Nhìn trai bản cưỡng hiếp vợ 80 tuổi, cụ ông đột tử
Giết người theo tên
Một trong những vụ án chưa được phá nổi tiếng nhất trong lịch sử
hình sự tại quốc gia Bắc Mỹ này chính là vụ “giết người theo tên”. Có
lẽ, hàng chục, hàng trăm năm sau, người Mỹ vẫn không thể biết được chân
dung thực sự của tên sát nhân, cũng như căn nguyên vì đâu, mà gã lại có
những hành động tội ác man rợ và kỳ quái đến vậy.
Tên sát nhân bị ám ảnh bởi những chữ cái
Không phải ngẫu nhiên mà truyền thông Mỹ xếp vụ án “giết người theo tên”
ngay hàng đầu trong bảng xếp hạng những vụ án chưa được phá nổi tiếng
nhất lịch sử Hoa Kỳ. Xét một cách toàn diện, đây là vụ án chấn động ở
mọi mặt với mức độ ra tay hàng loạt, thủ đoạn giết người vô cùng tàn độc
và hành động lẩn trốn siêu tinh vi. Chỉ trong vòng chưa đầy 3 năm (từ
1971 đến 1973), đã có ít nhất 3 nạn nhân bị giết hại bởi những kịch bản
tương tự. Bắt cóc, hãm hiếp dã man rồi bị giết ngay sau đó.
Một điều kỳ lạ khiến tất cả những người chứng kiến phải lạnh gáy, đó là
các nạn nhân xấu số đều có chữ cái đầu của họ và tên giống hệt nhau. Nhà
chức trách đã liên tưởng đến một tên sát nhân cuồng tín, bị ám ảnh bởi
những chữ cái và tìm mọi cách khoanh vùng các đối tượng tình nghi nhưng
tất cả đều vô vọng. Thủ phạm vẫn lặn không sủi tăm. Hàng chục năm sau và
cho đến tận ngày nay, hàng trăm cuộc điều tra được mở, rất nhiều nghi
phạm đã được thẩm vấn nhưng chân dung kẻ sát nhân thực sự vẫn là một bí
ẩn không lời giải. Nhiều giả thuyết được đưa ra, có thể kẻ sát nhân đã
chết, cũng có thể gã đang lẩn trốn đâu đây nhưng để đưa gã ra ánh sáng
thực sự là thử thách quá sức đối với lực lượng chức năng.
Theo những hồ sơ hiếm hoi còn lưu giữ tại cơ quan điều tra, vụ án bắt
đầu xảy ra từ năm 1971. Kẻ sát nhân nhập cuộc với cô bé 10 tuổi Carmen
Colon. Theo lời kể của gia đình, cô bé mất tích vào ngày 16/11/1971 khi
đang trên đường từ trường về nhà. Từ chỗ lo lắng Carmen Colon bị lạc
đường, gia đình dần nghĩ đến tình huống cô bé bị bắt cóc. Một cuộc điều
tra quy mô đã diễn ra nhưng tất cả dấu vết liên quan đến cô bé đều vô
cùng mờ nhạt. Cảnh sát địa phương đã áp dụng mọi phương pháp có thể
nhưng họ vẫn không thể tìm ra Colon. Kịch bản xấu đã được nghĩ đến. Đúng
như dự đoán, chỉ 2 ngày sau, xác cô bé được tìm thấy ở thị trấn
Churchville, cách nơi cô bé sống 12 dặm. Không có bất kỳ dấu vết nào
vương lại của tên sát nhân. Một cảnh sát đã nhận ra sự liên quan giữa
tên họ cô bé và chữ cái đầu tên thị trấn này (đều là chữ C) nhưng chi
tiết này đã bị bỏ qua lúc đó. Vụ án bị chìm nghỉm giữa hàng trăm vụ án
khác xảy ra tại Rochester, New York cùng năm đó.
Bước sang năm 1973, một cô bé khác, Wanda Walkowicz lại biến mất vào
ngày 2/4/1973. Lập tức trường hợp này gây được sự chú ý của cảnh sát, vì
nó gợi nhớ đến cô bé Carmen Colon. Một kịch bản tương tự được dựng lại
phục vụ cho công tác phá án. Dựa vào những thông tin thu thập được sau
vụ Colon, cảnh sát suy đoán rằng thành phố Webster, 7 dặm tính từ
Rochester sẽ là nơi tên sát nhân chọn để vứt xác cô bé. Một lực lượng
được điều động xuống Webster điều tra. Thật kỳ lạ, đúng như dự đoán,
ngay ngày hôm sau, thi thể Walkowicz được tìm thấy. Cũng giống như
Colon, Walkowicz đã bị kẻ thủ ác hãm hiếp dã man rồi giết chết sau đó
rút lui không một dấu vết.
Hai vụ án xảy ra trong hai năm với cùng một kịch bản đã giúp các nhà
chức trách đi đến kết luận chắc chắn rằng, họ đang truy tìm một kẻ giết
người hàng loạt. Những điểm trùng khớp của hai vụ án đã được đưa ra xem
xét. Tên sát nhân dường như bị ám ảnh bởi những chữ cái tên nạn nhân.
Cũng từ đây, họ đặt cho vụ án bí ẩn này bí danh “vụ án kẻ giết người
theo tên”. Thế nhưng, điều công chúng mong chờ nhất là danh tính kẻ thủ
ác thì cơ quan chức năng đã không làm được.
Bẵng đi một thời gian, tên sát nhân lại ra tay. Lần này, cũng vẫn kịch
bản tương tự, cô bé xinh xắn với cái tên Michelle Maenza trở thành nạn
nhân. Maenza được nhìn thấy lần cuối cùng ngày 26/11/1973. Cảnh sát đã
dùng tất cả nhân lực và phương tiện mà họ có để tìm mọi cách giải cứu cô
bé trước khi tên giết người hãm hại cô. Thế nhưng họ lại một lần nữa
bất lực. Chỉ 48 giờ sau đó, xác cô bé được tìm thấy ở thành phố Macedon,
cách Rochester 15 dặm. Hung thủ vẫn bặt vô âm tín và thách thức công
lý.
Những trùng khớp lạnh gáy
Ba vụ án xảy ra trong 3 năm, tại 3 địa điểm khác nhau nhưng đều có chung
một kịch bản. Tất cả các nạn nhân đều là nữ, đều 10 tuổi. Các nạn nhân
xuất thân từ những gia đình nghèo khó theo đạo Thiên chúa và chịu sự rèn
luyện khắc khổ ở trường. Thoạt nhìn sẽ chẳng có sự liên hệ nào nhưng
tất cả đều bị bắt cóc, hiếp và giết dã man. Chưa hết, điều gây lạnh gáy
của vụ án này chính là sự giống nhau đến kinh ngạc của các nạn nhân. Các
cô bé đều có chữ cái đầu của họ và tên giống hệt nhau. Xác của cả ba
đều được tìm thấy ở nơi có cùng chữ cái đầu với họ tên của các cô bé
(với Carmen Colon là Churchville - chữ C, Wanda Walkowicz được tìm thấy ở
Webster – chữ W và Michelle Maenza là chữ M – Macedon). Liệu có sự liên
hệ hay sắp đặt gì ở đây?
Ba cô bé nạn nhân
Mọi điều tra đều rơi vào ngõ cụt
Từ những căn cứ thu thập được, đặc biệt về sự giống nhau của các nạn
nhân, cảnh sát tin rằng kẻ thủ ác rất có thể làm việc trong các dịch vụ
xã hội. Nhiều người thậm chí nghi ngờ kẻ sát nhân có thể làm việc ngay
trong trường nơi các bé theo học, biết tường tận về gia đình cũng như
đường đi nối lại của các bé. Thế nhưng tất cả mới chỉ là phỏng đoán.
Động cơ do đâu mà hung thủ lại ra tay vẫn không thể lý giải được. Rất có
thể, hung thủ mắc một căn bệnh cuồng tín, bị ám ảnh bởi những chữ cái,
thích hiếp và giết trẻ em...
Theo nhà chức trách, rất nhiều đối tượng tình nghi đã được triệu tập để
thẩm vấn nhưng gần như không có kết quả. Kẻ tình nghi lớn nhất tự tử sáu
tuần sau khi Maenza được tìm thấy. Thế nhưng, gã đã được tuyên bố trong
sạch năm 2007 qua kiểm tra ADN. Người cậu của Colon cũng bị tình nghi
cho đến tận khi ông này tự treo cổ vào năm 1991. Một kẻ tình nghi khác
có tên Kenneth Bianchi cũng được giới chức trách đưa vào tầm ngắm. Sau
đó không lâu, Bianchi cũng bị cáo buộc có liên quan đến vụ mất tích của
hai thiếu nữ ở thành phố Bellingham, bang Washington cũng với kịch bản
tương tự.
Lật lại hồ sơ, cảnh sát phát hiện ra Kenneth Bianchi chuyên hành nghề tú
ông. Nạn nhân đầu tiên của gã là một gái mại dâm không biết nghe lời.
Bianchi đã tra tấn cô gái tội nghiệp trước khi xuống tay giết cô và
thích thú ngắm nghía với chuyện này. Sau khi bị bắt, tên Bianchi cố tình
giả chứng rối loạn nhân cách để thoát tội. Tuy nhiên, cuối cùng hắn vẫn
phải trả giá cho những tội ác mà hắn gây ra. Thế nhưng, liên quan đến 3
vụ án chấn động xảy ra từ năm 1971 đến 1973, phía cảnh sát vẫn không
thể tìm được bằng chứng chứng minh gã là “kẻ giết người theo tên”.
Một nghi phạm khác cũng được điều tra là Joseph Naso (SN 1934 tại thành
phố Rochester, New York). Naso từng phục vụ trong Không lực Mỹ vào thập
niên 50 của thế kỷ trước. Khi đó, Naso gặp và kết hôn với một phụ nữ tên
là Judith, họ có với nhau một đứa con trai, Charles. Nhưng sau 18 năm,
hai người ly dị. Naso chuyển đến sống ở nhiều nơi làm thợ ảnh chuyên
nghiệp. Trong quá trình điều tra, cảnh sát đã phát hiện hàng nghìn bức
ảnh chụp phụ nữ mặc đồ lót trong nhà của y ở Reno, bang Nevada. Ngày
13/4/2010, Joseph Naso bị truy tố về tội sát hại 4 phụ nữ ở California.
Cảnh sát cũng nghi ngờ y liên quan đến cái chết của 3 bé gái trong vụ
“giết người theo tên”. Tuy nhiên, họ vẫn không thể chứng minh được tội
trạng.
Kết quả là hồ sơ vụ án vẫn nằm trong hộc tủ “chưa được phá” của cảnh sát
Mỹ. Và cho đến tận bây giờ, danh tính của tên sát nhân kinh hoàng này
vẫn chìm trong bóng tối.
Albert
Fish – ma sói vùng Wysteria, là một trong những tên sát nhân bệnh hoạn
nhất lịch sử nước Mỹ với những hành động và ý nghĩ giết người vô cùng
quái dị.
Albert Fish (19/5/1870) là con út trong gia đình có ba anh chị em tại
Washington. Sau khi cha mất, Fish được mẹ đưa vào trại trẻ mồ côi Saint
John, nơi Fish bắt đầu chịu đựng những cơn đau về thể xác do đánh đập
mang lại. Từ đây, tuổi thơ của hắn dần trôi qua trong nhà tế bần.
Năm 1890, Fish chuyển tới thành phố New York. Đến năm 1898, mẹ Fish đã
sắp xếp một cuộc hôn nhân cho hắn ta với một người phụ nữ và giữa họ có
sáu người con. Nhưng vào năm 1917, vợ của Fish bỏ mặc hắn ta với đàn con
đi theo người đàn ông khác.
Kể từ đó, Albert Fish biến thành người lập dị có những suy nghĩ cũng như
hành vi kỳ quái. Hắn bắt đầu sưu tập những cuốn sách có nội dụng về tội
phạm để đọc, khiến cho nỗi ám ảnh ngày càng tăng cao.
[Only registered and activated users can see links]
Vào tháng 6/1928, Fish bắt gặp cô bé Grace Budd 12 tuổi. Thực ra, mục
tiêu ban đầu của Fish là anh trai của Grace Budd là Edward Budd.
Edward Budd là một chàng trai 18 tuổi nghèo khó nhưng có nghị lực. Anh
quyết tâm thực hiện một điều gì đó lớn lao, để giúp đỡ bố mẹ cũng như
thoát khỏi sự nghèo đói.
Ngày 25/5/1928, Edward đăng một quảng cáo trên tờ New York World với nội
dung: “Người đàn ông trẻ, 18 tuổi muốn tìm một công việc ổn định”.
Ba ngày sau, có một người đàn ông lớn tuổi tự nhận là Frank Howard – một
nông dân đến từ Farmingdale muốn nhận Edward vào làm việc.
Người đàn ông đến tận nhà Edward để chờ cậu. Trong khi chờ đợi, bà Delia
mẹ của Edward có cơ hội nhìn kỹ hơn người đàn ông muốn tuyển dụng con
trai mình. Ông ta có một gương mặt hài hòa, mái tóc màu xám và bộ ria
mép rũ xuống.
Người đàn ông lạ mặt giới thiệu, ông ta sống bằng nghề trang trí nội
thất trong thành phố và sau đó về quê mua một trang trại bằng tiền tiết
kiệm của mình.
Ông ta có sáu người con, ông ta cũng nói với sự giúp đỡ của con cái, ông
có một trang trại với hàng trăm con gà, nửa tá bò sữa. Bây giờ, khi
những người con đi nơi khác, ông cần một người để phụ giúp công việc.
Sau khi gặp được Edward, Howard đồng ý trả cho chàng trai 15 USD/tuần.
Howard thậm chí còn đồng ý thuê Willie, người bạn thân nhất của Edward.
Sáng ngày 3/6/1928, Frank Howard đến nhà của Edward và mang tặng cho
chàng trai dâu tây tươi cũng như pho mát. Theo ông, đó là những sản phẩm
được làm trực tiếp từ trang trại.
Bà Delia mời ông ở lại ăn trưa với gia đình và đây cũng là lần đầu tiên
cha của Edward, là Albert Budd nói chuyện với người sẽ trở thành chủ
nhân mới của con trai mình.
Ông Albert là người khuân vác cho một công ty bảo hiểm, ông rất ấn tượng
với Frank Howard và cảm thấy người đàn ông này rất đáng tin cậy. Khi
tất cả cùng ngồi xuống ăn trưa, cánh cửa mở ra và một cô bé đáng yêu
xuất hiện.
Grace Budd ngân nga hát một bài hát, đôi mắt mở to và mái tóc nâu cùng
với đôi môi hồng. Cô bé xinh đẹp vẫn mặc quần áo ngủ khi bước ra phòng
ăn. Một bộ quần áo trắng với tất trắng kèm một chuỗi ngọc trai khiến cô
bé trông trưởng thành hơn rất nhiều.
Frank Howard, không thể rời mắt khỏi cô bé xinh đẹp. Ngay lúc đó, Howard
rút trong túi ra một xấp tiền để đếm. Gia đình Budd nghèo khó rất sửng
sốt khi Howard đếm tiền, 92 USD và 50 xu là số tiền Howard đang có. Ông
ta liền trao cho cô bé Gracie 50 xu để cô bé mua kẹo cho mình và em gái
Beatrice.
[Only registered and activated users can see links]
Grace Budd
Sau khi cho tiền cô bé, Howard muốn về và nói sẽ quay lại vào buổi tối
để nhận Edward và Willie. Ông nói rằng bây giờ phải đi đến bữa tiệc sinh
nhật của người bạn. Trước khi đi, Howard còn cho các chàng trai 2 USD
để xem phim.
Nhưng khi chuẩn bị rời khỏi căn nhà, Howard ngỏ ý mời Gracie đi cùng với
ông đến bữa tiệc sinh nhật. Ông hứa sẽ chăm sóc thật tốt và đưa Gracie
về trước 9h tối.
Bà Delia hỏi địa chỉ nơi Howard định đưa cô bé đến. Ông nói mình sẽ đến
căn hộ chung cư tại 137 Columbus. Bà ngần ngại không muốn cho Gracie đi,
nhưng cha của cô bé lại nói nên để Gracie đến những nơi đó.
Và thế là, bà Delia giúp con gái mặc chiếc áo khoác đẹp nhất và theo
Howard ra ngoài. Chỉ một lát sau, 2 người biến mất trên đường phố tĩnh
mịch...
Hannibal
09-19-2015, 11:07 PM
Albret
Fish sau khi nhìn thấy Gracie, hắn không thể rời mắt khỏi cô bé xinh
đẹp. Từ giây phút đó, kẻ sát nhân đã lên kế hoạch để giết hại cô bé.
Suốt buổi tối hôm đó, cả gia đình chờ đợi Gracie nhưng mãi không thấy cô
bé trở về. Ngay sáng hôm sau, Edward xuống đồn cảnh sát để báo cáo về
việc em gái mình bị mất tích.
Cảnh sát bắt đầu tìm kiếm Gracie. Họ kiểm tra tất cả mọi thứ về Frank
Howard, và thông tin tồi tệ nhất đến với gia đình Budd khi cảnh sát nói
địa chỉ Howard cho là không có thật và cũng không có ai tên là Frank
Howard, cũng không có trang trại Farmingdale ở Long Island. Tất cả thông
tin người đàn ông này nói với gia đình Budds đều là giả mạo.
Cảnh sát New York đã gửi đi 1000 tờ rơi đến tất cả các đồn cảnh sát trên
toàn quốc, cùng với ảnh của Gracie. Cảnh sát có trong tay 1 số manh mối
tìm kiếm, đó là những gì Howard viết ở gia đình Budd. Đồng thời, cảnh
sát cũng tìm ra manh mối ở chiếc xe đẩy khi Howard mang dâu tây đến nhà
Budd. Họ tìm ra được nơi ông ta mua dâu tây và pho mát là ở Đông Harlem
và các cuộc điều tra được mở rộng tại đây. Nhưng tất cả các cuộc tìm
kiếm vẫn không có kết quả gì.
Phải đến tận cuối năm 1934, trường hợp mất tích của Gracie mới có được
đầu mối. Tháng 11/1934, gia đình Budd nhận được một lá thư, Edward đã
đọc và thật sự choáng váng với nội dung trong lá thư:
Bà Budd thân mến!
Vào năm 1894, khi nạn đói đang hoành hành ở Trung Quốc. Thịt của tất cả
các loài động vật đều rất đắt đỏ. Chính vì thế người nghèo ở đây đã bán
những đứa con dưới 12 tuổi của mình cho các cửa hàng thực phẩm. Vào thời
điểm đó, nếu bạn vào bất kỳ cửa hàng thực phẩm nào và yêu cầu mua thịt.
Tôi dám chắc đó không phải thịt động vật mà là thịt người.
Tôi có một người bạn ở đó rất lâu và anh ta đã nhiễm hương vị thịt
người. Khi về đến New York, anh ta bắt cóc 2 đứa con trai của mình, một
đứa 7 tuổi và 1 đứa 11 tuổi. Đầu tiên anh ấy giết chết cậu bé 11 tuổi
bởi vì thịt của nó béo hơn. Tất cả các phần cơ thể của cậu bé được nấu
chín trừ đầu, xương và ruột.
Anh ta chế biến cậu bé trong lò với đủ các món luộc, nướng, chiên và
hầm. Đứa con thứ 2 cũng được làm theo đúng cách như vậy. Thời điểm đó
tôi đang sống gần đấy và luôn mong muốn sẽ có cơ hội nếm thử món thịt
người này’.
Vào tháng 6/1928, tôi đến nhà bà và mang theo chút pho mát, dâu tây.
Chúng ta cùng nhau ăn trưa, Grace ngồi trong lòng tôi, hôn tôi và từ đó
tôi quyết tâm ăn thịt cô bé.
Tôi giả vờ nói đưa cô bé tới một bữa tiệc sinh nhật và gia đình đồng ý
để Grace đi. Tôi đưa cô bé đến một căn nhà trống ở Westchester. Khi đến
đó, cô bé ở bên ngoài nhặt hoa dại còn tôi đi lên lầu lột sạch quần áo
của mình ra vì sợ chúng sẽ bị vấy bẩn bởi máu.
Khi tất cả đã sẵn sàng, tôi đi ra cửa sổ và gọi Grace lên phòng. Khi
nhìn thấy tôi không mặc gì trên người, cô bé bắt đầu khóc và chạy xuống
phía dưới cầu thang. Tôi túm lấy và lột hết quần áo trên người của
Grace. Dĩ nhiên cô bé có đá và cắn tôi nhưng vô ích. Tôi giết chết Grace
sau đó cắt từng miếng thịt nhỏ để nấu nó và ăn. Tôi mất 9 ngày mới có
thể ăn hết cơ thể cô bé. Và Grace qua đời khi còn là "trinh nữ".
[Only registered and activated users can see links]
Lá thư gốc của Abert Fish.
Không ai muốn tin bức thư đó là sự thật. Nhưng sau khi các thám tử kiểm
tra kỹ lưỡng chi tiết và nét chữ, họ nhận ra dường như mọi điều kẻ giết
người viết trong bức thư đều đúng với những gì diễn ra.
Cũng từ bức thư này, những manh mối quan trọng cũng được tiết lộ. Trên
phong bì của bức thư có một biểu tượng hình lục giác và các chữ cái
NYPCBA của Hiệp hội từ ái New York. Với sự hợp tác của Chủ tịch hiệp
hội, một cuộc họp khẩn cấp với các thành viên được tổ chức. Cảnh sát yêu
cầu tất cả các thành viên phải trải qua một kỳ kiểm tra chữ viết tay để
tìm ra người có chữ viết tương tự như chữ trong bức thư.
Cùng lúc đó, bà chủ nhà trọ tại 200 East đường 52 xác nhận với cảnh sát,
có một người giống với Frank Howard đã sống tại căn nhà của bà trong
khoảng thời gian 2 tháng. Nhưng, người đàn ông này rời căn phòng chỉ vài
ngày trước khi cảnh sát đến. Bà chủ nhà trọ cho biết, người đàn ông này
tên Albert Fish.
Ngày 13/12/1934, cảnh sát nhận được cuộc điện thoại của bà chủ nhà trọ
nói kẻ giết người đang trong căn phòng trọ của mình. Khi cảnh sát bước
vào, họ thấy hình ảnh người đàn ông đang ngồi 1 mình với tách trà. Ông
ta thừa nhận mình là Albert Fish.
Đột nhiên, người đàn ông thò tay vào túi áo, lấy ra lưỡi dao cạo và
hướng về phía cảnh sát. Nhưng rất nhanh chóng, cảnh sát nắm lấy tay của
Fish và hô to: "Cuối cùng chúng tôi cũng bắt được ông".
[Only registered and activated users can see links]
Sau hơn sáu năm lẩn trốn Albert Fish cũng bị bắt
Sau hơn sáu năm lẩn trốn kẻ sát nhân cũng bị bắt giữ. Albert Fish bị tra
hỏi bởi nhiều cơ quan thực thi phát luật và các bác sỹ tâm thần. Từ
đây, những câu chuyện rợn người về cách giết người dã man của Albert
Fish mới dần được hé lộ.
Hannibal
09-19-2015, 11:12 PM
Cuối cùng, kẻ giết bé Gracie cũng xuất hiện và từ đây những câu chuyện giết người man rợ của hắn mới dần được hé lộ.
Sau khi bị bắt,Albert Fish khai nhận với cảnh sát rằng vào mùa hè năm
1928, ông thực sự muốn thỏa mãn bản tính khát máu của mình và bắt đầu đi
tìm người để giết.
Khi Albert Fish đọc được những dòng quảng cáo kiếm việc làm của Edward
Budd. Ngay lúc đó, hắn nảy sinh ý định giết chàng trai này chứ không
phải em gái anh ta.
Kế hoạch ban đầu của Fish là đưa chàng trai trẻ đến một nơi thật xa,
khống chế rồi cắt bộ phận nhạy cảm của chàng trai để anh chảy máu đến
chết.
[Only registered and activated users can see links]
Lúc đầu, Albert Fish muốn nhắm vào Edward, nhưng sau đó, hắn nhận ra Gracie mới chính là mục tiêu hắn cần
Sau khi đến nhà Budd lần đầu tiên, Fish đã đi mua các công cụ để giết
người như một con dao cạo, cưa và một con dao bán thịt. Nhưng sau khi
đến nhà Budd lần thứ 2, hắn thấy Edward và người bạn Willie quá cao lớn.
Albert Fish phải tự thuyết phục mình sẽ khống chế được cả 2 chàng trai
này.
Nhưng khi nhìn thấy Gracie, Fish thay đổi hoàn toàn kế hoạch của mình. Hắn nhận ra, Gracie mới là người hắn muốn giết.
Khi Fish rủ cô bé đi chơi, Gracie không một chút nghi ngờ gì và nhanh
chóng theo ông ta lên một chuyến tàu ở Bronx. Fish mua vé tàu loại 2
chiều cho mình nhưng chỉ mua loại 1 chiều cho Gracie. Chuyến tàu đi đến
làng Worthing ở Weschester.
Trên đường đi, cô bé 10 tuổi say mê ngắm cảnh ở vùng nông thôn nước Mỹ.
Trong cuộc đời mình, Gracie mới chỉ 2 lần được đi ra khỏi thành phố. Đây
có lẽ là chuyến đi tuyệt vời nhất đối với cô bé, trước khi bị giết.
Tại nhà ga Worthington, Fish quá say mê khi nghĩ về kế hoạch của mình mà
bỏ quên túi đựng công cụ giết người trên tàu. Trớ trêu thay, chính
Gracie là người nhắc hắn quay lại mang nó theo.
Sau đó, hai người phải đi bộ rất xa để đến được một tòa nhà hai tầng bị
bỏ hoang ở Wisteria Cottage. Trong khi, Gracie mải mê ngắm nhìn những
đóa hoa dại bên đường thì Fish lên phòng ngủ tầng 2, mở gói công cụ giết
người, cởi quần áo ra.
Khi chuẩn bị xong, hắn gọi Gracie lên lầu. Gracie không một chút nghi
ngờ, cầm đóa hoa dại trên tay đi vào nhà và lên phòng ngủ. Khi nhìn thấy
Fish trần truồng cô bé hét lên và cố gắng trốn thoát. Nhưng, Fish đã
nắm lấy và bóp nghẹt cổ họng của Gracie.
Sau khi thấy Gracie chết, Fish dựng cô bé vào một lon sơn cũ, chặt đầu
cô bé và hứng máu vào chính lon sơn đó. Sau đó, hắn ném lon máu ra ngoài
rồi quay lại cởi quần áo cô bé ra, dùng dao chặt thịt cắt cơ thể Gracie
thành hai phần.
[Only registered and activated users can see links]
Một trong những dụng cụ gây án của tên sát nhân máu lạnh
Các bộ phận cơ thể cô bé được Fish bọc vào một tờ báo. Phần còn lại ông
ta để lại ở căn nhà. Vài ngày sau, hắn quay lại đó và ném chúng lên trên
một bức tường đá phía sau nhà.
Sau khi thú nhận hành vi tội ác của mình, cảnh sát hỏi Fish: "Vì sao anh
có thể làm những điều khủng khiếp này?". Hắn trả lời ngay không một
chút ngập ngừng: "Tôi không thể giải thích được điều đó".Ngày hôm sau,
cảnh sát đến Wisteria Cottage để thu hồi hài cốt Gracie. Albert Fish
đứng gần đó và trên gương mặt hắn không có một chút cảm xúc nào.
Lý lịch của Albert Fish, bị công khai cho báo chí biết và cái tên này
chẳng có gì xa lạ với cảnh sát. Từ năm 1903, ông ta bị bỏ tù vì tội trộm
cắp. Kể từ đó, Fish bị bắt giữ tới 6 lần cho những tội danh khác nhau.
Ông ta cũng phải đến bệnh viện hơn 1 lần trong đời.
Cũng theo lời kể của Fish, sau những năm tháng vất vả, ông ta có một căn
hộ tại Washington. Đó cũng là nơi ông và vợ của mình sống với sáu đứa
con và sau đó hai người chia tay.
Khi bỏ nhà đi, vợ của Fish đã mang tất cả đồ nội thất trong căn nhà đi
kể cả tấm nệm cho trẻ em ngủ. Vào thời điểm bị bắt, sáu người con của
Fish có tuổi từ 21 đến 35. Nhưng, họ không bao giờ vào tù để thăm cha
mình.
Sau khi các tội danh giết người được làm sáng tỏ, Albert Fish tiếp tục
thú nhận về cuộc sống và động cơ gây ra tội ác của mình. Lúc này, dư
luận bắt đầu chú ý xem ông ta có bị tâm thần hay không?
Những ngày tiếp theo, Fish thú nhận với cảnh sát những hành vi tàn độc
của mình: "Tôi trở về với phần cơ thể của Gracie. Trước mặt tôi là cơ
thể của đứa trẻ 12 tuổi. Tôi đã hầm phần tai và mũi của cô bé. Phần
khuôn mặt và bụng tôi đặt hành tây, cà rốt, cần tây, muối và hạt tiêu
vào bên trong. Thật là món ăn ngon".
Fish tiếp tục thú nhận: "Tôi đặt dải thịt xông khói lên và bỏ vào lò
nướng. Tiếp sau đó khi thịt đã nướng được 1/4 giờ, tôi đổ khoảng nửa lít
nước lên trên thịt và đặt hành tây vào đó. Sau khi nướng được hai giờ,
món ăn đã hoàn thành. Tôi chưa bao giờ ăn món thịt nào ngọt ngào như
vậy. Tôi đã ăn hết chỗ thịt đó trong vòng 4 ngày".
Vài ngày sau khi Fish thú nhận toàn bộ tội ác, cảnh sát cũng nhận được
tin báo của một người đàn ông đến từ Statens Island. Ông nói với cảnh
sát rằng Fish cũng chính là người giết cô con gái 8 tuổi của ông.
Không những thế, Fish cũng đã sát hại một cô gái 15 tuổi tên Mary
O’Connor. Cơ thể của Mary được tìm thấy ở căn nhà gần khu rừng mà Fish
giết cô bé.
Với tất cả những tội trạng trên, cơ hội duy nhất để Fish vô tội là hắn
ta phải chứng minh được mình mắc chứng bệnh tâm thần. Bác sỹ Fedric
Wertham, người trực tiếp khám cho Fish đã viết trong cuốn sách The Show
của mình là: "Fish là một người đàn ông nhu mì, hiền lành, tốt bụng và
lịch sự. Nếu bạn chọn một người nào đó để chăm sóc con cái mình, Fish sẽ
là một trong những người bạn chọn".
Ông Wertham cũng cho biết, gia đình nhà Fish có tiền sử mắc bệnh tâm
thần. Một người chú của Fish bị rối loạn tâm thần tôn giáo và qua đời
tại bệnh viện.
Hắn cũng có một người em trai yếu ớt và chết vì tràn dịch não, một người
cô bị điên, một người anh bị nghiện rượu mãn tính và một người chị có
biểu biện của tâm thần.
[Only registered and activated users can see links]
Bác Sỹ Wertham và các nhân viên điều tra tin rằng Albert Fish là một người tâm thần
Albert Fish dường như cũng bị di truyền về hành vi rối loạn tâm thần.
Ông ta tuyên bố tên thật của mình là Hamilton Fish và khi quá mệt mỏi vì
bị trêu chọc, ông lấy tên Albert Fish.
Bác sỹ Wertham nói, Fish là trường hợp rất đặc biệt trong lịch sử tâm
thần và hình sự thế giới. Kẻ sát nhân nói với bác sỹ hắn đã giết ít nhất
100 đứa trẻ.
Fish thường dụ dỗ trẻ con bằng cách cho tiền hoặc kẹo, hắn cũng thường
chọn trẻ em người Mỹ gốc Phi để tránh sự quan tâm của cảnh sát khi chúng
mất tích.
Hắn cũng nói, đã sống ở ít nhất 23 quốc gia và tại mỗi nơi đó Fish giết
ít nhất 1 đứa trẻ. Fish không bao giờ trở lại những nơi mình giết người.
Sau khi giết trẻ con, hắn thường ép mình phải viết thư cho gia đình nạn
nhân.
Ngoài ra, Fish cũng rất dửng dưng giữa sự sống và cái chết. hắn tuyên
bố: "Tôi không có mong muốn đặc biệt nào để sống cũng chẳng có mong muốn
đặc biệt nào khi chết. Tôi thờ ơ với mọi thứ". Khi bác sỹ Wertham hỏi
Fish có bị điên không, hắn trả lời: “Tôi không bao giờ hiểu được bản
thân mình".
Ở tuổi 55, Fish bắt đầu có những cảm giác và suy nghĩ hoang tưởng. Bác
sỹ Wertham nói: "Ông ta luôn tin mình có tầm nhìn của Chúa và các thiên
thần. Fish chìm đắm trong các suy đoán về tôn giáo cùng với những hành
động gian ác, tội lỗi. Hắn chuộc lỗi bằng cách tạo ra các đau đớn về thể
xác đối với những đứa trẻ. Fish tin Thiên Chúa nhiều lần ra lệnh cho
hắn hành quyết những đứa trẻ vô tội".
Theo các chuyên gia, Fish bị ảo tưởng và đặc biệt là hắn không phân biệt
được những câu hỏi về sự trừng phạt, tội lỗi, chuộc tội, tôn giáo, tra
tấn, tự trừng phạt. Bác sỹ Wertham và các nhân viên điều tratin rằng
Fish là 1 người tâm thần.
Theo điều tra chính thức, cảnh sát tin Fish đã giết chết ít nhất 15 đứa
trẻ và làm tổn thương khoảng 100 người khác. Con số này được kiểm chứng
nhiều lần và là con số khủng khiếp vào thời điểm đó.
Albert Fish - kẻ giết người với ý nghĩ và hành động ghê rợn đã phải ngồi
trên ghế điện để trả giá cho những hành vi tội ác của mình.
Ngày 11/3/1935, các cuộc xét xử Albert Fish về hành vi giết Grace Budd
bắt đầu diễn ra tại White Plains, New York. Elbert Gallagher là người
phụ trách việc truy tố còn Dempsey là luật sư bào chữa cho Fish.
Trong khi, Dempsey tập trung các lời biện hộ của mình vào việc Fish bị
tâm thầm và khi gây án ông ta không bình thường về đầu óc, thì Gallagher
tập trung sự việc theo hướng ngược lại.
Dempsey cố gắng chứng minh rằng, cả cha và mẹ Gracie đều đồng ý để cô
gái đến bữa tiệc sinh nhật cùng với tên sát nhân. Khi tòa gọi cha Gracie
đứng lên làm chứng, ông đã không kìm nén được cảm xúc và khóc thành
tiếng rất lớn.
Vị luật sư truy tố Gallagher phát biểu: "Bây giờ trong trường hợp này,
chúng ta có thể khẳng định Fish hoàn toàn tỉnh táo khi gây án. Ông ta có
vị thế hoàn toàn bình thường và phân biệt được đúng sai khi thực hiện
hành vi của mình.
Năm 1928 khi giết bé Grace Budd, ông ta hoàn toàn bình thường khi đến
nhà dụ dỗ cô bé cũng như hành động mua sắm các công cụ để giết người.
Ông ta có một trí nhớ tuyệt vời ở độ tuổi của mình. Fish không hề có sự
suy sụp về tinh thần khi bị bắt, ông ta cũng định hướng được toàn bộ môi
trường xung quanh mình.
Thậm chí, khi đưa cô bé đến căn nhà trống ở sau rừng Fish cũng biết mình
đang thực hiện các hành vi sai trái. Và như vậy, chẳng có lý do gì để
nói ông ta bị tâm thần cả."
[Only registered and activated users can see links]
Trong suốt phiên tòa, Fish có thái độ rất thờ ơ với hành động tội ác của mình.
Vào ngày thứ 3 của phiên tòa, dù vấp phải sự phản đối gay gắt của luật
sư bào chữa, một chiếc hộp đựng những phần còn lại trên cơ thể bé Gracie
vẫn được mang vào phòng xử án để làm bằng chứng. Cảnh sát miêu tả lại
cảnh Fish giết cô bé như thế nào.
Sau đó, Gallagher có một khoảnh khắc rất ấn tượng khi cho tay vào chiếc
hộp và lấy ra hộp sọ của cô bé. Dempsey tập trung vào các vấn đề như
việc ăn thịt người là một hành động điên rồ và Fish bị tâm thần.
Tuy nhiên, vị luật sư bào chữa này không thành công trong việc chứng minh Fish tự làm hại cơ thể mình như đã làm với trẻ em.
Dempsey cho mời các người con của Fish đến phiên tòa để chứng minh, tên
sát nhân đã hành hạ chính bản thân bằng các hành động như đánh bằng roi
hay châm kim lên cơ thể mình.
Những người con của Fish cũng khai nhận, ông ta là một người cha tốt và không bao giờ lạm dụng hay hành hạ thể chất của họ.
Cuối cùng, luật sư bào chữa đã hỏi những người có nhiệm vụ truy tố Fish
trong vụ án. Bác sỹ Charles Lambert, người có cuộc phỏng vấn kéo dài 3
giờ với tên sát nhân tuyên bố Fish không hề bị tâm thần.
Nhưng một số nhân viên an ninh cũng thừa nhận rất có thể Fish bị rối loạn tâm thần trong hành vi cá nhân.
Trong suốt phiên tòa, Fish dường như rất thờ ơ với hành động tội ác của mình.
[Only registered and activated users can see links]
Albert Fish bị xử án tử hình trên ghế điện
Phiên tòa kéo dài 10 ngày kết thúc, Fish bị xử tội tử hình trên ghế
điện. Fish rất sốc vì phán quyết này nhưng dường như việc bị điện giật
có gì đó hấp dẫn ông ta.
Một phóng viên của Daily News viết: "Giọt nước mắt của Fish ánh lên với ý
nghĩ rằng ông ta sắp bị đốt cháy bởi sức nóng mãnh liệt hơn cả những
ngọn lửa ông ta nướng thịt người để ăn".
Vào ngày 16/1/1936, tên sát nhân với ý nghĩ và hành động ghê rợn bị xử án tử hình trên ghế điện.
Một
người đàn bà đơn thân bị giết ngay chính tại nhà mình. Vụ án bế tắc gần
4 thập kỷ không tìm ra hung thủ. Trong một động thái bất ngờ, điều tra
viên Abbe Chabot và các cộng sự nghĩ ra chiêu dụ đối tượng tình nghi
nhai kẹo cao su có thưởng 5 đô la. Kết quả xét nghiệm ADN từ bã kẹo cao
su của can phạm phù hợp với mẫu máu để lại hiện trường vụ án và con dao
hung khí gây án. Chỉ đến khi này hung thủ của vụ án bí ẩn kéo dài nhất
bang Maine mới lộ mặt, bị đưa ra pháp luật trừng trị.
Vụ án bí ẩn 35 năm
Ngày 12-6-1976, người dân ở khu phố State, Augusta gọi điện báo cho cảnh
sát địa phương về sự mất tích của người đàn bà đơn thân Blanche M.
Kimball (70 tuổi). Ngay khi cảnh sát nhận được tin báo, họ đến số nhà
352 phố State, Augusta. Khi phá khóa vào nhà, một cảnh tượng hỗn độn với
kính vỡ và các vật dụng rơi vãi khắp sàn nhà. Lần theo thứ mùi khó chịu
vào tới phòng ngủ, cảnh sát phát hiện ra bà Kimball nằm chết dưới sàn,
quần áo bị tốc lên lộn xộn và cơ thể đang trong quá trình phân hủy.
Henry Ryan, Giám đốc pháp y (thời điểm đó) cho biết, bà Kimball bị đâm
23 nhát vào ngực, 2 vết đâm vào bụng, 16 vết cắt trên đầu và 3 vết cắt ở
bàn tay. Nguyên nhân dẫn đến cái chết của bà Kimball vì một nhát đâm
xuyên tim và chảy máu nhiều. Xung quanh hiện trường vụ án có dấu hiệu bà
đã cố gắng chống cự lại kẻ giết người, cảnh sát xác định đây là một vụ
án mạng và một cuộc điều tra nhanh chóng được tiến hành.
Được biết, trước đó bà Kimball là một kỹ thuật viên nha khoa và cũng là y
tá làm việc cho trung tâm cựu chiến binh đã nghỉ hưu. Sau khi bà
Kimball mất, qua quá trình theo dõi sát sao, cảnh sát đã bắt gặp một
người đàn ông lạ mặt 2 lần giữa khuya khoắt lẻn vào nhà của bà Kimball.
Theo những hàng xóm cho biết, người đàn ông này chính là Raub Gary.
Khoảng 2 tháng trước đây, Raub Gary là người cuối cùng thuê nhà của bà
Kimball. Nhưng gần đây, anh ta đã biến mất.
Cả hai lần bị bắt lên trụ sở cảnh sát để thẩm vấn, Raub Gary đều phủ
nhận không liên quan đến vụ án và đưa ra bằng chứng ngoại phạm của mình.
Anh ta khai rằng, vì không có tiền thuê nhà, nên sau khi không ở trọ
nhà Kimball nữa, anh ta sống tạm ở đầu đường, xó chợ. Hành động lẻn về
nhà bà Kimball giữa đêm khuya như thế là mong tìm một chút gì đó để ăn,
chứ anh ta không hề biết bà ấy đã bị giết thê thảm như thế.
Khi thẩm vấn, trên người Raub không có gì ngoài một đôi giày mới mà anh
ta nói mới mua. Điều tra viên Abbe Chabot – người được giao nhiệm vụ
điều tra chính trong vụ án này cho rằng, Raub làm vậy nhằm xóa dấu vết
mà đôi giày cũ đã để lại hiện trường. Tuy nhiên, họ không bao giờ tìm
được đôi giày cũ Raub đã vứt.
Nhiều năm trôi qua trong sự nỗ lực đi tìm kẻ giết người nhưng hung thủ
vẫn lẩn trốn và không có một bằng chứng hay manh mối cụ thể nào đã khiến
các nhà điều tra tạm đưa hồ sơ vào danh sách “những vụ án chưa được
giải quyết”.
Hung thủ “sập bẫy”
Cho đến tháng 10/2011, vụ án giết hại bà Kimball có thêm thông tin mới.
Năm ấy, Raub Gary (lúc này đã 66 tuổi) bị cảnh sát Seattle bắt giữ vì
tội đánh bị thương một người vô gia cư khác ở Seattle. Nghe tin này,
điều tra viên Abbe Chabot – người được giao tiếp tục điều tra vụ án bà
Kimball, đã tìm đến Sở Cảnh sát Seattle để tìm hiểu. Khi đến đây, điều
tra viên Abbe mới phát hiện ra Raub Gary đã có một hồ sơ đen với một
loạt tội danh trong suốt những năm qua, ngay lập tức anh nghĩ về vụ án
Blanche M. Kimball.
Trong hồ sơ vụ án bà Kimball, năm 2003 đã thêm vào một chi tiết vô cùng
quan trọng, đó là một trong những mẫu máu thu thập được ở hiện trường
(gồm: phòng khách, nhà bếp và con dao hung khí) ngoài mẫu máu của bà
Kimball còn có mẫu máu của người thứ hai. Điều này có nghĩa đó có thể là
máu của hung thủ để lại trong quá trình vật lộn với nạn nhân.
Điều tra viên Abbe Chabot nghĩ cách để lấy ADN của Raub để so sánh. Nhận
được sự hợp tác của cảnh sát Seattle, điều tra viên Abbe và các cộng sự
nghĩ ra chiêu dụ Raub nhai kẹo cao su có thưởng 5 đô la như một trò
chơi cho các tù nhân. Vậy là cuối cùng cũng đã lấy được mẫu nước bọt của
Raub để xét nghiệm ADN và so sánh với mẫu máu tại hiện trường vụ án. Bã
kẹo cao su Raub nhai đã được gửi đến Phòng thí nghiệm của Sở cảnh sát
bang Maine.
[Only registered and activated users can see links]
Raub Gary
Kết quả xét nghiệm ADN từ bã kẹo cao su của Raub phù hợp với mẫu máu để
lại hiện trường vụ án và con dao hung khí gây án. Ngay sau đó, Raub Gary
được xác định chính xác hung thủ.
Cặp
vợ chồng Peter và Gwenda Dixon bị sát hại bằng súng ngắn khi đang đi
dạo trên một con đường ven biển vào mùa hè năm 1989. Sau đó người ta tìm
thấy thi thể họ được cất giấu gần một con đường ven biển, trên một vách
đá cao 60m. Tay của ông Dixon bị trói phía sau. Vợ ông thì chỉ còn mặc
áo. Cảnh sát tin rằng bà đã bị tấn công tình dục. Thẻ ngân hàng của họ
được dùng để rút tiền, cho thấy ông Dixon đã bị tên sát nhân bắt nói mã
số pin. Cảnh sát lại vào cuộc, nhưng rồi không ai bị bắt.
Rất nhiều độc giả đã gọi điện tới bộ phận theo dõi tội phạm của BBC,
trong khi các thám tử đưa ra tới gần 4.000 thông báo. Vụ án này thực sự
trở thành một bí ẩn giữa đời thường khi các nhân viên điều tra phải xem
xét cả những người từng lặn trên vùng vịnh, thậm chí phải phóng to bức
ảnh chụp con bò cái tìm thấy trong máy ảnh của vợ chồng Dixon để tìm ra
số gắn trên tai của nó rồi tìm ra chủ sở hữu, hay điều tra tất cả những
người từng ký vào cuốn sổ trong nhà thờ gần đó mà không thấy manh mối
gì.
[Only registered and activated users can see links]
Cảnh sát dùng chó nghiệp vụ để khảo sát địa điểm xảy ra vụ giết hại ông bà Dixon
Các thám tử thậm chí còn xem xét giữa kẻ sát nhân và quân đội của cộng
hòa Ailen (IRA) xem có mối liên hệ nào không sau khi tìm thấy một số vũ
khí chìm gần nơi tìm thấy xác nạn nhân. Phải chăng ông bà Dixon bị sát
hại sau khi xảy ra biến cố với IRA vì họ buôn lậu vũ khí tới miền tây xứ
Wales?
Một vụ án bí ẩn khác cũng đi vào bế tắc khi người ta tìm thấy thi thể
của ông bà Richard và Helen Thomas, 58 tuổi, tại đống đổ nát của một
nông trại gần Milford Haven, cách địa điểm vợ chồng nhà Dixon bị giết
gần 10m. Họ bị sát hại bởi một khẩu súng ngắn. Tại đỉnh điểm của cuộc
điều tra vào thời điểm 1 năm sau đó, có tới 150 quan chức, nhân viên đã
vào cuộc nhưng không có kết quả gì.
Tháng 12/1998, John Cooper, người từng là công nhân nông trại và thợ
hàn, bị kết án 16 năm tù giam vì tội cướp có vũ khí và thực hiện 30 vụ
trộm.
Cảnh sát tìm phát hiện ra tên này đã sử dụng hàng rào quanh nhà của hắn
gần Milford Haven làm nơi cất giấu tài sản có giá trị, công cụ và vũ
khí, trong đó có một khẩu súng ngắn được sản xuất ở Bỉ. Hắn đã cẩn thận
chuẩn bị đường rút bằng cách khoét lỗ trên hàng rào. Hắn tự hào về khả
năng sống sót của mình, nên đã ghi vào cuốn sổ tay và gọi đó là “sách
hướng dẫn của lực lượng không quân đặc nhiệm”. Tuy nhiên, cảnh sát không
tìm ra mối liên hệ giữa Cooper với các vụ giết người và tấn công tình
dục nêu trên.
Năm 2006, cảnh sát Dyfed-Powys (xứ Wales) thành lập Chiến dịch Ottawa để
xem lại tất cả bằng chứng có được. Năm 2008, cảnh sát lại tiến hành
thẩm vấn Cooper trong 4 ngày liên tiếp nhưng Cooper vẫn không nhận tội.
Mặc dù vậy, kết quả xét nghiệm gene năm 2009 đã chỉ ra mối liên hệ giữa Cooper và các vụ án giết người dã man nói trên.
Sau đó, các nhà khoa học đã kiểm tra lại 600 tang vật, đặc biệt là khẩu
súng ngắn do Bỉ chế tạo. Họ tìm thấy dưới lớp sơn đen của khẩu súng này
có một giọt máu khớp với mẫu máu của nạn nhân Piter Dixon.
Đôi quần short tìm thấy ở nhà Cooper khi tên này bị bắt vì tội ăn trộm
cũng tố cáo hắn. Trên ống quần bên phải có một vết máu, được khẳng định
là máu của Peter Dixon sau khi các nhà khoa học kiểm tra. Trên đường
viền của chiếc quần có một chất lỏng khớp với mẫu ADN của con gái Dixon
là Julie.
Cảnh sát khẳng định khi Cooper giết ông bà Dixon, quần của hắn bị dính
máu nên hắn phải mặc quần của ông Dixon để về nhà và vẫn tiếp tục sử
dụng chiếc quần này. Kết quả giám định ADN cho thấy IRA không có liên
quan gì tới những vụ giết người này. Những người thợ lặn bí hiểm ở vùng
vịnh gần hiện trường cũng không hề dính dáng.
Trước những chứng cứ khoa học không thể chối cãi, Cooper đã cúi đầu nhận
tội. Như vậy, 20 năm sau khi ông bà Dixon bị giết và 24 năm sau khi ông
bà Thomas bị bắn tên này mới bị xử tử. Ngoài tội giết người, Cooper còn
bị kết án vì hiếp dâm cô gái 16 tuổi và tấn công tình dục cô bé 15 tuổi
khác.
Lời
tố cáo của nữ sinh chơi thân với Marie Robards giúp cảnh sát phát hiện
âm mưu giết người vô cùng hoàn hảo của thiếu nữ học giỏi môn Hóa.
[Only registered and activated users can see links]
Marie Robards
Việc Marie Robards tự thú hành vi đầu độc cha bằng chất độc natri
acetate với cô bạn thân Stacey High cho thấy nữ sinh tài năng không thể
thoát khỏi sự dằn vặt lương tâm. Sau khi Stacey High báo cảnh sát bí mật
động trời của Marie, nhóm điều tra kiểm tra phòng thí nghiệm ở trường
trung học mà nữ sinh từng học khi Steven Robards còn sống.
[Only registered and activated users can see links]
Trong phòng thí nghiệm, nhóm điều tra thấy một cuốn sách hướng dẫn sử
dụng hóa chất độc một cách an toàn. Nhưng trang nói về natri acetate đã
bị xé. Nhóm điều tra suy đoán có thể Marie đã xé trang sách để nghiên
cứu cách sử dụng natri acetate.
[Only registered and activated users can see links]
18 tháng sau khi Steven Robards qua đời, cảnh sát thành phố Fort Worth
vẫn bảo quản máu và một số mô của anh, dù họ không nghĩ cái chết của
nhân viên bưu tá 38 tuổi là vụ án mạng. Vì các chuyên gia pháp y ở
Forth Worth không phát hiện chất độc khi khám nghiệm tử thi Steven 18
tháng trước, nhóm điều tra gửi mẫu mô nạn nhân tới một phòng thí nghiệm
tư nhân hiện đại ở bang Pennsylvania để phân tích.
[Only registered and activated users can see links]
Các nhà khoa học tại phòng thí nghiệm tư nhân dùng máy sắc ký khí ghép
khối phổ (máy trong ảnh) để kiểm tra mô. Máy phóng chùm electron cực
mạnh vào mô để tách rời các phân tử rồi kiểm tra từng phân tử. Kết quả
cho thấy mô chứa natri acetate, chất mà Marie thừa nhận với bạn thân
rằng cô ta lấy trộm ở phòng thí nghiệm hóa học của trường.
[Only registered and activated users can see links]
Người cha của Marie
Hàm lượng chất độc trong mô của Steven cao gấp 28 lần ngưỡng an toàn.
Vào thời điểm cảnh sát phát hiện tình tiết mới, Marie đã trở thành sinh
viên y khoa của Đại học Texas tại thành phố Austin. Cô ta dùng tiền bảo
hiểm nhân thọ của cha để đóng học phí.
Một cảnh sát tới Đại học Texas để gặp Marie. Khi viên cảnh sát tuyên bố
ông bắt nữ sinh viên vì tội giết cha, cô ta khóc và nhận tội.
[Only registered and activated users can see links]
Lời khai của Marie khiến nhóm điều tra bất ngờ. Nữ sinh viên nói cô ta
giết cha để có lý do trở về với mẹ. Dù Steven rất yêu thương con gái,
Marie vẫn cảm thấy không thoải mái khi ở với cha và nhiều lần cầu xin mẹ
cho cô ta trở về, song người mẹ từ chối. Vì thế, nữ sinh viên nghĩ
rằng, nếu cha chết, bà mẹ sẽ buộc phải nuôi dưỡng cô ta.
Song Marie không biết rằng người mẹ cùng chồng mới đã lên kế hoạch
chuyển tới bang Florida và không muốn con gái đi cùng. Sau đám tang của
Steven, bà mới thông báo việc đó với Marie, khiến cô ta phải sống cùng
ông bà nội.
[Only registered and activated users can see links]
Mặc dù thừa nhận hành vi đầu độc cha, Marie lại khẳng định cô ta vô tội.
Nữ sinh viên nói cô ta chỉ muốn gây ra cơn đau bụng cho Steven, chứ
không muốn cha chết. Tuy nhiên, do Marie học rất giỏi môn Hóa và nồng độ
natri acetate trong cơ thể Steven cao gấp 28 lần ngưỡng an toàn, bồi
thẩm đoàn khẳng định cô ta biết rõ cha sẽ chết nếu nuốt thức ăn chứa
chất độc.
Trong phiên tòa ngày 9/5/1996, hội đồng xét xử kết luận Marie Robards
phạm tội cố ý giết người và tuyên bị cáo 27 năm tù. Theo giới truyền
thông, hành vi của bị cáo là hồi chuông cảnh tỉnh đối với những phụ
huynh ly hôn. Nếu họ chỉ quan tâm tới việc xây dựng cuộc sống mới mà
không chú ý tới tâm tư của những đứa con, rất có thể chúng sẽ hành động
dại dột, cho dù chúng rất thông minh và tận hưởng cuộc sống thoải mái.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét