Khi
phát hiện chuỗi lây nhiễm liên quan đến Hội thánh truyền giáo Phục
Hưng, HCDC nhận định mầm bệnh có thể đã có trong cộng đồng, người dân
cần nâng ...
Việc
phát hiện ra mạng lưới đường hầm bí mật trong Thế chiến II làm dấy lên
hy vọng tìm thấy Phòng hổ phách - kho báu phát xít Đức từng đánh cắp từ
Liên Xô.
Tại
sa mạc Taklamakan ở Tây Bắc Trung Quốc, các chuyên gia tìm thấy một xác
ướp mỹ nữ 4.000 tuổi. Thi hài mỹ nhân này gây chú ý khi sở hữu những
đường ...
Kể
cả khi biết người vợ kém 13 tuổi đã ngoại tình với chính em ruột của
mình, anh Hoàng Văn B. (SN 1973, trú tại thôn Rẻ 1, xã Bình Thuận, huyện
Văn Chấn, ...
Lê
Văn Hưu là một nhà sử học lỗi lạc đời Trần, tác giả bộ Đại Việt sử ký,
bộ quốc sử đầu tiên của Việt Nam. Tương truyền nhờ học giỏi, đối đáp hay
nên ông dễ ...
Liên
quan đến vụ một chiếc xe taxi bị cháy trơ khung, tại vị trí tài xế phát
hiện xương người, Đại tá Đinh Văn Nơi, Giám đốc Công an tỉnh An Giang
cho biết, ...
Công
an tỉnh Bắc Kạn hôm nay (29/5) cho biết, đơn vị đã khởi tố vụ án, bắt
giam Nông Thị Tầm (39 tuổi, trú tại tổ 1, phường Xuất Hóa, TP Bắc Kạn)
để điều tra ...
58
ca dương tính sau hai ngày, ổ dịch liên quan Hội thánh Truyền giáo Phục
hưng được xem lớn nhất, bùng phát nhanh nhất trong các ổ dịch đã xảy ra
ở thành ...
Suckhoedoisong.vn
- Bản tin tối 28/5 của Bộ Y tế cho biết có 173 ca mắc COVID-19 trong
nước, riêng Bắc Giang 123 ca, Bắc Ninh 20 ca, TPHCM 25 ca, Hà Nội ...
Trong
hàng trăm năm lịch sử, người Do Thái sống dưới sự kiểm soát của đế chế
La Mã, duy trì bản sắc và ngôn ngữ riêng, cho đến khi cuộc chiến quyết
định nổ ...
(NLĐO)
- Ông Đoàn Ngọc Hải viết tâm thư gửi nghệ sĩ Hoài Linh đăng lên trang
cá nhân, chia sẻ về những lùm xùm tiền "cứu trợ đồng bào miền Trung bị
thiên ...
"Chủ nghĩa anh hùng theo mệnh lệnh, bạo lực phi lý và tất cả những điều
vô nghĩa nhân danh lòng ái quốc - tôi mới căm ghét chúng làm sao!" -Albert Einstein
"Dân ta phải biết sử ta, cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam. Sử ta dạy
cho ta những chuyện vẻ vang của tổ tiên ta. Dân ta là con Rồng cháu
Tiên, có nhiều người tài giỏi đánh Bắc dẹp Nam, yên dân trị nước, tiếng
để muôn đời. Sử ta dạy cho ta bài học này: Lúc nào dân ta đoàn kết muôn
người như một thì nước ta độc lập, tự do. Trái lại lúc nào dân ta không
đoàn kết thì bị nước ngoài xâm lấn"
Hồ Chí Minh
"Lòng yêu nước và sự đoàn kết của nhân dân là một lực lượng vô cùng to
lớn, không ai thắng nổi. Nhờ lực lượng ấy mà tổ tiên ta đã đánh thắng
quân Nguyên, quân Minh, đã giữ vững quyền tự do, tự chủ. Nhờ lực lượng
ấy mà chúng ta làm cách mạng thành công giành được độc lập. Nhờ lực
lượng ấy mà sức kháng chiến của ta càng ngày càng mạnh. Nhờ lực lượng ấy
mà quân và dân ta quyết chịu đựng muôn nỗi khó khăn, thiếu thốn, đói
khổ, tang tóc, quyết một lòng đánh tan quân giặc cướp nước."
Hồ Chí Minh
“Chiến
tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội,
Hải Phòng, và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân
dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quí hơn độc lập, tự do! Đến
ngày thắng lợi, nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn,
to đẹp hơn!” Hồ Chí Minh
"Thà làm dân một nước độc lập còn hơn làm vua một nước nô lệ" Phạm Khắc Hòe
(Tiếp theo)
***
5 giờ sáng ngày 17 tháng 2 năm 1979,
lực lượng bộ binh Trung Quốc với khoảng 120.000 quân bắt đầu tiến vào
Việt Nam trên toàn tuyến biên giới, mở đầu là pháo, tiếp theo là xe tăng
và bộ binh. Cánh phía đông có sở chỉ huy tiền phương đặt tại Nam Ninh và mục tiêu chính là Lạng Sơn. Có hai hướng tiến song song, hướng thứ nhất do quân đoàn 42A dẫn đầu từ Long Châu đánh vào Đồng Đăng nhằm làm bàn đạp đánh Lạng Sơn, hướng thứ hai do quân đoàn 41A dẫn đầu từ Tĩnh Tây và Long Châu tiến vào Cao Bằng và Đông Khê. Ngoài ra còn có quân đoàn 55A tiến từ Phòng Thành vào Móng Cái. Cánh phía tây có sở chỉ huy tiền phương đặt tại Mông Tự, có 3 hướng tiến công chính. Hướng thứ nhất do các quân đoàn 13A và 11A dẫn đầu đánh từ vào thị xã Lào Cai. Hướng thứ hai từ Văn Sơn đánh vào Hà Giang. Hướng thứ 3 do sư đoàn 42D của quân đoàn 14A dẫn đầu đánh từ Kim Bình vào Lai Châu.
Tổng cộng quân Trung Quốc xâm nhập Việt Nam trên 26 điểm, các khu vực
dân cư Việt Nam chịu thiệt hại nặng nhất từ đợt tấn công đầu tiên này là
Lào Cai, Mường Khương, Cao Bằng, Lạng Sơn và Móng Cái.
Quân dân địa phương phối hợp chiến đấu bảo vệ biên giới năm 1979
Lính TQ tấn công Bát Xát Lính TQ chiếm Doanh trại QĐNDVN tại Cao Bằng
Pháo hạng nặng và bộ binh xuất phát, tấn công Lạng Sơn
Ở Cao Bằng, sáng 16/2, tất cả các Đồn trưởng Biên phòng đều được
triệu tập về thị xã Cao Bằng nhận lệnh. Sáng hôm sau họ tìm về đơn vị
triển khai chiến đấu khi… Trung Quốc đã tấn công rồi.
Bộ đội và dân quân ta bị TQ bắt làm tù binh
Tuy nhiên, Đại tá Hoàng Cao Ngôn, Tỉnh đội trưởng Cao Bằng thời kỳ
17/2, nói rằng: Cho dù không có bất ngờ thì tương quan lực lượng là một
vấn đề rất lớn. Phần lớn quân chủ lực của Việt Nam đang ở chiến trường
Campuchia. Sư đoàn 346 đóng tại Cao Bằng nhiều năm chủ yếu làm nhiệm vụ
kinh tế, thời gian huấn luyện sẵn sàng chiến đấu trở lại chưa nhiều. Lực
lượng cầm chân Trung Quốc ở tuyến một, hướng Cao Bằng, chủ yếu là địa
phương quân, chỉ có khoảng hơn 2 Trung đoàn. Lính TQ tấn công Lai Châu
Nữ tù binh Việt Nam bị hảm hiếp, sau đó đốt cháy thủ tiêu. Cảnh này chúng tôi đã nhìn thấy trên chiến trường, và những chứng nhân
tường thuật lại trong cuộc chiến tranh biên giới VN-TQ. Nguồn: Tài
liệu Huỳnh Tâm.
Xe bọc thép Trung Cộng thuộc Trung đoàn 55, đang làm nhiệm vụ thảm sát
trại nữ tù binh Việt Cộng. Những tù binh còn sống họ khai thác tình
dục, đối sử bất lương, mỗi khi có bệnh nhân, bác sĩ không quan tâm, cai tù lạnh
nhạt. Họa sĩ Thiết Huyết, loan tải trên Lịch sử diễn đàn Trung Quốc.
Không quân và hải quân không được sử dụng trong toàn bộ cuộc chiến. Tất
cả các hướng tấn công đều có xe tăng, pháo binh hỗ trợ. Quân Trung Quốc
vừa chiếm ưu thế về lực lượng, vừa chủ động về thời gian tiến công, lại
còn có "lực lượng thứ năm" gồm những người Việt gốc Hoa
trên đất Việt Nam. Từ đêm 16 tháng 2, các tổ thám báo Trung Quốc đã
mang theo bộc phá luồn sâu vào nội địa Việt Nam móc nối với "lực lượng
thứ năm" này lập thành các toán vũ trang phục sẵn các ngã ba đường, bờ
suối, các cây cầu để ngăn chặn lực lượng tiếp viện của Việt Nam từ phía
sau lên. Trước giờ nổ súng, các lực lượng này cũng bí mật cắt các đường
dây điện thoại để cô lập sở chỉ huy sư đoàn với các chốt, trận địa pháo. Tiến
nhanh lúc khởi đầu, nhưng quân Trung Quốc nhanh chóng phải giảm tốc
độ do gặp nhiều trở ngại về địa hình và hệ thống hậu cần quá lạc hậu
phải dùng lừa, ngựa và người thồ hàng.
Hệ thống phòng thủ của Việt Nam dọc theo biên giới rất mạnh, với các
hầm hào hang động tại các điểm cao dọc biên giới do lực lượng quân sự
tinh nhuệ có trang bị và huấn luyện tốt trấn giữ. Kết quả là Trung Quốc
phải chịu thương vong lớn.
Trong ngày đầu của cuộc chiến, chiến thuật dùng biển lửa và biển người
của Trung Quốc đã có kết quả tốt, họ tiến được vào sâu trong lãnh thổ
Việt Nam hơn 10 dặm và chiếm được một số thị trấn. Chiến sự ác liệt nhất
diễn ra tại các vùng Bát Xát, Mường Khương ở tây bắc và Đồng Đăng, cửa
khẩu Hữu Nghị, Thông Nông ở đông bắc. Quân Trung Quốc cũng đã vượt sông
Hồng và đánh mạnh về phía Lào Cai. Trận chiến tại Đồng Đăng bắt đầu ngay từ ngày 17 và là trận ác liệt nhất. Đây là trận địa phòng thủ của Trung đoàn 12 Tây Sơn, Sư đoàn 3 Sao Vàng, Quân đội Nhân dân Việt Nam. Tấn công vào Đồng Đăng là 2 sư đoàn bộ binh, 1 trung đoàn xe tăng, và chi viện của 6 trung đoàn pháo binh Trung Quốc.
Cụm điểm tựa Thâm Mô, Pháo Đài, 339 tạo thế chân kiềng bảo vệ phía tây
nam thị xã Đồng Đăng, do lực lượng của hai Tiểu đoàn 4 và 6, Trung đoàn
12 trấn giữ, bị Trung Quốc bao vây và tấn công dồn dập ngay từ đầu với
lực lượng cấp sư đoàn. Lực lượng phòng thủ không được chi viện nhưng đã
chiến đấu đến những người cuối cùng, trụ được cho đến ngày 22. Ngày cuối
cùng tại Pháo Đài, nơi có hệ thống phòng thủ kiên cố nhất, không gọi
được đối phương đầu hàng, quân Trung Quốc chở bộc phá tới đánh sập cửa
chính, dùng súng phun lửa, thả lựu đạn, bắn đạn hóa chất Đđộc vào các lỗ thông hơi làm thiệt mạng cả thương binh cũng như dân quanh vùng đến đây lánh nạn.
Ngày 19 tháng 2, Đặng Tiểu Bình trong cuộc gặp với giới ngoại giao
Argentina tuyên bố đây là cuộc chiến tranh hạn chế và Trung Quốc sẽ rút
quân ngay sau khi đạt được mục tiêu giới hạn. Đến 21 tháng 2,
Trung Quốc tăng cường thêm 2 sư đoàn và tiếp tục tấn công mạnh hơn nữa.
Ngày 22, các thị xã Lào Cai và Cao Bằng bị chiếm. Quân Trung Quốc chiếm
thêm một số vùng tại Hà Tuyên, Cao Bằng, Lạng Sơn, và Quảng Ninh. Chiến
sự lan rộng tới các khu đô thị ven biển ở Móng Cái. Về phía Việt Nam,
cùng lúc với việc triển khai phòng ngự quyết liệt, khoảng từ 3 đến 5 sư
đoàn (gồm 30.000 quân) cũng được giữ lại để thành lập một tuyến phòng
ngự cánh cung từ Yên Bái tới Quảng Yên với nhiệm vụ bảo vệ Hà Nội và Hải Phòng.
Ngày 23 tháng 2, Đặng Tiểu Bình nhắc lại tuyên bố về "cuộc chiến
tranh hạn chế" và nói sẽ rút quân trong vòng 10 ngày hoặc hơn. Đây được
xem là thông điệp nhằm ngăn Liên Xô can thiệp quân sự, đáp lại kêu gọi
rút quân của Mỹ, xoa dịu các nước đang lo ngại về một cuộc chiến lớn
hơn, và gây khó hiểu cho Việt Nam. Trong khi đó, một tuần dương hạm Sverdlov và một khu trục hạm Krivak
của Liên Xô đã rời cảng từ ngày 21 tiến về phía vùng biển Việt Nam.
Liên Xô cũng đã bắt đầu dùng máy bay giúp Việt Nam chở quân và vũ khí ra
Bắc. Hai chuyến bay đặc biệt của Liên Xô và Bulgaria chở vũ khí, khí tài bay tới Hà Nội. Ngày 26 tháng 2, thêm nhiều quân Trung Quốc tập kết quanh khu vực Lạng Sơn chuẩn bị cho trận chiến đánh chiếm thị xã này.
Sau khi thị sát chiến trường, Bộ tổng tham mưu Quân đội Nhân dân Việt
Nam đề xuất điều động một quân đoàn từ Campuchia cùng một tiểu đoàn pháo
phản lực BM-21 vừa được Liên Xô viện trợ về Lạng Sơn. Đồng thời tổ chức
và huy động lại các đơn vị và các phân đội, biên chế lại một sư đoàn
vừa rút lui từ chiến trường, tiến hành các hoạt động tác chiến vào sâu
trong hậu phương địch. Phi đoàn máy bay vận tải An-12 của Liên Xô đã tiến hành không vận Quân đoàn 2, Quân đội Nhân dân Việt Nam từ Campuchia về Lạng Sơn. Ngày 25 tháng 2, tại Mai Sao, Quân đoàn 14 thuộc Quân khu 1, Quân đội Nhân dân Việt Nam cùng Bộ chỉ huy thống nhất Lạng Sơn được thành lập, lực lượng bao gồm các Sư đoàn 3, 327, 338, 337 (đang từ Quân khu 4 ra) và sau này có thêm Sư đoàn 347 cùng các đơn vị trực thuộc khác.
Trong giai đoạn đầu đến ngày 28 tháng 2 năm 1979,
quân Trung Quốc chiếm được các thị xã Lào Cai, Cao Bằng, và một số thị
trấn. Các cơ sở vật chất, kinh tế ở những nơi này bị phá hủy triệt để.
Tuy nhiên, do vấp phải sự phòng ngự có hiệu quả của Việt Nam cũng như có
chiến thuật lạc hậu so với phía Việt Nam nên quân Trung Quốc tiến rất
chậm và bị thiệt hại nặng. Quân Việt Nam còn phản kích đánh cả vào hai
thị trấn biên giới Ninh Minh (Quảng Tây) và Malipo (Vân Nam) của Trung
Quốc, nhưng chỉ có ý nghĩa quấy rối.
Phụ nữ, trẻ em và dân quân Việt Nam bị Trung Cộng thảm sát trong
ngoài động Thạnh Sơn. Nguồn: Lịch sử diễn đàn Trung Quốc. [2]
Quân Trung Cộng
không tha bất cứ già trẻ, giật sập cửa động, dùng khí độc, chất hóa học thả xuống
các lỗ thông hơi giết sạch mọi người trong động. Nguồn: Lịch sử diễn đàn
Trung Quốc.
Hai lính TQ, Dương Minh (Yang Ming-杨明)
và Hoàng (Huang-黄)
chính tay họ cắt xén thân thể của nữ tù binh Việt Nam. Nguồn: tài liệu Huỳnh
Tâm. [5]
Trại nữ tù binh
tại Bác Lý Hà. Lịch sử diễn đàn Trung Quốc loan tải.
Nguồn: Tài liệu Huỳnh Tâm.
Một nữ tù binh Việt Nam còn mặc quần áo bệnh xá, bị lính Trung Quốc hãm
hiếp tập thể,chúng đang gọi điện báo cho đồng bọn đến tiếp tục cưỡng
dâm. Người nữ tù binh này được giải vây và cứu thoát. Ảnh: NF3.86.
Thi thể của nữ tù binh Việt Nam bị lính Trung Quốc hãm hiếp tập thể, sau
đó cắt lấy bộ ngực, bộ ngũ tạng, đôi bắp đùi chân tay để ăn thịt. Thi
thể tại hiện trường đang nằm trên băng ca cứu thương của bệnh xá Tập
đoàn 25. Ảnh:
Nữ tù binh Việt Nam, sau khi bị lính Trung Quốc hãm hiếp tập thể, và ức
bách cho đến chết, áo ngược bị xé rách toang từng mảnh, cho thấy cự
tuyệt thất vọng, thi thể vứt bỏ tại bìa rừng núi 227, cách bệnh xá Tập
đoàn 25, 2 km. Ảnh: NF3.86
Giai đoạn 2 bắt đầu từ ngày 27 tháng 2.
Chiến sự tập trung tại Lạng Sơn tuy giao tranh tại Lào Cai, Cao Bằng,
và Móng Cái vẫn tiếp diễn. Trận đánh chiếm thị xã Lạng Sơn bắt đầu lúc 6
giờ sáng cùng ngày. Trung Quốc điều tới đây thêm 2 sư đoàn từ Đồng Đăng
và Lộc Bình (phía đông nam Lạng Sơn), tiếp tục đưa thêm quân mới từ
Trung Quốc thâm nhập Việt Nam để tăng viện.
Tại Lạng Sơn, các Sư đoàn 3, 337, của Việt Nam đã tổ chức phòng thủ chu
đáo và phản ứng mãnh liệt trước các đợt tấn công lớn của quân Trung
Quốc. Từ ngày 2 tháng 3, Sư đoàn 337 trụ tại khu vực cầu Khánh Khê. Sư
đoàn 3 chống trả 3 sư đoàn bộ binh 160, 161, 129, cùng nhiều tăng, pháo,
tiến công trên một chiều dài 20 km từ xã Hồng Phong huyện Văn Lãng đến xã Cao Lâu huyện Cao Lộc.
Suốt ngày 27, ở hướng Cao Lộc, sư đoàn 129 Trung Quốc không phá nổi
trận địa phòng thủ của trung đoàn 141; ở hướng đường 1B, sư đoàn 161 bị
trung đoàn 12 ghìm chân; ở hướng đường 1A, trung đoàn 2 vừa chặn đánh sư
đoàn 160 từ phía bắc vừa chống lại cánh quân vu hồi của sư đoàn 161 từ
hướng tây bắc thọc sang. Nhưng 14 giờ ngày hôm đó, 1 tiểu đoàn Trung
Quốc bí mật luồn qua phía sau bất ngờ đánh chiếm điểm cao 800, nơi đặt
đài quan sát pháo binh của sư đoàn 3 Sao Vàng. Mất điểm cao 800, thế
trận phòng ngự của Việt Nam ở phía tây đường 1A từ Cốc Chủ đến điểm cao
417 bị chọc thủng. Chiếm được điểm cao 800 và Tam Lung,
nhưng trong suốt các ngày từ 28 tháng 2 đến 2 tháng 3, quân Trung Quốc
vẫn không vượt qua được đoạn đường 4 km để vào thị xã Lạng Sơn, tuy đã
dùng cho hướng tiến công này gần 5 sư đoàn bộ binh.
Sau nhiều trận đánh đẫm máu giành giật các điểm cao quanh Lạng Sơn, mà
có trận quân phòng thủ Việt Nam đánh đến viên đạn cuối cùng, quân Trung
Quốc bắt đầu bao vây thị xã Lạng Sơn ngày 2 tháng 3 sử dụng thêm sư đoàn 162 dự bị chiến dịch của quân đoàn 54 và dùng 6 sư đoàn tấn công đồng loạt trên nhiều hướng. Chiều ngày 4, một cánh quân Trung Quốc đã vượt sông Kỳ Cùng,
chiếm điểm cao 340 và vào tới thị xã Lạng Sơn, một cánh quân khác của
sư đoàn 128 Trung Quốc cũng chiếm sân bay Mai Pha, điểm cao 391 ở phía
tây nam thị xã.
Đến đây, phía Việt Nam đã điều động các sư đoàn chủ lực có xe tăng,
pháo binh, không quân hỗ trợ áp sát mặt trận, chuẩn bị phản công giải
phóng các khu vực bị chiếm đóng. Quân đoàn 14 với các sư đoàn 337, 327,
338 hầu như còn nguyên vẹn đang bố trí quân quanh thị xã Lạng Sơn. Quân
đoàn 2, chủ lực của Quân đội Nhân dân Việt Nam, đã tập kết sau lưng Quân
đoàn 14. Ngày 5 tháng 3 năm 1979, Việt Nam ra lệnh tổng động viên toàn quốc. Cùng ngày, Bắc Kinh tuyên bố đã "hoàn thành mục tiêu chiến tranh", "chiến thắng" và bắt đầu rút quân. Ngày 6 tháng 3 năm 1979, Ban Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam ra Chỉ thị số 69, nhận định về tình hình và đưa ra chủ trương trong điều kiện Trung Quốc rút quân. Chỉ thị này khẳng định: "Trong
khi chấp nhận cho địch rút quân, chúng ta luôn luôn phải nâng cao cảnh
giác, tăng cường quốc phòng, sẵn sàng giáng trả địch đích đáng, nếu
chúng lật lọng, trở lại xâm lược nước ta lần nữa (...) Không được một
chút mơ hồ nào đối với âm mưu cơ bản của bọn phản động Trung Quốc là
thôn tính nước ta, khuất phục nhân dân ta (...) luôn luôn sẵn sàng chuẩn
bị chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, đập tan bọn xâm lược (...) cần giương cao
chính nghĩa của ta, bảo vệ độc lập, tự do của Tổ quốc và bảo vệ hòa
bình, xúc tiến việc hình thành mặt trận nhân dân thế giới ủng hộ, bảo vệ
Việt Nam". Ngày 7 tháng 3, Việt Nam tuyên bố rằng để thể hiện "thiện chí hòa bình", Việt Nam sẽ cho phép Trung Quốc rút quân. Mặc dù Trung Quốc tuyên bố rút quân, chiến sự vẫn tiếp diễn ở một số
nơi. Dân thường Việt Nam vẫn tiếp tục bị giết, chẳng hạn như vụ thảm sát ngày 9 tháng 3 tại thôn Đổng Chúc, xã Hưng Đạo, huyện Hòa An, Cao Bằng,
khi quân Trung Quốc đã dùng búa và dao giết 43 người, gồm 21 phụ nữ và
20 trẻ em, trong đó có 7 phụ nữ đang mang thai, rồi ném xác xuống giếng
hoặc chặt ra nhiều khúc rồi vứt hai bên bờ suối.
Trong thời gian chuẩn bị rút quân, Trung Quốc còn phá hủy một cách có
hệ thống toàn bộ các công trình xây dựng, từ nhà dân hay cột điện, tại
các thị xã thị trấn Sapa, Đồng Đăng, Lạng Sơn,...
Tháng 2/1979, Đặng Tiểu Bình phái 200.000 quân Trung Quốc đánh vào biên giới Việt Nam.
Rạng
sáng 17/2/1979, quân đội Trung Quốc “bắn hàng vạn loạt pháo” trên toàn
tuyến biên giới Việt-Trung, mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam.
(Ảnh tư liệu: Huanqiu)
Sư đoàn 337
của Việt Nam, lên tham chiến từ ngày 2 tháng 3 tại khu vực cầu Khánh
Khê ở Lạng Sơn để chi viện cho các đơn vị đang chặn đánh quân Trung
Quốc. Sư đoàn này đến nơi quá muộn để thay đổi cục diện trận đánh tại
Lạng Sơn, nhưng đã cùng sư đoàn 338 tổ chức phản kích đánh vào quân
Trung Quốc rút lui qua ngả Chi Mã.
Ngày 16 tháng 3 năm 1979, Trung Quốc tuyên bố hoàn tất việc rút quân khỏi Việt Nam. Cả Việt Nam và Trung Quốc đều tuyên bố mình chiến thắng,
nhưng xung đột vũ trang tại biên giới Việt - Trung phải mất một thời
gian dài nữa và phải tốn không ít máu xương của cả hai phía nữa mới chấm
dứt hẳn. Đánh giá thiệt hại sau cuộc chiến, tháng 4 năm 1979, Báo Quân đội Nhân dân của Việt Nam ước lượng tổng thương vong của quân Trung Quốc là 62.500 người. Phía Việt Nam có hàng nghìn dân thường chết và bị thương, theo tạp chí Time thì có khoảng dưới 10.000 lính Việt Nam thiệt mạng (con số này phía Trung Quốc là trên 20.000).
Phía Trung Quốc bắt được khoảng 1.600 tù binh trong tổng số hơn 50.000
quân Việt Nam tham chiến tại mặt trận Lào Cai, Cao Bằng, Lạng Sơn.Tướng Ngũ Tu Quyền, phó tổng tư lệnh Quân giải phóng Trung Quốc,
tuyên bố rằng số quân Việt Nam bị chết và bị thương là 50.000, trong khi
con số tương ứng của Trung Quốc là 20.000. Một nguồn khác của Trung Quốc thống kê tổn thất của quân Trung Quốc là 8.531 chết và khoảng 21.000 bị thương. Theo tuyên bố của Việt Nam, kết quả chiến đấu của họ như sau:
Mặt trận Lạng Sơn: diệt 19.000 lính Trung Quốc, phá hủy 76 xe tăng,
thiết giáp và 52 xe quân sự, 95 khẩu pháo-cối và giàn phóng hoả tiễn,
tiêu diệt và đánh thiệt hại nặng 3 trung đoàn, 4 tiểu đoàn (có hơi khác
biệt so với ký sự Sư đoàn Sao Vàng).
Mặt trận Cao Bằng: diệt 18.000 lính Trung Quốc, phá hủy 134 xe tăng,
thiết giáp và 23 xe quân sự, tiêu diệt và đánh thiệt hại nặng 7 tiểu
đoàn.
Mặt trận Hoàng Liên Sơn (Lào Cai): diệt 11.500 lính Trung Quốc, phá
hủy 66 xe tăng, thiết giáp và 189 xe quân sự, tiêu diệt và đánh thiệt
hại nặng 4 tiểu đoàn.
Mặt trận Quảng Ninh, Lai Châu và Hà Tuyên: diệt 14.000 lính Trung
Quốc, phá hủy 4 xe tăng, thiết giáp, 6 xe quân sự, tiêu diệt và đánh
thiệt hại nặng 3 tiểu đoàn.
Cuộc chiến cũng đã gây ra những thiệt hại nặng nề về kinh tế cho Việt
Nam: các thị xã Lạng Sơn, Cao Bằng, thị trấn Cam Đường bị hủy diệt hoàn
toàn, 320/320 xã, 735/904 trường học, 428/430 bệnh viện, bệnh xá, 41/41
nông trường, 38/42 lâm trường, 81 xí nghiệp, hầm mỏ và 80.000 ha hoa
màu bị tàn phá, 400.000 gia súc bị giết và bị cướp.
Khoảng một nửa trong số 3,5 triệu dân bị mất nhà cửa, tài sản và phương
tiện sinh sống. Để được Liên Xô tăng cường viện trợ, từ 27 tháng 3 năm
1979, Việt Nam quyết định cho tàu quân sự Liên Xô đóng ở cảng Cam Ranh.
Về phía Trung Quốc, cuộc chiến ngắn ngày đã tiêu tốn của nước này
khoảng 1,3 tỷ USD và làm ảnh hưởng lớn tới quá trình cải tổ kinh tế. Khi quân Trung Quốc rút khỏi Việt Nam tháng 3 năm 1979, Trung Quốc
tuyên bố họ không tham vọng dù "chỉ một tấc đất lãnh thổ Việt Nam". Trên thực tế, quân Trung Quốc chiếm đóng khoảng 60 km2 lãnh thổ có tranh chấp mà Việt Nam kiểm soát trước khi chiến sự nổ ra. Tại một số nơi như khu vực quanh Hữu Nghị Quan gần Lạng Sơn,
quân Trung Quốc chiếm đóng các lãnh thổ không có giá trị quân sự nhưng
có giá trị biểu tượng quan trọng. Tại các nơi khác, quân Trung Quốc
chiếm giữ các vị trí chiến lược quân sự làm bàn đạp để từ đó có thể tiến
đánh Việt Nam. Sau khi chiến tranh kết thúc, Việt Nam và Trung Quốc nối lại đàm phán
về vấn đề biên giới. Cuộc đàm phán Việt – Trung lần ba diễn ra vào năm
1979 với hai vòng đàm phán. Trong vòng đàm phán thứ nhất phía Việt Nam
cho rằng, trước hết cần vãn hồi hòa bình, tạo không khí thuận lợi để
giải quyết những vấn đề khác. Đoàn Việt Nam đưa ra phương án ba điểm để
giải quyết vấn đề biên giới: chấm dứt chiến sự, phi quân sự hóa biên
giới; khôi phục giao thông, vận tải bình thường trên "cơ sở tôn trọng
đường biên giới lịch sử mà các Hiệp định Trung - Pháp năm 1887 và 1895
đã thiết lập". Phía Trung Quốc kiên quyết từ chối những đề nghị của Việt
Nam, đưa ra đề nghị tám điểm của mình, bác bỏ việc phi quân sự hóa biên
giới, đề nghị giải quyết các vấn đề lãnh thổ trên "cơ sở những công ước
Trung - Pháp" chứ không phải trên cơ sở đường ranh giới thực tế do các
Hiệp định đó đưa lại. Trung Quốc cũng đòi Việt Nam thừa nhận các quần
đảo Hoàng Sa và Trường Sa là "một bộ phận không thể tách rời của lãnh
thổ Trung Quốc"; Việt Nam phải rút quân ra khỏi Trường Sa, thay đổi
chính sách với Lào và Campuchia, giải quyết vấn đề Campuchia. Trung Quốc
cũng yêu cầu Việt Nam nhận lại những người Hoa đã ra đi. Trong quan hệ
với các nước khác: "Không bên nào sẽ tham gia bất cứ khối quân sự nào
chống bên kia, cung cấp căn cứ quân sự hoặc dùng lãnh thổ và các căn cứ
các nước khác chống lại phía bên kia"; "Việt Nam không tìm kiếm bá quyền
ở Đông Dương hay ở bất cứ nơi nào" làm điều kiện để tiến hành thương
lượng.
Vị trí và lực lượng của Hải quân nhân dân Việt Nam trong trận chiến bảo vệ Trường Sa 14-3-1988
Tàu HQ-604 dưới làn đạn tàn ác của kẻ thù
Tàu HQ-505 ủi bãi bảo vệ Cô Lin
Dưới họng súng của Trung Quốc, chiến sỹ hải quân Việt Nam đã chiến đấu đến hơi thở cuối cùng cho chủ quyền của Tổ quốc
Đảo Len Đao, hòn đảo nơi đầu sóng ngọn gió
Vòng đàm phán thứ hai được tổ chức tại Bắc Kinh từ ngày 8/6/1979.
Đoàn đại biểu Việt Nam đề nghị hai bên cam kết không tiến hành các hoạt
động thám báo và trinh sát dưới mọi hình thức trên lãnh thổ của nhau;
không tiến hành bất cứ hoạt động tiến công, khiêu khích vũ trang nào,
không nổ súng từ lãnh thổ bên này sang bên kia, cả trên bộ, trên không,
trên biển; không có bất cứ hành động gì uy hiếp an ninh của nhau. Việt
Nam cũng đưa ra những quan điểm của mình về "chống bá quyền" với ba nội
dung chính: Không bành trướng lãnh thổ dưới bất cứ hình thức nào, chấm
dứt ngay việc chiếm đoạt đất đai của nước kia, không xâm lược, không
dùng vũ lực để "trừng phạt" hoặc để "dạy bài học"; không can thiệp vào
quan hệ của một nước với nước khác, không can thiệp vào công việc nội bộ
của nước khác, không áp đặt tư tưởng, quan điểm, đường lối của mình cho
nước khác; không liên minh với các thế lực phản động khác chống lại hòa
bình, độc lập dân tộc. Trong vòng đàm phán này, Trung Quốc chủ yếu chỉ
trích Việt Nam về việc "buộc" Trung Quốc phải thực hiện "chiến tranh tự
vệ", đề cập đến một số vấn đề liên quan đến quan hệ hai nước và lập
trường tại khu vực, không tập trung giải quyết thực chất vấn đề biên
giới. Đầu năm 1980, Trung Quốc đơn phương đình chỉ vòng ba, không nối
lại đàm phán. Việt Nam liên tiếp gửi công hàm yêu cầu họp tiếp vòng ba,
nhưng Trung Quốc làm ngơ. Trong những năm 1979-1982, Việt Nam nhiều lần
đề nghị nối lại các cuộc đàm phán đã bị Trung Quốc đơn phương bỏ dở,
nhưng Trung Quốc vẫn một mực khước từ.
Từ tháng 3/1979 đến hết tháng 9/1983, Trung Quốc đã cho lực lượng vũ
trang xâm nhập biên giới Việt Nam 48.974 vụ, trong đó xâm nhập biên giới
trên bộ 7.322 vụ có nổ súng, khiêu khích; xâm nhập vùng biển 28.967 vụ;
xâm nhập vùng trời biên giới 12.705 vụ (với hơn 2.000 tốp máy bay).
Trung Quốc bắn pháo thường xuyên vào các vùng dân cư, tiếp tục lấn
chiếm đất đai, xâm canh, xâm cư, di chuyển, đập phá cột mốc, dựng bia,
chôn mộ trong đất Việt Nam. Tính đến tháng 3/1983, Trung Quốc còn chiếm
giữ 89 điểm của Việt Nam.
Việc Trung Quốc chiếm đóng các lãnh thổ biên giới làm cho Việt Nam căm
giận, và giữa hai phía nổ ra một loạt trận giao tranh nhằm giành quyền
kiểm soát các khu vực đó. Xung đột biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc
vẫn tiếp diễn cho đến năm 1988, lên cao vào các năm 1984-1985.
Trong tháng 5 - tháng 6 năm 1981, quân Trung Quốc mở cuộc tấn công vào
đồi 400 (mà Trung Quốc gọi là Pháp Tạp Sơn) ở huyện Cao Lộc, Lạng
Sơn,
xa hơn về phía tây, quân Trung Quốc cũng vượt biên giới đánh vào các vị
trí quanh đồi 1688 ở tỉnh Hà Tuyên. Giao tranh diễn ra hết sức đẫm máu
với hàng trăm người thuộc cả hai bên thiệt mạng.
Ngày 1/2/1984, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc Hồ Diệu Bang cùng
đoàn cán bộ cao cấp đã đến thăm cao điểm 400 (mà Trung Quốc đặt tên là
Pakhason) để động viên quân đội.
Tới năm 1984, quân Trung Quốc lại dùng nhiều tiểu đoàn mở các đợt tấn
công lớn vào Lạng Sơn. Đặc biệt tại Hà Tuyên, trong tháng 4 - tháng 7
năm 1984, quân Trung Quốc đánh vào dải đồi thuộc huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà
Giang mà Trung Quốc gọi là Lão Sơn. Quân Trung Quốc chiếm một số ngọn
đồi thuộc dải đồi này, giao tranh kéo dài dằng dai, nhưng không có nơi
nào quân Trung Quốc tiến sâu được hơn vào lãnh thổ Việt Nam quá 5 km, dù
quân đông hơn nhiều.
Bất ngờ trước sự tấn công của quân Trung Quốc, người dân thị xã Cao
Bằng ngược đường quốc lộ, băng rừng di tản về hướng Bắc Kạn, Thái
Nguyên. Giữa dòng người tản cư có hai chị em cõng nhau chạy nạn. Hai đứa
trẻ vừa đói, vừa mệt nhưng cũng không dám nghỉ ngơi. Nhiều năm qua, ông
Trần Mạnh Thường vẫn hy vọng gặp lại hai chị em trong bức ảnh.
Cô bộ đội bế bé gái theo mẹ đi tản cư tại chân cầu Tài Hồ Sìn (Hòa
An, Cao Bằng). Mẹ của bé trúng đạn quân Trung Quốc bị thương nặng, được
bộ đội đưa về tuyến sau. "Tình hình khi ấy rất khẩn trương, ai cũng
hoang mang vì không nghĩ Trung Quốc lại đưa quân tràn qua bắn phá", ông
Thường kể.
Các nhà quan sát nước ngoài ghi nhận từ tháng 7/1980 đến tháng
8/1987, dọc biên giới Việt Nam - Trung Quốc đã xảy ra 6 cuộc xung đột vũ
trang lớn vào các tháng 7/1980, tháng 5/1981, tháng 4/1983, tháng
6/1985, tháng 12/1986 và tháng 1/1987. Theo tuyên bố của Ngoại Trưởng
Trung Quốc Ngô Ngọc Khiêm trong buổi họp báo ở Singapore ngày 29/1/1985,
trong năm 1985, Trung Quốc đã điều thêm 8 sư đoàn bộ binh cùng gần 20
sư đoàn tại chỗ áp sát biên giới Việt – Trung; đồng thời, triển khai hơn
650 máy bay chiến đấu, ném bom các sân bay gần biên giới. Còn theo Báo
Nhật Bản Sankei Shimbun ra ngày 14/1/1985, Trung Quốc đã đưa số máy bay
đến gần biên giới Việt - Trung lên gần 1.000 chiếc. Đài BBC ngày
6/2/1985 cho biết: Trung Quốc có 400.000 quân đóng dọc biên giới Việt –
Trung. Tạp chí Nghiên cứu vấn đề quốc tế của Trung Quốc số 2/1982 lý giải mục đích của việc bố trí một lực lượng lớn quân đội ở sát biên giới với Việt Nam "là
để kìm giữ một phần binh lực của Việt Nam ở tuyến biên giới phía Bắc,
do đó làm lợi cho cuộc chiến tranh chống xâm lược của nhân dân Campuchia".
Trung Quốc cũng thường xuyên khiêu khích vũ trang, lấn chiếm, phá hoại
phòng tuyến bảo vệ biên giới, tung gián điệp, thám báo, biệt kích vào
nội địa, kích động các dân tộc thiểu số dọc biên giới Việt Trung ly
khai, xây dựng cơ sở vũ trang, gây phỉ. Từ cuối năm 1980, Trung Quốc hỗ
trợ Fulro và tàn quân Polpot, lập căn cứ ở Đông Bắc Campuchia, lập hành
lang Tây Nguyên- Campuchia –Thái Lan. Trong các ngày 22/2/1980, 27/2/1980 và 2/3/1980 tại vùng biển Tây Nam
quần đảo Hoàng Sa, Hải quân Trung Quốc bắt giữ một số thuyền đánh cá
của ngư dân hai tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng và Nghĩa Bình. Từ năm 1979 đến
năm 1982, diễn ra các sự kiện đáng chú ý như Tổng cục Hàng không Dân
dụng Trung Quốc công bố một thông cáo quy định "bốn vùng nguy hiểm" ở
Tây Nam đảo Hải Nam, trong đó có vùng trời của quần đảo Hoàng Sa và buộc
máy bay dân dụng của các nước khác phải bay qua đây vào những giờ do
Trung Quốc quy định; thành lập lữ đoàn Hải quân đầu tiên ở đảo Hải Nam
(12/1979); cho máy bay ném bom H-6 của Hải quân Trung Quốc thực hiện
cuộc tuần tra trên không đầu tiên ở quần đảo Trường Sa (1/1980); năm
1982, Tổng tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Trung Quốc Dương Đắc Chí
viếng thăm quần đảo Hoàng Sa và tàu hải quân của Trung Quốc, Việt Nam đã
đụng độ ở ngoài khơi quần đảo Hoàng Sa.
Ngày 15/4/1987, Trung Quốc đã ra tuyên bố lên án quân đội Việt Nam
chiếm đóng đảo đá Ba Tiêu thuộc quần đảo Trường Sa. Trung Quốc cho rằng
mục đích của Việt Nam khi triển khai quân đội một cách bất hợp pháp ở
đảo Ba Tiêu là để chiếm hữu thềm lục địa gần đó và mở đường cho việc
khai thác dầu trong tương lai. Trung Quốc yêu cầu Việt Nam rút khỏi Ba
Tiêu và 9 hòn đảo khác, bảo lưu quyền thu hồi các đảo này vào một thời
điểm thích hợp. Từ ngày 15/5 đến ngày 6/6/1987, Hải quân Trung Quốc diễn
tập lớn và tổ chức các cuộc nghiên cứu hải dương học ở khu vực quần đảo
Trường Sa. Tháng 1/1988, một lực lượng lớn tàu chiến của Trung Quốc
hoạt động xâm chiếm tại bãi đá Chữ Thập và Châu Viên, xây nhà, cắm cờ
Trung Quốc trên hai đảo này. Ngày 26/2/1987, lực lượng của Trung Quốc đã
đổ bộ lên hai đảo san hô trong quần đảo Trường Sa. Ngày 14 tháng 3 năm
1988 xảy ra Hải chiến Trường Sa
giữ Việt Nam và Trung Quốc gần cụm đảo Sinh Tồn, khiến 3 tàu vận tải
của Việt Nam bị bắn chìm, 20 người chết và 74 người khác bị mất tích.
Trong năm 1988, Trung Quốc chiếm 6 điểm trên quần đảo Trường Sa, xây
dựng hệ thống nhà giàn. Tháng 5/1988, tờ Nhật báo Quân đội Nhân dân
thuộc quân đội Trung Quốc có bài viết, trong đó tuyên bố: Hiện nay Hải
quân Trung Quốc có thể bảo vệ lãnh hải gần bờ Trung Quốc, cả chủ quyền
trên quần đảo Trường Sa và biển khơi xa lục địa hàng trăm hải lý. Các ngày 17 và 23, 26 tháng 3 năm 1988, Chính phủ Việt Nam đã liên
tục gửi công hàm phản đối đến Bắc Kinh, đề nghị Trung Quốc cử đại diện
đàm phán, thương lượng để giải quyết những bất đồng liên quan đến quần
đảo Trường Sa, cũng như những vấn đề tranh chấp khác về biên giới và
quần đảo Hoàng Sa; đề nghị hai bên không dùng vũ lực và tránh mọi đụng
độ để không làm tình hình xấu thêm. Việt Nam cũng thông báo cho Liên Hợp
Quốc về tình trạng tranh chấp giữa hai bên song phía Trung Quốc vẫn
tiếp tục chiếm giữ các nơi đã chiếm được và khước từ thương lượng, giữ
quan điểm về "chủ quyền không thể tranh cãi của mình đối với quần đảo
Nam Sa" (Trường Sa).
Vùng biển Cô Lin - Gạc Ma - Len Đao
Nhìn bằng mắt thường từ đảo Cô Lin từ khoảng
cách 3 hải lý, có thể thấy rõ các công trình xây dựng mở rộng trái phép
của TQ trên đảo Gạc Ma.
Ngày 13/4/1988, Quốc hội Trung Quốc khóa VI đã phê chuẩn thành lập
Khu hành chính Hải Nam, có địa giới hành chính rộng lớn trên biển Đông,
bao trùm cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam. Tháng
4/1988, Trung Quốc đặt lại tên cho các đảo, đá, bãi cạn thuộc quần đảo
Hoàng Sa, Trường Sa và sáp nhập hai quần đảo vào địa phận Hải Nam -
Trung Quốc. Từ tháng 1/1989 đến tháng 9/1990, Trung Quốc liên tục có các
hành động như: đặt bia chủ quyền trên các đảo đã chiếm được; tập trận,
khảo sát khoa học trong lãnh hải quần đảo Trường Sa.
Lính Trung Quốc đe dọa phóng viên chụp hình
Những năm 1982, 1983 và 1984, tại diễn đàn đàm phán bình thường hóa
quan hệ Xô – Trung ở cấp Thứ trưởng Ngoại giao, Trung Quốc nêu vấn đề
quân đội Việt Nam ở Campuchia, đề nghị Liên Xô phải thúc đẩy Việt Nam
rút quân ra khỏi Campuchia, coi việc Liên Xô tiếp tục ủng hộ quân đội
Việt Nam tại Campuchia là trở ngại lớn nhất cho việc bình thường hóa
quan hệ Trung - Xô.
Cuộc chiến năm 1979 cho Trung Quốc thấy sự lạc hậu của vũ khí cũng
như chiến thuật mà quân đội nước này sử dụng, do đó, sau cuộc chiến là
bắt đầu của một cuộc cải cách và hiện đại hóa mạnh đối với Quân giải
phóng Trung Quốc, ngày nay công cuộc hiện đại hóa này vẫn tiếp tục. Ảnh hưởng trực tiếp có thể thấy là ngân sách dành cho quốc phòng của Trung Quốc tăng từ 15% năm 1978 lên 18% năm 1979.
Quan hệ xấu với Trung Quốc đã làm Việt
Nam đã phải trả một cái giá rất đắt.
Việc Trung Quốc duy trì áp lực quân sự tại vùng biên giới trong suốt
mười năm sau đó buộc Việt Nam cũng phải duy trì lực lượng phòng thủ lớn ở
biên giới và miền Bắc. Cùng với việc bị sa lầy với chiến sự dai dẳng ở
Campuchia mà Trung Quốc muốn kéo dài, Việt Nam bị cô lập trong mười năm
đó trên trường quốc tế.
Nền kinh tế yếu kém và bị Mỹ cấm vận phải căng ra duy trì một lực lượng
quân đội lớn, và phải phụ thuộc vào sự giúp đỡ của Liên Xô. Sau năm
1979, tình hình kinh tế miền Bắc Việt Nam tệ hại đi rất nhiều so với
thời kỳ trước đó. Trong khi đó, Trung Quốc phát triển mạnh từ năm 1978
do công cuộc cải tổ kinh tế của Đặng Tiểu Bình. 7 năm sau chiến tranh
biên giới, Việt Nam bắt đầu thời kì Đổi Mới. Sau khi Liên Xô tan rã và
Việt Nam rút quân khỏi Campuchia, đến năm 1992 quan hệ giữa hai nước
chính thức được bình thường hóa.