóa của mắt là có thể giải thích.
Nhiều năm sau, các nhà khoa học đã tìm ra bằng chứng cho lập luận của
Darwin. Đúng là trải dài về giai đoạn đầu của tiến hóa ở động vật, họ
tìm thấy các cơ quan đóng vai trò “con mắt nguyên thủy”.
Trong động vật thân mềm như ốc sên và sâu, chúng có các tế bào cảm
giác ánh sáng trải rộng trên bề mặt cơ thể, giúp phân biệt ánh sáng và
bóng tối. 5. Tôn giáo không tương thích với thuyết Tiến hóa
Tôn giáo phải mang tính chất xây dựng khi đặt cạnh khoa học
Khi nhận ra rằng thuyết Tiến hóa không phải lý thuyết về nguồn gốc sự
sống, bạn sẽ thấy nó chẳng có gì mâu thuẫn với tôn giáo. Thuyết tiến
hóa đơn giản chỉ giải thích cách thức các loài thay đổi theo thời gian.
Giáo hoàng Francis gần đây nhắc lại rằng niềm tin vào thuyết Tiến hóa khống phải là không phù hợp với đức tin Công giáo.
Malcom Brown, một mục sư của Giáo hội Anh cũng tuyên bố: “Chọn
lọc tự nhiên hoàn toàn có ý nghĩa, nó là cách để hiểu quá trình tiến hóa
của vạn vật qua hàng ngàn năm. Một tôn giáo tốt cần phải mang tính chất
xây dựng khi đặt cạnh khoa học”.
Tham khảo ScienceAlert
Bước tiến hóa tiếp theo của loài người chính là trở thành Cyborg bất tử
Phuonlinn |
1
Hình ảnh mang tính chất minh họa.
Cuộc sống vĩnh hằng luôn là mong ước của loài người, điều tưởng
chừng chỉ xuất hiện trong truyền thuyết này có thể sẽ trở thành hiện
thực chỉ trong nay mai mà thôi.
Bước tiếp theo trong hành trình tiến hóa của loài người
chính là phát triển thành Cyborg - một loài sinh vật nửa người nửa máy
hay thấy trong các bộ phim viễn tưởng, một nhà nghiên cứu cho hay.
Bước tiến hóa tiếp theo của loài người chính là trở thành Cyborg. Hình minh họa.
Chúng ta đang sống trong một thế giới mà ngành công nghệ phát triển
đến mức có thể trao sự sống cho một chú thú cưng bằng máy, bước khởi đầu
là loạt đồ chơi thú cưng điện tử Furby đang được bày bán rộng rãi.
Trong Hội chợ Khoa học Big Bang 2016, giáo sư Ian Pearson đã chính
thức công bố các nhận định của mình dựa trên một loạt nghiên cứu khoa
học trước đó.
Theo ông: Cho đến năm 2050, con người có thể kết nối bộ não của mình
tới hệ thống máy vi tính và việc đưa bộ dữ liệu này vào một cơ thể
android được nâng cấp là điều hoàn toàn có thể.
Mô tả sơ lược về một cơ thể nhân tạo.
“Vậy là chúng ta có thể tự chọn cho mình một cơ thể yêu thích và sống hạnh phúc sau khi cơ thể sinh học của chúng ta chết đi. Và điều thú vị là, quy luật tự nhiên sẽ không còn có thể chi phối
loài người chúng ta nữa, thay vào đó, chúng ta sẽ hoàn toàn làm chủ
cuộc sống của mình”. Tham khảo Yahoo News
8 phát kiến khoa học chứng minh thuyết tiến hóa là chuẩn xác
Ngay từ khi khoa học cũng như sinh vật học chưa
phát triển, nhà bác học Darwin đã đưa ra được những giả thuyết lý giải
sự hình thành của các loài sinh vật trên trái đất. Trải qua thời gian,
những phát kiến khoa học dưới đây đã góp phần chứng minh tư duy của nhà
bác học này vĩ đại tới nhường nào
Khi được hỏi về nguồn gốc con người, có
tới 42% người Mỹ vẫn cho rằng người là do Chúa tạo nên, bất chấp vô số
những bằng chứng khoa học về thuyết tiến hóa cũng như chọn lọc tự nhiên.
Thế mới thấy, trong thời kỳ mà ngành sinh vật học vẫn chưa phát triển,
Darwin đã có được những giả thuyết tân tiến như thế nào. Và dưới đây, là
những phát kiến khoa học ủng hộ cho thuyết tiến hóa của Darwin.
1. Phát hiện DNA
Một trong những điều đáng chú ý nhất
trong cuốn “Nguồn gốc các loài” ra mắt năm 1859 của Charles Darwin,
chính là việc ông đưa ra được giả thuyết tiến hóa trong thời điểm các
nhà khoa học vẫn chưa biết cơ chế di truyền của các loài động vật diễn
ra như thế nào. Phải đến tận năm 1950, với việc Watson và Crick phát
hiện ra DNA, chúng ta mới có được câu trả lời chính xác về tiến hóa.
DNA, câu trả lời cho ngành di truyền học
Sự phát triển của công nghệ gen có lẽ là đóng góp quan trọng nhất cho
các nghiên cứu liên quan tới sinh học tiến hóa kể từ ngày giả thuyết
của Darwin ra đời. DNA tồn tại trong tất cả các sinh vật sống, cũng đồng
nghĩa với việc có khả năng mọi loài trên trái đất đều tiến hóa từ cùng
một tổ tiên.
Phát hiện trên cũng góp phần giải thích
tại sao hoạt động chọn lọc tự nhiên, đi kèm với các biến dị của gen lại
có thể thúc đẩy tiến hóa. Quá trình này diễn ra hoàn toàn tự động mà
không cần bất cứ ai can thiệp vào đó cả.
2. Tìm ra hóa thạch
Các loài sinh vật, sinh ra rồi chết đi,
nhưng những vết tích sự sống của chúng thì vẫn luôn ở lại. Đó là điều mà
hóa thạch từ cách đây 3,8 tỉ năm dạy cho chúng ta. Hơn nữa, những hóa
thạch với niên đại khác nhau, khi được sắp xếp theo đúng trình tự thời
gian, trở thành một chuỗi có thể được các nhà khoa học nghiên cứu tìm
hiểu hoạt động tiến hóa diễn ra từ trước đến nay ra sao. Chẳng hạn như
hóa thạch mới được tìm thấy của Pappochelys, một loài bò sát sống cách
đây 240 triệu năm – trờ thành mắt xích còn thiếu giữa hai loài sinh vật
cổ đại khác, với một số đặc tính của cả hai. Những hóa thạch mới được
tìm thấy luôn đóng vai trò giúp các nhà sinh vật học lấp đầy chỗ trống
trong lúc tìm hiểu quá trình tiến hóa.
Hóa thạch của loài Pappochelys mới được tìm ra trở thành mắt xích còn thiếu giữa 2 loài sinh vật cổ đại khác
Sự tồn tại của vô số hóa thạch khác nhau
diễn tả sự thay đổi liên tục của tự nhiên kể từ khi sự sống đầu tiên
tồn tại trên trái đất. Từ sinh vật đơn bào đầu tiên, đến kỷ Cambri, cho
đến thời của loài khủng long và các loài động vật có vú, trở thành một
câu chuyện dài về quá trình liên tục tự thích nghi và phát triển.
Trên thực tế, hoạt động tự thích nghi là
những phép thử liên tục nhằm tạo ra thay đổi ở các loài sinh vật trong
quá trình phát triển của sự sống. Có một số tiến hóa tỏ ra phù hợp trong
thời gian ngắn, trước khi những thay đối khắc nghiệt về thời tiết, hay
sự xuất hiện của một số loài thiên địch – dẫn đến sự tuyệt chủng của
loài. Một vài nhánh tiến hóa khác, chẳng hạn như loài chim, có khả năng
biến đổi liên tục và tồn tại đến tận bây giờ. Và với những loài như vi
khuẩn, hay thậm chí là cá sấu, gần như chẳng thay đổi gì từ xưa đến nay,
do chúng có thể thích nghi với hầu hết tất cả mọi điều kiện sống.
3. Tìm ra những đặc tính trùng với tổ tiên
Thông thường, những nhà nghiên cứu tiến
hóa hay có xu hướng chỉ ra những điểm khác biệt giữa những loài sinh vật
hiện tại so với tổ tiên của chúng, nhưng đồng thời cũng luôn tìm kiếm
những đặc tính giống nhau tồn tại cho đến tận bây giờ. Điều này khiến
chúng ta có thể thấy rõ quá trình tiến hóa, cũng như thể hiện sự tinh vi
trong việc hình thành loài.
Chẳng hạn như cấu tạo và hình thái của
hươu, nai, ngựa và ngựa vằn tương đối giống nhau. Không ngạc nhiên khi
biết được chúng có cùng nguồn gốc tổ tiên. Tương tự, chim mòng biển và
bồ nông cùng có chung nguồn gốc, nên đương nhiên hình thái, thói quen,
thậm chí cả DNA của chúng cũng tương đối giống nhau.
Và như Darwin đã chỉ ra từ 150 năm
trước, những đặc tính giống nhau này cung cấp các thông tin quan trọng
đóng góp cho quá trình tiến hóa, cho chúng ta thấy được hướng các sinh
vật thay đổi khi điều kiện sống không còn như cũ nữa.
4. Phát hiện những vết tích của tổ tiên còn sót lại
Một trong những luận điểm thuyết phục
chứng minh cho thuyết tiến hóa là sự tồn tại của những dấu tích sót lại
từ tổ tiên. Những đặc tính này đang biến mất dần trong quá trình tiến
hóa, bởi chúng không còn phù hợp với điều kiện sống hiện tại nữa, thậm
chí còn có hại.
Chúng ta hoàn toàn có cơ sở để mà "đổ lỗi" cho tổ tiên vì sự tồn tại của những chiếc răng khôn thích mọc lệch
Cũng như những đặc tính thích nghi không
xuất hiện trong “một sớm một chiều”, những đặc tính không còn cần thiết
nữa cũng mất rất nhiều thời gian để có thể biến mất. Đối với con người,
những đặc tính như vậy bao gồm ruột thừa, răng khôn và xương cụt.
5. Chỉ ra những đặc tính chưa hoàn thiện
Cơ thể con người hiện tại, so với tổ
tiên của chúng ta trước đây đã có những sự tiến hóa đáng kể. Tuy nhiên,
điều này không đồng nghĩa với việc con người là sinh vật hoàn hảo, vẫn
còn rất nhiều điểm mà cơ thể chúng ta vẫn chưa hoàn thiện. Ví dụ như, cổ
họng con người là nơi mà cả thức ăn lẫn không khí để thở đi qua. Đấy là
còn chưa kể đến việc chúng ta không có khả năng tự tổng hợp Vitamin C,
hay chuyện các bà mẹ sinh nở khó khăn như thế nào đâu đấy nhé.
Bảo sao mà nhiều người hay bị đau đốt sống vùng thắt lưng, vị trí này phải chịu nhiều áp lực thế cơ mà
Không giống như những thứ được thiết kế
một cách thận trọng, sự tiến hóa của các loài vật không nhằm hướng đến
sự hoàn mỹ, mà chỉ cần khả năng tự thích nghi là đủ. Hơn nữa, tiến hóa
không thể bắt đầu từ hư không, mà luôn phải có điểm xuất phát cho tất cả
các loài, và điều này dễ dẫn đến những đặc tính không còn cần thiết nữa
từ tổ tiên bị sót lại (Như chuyện răng khôn thích mọc lệch chẳng hạn)
6. Nghiên cứu sự phát triển phôi thai
Phôi thai của con người và một số loài
động vật khác thường có chung đặc tính hình dạng ở một số giai đoạn.
Việc chung nguồn gen cổ đại là một trong những đáp án lý giải cho điều
này.
Theo như Discovery News giải thích:
Những gene cổ đại thể hiện rõ ở thời
kỳ mà phôi thai đang phát triển, và có những đặc điểm chung giữa các
loài khác nhau. Phôi thai của con người, của cá hay của một số loài sinh
vật khác đều từng có đuôi, có mang cũng như một số đặc điểm khác.
Phôi thai con người có điểm giống
với nhiều loài động vật khác bởi tất cả mọi loài đều còn giữ những đoạn
mã gen cổ. Những đoạn gen này có nguồn gốc từ khi tế bào đầu tiên xuất
hiện trên trái đất. Phát kiến này lý giải tại sao phôi thai của con
người khi mới vài tuần tuổi lại có đuôi.
Các loài khác nhau nhưng phôi thai vẫn giống nhau trong những tuần đầu tiên
Thông thường thì các loài có họ hàng gần nhau thì phôi thai càng có nhiều đặc điểm giống nhau hơn.
7. Quan sát tiến hóa trong một khoảng thời gian ngắn
Nhiều người vẫn tin rằng việc tiến hóa
cần một khoảng thời gian rất, rất dài và con người khó lòng có thể quan
sát được. Tuy vậy nhưng trên thực tế, có những lúc điều kiện sống biến
đổi quá nhanh khiên cho một số loài buộc lòng phải thay đổi để thích
nghi càng sớm càng tốt.
Ví dụ điển hình nhất cho trường hợp này
là loài ngài đêm, tiến hóa bởi chính cuộc cách mạng công nghiệp của con
người. Trước đây, loài này tồn tại dưới cả hai màu trắng và đen, tuy
nhiên với việc các nhà máy công nghiệp phát thải rất nhiều, khiến cho
loài ngài trắng khó lòng có thể ngụy trang được. Hệ quả tất yếu là loài
ngài đen tăng mạnh về số lượng, còn loài ngài trắng bị suy giảm đáng kể.
Một ví dụ khác chính là cuộc chiến của
chúng ta với các loài vi khuẩn có hại. Hiện tại có rất nhiều loại vi
khuẩn phát triển được khả năng kháng thuốc, khiến rất nhiều các y bác sĩ
phải đau đầu và lo lắng về một tương lai mà không có cách nào kháng lại
vi khuẩn.
8. Giả lập sự tiến hóa trên máy tính
Một cách khác để có thể chứng kiến quá
trình tiến hóa là giả lập chúng trên máy tính. Các nhà nghiên cứu tiến
hóa đã thực hiện điều này trong nhiều năm liền, sử dụng máy tính để tạo
ra điều kiện môi trường giả lập biến đổi liên tục để theo dõi quá trình
chọn lọc tự nhiên. Nhờ vậy, họ có thể theo dõi sự tiến hóa trong một
khoảng thời gian ngắn, đồng thời chạy cùng một điều kiện giả lập nhiều
lần để đưa ra kết quả chính xác nhất.
Spore, trò chơi giả lập quá trình tiến hóa
Các nhà khoa học cũng đồng thời sử dụng sức mạnh của tiến hóa để phát
triển các loại thuốc cũng như robot. Mới đây, các nhà khoa học tại
trường Đại học Cambridge đã tạo ra một hệ thống robot có khả năng tạo ra
những “đứa con”, đồng thời tự đánh giá hoạt động của chúng để nâng cấp
thiết kế cho các robot thế hệ sau.
Tham khảo io9
Nhìn tiến hóa dưới góc độ triết học
.
[Thuyết tiến hóa đã được chứng minh là sai (http://bit.ly/1k2GOQf). Vậy thì con người và sự sống có nguồn gốc từ đâu? Hãy xem bài viết này.
Chú ý: Bài đăng rất dài. Bạn nào dùng ứng dụng facebook mà không xem
được bài đăng dài thì vào via. ucweb .com tải trình duyệt UC về mà
dùng nhé!]
.
Kurt Godel, cha đẻ của Định lý Bất toàn, có lần
nói: “Tôi không nghĩ bộ não hình thành theo cách của Darwin”. Nói cách
khác, Godel không tin vào học thuyết Darwin. Tại sao? Vì thuyết tiến hóa
của Darwin dựa trên triết học của chủ nghĩa duy vật, nhưng “chủ nghĩa
duy vật là sai lầm”, Godel tuyên bố. Đó cũng là câu trả lời cho câu hỏi
vì sao Louis Pasteur bác bỏ học thuyết Darwin.
.
Nếu Darwin từng
thú nhận rằng khó có thể tin một bộ máy tinh vi, phức tạp, và kỳ diệu
như con mắt có thể hình thành thông qua chọn lọc tự nhiên, thì không có
gì để ngạc nhiên khi thấy một người uyên thâm và sâu sắc như Godel không
thể tin bộ não là sản phẩm của tiến hóa. Ý kiến đầy đủ của Godel về vấn
đề này như sau:
“Tôi không nghĩ bộ não hình thành theo cách của
Darwin.Thực ra có thể phủ nhận ý kiến cho rằng bộ não hình thành theo
kiểu của Darwin. Cơ chế đơn giản không thể tạo ra bộ não. Tôi cho rằng
những yếu tố cơ bản của vũ trụ là đơn giản. Lực sống là một yếu tố
nguyên thủy của vũ trụ và nó tuân thủ những định luật tương tác nhất
định.Những định luật này không đơn giản, và chúng không mang tính cơ
giới”.
Có nghĩa là, trong con mắt của Godel, cơ chế chọn lọc tự
nhiên của thuyết tiến hóa là một cơ chế mang tính chất cơ giới, đơn
giản, không đủ sức lý giải sự kỳ diệu của sự sống; sự sống chắc chắn
phải chứa đựng những bí ẩn sâu sắc hơn nhiều. Sự thật về DNA chứng tỏ ý
kiến của Godel là một tiên tri.
Tại sao lý thuyết của Darwin không
thể đi xa hơn những tư duy cơ giới đơn giản? Vì toàn bộ học thuyết
Darwin dựa trên nền tảng triết học của chủ nghĩa duy vật – mọi nhận thức
đều quy về tương tác vật chất, phủ nhận mọi liên hệ với thế giới phi
vật chất. Nhưng “Chủ nghĩa duy vật là sai lầm!” (Materialism is wrong!),
Godel tuyên bố.
.
Những khám phá khoa học từ nửa sau thế kỷ 20
tới nay ủng hộ tuyên bố của Godel, đặc biệt là Lý thuyết THÔNG TIN và mã
DNA. Những khám phá này chỉ ra rằngthông tin không phải là vật chất,
nhưng đóng vai trò thiết yếu trong việc tạo dựng sự sống – không có
thông tin của DNA hướng dẫn, nguyên tử và phân tử không thể ngẫu nhiên
kết hợp thành sự sốngnhư thuyết tiến hóa đã nói. Đó là một sự thật vượt
quá sức tưởng tượng của chủ nghĩa duy vật. Vì thế thuyết tiến hóa của
Darwin đã đi chệch hướng ngay từ đầu, và do đó không thể phản ánh đúng
sự thật diễn ra trong sự sống.
Nói một cách hình ảnh, lâu đài tiến
hóa của Darwin xây trên nền móng của chủ nghĩa duy vật. Chúng ta thử
khảo sát xem cái nền móng ấy có đủ vững chắc hay không.
.
Chủ nghĩa duy vật, cơ sở triết học của thuyết tiến hóa.
Chủ nghĩa duy vật phát triển rất mạnh trong thế kỷ 19 và đã trở thành
bà đỡ cho thuyết tiến hóa. Nhưng cả bà đỡ lẫn thai nhi ra đời từ 156 năm
trước đây đã và đang trở nên già lão ốm yếu kể từ khi Lý thuyết THÔNG
TIN xuất hiện.
Lý thuyết thông tin ra đời từ giữa thế kỷ 20 và phát
triển cho tới nay đã tạo ra một CUỘC CÁCH MẠNG VỀ NHẬN THỨC khi nó tuyên
bố thông tin là một dạng thức tồn tại khách quan PHI VẬT CHẤT. Tuyên bố
ấy gián tiếp ủng hộ tư tưởng của Godel và bác bỏ chủ nghĩa duy vật, và
do đó bác bỏ thuyết tiến hóa.
Chủ nghĩa duy vật là chủ nghĩa cho
rằng mọi thứ tồn tại đều là vật chất; vật chất tồn tại vĩnh cửu; ngoài
vật chất ra không có gì khác. Ngay cả ý thức cũng bị coi là một dạng vật
chất, mọi thứ đều được quy giản về vật chất. Nhà triết học duy vật nổi
tiếng Karl Vogt tuyên bố: “Bộ não tiết ra tư tưởng giống y như gan tiết
ra chất đắng (the brain secretes thought just as the liver secretes
bile)”. Tuyên bố ấy bất chấp một sự thật là không ai và không có một
phương tiện vật lý nào có thể cân, đong, đo, đếm tư tưởng. Có thể gắn
các điện cực vào đầu để đo điện não đồ, nhưng tất cả những gì hiện lên
trên điện não đồ chỉ là thông tin gián tiếp thông báo sự tồn tại của ý
thức, thay vì bản thân ý thức. Ý thức là cái làm cho chúng ta nhận thức
được những giá trị phi vật lý như phải/trái, đẹp/xấu, vui/buồn, đạo
đức/vô đạo đức,…
Nhưng từ khi Lý thuyết Thông tin ra đời, cơ sở của
chủ nghĩa duy vật bị lung lay đến tận gốc, vì thông tin là một dạng thức
tồn tại khách quan phi vật chất, tham gia vào các hoạt động tương tác
vật chất, rõ ràng đến mức không thể phủ nhận. Kết luận này đưa chủ nghĩa
duy vật tới một tình trạng khó xử, tiến thoái lưỡng nan: không thừa
nhận thông tin là phi vật chất thì sẽ chống lại một sự thật được giới
khoa học thừa nhận; nhưng thừa nhận sự thật đó thì có nghĩa là thừa nhận
thế giới bao gồm cả những dạng thức tồn tại phi vật chất, thậm chí siêu
vật chất, trái với nền tảng triết học của chủ nghĩa duy vật.
.
Cuộc chiến lỗ đen giữa Hawking và Susskind” là một minh họa rất thú vị
cho nhận định ở trên. Câu chuyện sau đây được trích từ ý kiến của độc
giả Phạm Văn Chiến trên PVHg’s Home:
“Hawking và Susskind được mệnh
danh là hai gã khổng lồ trong ngành vật lý lý thuyết, nhưng ‘chiến đấu’
một mất một còn về việc liệu thông tin khi bị nuốt vào các lỗ đen có bị
mất đi mãi mãi hay không, một khi các lỗ đen này bốc hơi. Năm 1983,
Hawking nêu lên giả thuyết rằng ‘thông tin sẽ bị mất đi trong sự bốc hơi
của lỗ đen’. Với Susskind, một lý thuyết gia định lượng, thì điều này
là không đúng đắn bởi nguyên lý là thông tin sẽ được bảo toàn; nó không
bao giờ có thể bị biến thành hư không. Nếu Hawking đúng, các nền móng
của ngành định lượng đều bị hủy diệt. Cuộc chiến dai dẳng kéo dài hơn 20
năm, cuối cùng, Hawking thú nhận mình thua cuộc sau các công trình
nghiên cứu về Nguyên lý toàn ảnh (Holography)”.
Vậy thế giới không
đơn giản chỉ là những gì có mặt trong công thức E = mc2 nữa. Chủ nghĩa
duy vật dù muốn hay không cũng không thể bác bỏ công thức sau đây:
''Thế giới'' = ''vật chất'' cộng ''thông tin'' cộng ''nguồn thông tin'' cộng ''x''
Trong công thức trên,xlà ẩn số, bởi con người không thể biết hết, như
nhà nhân học André Bourguignon từng nói. Qua đó có thể thấy bức tranh
thế giới do chủ nghĩa duy vật vẽ ra trong hơn một thế kỷ qua quá nghèo
nàn. Nói cách khác, chủ nghĩa duy vật đã tự tước bỏ những phương tiện
của nhận thức, làm cho nhận thức của loài người trở nền nghèo nàn hơn so
với nó vốn có. Sinh học cũng vì thế mà bị nhào nặn nhồi nhét vào cái
khung tiến hóa sao cho vừa. Đó là lý do thuyết tiến hóa sáng chế ra
nhiều giả thuyết nhất trong các lý thuyết, và không có giả thuyết nào
đến nay được toàn thể giới khoa học thừa nhận là phù hợp với hiện thực.
Điển hình là giả thuyết “nồi soup nguyên thủy”. Đã hơn một thế kỷ rưỡi
trôi qua, nó vẫn loanh quanh với các giả thuyết. Đã có những thí nghiệm
được quảng cáo rùm beng là tổng hợp được sự sống, đó là thí nghiệm
Stanley Miller năm 1952, nhưng rồi bị vạch trần là sai lầm. Hiện nay
thách thức lớn nhất là bài toán thông tin sinh học.
.
Thông tin Sinh học.
Cuộc cách mạng do DNA tạo ra đã làm thay đổi căn bản cách nhìn của con
người đối với sự sống. Nếu chủ nghĩa duy vật quy giản mọi sự thật khách
quan về vật chất thì câu hỏi đặt ra là: Thông tin trong DNA có thể quy
giản thành vật chất được không? Giáo sưWerner Gitt, giám đốc Viện vật lý
và công nghệ liên bang Đức, trả lời:
“Một hệ mã luôn kéo theo một
quá trình trí tuệ phi vật chất. Một vật chất vật lý không thể tạo ra một
mã thông tin. Mọi kinh nghiệm chỉ ra rằng mọi mẩu thông tin sáng tạo
đều thể hiện một nỗ lực tinh thần nào đó… Không có một định luật tự
nhiên nào, hoặc một quá trình nào, một chuỗi sự kiện nào có thể tạo ra
thông tin bắt nguồn từ bản thân vật chất”.
Thật vậy, một vật có khối
lượngmkhông thể tự nó phát ra thông tin để báo cho chúng ta biết rằng
năng lượng tích trữ trong các hạt nhân nguyên tử của nó bằngE = mc2.
Thông tin này bắt nguồn từ đâu? Từ Albert Einstein chăng? Không, nó bắt
nguồn từ mộtnguồn thông tin không nhìn thấymà Einstein gọi là Chúa. Ông
nói: “Tôi muốn biết Chúa sáng tạo ra thế giới này như thế nào” (I want
to know how God created this world)
Hoàn toàn tương tự, thông tin
chứa đựng trong DNA không thể hình thành một cách ngẫu nhiên bởi cái gọi
là “chọn lọc tự nhiên”. Nếu chọn lọc tự nhiên có trí tuệ để tạo ra mã
DNA thì chọn lọc tự nhiên chính là hành động của Nhà thiết kế, hoặc Nhà
lập trình. Nhưng thuyết tiến hóa không thừa nhận vai trò của Nhà thiết
kế hoặc Nhà lập trình, nên nó gán cho một nguồn mơ hồ là “chọn lọc tự
nhiên” – một khái niệm ngụy khoa học nhờ chữ “tự nhiên” nhưng thực chất
là tự mâu thuẫn về mặt triết học (vừa duy vật vừa duy tâm).
Lý
thuyết thông tin nghiên cứu nguồn gốc và bản chất của thông tin trong vũ
trụ. Kết luận hiện nay được hầu hết các nhà lý thuyết thông tin thừa
nhận là:Thông tin là một dạng thức tồn tại phi vật chất, không thể quy
giản thành vật chất. Nguồn gốc của thông tin và vật chất vật lý phải
được nghiên cứu độc lập với nhau.
Khám phá của lý thuyết thông
tin buộc các nhà duy vật chủ nghĩa phải thay đổi. Nhà khoa học tiến hóa
nổi tiếng George C. Williams, trong một bài báo năm 1995, thừa nhận:
“Các nhà sinh học tiến hóa đã thất bại vì không nhận ra rằng hai lĩnh
vực thông tin và vật chất ít nhiều không gắn liền với nhau… Hai lĩnh vực
này không bao giờ có thể gộp vào với nhau được theo cách quy giản thông
tin thành vật chất…Gene là một gói thông tin chứ không phải một vật thể
vật chất… Trong sinh học, khi nói về những thứ như gene, kiểu gene hay
tập hợp gene, ấy là nói về thông tin chứ không phải về hiện thực vật lý
khách quan…”
Do đó, trái với những gì các nhà duy vật nghĩ, nguồn
thông tin trong tự nhiên không phải là bản thân vật chất. Suy ra nó phải
là một Trí tuệ siêu vật chất. Trí tuệ ấy phải có trước vật chất, để cài
đặt thông tin vào vật chất và điều khiển vật chất.
Nhà sinh học nổi
tiếngFrancis Collinsgọi thông tin trong DNA là “ngôn ngữ của Chúa”. Nói
cách khác, Chúa cài đặt thông tin vào DNA để hướng dẫn sự hình thành sự
sống. Tổng thống Mỹ Bill Clinton tán thưởng quan điểm của Collins.
Trong diễn văn chúc mừng thành tựu hoàn thành Bản đồ Gene Người năm
2000, tổng thống long trọng tuyên bố: “Hiện nay chúng ta đang học thứ
ngôn ngữ trong đó Chúa sáng tạo ra sự sống”.
Nhà động vật học nổi
tiếng người Pháp Pierre-Paul Grassé, vốn là một nhà duy vật ủng hộ
thuyết tiến hóa mạnh mẽ, gần đây đã lên tiếng thừa nhận học thuyết
Darwin phải đối mặt với một nan đề là vấn đề “trí tuệ” của sự sống. Ông
nói:
“Bất kỳ sinh vật nào cũng chứa đựng một lượng ‘tri thức’
(intelligence) khổng lồ, lớn hơn rất nhiều so với tri thức cần thiết để
xây dựng các nhà thờ. Ngày nay ‘tri thức’ này được gọi là thông tin, tên
gọi khác nhau nhưng cũng chỉ là một. Đó không phải là tri thức được
chương trình hóa như trong một computer, mà đúng ra nó được ngưng tụ vào
trong DNA nhỏ xíu hoặc trong mọi cấu trúc khác bên trong tế bào. ‘Trí
thức’ này là điều kiện tối cần thiết của sự sống.NHƯNG TRI THỨC ẤY TỪ
ĐÂU MÀ RA?… Đây là một nan đề làm bận tâm cả các nhà sinh học lẫn triết
học. Vào thời điểm hiện tại, khoa học dường như không có khả năng giải
quyết nan đề đó”.
Tại sao khoa học không có khả năng giải quyết nan
đề đó? Vì các nhà khoa học tiến hóa vẫn muốn bám vào chủ nghĩa duy vật,
không muốn thừa nhận bất kỳ cái gì phi vật chất nằm trong phạm vi khoa
học. Nói cách khác, chủ nghĩa duy vật tự giam hãm mình trong bế tắc và
mâu thuẫn khi định nghĩa khoa học là những quy luật vật chất thuần túy.
Đã đến lúc phải định nghĩa lại khoa học là gì. Nếu khoa học là tập hợp
tất cả những nhận thức phản ánh thế giới khách quan thì khái niệm nguồn
thông tin phải được coi là khoa học, mặc dù thông tin và nguồn thông tin
không phải là vật chất.
Đã đến lúc các nhà tiến hóa nên ngừng bắt
chước con đà điều rúc đầu xuống cát để không nhìn thấy sự thật. Trong
bối cảnh hiện nay, các nhà tiến hóa có thể học hỏi thêm những quy luật
về triết học nhận thức từ Định lý Bất toàn của Kurt Godel, một định lý
toán học có ý nghĩa nền tảng về nhận thức luận, như một nguồn tri thức
bổ sung cho chủ nghĩa duy vật cơ giới.
.
Kurt Godel và Định lý Bất toàn.
Định lý Bất toàn của Kurt Godel ra đời năm 1931 chứng minh rằng không
có một lý thuyết nào là đầy đủ để có thể biết được mọi thứ. Muốn đánh
giá một lý thuyết có đầy đủ và chính xác hay không, phải đi ra ngoài lý
thuyết đó. Từ bên ngoài nhìn vào lý thuyết đó, ta sẽ thấy rõ những thiếu
sót của lý thuyết, và ta sẽ tìm kiếm được những tri thức bổ sung, làm
cho lý thuyết đầy đủ hơn, chính xác hơn. Nhưng không bao giờ có một lý
thuyết hoàn hảo – bất kỳ lý thuyết nào cũng bất toàn. Mọi lý thuyết có
tham vọng ôm lấy toàn bộ vũ trụ, hoặc có tham vọng biết hết mọi thứ đều
chỉ là ảo tưởng.
Siêu toán học (meta-mathematics) đầu thế kỷ 20 là
một lý thuyết toán học có tham vọng biết hết mọi thứ trong toán học.
Nhưng Định lý Godel đã bác bỏ nó, chỉ ra rằng đó chỉ là một giấc mơ
không tưởng. Quả thật siêu toán học đã chết. Ngày nay không ai muốn tìm
siêu toán học nữa.
Các nhà vật lý trong thế kỷ 20 cũng có tham vọng
tìm ra một Lý thuyết về mọi thứ, cho phép giải thích mọi hiện tượng vật
lý. Nhưng Stephen Hawking, sau khi thấm nhuần Định lý Godel, tuyên bố
rằng Lý thuyết về mọi thứ khó mà đạt được. Ông thừa nhận thay vì có một
lý thuyết về mọi thứ, vật lý sẽ có nhiều lý thuyết bổ sung cho nhau, mỗi
lý thuyết chỉ mô tả được một số khía cạnh nhất định của vũ trụ, mặc dù
các lý thuyết hiện có vừa không nhất quán, vừa không đầy đủ.
Các nhà
vật lý trong thế kỷ 20 cũng có tham vọng tìm ra một Lý thuyết về mọi
thứ, cho phép giải thích mọi hiện tượng vật lý. Nhưng Stephen Hawking,
sau khi thấm nhuần Định lý Godel, tuyên bố rằng Lý thuyết về mọi thứ khó
mà đạt được. Ông thừa nhận thay vì có một lý thuyết về mọi thứ, vật lý
sẽ có nhiều lý thuyết bổ sung cho nhau, mỗi lý thuyết chỉ mô tả được một
số khía cạnh nhất định của vũ trụ, mặc dù các lý thuyết hiện có vừa
không nhất quán, vừa không đầy đủ.
.
Vậy sinh học học được gì từ Định lý Bất toàn? Theo tôi, đó là những bài học sau đây:
● Thuyết tiến hóa là một lý thuyết KHÔNG TƯỞNG, vì nó có THAM VỌNG giải
thích được mọi thứ trong thế giới sinh vật. Tính không tưởng lộ rõ nhất
trong tham vọng biến câu chuyện hoang đường về “nồi soup nguyên thủy”
thành hiện thực; và tham vọng nhồi vào đầu mọi người hình ảnh khỉ tiến
hóa thành người, bất chấp sự thật về tính cố định của loài mà DNA đã làm
rõ.
● Nếu Định lý Godel khuyên chúng ta phải đi ra ngoài lý thuyết
để tìm kiếm kiến thức bổ sung cho lý thuyết đó thì thuyết tiến hóa không
bao giờ đi ra ngoài cái lồng chật hẹp do nó tạo ra. Cái lồng ấy ngày
càng trở nên quá chật hẹp, không đủ chỗ cho các lý thuyết về DNA, vì
những lý thuyết này chỉ ra rằng nếu mã DNA là những thông tin hướng dẫn
sự sống thì ắt phải có nguồn của thông tin – Nhà thiết kế hoặc Đấng Sáng
tạo. Thuyết tiến hóa ngay từ khi ra đời đã xác định cho nó một lý tưởng
là chủ nghĩa duy vật. Lý tưởng ấy ngăn cản nó tự thay đổi, ngăn cản nó
bước chân ra ngoài chủ nghĩa, đẩy nó tới chỗ tìm hết giả thuyết này đến
giả thuyết khác để giải thích những sự thật vượt ra ngoài lý thuyết của
nó. Nói cách khác, các nhà tiến hóa không học được bài học nào từ Định
lý Godel.
● Nếu thuyết tiến hóa dũng cảm bước chân ra bên ngoài chủ
nghĩa duy vật, nó sẽ biết trân trọng khái niệm tinh thần và trí tuệ.
Nhưng thuyết tiến hóa dường như không đếm xỉa đến khía cạnh tri thức của
sinh vật. Vì thế nó phạm sai lầm lớn khi xếp hạng tiến hóa, coi loài
sâu bọ hoặc loài lưỡng cư là động vật bậc thấp. Nếu theo dõi hoạt động
của loài cua hoặc loài ong, loài kiến,… chúng ta sẽ phải ngạc nhiên thấy
chúng cực kỳ thông minh. Khi đó ta sẽ nhận ra rằng sinh vật không tiến
hóa, mà chỉ có biến hóa và đa dạng hóa. Mọi sự biến hóa và đa dạng hóa
đều nằm trong chương trình hướng dẫn sự sống thông qua các thông tin đã
được cài đặt vào DNA của từng loài, thậm chí từng con vật. Khi ấy, khái
niệm về nguồn thông tin sẽ đánh đổ thuyết tiến hóa.
.
“Chuyện
hoang đường của thuyết tiến hóa”, sách của Jiri A. Mejsnar, có một bài
thơ ngắn rất vần, rất hay. Tạm dịch: “Các gene kêu lên, Bài ca khẩn
thiết, Đác-uyn ông hỡi, Có biết mình sai”.
.
Vì thế chúng ta sẽ
không ngạc nhiên khi thấy những nhà khoa học có tư duy triết học thâm
thúy như Godel đều không thể chấp nhận thuyết tiến hóa. Định lý Bất toàn
của Godel ngày càng có sức lan truyền mạnh mẽ vì nó dẫn tới những hệ
quả triết học vô cùng có ý nghĩa đối với phương pháp nhận thức. Nó để lộ
cho thấy tác giả của nó, Kurt Godel, là người đặc biệt quan tâm đến BẢN
CHẤT CỦA NHẬN THỨC và BẢN CHẤT CỦA THẾ GIỚI. Mối quan tâm ấy dẫn ông
tới một loạt ý kiến bác bỏ chủ nghĩa duy vật, gián tiếp bác bỏ thuyết
tiến hóa. Đây, ông nói:
● Chủ nghĩa duy vật là sai lầm (Materialism is false). Bình luận (BL): Nền tảng triết học của thuyết tiến hóa là sai lầm.
● Thế giới mà chúng ta đang sống trong đó không phải là thế giới duy
nhất mà chúng ta đã sống hoặc sẽ sống (The world in which we live is not
the only one in which we shall live or have lived). BL: Chủ nghĩa duy
vật quá nghèo nàn vì nó chỉ thấy một thế giới duy nhất hiện diện trước
mắt. Nó không có khả năng nhìn thấy nguồn thông tin ẩn đằng sau sự sống
mà lẽ ra có thể đoán nhận được thông qua sự hiện diện của thông tin
hướng dẫn sự sống.
● Bộ não là một chiếc máy tính kết nối với một
linh hồn (The brain is a computing machine connected with a spirit). BL:
Thuyết tiến hóa là bức tranh về sự sống hoàn toàn không đếm xỉa đến
linh hồn – thành phần phi vật chất nhưng làm nên sự sống thật sự. Sự
thiếu vắng yếu tố này không chỉ là một thiếu sót của thuyết tiến hóa, mà
còn làm cho sự mô tả sự sống bị sai lạc.
● Ý thức được kết nối với
một sự thống nhất toàn thể (Consciousness is connected with one unity).
BL: Sự thống nhất toàn thể mà Godel nói, theo tôi, chính là nguồn thông
tin của sự sống mà các nhà khoa học gọi là Đấng Sáng tạo (Creator) hoặc
Chúa (God).
● Giải thích mọi điều là bất khả (To explain everything
is impossible). BL: Sự sống rất đa dạng, tinh vi và phức tạp. Thuyết
tiến hóa là một hệ thống giả thuyết mờ và cơ giới, máy móc thổ thiển,
không đủ sức giải thích sự sống. Muốn giải thích sự sống phải hiểu rõ
DNA. Chừng nào chưa hiểu rõ DNA, chứng ấy mọi mô tả về sự sống đều sai
lệch, thiếu sót.
● Ý nghĩa của thế giới là sự phận biệt ước muốn với
hiện thực (The meaning of the world is the separation of wish and
fact). BL: Thuyết tiến hóa ước muốn giải thích toàn bộ sự sống bằng một
vài nguyên lý cơ giới đơn giản nên sự mô tả ấy không đúng với sự thật.
Sự sống chỉ có biến hóa và đa dạng hóa, không có tiến hóa!
● Có
những thế giới khác và những thực thể có lý trí ở cấp độ khác và cao hơn
(There are other worlds and rational beings of a different and higher
kind). BL: Vì không tin có những thế giới khác và cao hơn thế giới vật
chất nên thuyết tiến hóa không thể tin rằng có nguồn thông tin của sự
sống.
● Các tổ chức tôn giáo phần lớn là tệ, nhưng tôn giáo thì
không (Religions are, for the most part, bad—but religion is not). BL:
Cần phân biệt tôn giáo với tổ chức tôn giáo hoặc nghi thức tôn giáo. Chữ
“tôn giáo” (religion) mà Godel nói là tinh thần tôn giáo, đức tin tôn
giáo – niềm tin vào sự sáng tạo của Thượng Đế mà mọi nền văn hóa đều có.
Tinh thần tôn giáo ấy, đức tin ấy không những cần thiết đối với việc ổn
định trật tự xã hội, duy trì đạo đức sống, mà còn có quan hệ mật thiết
tới phương pháp tư duy để nhận thức chân lý. Thuyết tiến hóa dựa trên
một nền tảng triết học sai lầm nên học thuyết của nó cũng sai lầm. Phải
có niềm tin vào một nguồn thông tin có trí tuệ mới có thể “học được ngôn
ngữ của Chúa” như tổng thống Bill Clinton đã nói.
.
Sự sống là một quá trình đa dạng hóa chứ không tiến hóa.
Qua những ý kiến nói trên có thể thấy Godel có một niềm tin mãnh liệt
vào sự hiện hữu của những lực lượng siêu tự nhiên. Niềm tin ấy lớn đến
nỗi ông có hẳn một công trình toán học chứng minh sự hiện hữu của Chúa.
Tôi không dám đẩy câu chuyện đi quá xa theo con đường Godel đã gợi ý,
nhưng thấy cần thiết phải nhấn mạnh rằng những nhà khoa học thực sự uyên
bác thường tin vào Đấng Sáng tạo. Những người biết kinh ngạc trước
những tác phẩm sáng tạo của Tạo Hóa thường là người đa cảm, lãng mạn.
Chính sự kinh ngạc và ngưỡng mộ Đấng Sáng tạo truyền cho họ cảm hứng
sáng tạo. Chủ nghĩa duy vật không hiểu được cảm hứng đó, và do đó làm
nghèo trí tuệ. Đó là chỗ khác biệt căn bản giữa những người như Pasteur,
Einstein và Godel,… so với Darwin.
.
Từ ngưỡng mộ sự Sáng tạo tới cảm hứng sáng tạo.
ALBERT EINSTEIN.
Trong một bài báo nhan đề “Einstein vs Darwin” (Einstein đối lập với
Darwin), nhà vũ trụ học nổi tiếngFrank Tipler, giáo sư vật lý toán tại
Đại học Tulan ở New Orleans, Mỹ, nhận định rằng mặc dù Einstein và
Darwin là hai tên tuổi lớn thuộc hai lĩnh vực khác xa nhau, nhưngkhông
thể cả hai cùng đúng. Nếu Einstein đúng thì ắt Darwin phải sai và ngược
lại. Tất nhiên Frank Tipler không có ý định so sánh thuyết tương đối với
thuyết tiến hóa. Ông chỉ có ý định nói về vũ trụ quan của hai nhân vật
này. Darwin hoàn toàn duy vật, không tin vào Đấng Sáng tạo, chúng ta đã
biết rõ điều đó. Còn Einstein thì sao?
Khi được hỏi “Ông có tin vào Chúa hay không?”, Einstein trả lời rất rõ ràng, dứt khoát:
“Tôi tin vào Chúa của Spinoza, Đấng đã tỏ lộ bản thân trong sự hài hòa
đúng quy luật của mọi thứ tồn tại, nhưng tôi không tin vào một Chúa quan
phòng tới số phận và những việc làm của con người”.
Theo tạp chí
Time ngày 16/04/ 2007, Einstein cho rằng tự nhiên được tạo ra bởi “một
trí tuệ siêu việt, đến nỗi mọi tư duy và hành động có hệ thống của con
người hoàn toàn chỉ là một sự phản chiếu nhỏ nhoi không đáng kể”.
Đối với Einstein, mọi sản phẩm sáng tạo đều phải có nhà sáng tạo của nó. Ông nói:
“Tôi nhìn một mẫu vật, nhưng trí tưởng tượng của tôi không vẽ ra được
người sáng tạo ra mẫu vật đó. Tôi nhìn một chiếc đồng hồ, nhưng tôi
không thể hình dung ra được người chế tạo ra chiếc đồng hồ đó. Trí tuệ
của con người không có khả năng nhận thức được bốn chiều, vậy làm sao nó
có thể nhận thức được một Thượng Đế, mà đối với Ngài, một nghìn năm hay
một nghìn chiều cũng chỉ là một”.
Đó là lý do để các nhà tiến hóa nhìn thấy thông tin nhưng không nhận thức được NGUỒN THÔNG TIN!
Einstein cho rằng một nhà khoa học thực sự không thể không nhận thấy
Đấng Sáng tạo. Ông nói: “Mọi người theo đuổi nghiên cứu khoa học một
cách nghiêm túc đều bị thuyết phục rằngcó một LINH HỒN biểu lộ trong các
định luật của vũ trụ – một linh hồn cao siêu hơn rất nhiều so với linh
hồn của con người, và khi đối diện với linh hồn cao siêu ấy, con người
với khả năng bé nhỏ của mình phải cảm thấy mình thấp hèn”.
LOUIS PASTEUR.
Chúng ta đã biết Pasteur là người khám phá ra hai định luật cơ bản của
sự sống: Định luật sự sống bất đối xứng hay Định luật sự sống thuận tay
trái (Law of Asymmetry/Law of Left-handed Life) và Định luật sự sống chỉ
ra đời từ sự sống (biogenesis). Bản thân hai định luật đó là sự bác bỏ
thuyết tiến hóa. Các nhà tiến hóa rất hay lảng tránh hai định luật này,
trừ khi không thể lảng tránh được nữa. Nhưng Pasteur đánh giá trực tiếp
thuyết tiến hóa ra sao?
Dường như Pasteur không một lần nào trực
tiếp nhắc đến Darwin hoặc thuyết tiến hóa, nhưng ông có những phát biểu
được xem như trực tiếp bác bỏ lý thuyết này. Một trong những phát biểu
đó là tuyên bố hùng hồn sau thí nghiệm bình cổ thiên nga (mà trang
PVHg’s Home đã nhiều lần nhắc lại), rằng: “Học thuyết sự sống hình thành
tự phát sẽ không bao giờ còn có thể hồi phục được nữa sau cú đòn chết
người của thí nghiệm đơn giản này”.
Phát biểu này thể hiện rõ quan
điểm triết học khoa học của Pasteur: khoa học không thể chỉ dừng lại ở
giả thuyết, và thực tiễn là thước đo của chân lý.Nếu thuyết tiến hóa
đúng, hãy chứng minh bằng thực tế. Đó là một lời thách thức. Các nhà
tiến hóa biết rõ điều đó, nhưng chưa một lần nào các nhà tiến hóa tuyên
bố họ sẵn sàng đối mặt với thách thức của Pasteur. Đơn giản vì lý thuyết
của họ làm gì có bằng chứng thực tế. Họ chỉ có nhiều giả thuyết để nhồi
nhét vào đầu trẻ em ở trường học thôi.
Giả thuyết “vĩ đại” nhất là
“nồi soup nguyên thủy”, hiện được trang sức bởi một cái tên “hoành
tráng” hơn, đó là “tiến hóa hóa học”. Darwin quả là có “trí tưởng tượng
vĩ đại” khi nghĩ rằng trong một cơn giông tố đặc biệt nào đó, với một
điều kiện môi trường đặc biệt NÀO ĐÓ, các nguyên tử sẽ ngẫu nhiên kết
hợp lại thành sự sống đầu tiên, và “KỲ DIỆU” hơn nữa, cái sự sống đầu
tiên ấy “BIẾT” cách trải qua những “BIẾN ĐỔI ĐẶC BIỆT NÀO ĐÓ” để tiến
hóa, tiến hóa, và tiến hóa,…. Không thể có sự bịa đặt nào lớn hơn thế
nữa. Mọi nhà văn viết truyện hư cấu sẽ phải học Darwin. Ấy thế mà chuyện
hư cấu ấy dần dà trở thành một lý thuyết khoa học, thậm chí một lý
thuyết lớn (!)
Nếu tôi phải làm một luận án tiến sĩ về thuyết tiến
hóa Darwin, tôi sẽ chọn đề tài như sau: Tại sao chuyện thần tiên “nồi
soup nguyên thủy” có thể trở thành một dự án khoa học lớn? Tất nhiên đó
không phải là một đề tài sinh học, dù không thể tránh việc thảo luận về
sinh học. Đó sẽ là một đề tài về tâm lý học, xã hội học, triết học khoa
học, lịch sử khoa học, để lý giải vì sao có hiện tượng kỳ quặc có một
không hai trong lịch sử như hiện tượng học thuyết Darwin.
Tôi sẽ
phải chỉ ra những trạng thái tâm lý của con người như thế nào để người
ta có thể lẫn lộn chuyện hư cấu với khoa học. Tôi sẽ phải chỉ ra những
nguyên nhân xã hội dẫn tới sự thắng thế của học thuyết Darwin ở nhà
trường,…
Tôi sẽ phải chứng minh học thuyết Darwin như một bằng chứng
mẫu mực minh họa cho câu nói bất hủ của Einstein, rằng “Chỉ có hai thứ
vô hạn: vũ trụ và cái stupidity của con người; tôi không chắc về cái thứ
nhất” (Only two things are infinite: the universe and human stupidity…
and I am not sure about the former). Có lẽ Einstein đã từng có lúc phải
thất vọng ghê gớm đối với một hạng người kém cỏi nào đó mới đến nỗi ông
phải cất lời phê phán nặng nề tới mức đó. Âu đó là sự đời. Nhà thông
thái nhiều khi phải “sống với lũ”, làm sao tránh được.
Pasteur cũng
có lúc phải lên tiếng với một loại người kém cỏi – những kẻ ngoan cố
chống lại sự thật rằng sự sống chỉ ra đời từ sự sống, ngay cả sau khi
thí nghiệm bình cổ cong thiên nga của ông đã khẳng định điều đó như một
định luật. Ông nói: “Không, hiện nay không còn có trường hợp nào được
biết có thể xác nhận vi sinh vật xuất hiện từ thế giới không có sinh
vật, không có cha mẹ tương tự như chúng. Những người xác nhận điều đó đã
bị đánh lừa bởi ảo giác, bởi những thí nghiệm được tiến hành kém cỏi,
làm hỏng bởi những sai sót mà không có khả năng nhận thấy hoặc không
biết làm thế nào mà tránh”.
Chú ý rằng khi thí nghiệm bình cổ cong
thiên nga thắng lợi, đó là lúc thuyết tiến hóa đã ra đời được vài năm.
Có nghĩa là các nhà tiến hóa phải biết rõ thành tựu của Pasteur. Nhưng
họ bất chấp sự thật. Họ vẫn cố chứng minh sự sống có thể ra đời từ cái
không sống. Bởi nếu không làm được điều đó, thuyết tiến hóa sẽ sụp đổ.
Có lẽ câu nói của Pasteur ở trên cũng nhắm tới họ. Nhưng Pasteur không
dừng ở đó. Ông chỉ ra rằngngay cả trong trường hợp chứng minh được sự
sống ra đời từ vật chất không sống, thì điều ấy cũng không chứng minh
được nguồn gốc sự sống là gì, bởi quy trình ngược lại cũng xẩy ra: vật
chất sống biến thành vật chất không sống. Nói cách khác, quy trình biến
đổi lẫn nhau giữa vật chất sống và vật chất không sống là một vòng tròn,
không thể bảo đâu là điểm khởi đầu! Một lần nữa, ta lại gặp ở đây
nghịch lý con gà và quả trứng!
Pasteur chỉ ra rằng khi bạn nói sự
sống ra đời từ cái không sống, ấy chẳng qua là vì bạn đã thừa nhận một
tiên đề, hoặcmột tiên nghiệm(a priori), rằngvật chất không sống có
trước, vật chất sống có sau. Không có bằng chứng nào để khẳng định điều
này. Nếu dựa vào hóa thạch để xác định tuổi của sự sống, rồi bảo vật
chất không sống có trước, thì tại sao không nghĩ rằng có thể có những
hóa thạch của sự sống đã hoàn toàn tan biến vào vật chất không sống,
không để lại một dấu vết nào nữa, để chúng ta hiểu sai về tuổi của sự
sống?
Thật vậy, vậyvề logic, hoàn toàn có quyền đặt tiên đề ngược
lại, rằng sự sống có trước, rồi nó tan rã thành vật chất không sống. Tóm
lại, thuyết tiến hóa không hiểu rằng họ đã bị mắc lừa bởi nghịch lý Con
gà và Quả trứng khi cố gắng giải thích về nguồn gốc sự sống. Lập luận
của Pasteur quả thật là BẤT NGỜ! Không mấy ai nghĩ ra điều Pasteur nghĩ.
Mọi người đều dễ bị đánh lừa rằng vật chất không sống có trước, vật
chất sống có sau. Nhưng với cái đầu triết học, Pasteur đã chỉ ra cái
tiên nghiệm sai lầm của thuyết tiến hóa. Ông đã dội một gáo nước lạnh
vào đám than hồng của giả thuyết về nguồn gốc sự sống của thuyết tiến
hóa, chỉ cho họ thấy sự nông cạn của họ về triết học. Đây, hãy nghe
Pasteur nói:
“Từ hai mươi năm nay tôi đã tìm kiếm sự hình thành sự
sống tự phát mà chẳng tìm thấy nó ở đâu cả. Không, tôi không phán xét
điều đó là bất khả. Nhưngcái gì cho phép bạn bảo đó là nguồn gốc sự
sống? Bạn đặt vật chất trước sự sống rồi bạn khẳng định rằng vật chất đã
tồn tại sẵn từ ngàn xưa. Làm thế nào mà bạn biết rằng sự tiến bộ không
ngừng của khoa học sẽ không thúc ép các nhà khoa học xem sự sống đã tồn
tại từ ngàn xưa chứ không phải vật chất. Bạn chuyển từ vật chất tới sự
sống vì kiến thức của bạn hiện nay không thể nhận thức sự vật theo cách
nào khác. Làm thế nào mà bạn biết được rằng sau mười ngàn năm nữa, người
ta sẽ không xem xét vấn đề theo cách ngược lại, tức là vật chất đã ra
đời từ sự sống? Bạn chuyển từ vật chất tới sự sống chẳng qua vì tri thức
hiện nay của bạn, vốn bị giới hạn so với tri thức trong tương lai của
nhà tự nhiên học, nói với bạn rằng sự vật không thể hiểu theo cách nào
khác. Nếu bạn muốn hiện diện giữa các tư tưởng khoa học, thì vấn đề là
bạn phảitống khứ những lập luận và tư tưởng có tính tiên nghiệm (a
priori) ấy đi, …”.
Thế mới biết cái đầu triết học vẫn nhìn xa và nhìn sâu hơn cái đầu khoa học thuần túy.
.
KẾT:
Xét cho cùng, những người như Pasteur khác những người như Darwin ở cái gì?
Triết học!
Nhưng triết học vẫn còn cao xa quá. Có thể nói cụ thể hơn. Cái gì làm
cho người ta có cách nhìn thế giới khác nhau? Người gợi ý cho chúng ta
nhận ra sự khác biệt giữa hai loại người trên thế gian này lại không ai
khác Einstein. Ông nói:
“Có hai cách sống: bạn có thể sống như chẳng cái có gì là PHÉP MẦU cả; hoặc bạn có thể sống như mọi thứ đều là một PHÉP MẦU”.
Nói như thế tức là ông đã tự ngầm xếp mình vào loại thứ hai. Godel,
Pasteur, và nhiều nhà khoa học lỗi lạc khác cũng thuộc loại thứ hai.
Những người này có khả năng nhìn thấu vào bên trong sự vật. Pasteur nói
điều này rất rõ:
“Người Hy-lạp hiểu được sức mạnh bí ẩn nằm bên dưới
sự vật. Chính họ đã cho chúng ta một trong những từ ngữ đẹp nhất trong
ngôn ngữ của chúng ta, đó là chữ “enthousiasme” (cảm hứng), chữ Hy-lạp
là Εν Θεος , có nghĩa là ‘có Chúa ở bên trong’. Tầm vóc hành vi của con
người được đo bởi niềm cảm hứng mà từ đó những hành vi ấy hiện ra. Hạnh
phúc thay cho ai có Chúa ở bên trong”.
Đó là điều thuyết tiến hóa không hiểu, và không bao giờ hiểu!
.
PVHg, 04/10/2015
Tài liệu tham khảo:
● A Logical Journey (supplemental biography of Kurt Gödel), Vương Hạo (Hao Wang), MIT Press, 1996. http://kevincarmody.com/math/goedel.html
● Video: Evolutionism: The Greatest Deception of All Time. https://youtube.com/watch?v=v_J00BNYEF8
● The Mathematical Impossibility Of Evolution by Henry M. Morris, Ph.D. http://icr.org/article/mathematical-impossibility-evolution/
● Einstein, Hawking, Darwin, and Flew: Their Thoughts http://evoillusion.org/einsteins-thoughts/
● Louis Pasteur (Wikiquotes) https://en.wikiquote.org/wiki/Louis_Pasteur
● Redécouvrir Dieu par la Raison – Tome III – La Science, By Anthony Ghelfo
● La Science temoigne de Dieu http://sciences-et-religion.com/article-la-science-temoigne…
● Dawinism refuted, Information theory and the End of materialism http://darwinismrefuted.com/end_of_materialism.html
.
Nguồn: http://viethungpham.com/…/philophical-view-on-evolution-nh…/
(ĐC sưu tầm trên NET) Oscar Là Ai? Câu Chuyện Về Cuộc Đời Bi Kịch Của “Thiên Tài Bị Xã Hội Vùi Dập” Ít ai biết rằng, giải thưởng danh giá của làng điện ảnh – Oscar - được lấy theo tên của nhà văn nổi tiếng Oscar Wilde. Năm 1854, khi rửa tội cho con trai thứ hai nhà Wilde, Đức cha Prideaux Fox không hề biết rằng cậu bé này rồi sẽ là “thiên tài bất thường” của Ireland. Về sau, Oscar Wilde đã trở thành một trong những nhân vật đặc biệt nổi bật của giới văn chương, người luôn ở giữa tôn vinh và hạ nhục, giữa cái đẹp và sự tăm tối, giữa sa hoa và khốn cùng. Không nhiều người có thể trả lời câu hỏi: " Oscar là ai?" Quang Thạch | 01/03/2016 10:07 7 Theo một video phỏng vấn ngay trước thềm Oscar 2016, các diễn viên tới dự giải Oscar cũng không thể trả lời câ...
(ĐC sưu tầm trên NET) Thời sự quốc tế sáng 10/5/2018 TIN TỨC VIỆT NAM MỚI NHẤT TRONG NGÀY 10/5/2018 60 Giây Chiều - Ngày 09/05/2018 - Tin Tức Mới Nhất An ninh ngày mới ngày 09.05.2018 - Tin tức cập nhật TRỰC TIẾP THỜI SỰ BIỂN ĐÔNG 10/05 Cận cảnh Tàu Việt Nam trong diễn tập Komodo 2018 Hai Chị Em - Trung Hậu và Thuỵ Vân Hội nghị Trung ương 7: Sẽ có quyết sách dẹp vấn nạn "cả họ làm quan" (TTXVN/Vietnam+) 09/05/2018 21:06 GMT+7 Bản in Đại biểu dự hội nghị. (Ảnh: Phương Hoa/TTXVN) Hội nghị lần thứ 7, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII, diễn ra từ ngày 7-12/5, tập trung thảo luận, cho ý kiến về các nội dung: xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; cải cách chính sách tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang và người lao động trong các doanh nghiệp; cải cách chính sách bảo hiểm xã hội; và một ...
(ĐC sưu tầm trên NET) Giang hồ Sài Gòn trước 1975: Trùm du đãng Mã Thầu Dậu Mã Thầu Dậu nhận tất cả đơn đặt hàng giải quyết ân oán trong đời thường và trong làm ăn. "Tiền nào của ấy" nên mỗi dịch vụ đều có mức giá khác nhau. Trùm du đãng một vùng rộng lớn không hành xử như đám du đãng cắc ké. Chợ Lớn có trùm du đãng ba Tàu Mã Thầu Dậu (Con ngựa đầu gà) nổi tiếng với vai trò đâm thuê chém mướn. Trùm bảo kê Mã Thầu Dậu xuất thân từ một đứa bé con nhà người Hoa gốc Quảng Đông nghèo. Tuổi thơ Mã Thầu Dậu trải qua nhiều cơ cực, từ bửa củi thuê, bưng cà phê, bưng hủ tiếu đến cả rửa chén bát thuê. Mã Thầu Dậu khởi nghiệp trùm du đãng khét tiếng trên hè phố La Kai (đường Nguyễn Tri Phương, quận 5 ngày nay). Hắn nổi danh nhờ những vụ trừ khử đám du thủ du thực cho các chủ tiệm buôn giàu có người Hoa và dần đi theo con đường đâm thuê chém mướn chuyên nghiệp. Khu vực chợ Lớn xưa Băng du đãng Mã Thầu Dậu h...
Nhận xét
Đăng nhận xét