Thứ Năm, 3 tháng 2, 2022
TT&HĐ V - 49/i
PHẦN V: THỐNG NHẤT
Gorky
CHƯƠNG X (XXXXIX): LỜI "LẢM NHẢM" SAU CÙNG
(Tiếp theo)
Ngoài ra còn có:
***
(Còn tiếp)
----------------------------------------------------------------------
MUÔN MẶT ĐỜI THƯỜNG II/349
(ĐC sưu tầm trên NET)
Thứ Tư, 2 tháng 2, 2022
LÀM THƠ TÌNH
LÀM THƠ TÌNH
(Làm thi sĩ nghĩa là ru với gió
Mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây - Xuân Diệu)
Làm thơ tình là phải có tình Không có tình thơ không quyến rũ Tình giả vờ làm thơ tình nhạt nhẽo Ngày nay thơ tình phải kèm gái xinh!
Làm thơ tình đừng kiêu căng, hợm mình Dù đã có tình vẫn cần tình lay động Phải xác định tình yêu là lẽ sống Đó là mâu thuẫn lớn của nhà thơ!
Trần Hạnh ThuThú vị với mối tình nơi xứ sở nước mắm của bà Mộng Cầm và nhà thơ Hàn Mặc Tử
Có lẽ với những người yêu thích văn học, nhất là yêu thích thể loại thơ lãng mạn hiện đại Việt Nam đều từng rất ấn tượng với những tác phẩm thời bấy giờ. Và nhắc đến dòng thơ này thì lại càng không thể không nhắc đến người đã khởi xướng lên Trường thơ Loạn – Hàn Mặc Tử. Với những vần thơ khiến rất nhiều người mến mộ, tuy nhiên để nói về cuộc đời của Hàn Mặc Tử có lẽ cũng còn rất nhiều bất ngờ để khám phá như chính những tác phẩm để đời của ông vậy. Và một trong số những sự kiện khiến người ta cảm thấy tò mò nhất có lẽ vẫn là cuộc tình của ông với bà Mộng Cầm. Vậy thì vì sao mối tình này lại được nhiều người quan tâm? Bí ẩn chất chứa bên trong đó liệu chúng ta có biết? Phải cùng đi tìm hiểu để tìm thêm những đáp án thú vị.
Mục lục
Mộng Cầm Là Ai Trong Cuộc Đời Của Hàn Mặc Tử
Có lẽ cuộc đời của Hàn Mặc Tử đã được kể đi nói lại khá nhiều lần từ trong sách báo đến lẫn truyền miệng trong đời sống, chính vì vậy chúng ta hãy tạm gác lại tiểu sử của ông để đi tìm hiểu về bà Mộng Cầm.
Bà Mộng Cầm có tên khai sinh là Huỳnh Thị Nghệ, bà cũng chính là người thiếu nữ mà ngày xưa Hàn Mặc Tử mê mẩn nhớ nhung trong mộng. Bà Mộng Cầm được sinh ra ở vùng đất Phan Thiết đầy nắng gió, tuy nhiên cha mẹ bà lại rời Phan Thiết để tới Nghệ An mưu sinh kiếm sống, chính vì vậy mà ngày bà được chào đời (ngày 17/07/1917) cha mẹ bà cũng lấy cái tên Huỳnh Thị Nghệ để đặt tên cho bà. Thời gian trôi qua nhanh chóng, bà được gửi về lại Phan Thiết rồi trọ ở nhà cậu của mình để học trường Pline Exercices.
Sau này người ta phát hiện ra bà có khiếu thơ văn chính là từ việc xuất phát mình là cháu của nhà thơ Bích Khê, chính vì vậy mà bà cũng thường hay tham gia các hoạt động viết văn thơ gửi báo chí, cái tên Mộng Cầm cũng chính thức xuất hiện khi bà đặt làm bút danh để đăng lên báo những bài thơ của mình. Nào ngờ đây cũng chính là bước ngoặt tình cảm trong cuộc đời bà khi mà Hàn Mặc Tử bắt đầu thấy thích thú với những con chữ trong thơ của bà, ông bắt đầu tìm đến để làm quen, rồi bày tỏ tình cảm của mình với bà qua bài thơ “Muôn năm sầu thảm”.
Chính từ câu thơ đầu tiên “Nghệ hỡi Nghệ…” của Hàn Mặc Tử mà cho mãi về sau này bà Mộng Cầm vẫn luôn ghi nhớ nó trong lòng. Bởi vì, đối với cuộc đời bà, Hàn Mặc Tử chính là người tình đầu tiên mà bà được nếm trải.
Những Chuyện Thú Vị Xoay Quanh Đôi Tình Nhân Này
Cuối cùng sau nhiều lần tâm tình trò chuyện qua báo chí thư từ, thì vào một mùa hè ông Hàn Mặc Tử đã quyết định đi từ Quy Nhơn vào Phan Thiết để thăm người yêu Mộng Cầm của mình. Trước câu hỏi rằng Phan Thiết thì có nơi nào đẹp để đưa ông đi thăm đó đây, Mộng Cầm đã chọn một địa điểm mà bà cho là thích hợp nhất để làm một chốn hò hẹn yên bình. Đó chính là lầu Ông Hoàng, nơi được xây dựng trên một ngọn đồi nhỏ và thấp, nhưng từ tầm mắt có thể dễ dàng hưởng được những đêm trăng sáng tỏ, có thể thấy được cả Mũi Né cũng như cả thị xã Phan Thiết ở phía xa xa, nhưng hấp dẫn nhất vẫn là những ánh đèn hiệu hay đèn ghe chài cứ lấp lánh như những viên kim cương khổng lồ giữa màn đêm đen dày đặc.
Nhưng điều không ngờ tới thì lần ông vào Phan Thiết thăm Mộng Cầm cũng là lần cuối cùng mà hai người được đi chơi cùng với nhau. Sau thời gian ấy Hàn Mặc Tử có đi ra Huế, rồi mới trở về Quy Nhơn, sau đó thì điều trị bệnh phong tại bệnh viện phong của Quy Hòa rồi từ giã cõi đời ở đó.
Nếu nói không sai thì mối tình giữa Hàn Mặc Tử và Mộng Cầm thật tình chẳng đi được đến đâu. Chính bà cũng tự tâm sự với nhiều người rằng có thể lúc ấy do bà là con nhà phong kiến, cha mẹ thì lại luôn có ý định cản trở bà lấy một người Công giáo, hơn nữa lại là văn nhân, thơ ca thi sĩ. Nhưng chuyện đó vốn cũng không quan trọng bằng việc Mộng Cầm thật sự lúc ấy đã quá thương Hàn Mặc Tử. Tuy nhiên bà cũng biết căn bệnh phong này nếu cứ gần đàn bà thì sẽ càng mau chết, vì vậy mà bà phải chọn cách là cố tình né tránh để Hàn Mặc Tử có thể mau khỏi bệnh rồi mới tính đến chuyện thưa với cha mẹ. Chỉ tiếc rằng Hàn Mặc Tử lại không thể biến điều đó thành sự thật khi ông cuối cùng cũng đã ra đi.
Chuyện lý thú mà người ta vẫn thường nhắc đến khi nói về đôi Hàn Mặc Tử – Mộng Cầm này chính là từ những vần thơ mà hai người từng viết cho nhau rất thắm thiết, thế nhưng quả thật thì hai người từ lần gặp đầu cho đến khi Hàn Mặc Tử mất đều không hề có chuyện gần gũi bên nhau, có chăng chỉ là một cái nắm tay khẽ hờ.
Sau này để lưu lại những kỷ niệm đẹp đẽ của mình với cố nhân mà Mộng Cầm đã làm một bài thơ mang tên “Kỷ niệm Hàn Mặc Tử ở lầu Ông Hoàng”, bài thơ này chưa bao giờ bà muốn nhiều người biết đến, chỉ để chép tay mà lưu giữ cho riêng mình.
Còn Những Bí Ẩn Trên Mảnh Đất Phan Thiết Này
Để nói về thời gian và lịch sử của những con người đã làm nên Phan Thiết chắc chắn bạn không thể bỏ qua Bảo tàng nước mắm Làng Chài Xưa. Ở đó sẽ mô tả và tái hiện đầy đủ từng bước thăng trầm trong lịch sử hình thành và phát triển của Phan Thiết nói chung và làng nghề nước mắm nói riêng. Ở đây cũng có đề cập đến phòng kiểm định nước mắm – nơi mà ngày xưa chồng của bà Mộng Cầm là ông Hồ Lộng Địch xây dựng lên để góp phần chứng thực, kiểm nghiệm và cấp giấy chứng nhận cho những tĩn nước mắm được đem đi khắp muôn nơi.
Ngoài ra ở đây cũng còn có rất nhiều khu trưng bày đẹp và bắt mắt về những mốc thời gian đáng nhớ, khiến chúng ta phải bồi hồi khi nhớ lại một thời hoàng kim hay chỉ đơn giản là những điều thật sự đã làm nên tuổi thơ, cuộc sống của những con người tại Phan Thiết.
Nếu là một người yêu thơ ca, cái đẹp, lịch sử và đặc biệt là du lịch thì chắc chắn bạn không được bỏ lỡ chuyến tham quan tới bảo tàng nước mắm Làng Chài Xưa để phiêu du trong một không gian và thời gian hoàn toàn khác biệt mới lạ nhé.
Xem thêm bài viết về lịch sử phan thiết: https://nuocmamtin.com/lich-su-phat-trien-cua-thanh-pho-phan-thiet-chat-chua-trong-bao-tang-nuoc-mam/
Nguồn hình: sưu tầm
XUÂN THÌ TRẦN GIAN (ĐL)
XUÂN THÌ TRẦN GIAN
Bên con đường nhỏ
Có quán cà phê
Với lũ bàn ghế lè tè
Cập kênh, xiêu vẹo
Chẳng tuổi tên, bảng hiệu
Mượn vòm bông giấy nương thân
Thắm hồng, xanh mát quanh năm
Se sẻ chíu cha chíu chít
Bán quán là cô gái
Trinh nguyên như mai sớm đồng quê
Dịu dàng như ánh trăng khuya
Mắt nai mơ về cả trời thu diệu vợi
Những giọt nắng cứ vô tình len lỏi
Thấp thoáng, ảo huyền thần vệ nữ khỏa thân
Uyển chuyển đường tơ, rạo rực hương xuân
Tà áo bà ba cứ vô tình vẫy gọi
Lửng lơ hoài dấu hỏi
Nụ cười nàng Môna Lisa*
Cho mày râu ngẩn ngơ
Bứt tóc, vò đầu đoán mò bí ẩn
"Nàng là tuyết hay da nàng tuyết điểm
Nàng là hương hay nhan sắc lên hương"**
Ông tiên nào gieo hạt mầm yêu thương
Mà từ khô cằn, bạc màu, nắng cháy
Cuồn cuộn vươn lên, tỏa ngát vòm bông giấy
Cho người hiện về bày bán cà phê
Chút cõi mộng mơ giữa trần trụi bốn bề
Ốc đảo hiền lành ven đô thành dữ dội
Chút gió mơn man bên lề đường chang chang cát bụi
Cho người lại qua mát vợi chút mồ hôi
Hơn cả phấn son là sắc nước hương trời
Dục vọng đánh hơi, đua chen tìm đến
Khoe những trái tim chín thơm, đỏ thắm
Khoe những tóc râu phong nhã hào hoa
Ngồn ngộn bạc vàng, cung điện nguy nga
Hứa hẹn hồi môn chất chồng sông núi
Thề thốt ồn ào, căng phồng lá phổi
Để rồi lắc đầu, thất thểu ra đi
Ngơ ngác tình si!...
Bao nhiêu bình minh đã mãn thành hoàng hôn
Lụ khụ mỏi mòn đã bao nhiêu bàn ghế
Lũ lượt đến đi, biết bao đời trai trẻ
Mà quán cà phê cứ vẹn mãi sắc xuân
Giọt nắng ban mai cứ mê mẩn tâm hồn
Mắt nai mơ về cả trời thu diệu vợi
Tách cà phê mãi thơm lừng mời gọi
Vòm lá hoa nồng thắm mãi hồng nhan...
Thời gian quên nàng hay nàng là thời gian?
Còn chảy vô tư hỡi dòng sông năm tháng
Hay trước mỹ nhân cũng động lòng trắc ẩn
Lú lẫn ngừng trôi, sợ nàng bạc mái đầu?...
Trần Hạnh Thu
Leonardo Da Vinci – Tiểu Sử Cuộc Đời, Sự Nghiệp & Tác Phẩm Nổi Tiếng
Leonardo da Vinci (1452 – 1519) là một trong những nhà tư tưởng, nghệ sĩ và triết học tự nhiên vĩ đại nhất thế giới. Không ngừng tìm kiếm sự hoàn hảo, ông đã tạo ra những kiệt tác nghệ thuật hiếm có như “Nàng Mona Lisa” và “Bữa ăn tối cuối cùng”. Ngoài nghệ thuật, Da Vinci còn nghiên cứu tất cả các khía cạnh của cuộc sống từ giải phẫu học đến toán học và thiên văn học; những nghiên cứu và khám phá sâu rộng của ông đã cho thấy sự thống nhất cơ bản của vũ trụ. Da Vinci được coi là nhân vật chủ chốt đối với sự ra đời của thời kỳ Phục hưng châu Âu – thời kỳ chứng kiến sự xuất hiện của những ý tưởng mới, những khám phá khoa học và sự sáng tạo của nghệ thuật tuyệt vời.
Leonardo da Vinci Là Ai? – Tiểu Sử Cuộc Đời & Sự Nghiệp
Contents [ẩn]
Leonardo là con ngoài giá thú của một phụ nữ quý tộc và nông dân Florentine; ông lớn lên ở thành phố Vinci, Ý. Trong suốt giai đoạn trưởng thành, ông đã phát triển tình yêu thiên nhiên và bắt đầu bộc lộ tài năng học tập và nghệ thuật đáng nể của mình ngay từ khi còn nhỏ. Năm 1466, ông chuyển đến Florence và vào làm tại xưởng vẽ của nghệ nhân Verrocchio. Ban đầu, phong cách sáng tạo của Da Vinci khá giống người thầy của mình nhưng dần dần ông sớm phát triển một phong cách nghệ thuật mới và vượt xa phong cách cứng nhắc cũ đó. Tác phẩm đầu tay có ý nghĩa của ông là “Sự tôn thờ của các đạo sĩ” do các tu sĩ của San Donato a Scopeto ủy quyền. Mặc dù chưa hoàn thành nhưng đây là một kiệt tác lớn và khơi gợi nhiều ý tưởng mới. Đặc biệt, ông đã đưa ra các chủ đề về chuyển động và kịch. Ông cũng đi tiên phong trong việc sử dụng Chiaroscuro – đây là kỹ thuật xác định các hình thức thông qua sự tương phản của ánh sáng và bóng tối. Kỹ thuật này sau đó đã được sử dụng để tạo hiệu ứng tuyệt vời trong bức phẩm Mona Lisa.
“Bóng tối là phương tiện giúp các cơ thể phô diễn hình dạng của họ. Hình dạng của các cơ thể này sẽ không thể được hiểu chi tiết mà không có bóng tối”.
—Theo Những cuốn sổ tay của Leonardo da Vinci (Richter, 1888)
Năm 1482, Leonardo đến tòa án Ludovico Sforza ở Milan, ông đã từng ở đây trong 16 năm. Tại đây, ông tiếp tục vẽ tranh và chuyển sang các lĩnh vực khác như kỹ thuật và giải phẫu học. Trong thời kỳ này, ông đã vẽ các tác phẩm nghệ thuật nổi tiếng “Madonna on the Rocks-Đức mẹ đồng trinh trong hang đá” và “The Last Supper- Bữa ăn tối cuối cùng.”
“Bữa ăn tối cuối cùng” đã được mô tả là một trong những bức tranh tôn giáo vĩ đại nhất. Với hình Chúa Giê-su ở chính giữa bức tranh, nó thể hiện dòng cảm xúc cao trào khi Chúa Giê-su chuẩn bị thông báo với mọi người về sự phản bội của môn đệ Judas. Bức bích họa tái hiện Tu viện Santa Maria Delle Grazie, Milan, nhưng đáng tiếc rằng theo thời gian, chất lượng của bức tranh gốc đã xuống cấp, mặc dù đã có những nỗ lực trùng tu thường xuyên.
Cuộc Sống Cá Nhân Của Leonardo da Vinci
Leonardo vẫn độc thân trong suốt cuộc đời. Ông không kết hôn hay có con. Ông cũng giữ kín cuộc sống cá nhân và ít khi chia sẻ thông tin chi tiết. Ông thân thiết với các học trò của mình là Salai và Melzi, nhưng dường như hầu như chỉ tập trung vào các cuộc điều tra sâu rộng, công việc và các bức tranh của mình. Vào thời của ông, các báo cáo đương thời cho thấy Da Vinci là một người độc nhất vô nhị, với vẻ đẹp hình thể, sự uy nghiêm và tư cách đạo đức vững vàng. Da Vinci thể hiện tình yêu của mình với sự thật:
“Nói dối thật là thấp hèn, đến nỗi ngay cả khi nó nói tốt về những điều tin kính, nó sẽ làm mất đi điều gì đó từ ân điển của Đức Chúa Trời; và Sự thật tuyệt diệu đến nỗi nếu nó ca ngợi những điều nhỏ nhặt thì chúng cũng trở nên cao quý”. Những cuốn sổ tay của Leonardo da Vinci
Người viết tiểu sử đầu tiên của ông, Giorgio Vasari, viết về con người của Da Vinci vào năm 1550.
“Bên cạnh vẻ đẹp hình thể không bao giờ được tôn lên đầy đủ, còn có một ân sủng vô hạn trong mọi hành động của ông ấy; và điều tuyệt vời về thiên tài này là, bất cứ khó khăn nào ông ấy cũng hướng đến, anh ấy đều giải quyết chúng một cách dễ dàng”
Một đặc điểm đáng chú ý của Da Vinci là sự tôn trọng và tôn kính rộng rãi của ông đối với sự thật, sự sống và các sinh vật sống. Ông áp dụng chế độ ăn chay và mua những con chim trong lồng để có thể thả chúng. Câu nói của ông được trích dẫn như sau:
” Sẽ đến lúc những người đàn ông như tôi nhìn vào việc giết hại động vật như bây giờ họ nhìn vào việc giết người.”
Từ năm 1506-1510, Leonardo đã dành thời gian ở Milan để làm việc thay mặt cho Vua Pháp Lois XII rất hào phóng. Năm 1513, ông đến Vatican, Rome, nơi ông được sự bảo trợ của Giáo hoàng mới của Medici, Leo X. Tại đây, Da Vinci đã làm việc gần gũi với những người cùng thời như các bậc thầy vĩ đại Michelangelo và Raphael . Tuy nhiên, sự cạnh tranh gay gắt đã sớm nảy sinh giữa Michelangelo và Da Vinci trẻ tuổi.
Tôn Giáo Của Leonardo da Vinci
Mặc dù là người bảo trợ của Giáo hoàng, Da Vinci không phải là một người Công giáo chính thống. Vasari viết về Da Vinci rằng:
“Đầu óc bị suy xét dị giáo đến mức ông ta không tuân theo bất kỳ tôn giáo nào, nghĩ rằng có lẽ tốt hơn là trở thành một triết gia hơn là một người theo đạo Cơ đốc.”
Vasari đã loại bỏ câu trích dẫn này trong lần xuất bản thứ hai nhưng từ tác phẩm để đời của ông, chúng ta có thể thấy Da Vinci coi trọng lý trí và sẵn sàng đặt câu hỏi về những giáo điều được truyền lại qua nhiều thời đại. Da Vinci đã viết những lời chỉ trích về việc Giáo hội Công giáo bán các vật phẩm hưởng thụ. Các bức tranh tôn giáo của Da Vinci cũng cho thấy một đức tin tôn giáo được thể hiện một cách phi tuân thủ. Madonna on the Rocks của anh ấy kết hợp với Đức mẹ đồng trinh, không ăn mặc vương giả hay được bao quanh bởi vầng hào quang, mà chỉ ăn mặc đơn giản trong khung cảnh thiên nhiên xung quanh. Da Vinci tin vào Chúa, nhưng sự nhạy cảm tôn giáo của ông được thể hiện qua việc nhìn thấy Chúa trong nghệ thuật, khoa học và tự nhiên.
“Bằng nghệ thuật của mình, chúng tôi có thể được gọi là hậu duệ của Chúa.” Trích từ Những cuốn sổ tay của Leonardo da Vinci
Da Vinci là một người cực kỳ cầu toàn- một lý do tại sao ông hoàn thành quá ít bức tranh là ông không bao giờ cảm thấy mình đã hoàn thành một cách hài lòng bất cứ điều gì. Anh ấy nói vào cuối cuộc đời của mình:
“Tôi đã xúc phạm đến Chúa và nhân loại vì công việc của tôi không đạt được chất lượng như lẽ ra phải có”.
Năm 1515, Da Vinci rời đến định cư tại lâu đài Cloux, gần Amboise theo lời mời tốt lành của vua Francis I người Pháp. Tại đây, Da Vinci đã dành những năm còn lại của mình, tự do theo đuổi việc học của mình. Ông mất năm 1519 và đã để lại nhiều tác phẩm khoa học và nghệ thuật vĩ đại cho nhân loại.
Các Tác Phẩm Nổi Tiếng Của Leonardo Da Vinci
Mona Lisa
Năm 1499, người bảo trợ L. Sforza của ông đã bị đánh bại bởi cuộc xâm lược của Pháp, khiến Leonardo phải quay trở lại Florence. Trong giai đoạn này, ông đã vẽ bức bích họa mang tên Trận chiến Anghiari. Tác phẩm nghệ thuật độc nhất này đã tạo ra ảnh hưởng to lớn đối với các nghệ sĩ tương lai. Tuy nhiên, nó không được hoàn thành và sau đó đã bị phá hủy. Cũng chính trong thời kỳ này, Leonardo đã hoàn thành bức Mona Lisa. Mona Lisa là một trong những bức tranh nổi tiếng và hấp dẫn nhất thế giới. Mona Lisa là bức chân dung của vợ một quý tộc người Florentine. Trong vài ngày, cô đến gặp Leonardo và yêu cầu vẽ bức chân dung của mình; tuy nhiên, cô ấy lại không mỉm cười. Leonardo thậm chí đã thử thuê nhạc sĩ nhưng vô ích. Một ngày nọ, chỉ trong một giây thoáng qua, cô ấy nở một nụ cười yếu ớt, và Leonardo đã kịp chụp lại. Nụ cười của cô ấy ẩn chứa một điều gì đó vừa bí ẩn lại vừa hấp dẫn.
“Nụ cười ấy đã làm cô bất tử, làm nghệ sĩ bất tử và nghệ thuật bất tử. Nghệ sĩ và nghệ thuật đã trở thành bất tử chỉ bởi một nụ cười yếu ớt, một nụ cười có nét bí ẩn. Ngay cả bây giờ một cái chạm vào tâm hồn vẫn ở đó, và cái chạm vào tâm hồn đó đã chinh phục trái tim của thế giới. ”
Trong bức Mona Lisa, Leonardo nắm vững kỹ thuật sfumato và chiaroscuro. Sfumato cho phép chuyển đổi dần dần giữa các màu sắc-cho phép hình ảnh tinh tế và biểu cảm. Trong Mona Lisa, việc sử dụng chiaroscuro được thể hiện rõ qua sự tương phản giữa khuôn mặt của cô và nền tối.
Trong thời kỳ này Leonardo cũng mở rộng nghiên cứu của mình sang kỹ thuật, khoa học và các môn học khác. Dường như sở thích của ông là vô tận và không có điểm đáy. Ông đã ghi chép rất nhiều bằng chữ viết tay của mình, phần lớn trong số đó không được giải mã trong cuộc đời của ông. Ông cũng vẽ các mô hình phức tạp của máy móc; đặc biệt, Leonardo bị mê hoặc bởi các chuyến bay. Ông thường mua những con chim chỉ để thả và thích thú khi nhìn chúng bay đi. Da Vinci cũng cố gắng tự chế tạo một vật thể bay. Những cỗ máy mà ông vẽ trên giấy, chẳng hạn như máy bay trực thăng, sẽ trở thành hiện thực nhiều thế kỷ sau. Nếu các nghiên cứu về y học của ông được công bố, nó sẽ tạo ra một cuộc cách mạng trong khoa học, vì ông là một trong những người đầu tiên hiểu được sự lưu thông của máu trong cơ thể. Ông cũng nhận ra trái đất quay quanh mặt trời, dự đoán nghiên cứu trong tương lai của Copernicus và Galileo . Da Vinci có động lực để chiêm nghiệm tất cả các khía cạnh của cuộc sống và thế giới, nó để lại cho ông một tình yêu lớn và niềm đam mê với vũ trụ.
“Ở đây hình thức, màu sắc, đặc tính của mọi phần của vũ trụ đều tập trung vào một điểm; và điểm đó thật tuyệt vời … Ồ! kỳ diệu, Hỡi sự cần thiết tuyệt vời – theo quy luật, buộc mọi tác động phải là kết quả trực tiếp của nguyên nhân của nó, bằng con đường ngắn nhất. Đây là những điều kỳ diệu…”
—Theo Những cuốn sổ tay của Leonardo da Vinci
Thông qua các lĩnh vực khác nhau, Da Vinci đã nhìn thấy sự thống nhất tiềm ẩn trong vũ trụ và có một cái nhìn lạc quan về tiềm năng của con người.
“Những thứ tách biệt sẽ được hợp nhất và có được đức tính tốt đến mức chúng sẽ khôi phục lại trí nhớ đã mất của con người.”
Người Đàn Ông Vitruvius
Đây là bản vẽ về tỷ lệ của con người. Da Vinci đã sử dụng tác phẩm trước đó và ghi chú của kiến trúc sư người La Mã Vitruvius. Bức tranh kết hợp nghệ thuật, con người và khoa học – minh họa vẻ đẹp của tỷ lệ hình học và hình dáng con người. Nó là biểu tượng cho kiệt tác của Da Vinci, và thời kỳ Phục hưng mà ông đã truyền cảm hứng, để kết hợp các hình thức nghệ thuật này thành một sơ đồ. Trong sự đơn giản của một bản vẽ đường thẳng, có nhiều yếu tố khác nhau được phát huy tác dụng; nó đã trở thành một hình ảnh mang tính biểu tượng.
Trong suốt cuộc đời của mình, Da Vinci ngày càng nổi tiếng mặc dù ông không phải là một người giàu có và ông phải dựa vào sự bảo trợ từ những người bảo trợ của mình. Họ bao gồm những người đàn ông quyền lực, chẳng hạn như Cesare Borgia, người vào đầu những năm 1500 đã yêu cầu Da Vinci thiết kế các công cụ chiến tranh. Da Vinci đã thiết kế một chiếc nỏ, xe tăng nguyên mẫu và ‘súng máy’.
HẾT TẾT, CÒN SAY! (ĐL)
HẾT TẾT, CÒN SAY!
Đệ tử Lưu Linh
Đảo điên về qua cửa Phật
Loáng thoáng thấy đời qui y tất bật
Tiếc cho người trí thức mông lung!
Chán nản cõi lòng...
Thất phu không biết nói
Nhưng thấu hiểu con đường lầy lội
Cách mạng cực đoan rồi quay quắt duy tâm.
Bạc nghĩa vô tình
Cười khinh ngạo nghễ
Thương đất nước mới thoát vòng nô lệ Đến lượt tham hèn, láu cá, vô minh...
Trời
Đất thanh
bình
Xuân tràn ước mơ hy
vọng Một
ngày kia giữa cao dày lồng
lộng Xuất hiện Tổ Quốc
thực lòng chí lý vì dân! Đơn giản thế
thôi, duy nhất, thực tâm Chứ
đâu cần phải tôn thờ Chủ
nghĩa Chủ nghĩa nào thì cũng
là nô lệ Là miếng
mồi ngon cho áp bức cường quyền!
Trần Hạnh Thu
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên - Nét đẹp truyền đời của văn hóa Việt
Trong lịch sử văn hóa Việt Nam, thờ cúng tổ tiên là một trong những nét đặc trưng trong đời sông tinh thần của cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Tín ngưỡng này được coi là dạng thức đặc biệt về vũ trụ quan và nhân sinh quan của con người từ thời tiền sử, từ sùng bái những hiện tượng tự nhiên, sùng bái loài vật đến sùng bái và thờ cúng những người đã khuất. Cơ sở quan trọng nhất của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên là đức tin về sự tồn tại bất diệt của linh hồn con người, đặc biệt là sự tồn tại và quyền năng của linh hồn những người đã khuất có quan hệ huyết thống với những người đang sống.
Tế giỗ Quốc Tổ Lạc Long Quân theo nghi thức truyền thống do các bô lão xã Chu Hóa (thành phố Việt Trì) thực hiện. Nguồn ảnh: baophutho
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên có từ thời đại Hùng Vương và bắt nguồn từ truyền thuyết về Lạc Long Quân và Âu Cơ. Ý nghĩa của truyền thuyết này là cho dù người Việt có trăm họ, nghìn tên nhưng tất cả đều có chung một bọc, đều có cùng một tổ tiên. Tinh thần gia tộc, tình nghĩa đồng bào, coi nhau như anh em trong một nhà được khẳng định không chỉ ở yếu tố cùng một huyết thống mà nó còn là một mối quan hệ mang tính chất thần bí vì cùng sinh ra từ một bọc trăm trứng của mẹ Âu Cơ. Chính trong tâm thức thần bí ấy mà mối liên hệ, tình đoàn kết của người Việt sẽ mạnh mẽ hơn, bền chặt hơn các yếu tố vật chất hữu hình.
Trong suốt chiều dài lịch sử, không phải người Việt không nhận ra yếu tố huyền sử trong câu chuyện ấy nhưng với đức tin, người Việt vẫn thừa nhận cội nguồn của mình và luôn tự hào về cội nguồn ấy. Từ bao đời nay, người Việt vẫn coi vua Hùng là tổ tiên của mình và thờ cúng với tấm lòng thành kính. Vì vậy, ngày 10 tháng 3 âm lịch hàng năm được coi là ngày quốc giỗ của dân tộc.
Ý thức về giống nòi và cộng đồng dân tộc đã dẫn người Việt cổ đến việc sùng bái trước hết là tổ tiên và những người đứng đầu cộng đồng của mình, từ làng chạ đến liên minh bộ tộc, và vị thần - người lớn nhất bấy giờ hiển nhiên là thủ lĩnh tối cao của các miền đất đai và các tộc người của nước Văn Lang: vua Hùng. Việc sùng bái vị thủ lĩnh đã có công thành lập liên minh bộ tộc, hình thức nhà nước sơ khai đầu tiên đã khơi nguồn cho một trong những truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam: truyền thống tưởng nhớ tổ tiên và những người có công trong việc dựng nước, giữ nước.
Đặc biệt là cho đến nay trải qua mấy nghìn năm, biết bao thế hệ, biết bao biến đổi mà người Việt Nam ta vẫn tưởng nhớ vua Hùng với tất cả lòng tin và sự kính trọng. “Sự tưởng nhớ ấy là biểu hiện của sức sống mãnh liệt, một biểu hiện của niềm tự hào dân tộc, ý thức độc lập, tự chủ, ý chí kiên cường bất khuất đã thể hiện trong cuộc đấu tranh không ngừng và vô cùng ác liệt chống ngoại xâm và thiên nhiên”[1].
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt Nam là một nét đẹp văn hóa từ ngàn đời nay. Nguồn ảnh: khonggiantho
Từ tín ngưỡng về một tổ tiên chung là các vua Hùng, người Việt cổ đã hướng dần đến sùng bái những tổ tiên của những đơn vị hẹp hơn: làng chạ, dòng họ, gia đình. Tín ngưỡng về thần thánh hoàng làng, về ông khai canh (người lập làng) và đạo thờ tổ tiên gia đình, gia tộc của người Việt, người Mường... thời cận hiện đại đã phát triển trên nền tảng ấy.
Theo tác giả Đào Duy Anh, “Việc tế tự tổ tiên không phải chỉ khiến cho linh hồn tổ tiên khỏi khổ mà còn có ý nghĩa xâu xa hơn nữa, là nhớ ơn sinh thành của tổ tiên (phục bản phản thủy) và lưu truyền nòi giống mãi mãi về sau (vĩnh truyền tôn giống), cho nên ta có thể cho rằng tế tự tổ tiên là lấy sự duy trì chủng tộc làm mục đích”[2]. Tục lệ này được lưu truyền qua các thế hệ người Việt, trở thành một đặc điểm riêng trong đời sống tín ngưỡng của nhân dân Việt Nam và có một sức sống lâu bền trường tồn cùng dân tộc.
[1] Trần Ngọc Thêm (2005), “Theo dòng lịch sử thời đại Hùng Vương”, Tạp chí Nghiên cứu văn hóa, số tháng 12, tr.6.
[2] Đào Duy Anh (2000), Việt Nam văn hóa sử cương, NXB Văn hóa - Thông tin, Hà Nội, tr.250.
Hà Thủy
THÀNH PHỐ TRONG ĐÊM (ĐL)
THÀNH PHỐ TRONG ĐÊM
Chuyện kể rằng có thành phố trong đêm
Sặc sỡ hoa đèn
Ảo mờ huyễn hoặc
Phè phỡn khoe khoang, phấn son thác loạn
Nài nỉ ỉ ôi, ngã giá bèo nhèo
Thành phố ấy trong đêm loang lổ sắc màu
Nồng nặc rú gào, phều phào rũ rượi
Trên nền đen bóng tối
U ám mênh mông...
Chuyện kể rằng thành phố ấy trong đêm
Như mồm quái vật
Tham lam nhồm nhoàm nhai nuốt
Những ước mơ lạc lõng, những hy vọng dại khờ
Hóa kiếp những mực thước, ngây thơ
Thành nhầy nhụa, nhỏ nhen, ươn hèn, quỷ quyệt
Dị hợm nụ cười méo theo vai kịch
Cợt nhả, bi hài, cắn nát hàm răng
Đêm thành phố ấy chẳng còn thấy ánh trăng
Nghe sáo véo von, tiếng hò sâu lắng
Yên ả thanh bình, gió vờn man mác
Thơm thảo hương thơ, bát ngát tình đời
Thành phố ấy...điên rồi!
Ngột ngạt đêm đêm tự nhồi phẫn nộ
Bộc phát có ngày trời long đất lở
Tan tành nhịp thở suy đồi...
Trần hạnh Thu
Những hình ảnh thác loạn trong quán bar Buddha trước ngày phong toả
Những ngày qua, cái tên Buddha Bar đang được chú ý sau khi bị phong tỏa do có người mắc Covid-19 từng đến đây. Đặc biệt đối với Phật tử Phật giáo, quán bar Buddha còn đang làm mất đi sự tôn nghiêm và giá trị vốn có của Phật giáo với những hoạt động kinh doanh đi ngược với giáo lý Phật giáo.
> Tin mới nhất về quán Buddha bar ở quận 2, TP HCM
Quán bar Buddha (địa chỉ tại số 7 đường Thảo Điền, phường Thảo Điền, quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh) là một trong những quán bar và nhà hàng nổi tiếng nhất ở Thành phố Hồ Chí Minh, hoạt động đến nay đã hơn 15 năm với các hoạt động phục vụ gặp gỡ, vui chơi, ăn uống như xem thể thao, chơi bi-a, nhạc sống…
Không chỉ có tên gọi "Buddha Bar", trong không gian của quán còn có nhiều tranh ảnh về Đức Phật được trang trí, trưng bày ở nhiều vị trí khác nhau. Theo hình ảnh đăng tải trên Fanpage của quán bar Buddha, các hoạt động ăn chơi nhảy múa, thác loạn, đầy dục lạc trong không gian trang hoàng nhiều tranh tượng Phật, Bồ tát, Thánh tăng đã gây phản cảm và phẫn nộ trong cộng đồng Phật tử Phật giáo không chỉ trong nước mà cả ở Phật tử ở hải ngoại.
Dưới đây là một số hình ảnh thác loạn bên trong quán bar Buddha trước ngày phong toả (Ảnh từ fanpage của quán trên Facebook.
Minh Chính (Tổng Hợp)
MUÔN MẶT ĐỜI THƯỜNG II/348
(ĐC sưu tầm trên NET)