Thứ Tư, 30 tháng 12, 2020
CÂU CHUYỆN LỊCH SỬ 184
(ĐC sưu tầm trên NET)
10 tổ chức sát thủ nguy hiểm nhất trong lịch sử
-
"Không thành kế" của Gia Cát Lượng: Liệu có "độc nhất vô nhị" trong Tam Quốc?
-
Bị tàu ngầm Nhật Bản tấn công, 900 lính thủy Mỹ trở thành... mồi cho cá mập
-
Ai là người đã khiến Nguyễn Trãi bị tru di tam tộc?
-
Clip: Được "cứu mạng", võ sĩ UFC vẫn tức tối đấm... trọng tài
-
3 "khắc chế cứng" có khả năng phong ấn sức mạnh của Tôn Ngộ Không
1. Tổ chức Viskanya
Tổ chức Vishkanya, gồm những nữ sát thủ xinh đẹp chết người, phát triển ở Ấn Độ trong thời cổ đại, với nhiệm vụ chấm dứt xung đột giữa các vị vua mà không làm bạo lực lan rộng. Theo các thư tịch cổ, một cách chuẩn bị cho các nữ sát thủ này là liều thuốc độc cho họ dùng mỗi lần một ít cho đến khi họ có được khả năng miễn dịch với nó.
Sau đó, họ sẽ được cử vào trại của kẻ thù hoặc được giao nhiệm vụ gần gũi với một vị vua đối thủ, đầu độc ông ta trong khi có thể ăn uống cùng bàn để làm giảm sự nghi ngờ. Trong các trường hợp khác, họ có thể bị nhiễm độc một cách có chủ đích (lây lan qua máu hoặc quan hệ tình dục) hoặc một căn bệnh truyền nhiễm, trước khi được cử đến thủ đô hoặc doanh trại của đối thủ.
2. Tổ chức Werwolf (Người Sói)
Người Sói là một nhóm gồm khoảng 5.000 tình nguyện viên được chọn từ các thành viên triển vọng nhất của tổ chức Hitler Youth và Waffen SS. Họ được huấn luyện về phá hoại và giết chóc thầm lặng, sau đó hoạt động trong các lãnh thổ do Đức Quốc xã kiểm soát và đã bị quân Đồng minh chiếm lại. Mặc dù có một vài báo cáo lẻ tẻ về các đơn vị Người Sói hoạt động có hiệu quả, nhưng phần lớn chúng bị tê liệt bởi nhiều vấn đề tương tự đã gây ra cho quân đội Đức Quốc xã chính thống vào cuối cuộc chiến.
Vào mùa xuân năm 1945, đã có một cuộc tấn công ám sát các quan chức dân sự và thị trưởng do lực lượng Đồng minh chỉ định tại các thị trấn từng do quân Đức nắm giữ. Nổi tiếng nhất là vụ ám sát Franz Oppenhoff được bổ nhiệm làm người đứng đầu Aachen. Chính thức được gọi là Chiến dịch Carnival, những kẻ ám sát đã ngụy trang thành phi công Đức bị bắn hạ để tiếp cận thị trưởng Aachen để giết chết ông ta.
3. Tổ chức lính đánh thuê của Callippus, xứ Syracuse
Callippus và Dion đều là học trò của Plato và sau đó đã trở về Syracuse như những người đồng chí. Tuy nhiên, Callippus có ý định ít danh dự hơn và không lâu sau đó anh ta bắt đầu lên kế hoạch giết chết Dion.
Tin đồn về âm mưu giết người lan truyền, nhưng đã bị bỏ qua. Trong bữa tiệc của Demeter và Chore, những sát thủ từ nhóm lính đánh thuê của Callippus đã vào phòng Dion và giết chết anh ta khi những người bảo vệ của Dion nhìn sang hướng khác.
Callippus nắm lấy quyền lực, nhưng
sự cai trị của anh với Syracuse chỉ kéo dài 13 tháng trước khi anh và
những sát thủ đánh thuê của Callippus bị đuổi ra khỏi thị trấn. Bị tước
bỏ vị trí và quyền lực của mình, Callippus vẫn đứng đầu tổ chức khi họ
diễu hành và nắm quyền kiểm soát Rhegium. Nhưng khi Callippus ngược đãi
các sát thủ của mình, anh đã mắc một sai lầm chết người: họ đã giết anh
ta bằng chính thanh kiếm đã giết Dion.
4. Hội ám sát Sarasota
Được thành lập vào năm 1884 với tư cách là một câu lạc bộ chính trị, ủy ban cảnh giác Sara Sota được tờ báo The New York Times đổi tên thành Hội ám sát Sarasota. Vào thời điểm đó, 9 người trong số 22 thành viên đã bị xét xử vì hai vụ giết người.
Chính trị của họ là một sự chia rẽ giận dữ giữa miền Bắc và miền Nam. Với rất nhiều người miền Bắc đang “hớt ngọn” để tận hưởng các cơ hội kinh doanh ở miền Nam, có khá nhiều cay đắng. Mục đích chính thức của nhóm là loại bỏ cuộc sống của những người mà luật pháp sẽ không chạm vào, “xóa bỏ tất cả những người đáng ghét”.
Không rõ có bao nhiêu trong số những người đáng ghét này mà Sarasota đã loại bỏ, nhưng vụ giết một người đưa thư tên Charles Abbe đã đưa hội lên trang đầu của tin tức quốc gia. Thi thể Abbe đã bị vứt xuống vịnh Mexico và không bao giờ được tìm thấy, và các bản án tù được trao cho các thành viên của hội đã đủ để dẫn đến sự sụp đổ của tổ chức.
5. Tổ chức Bàn tay đen
Khi 10 người đàn ông từ Serbia thành lập tổ chức Bàn tay đen vào năm 1911, họ đã làm nh˝ vậy với mục tiêu rất rõ ràng: sử dụng các hoạt động bạo lực và khủng bố để tạo ra một Serbia thống nhất.
Điều đó bắt đầu bằng việc cử sát thủ để giết hoàng đế đầu tiên Franz Josef, sau đó là thống đốc của Bosnia-Herzegovina, tướng Oskar Potiorek. Cả hai lần hành động đều bị thất bại, nhưng thành viên trong nhóm đã tăng lên. Đến năm 1914, một người đặc biệt cần phải ra đi: hoàng tử nước Áo Franz Ferdinand.
3 sát thủ của tổ chức Bàn tay đen được bố trí dọc theo lộ trình đoàn xe hộ tống để đảm bảo một trong 3 người sẽ thành công, và Gavrilo Princip đã thành công, trong khi Trifko Grabez và Nedeljko Cabrinovic thất bại. Cả 3 người này đã được giới thiệu vào nhóm bởi các thành viên tuyển dụng từ quán cà phê Belgrade.
6. Tổ chức Sicarii
Sicarii là một tổ chức quy tụ những sát thủ Do Thái được đặt tên từ sự lựa chọn vũ khí của họ: một con dao găm lưỡi cong gọi là sica. Họ được đặt tên này từ nhà sử học Hy Lạp cổ đại Josephus, người đã viết về phương pháp giết người ưa thích của nhóm chống La Mã. Mặc dù chúng được biết đến với các cuộc tấn công quy mô lớn, nhưng chiến thuật của chúng chỉ đơn giản là giấu vũ khí trong quần áo và rình rập mục tiêu của chúng thông qua những địa điểm công cộng khá bất tiện.
Nhóm này được biết đến như những người theo tổ chức Judas of Galilee, và mục tiêu của họ cũng khá đơn giản: kích động một cuộc nổi loạn chống lại Rome. Một cuộc nổi dậy đã xảy ra tại Jerusalem vào năm 65 trước Công nguyên, nhưng nó không thành công và dẫn đến sự biến mất của nhóm. Họ xuất hiện lần cuối tại một cuộc tấn công vào pháo đài cổ ở Masada. Cuối cùng, thuật ngữ “sicarii” được mở rộng để chỉ bất kỳ loại khủng bố Do Thái nào.
7. Harmodius, Aristogiton và những kẻ giết bạo chúa
Theo
Cicero, việc ám sát một nhà lãnh đạo chính trị đôi khi là hợp lý nếu
hành động đó đáp ứng các tiêu chí nhất định. Nếu nhà lãnh đạo đó có hành
động tàn ác với người dân của họ và chống lại lợi ích chung, nếu cái
chết của họ sẽ thúc đẩy lợi ích chung, và nếu hành động đó là biện pháp
cuối cùng thì nó có thể biện minh cho những kẻ ám sát và những kẻ thực
hiện vụ ám sát được gọi là những kẻ giết bạo chúa.
Những kẻ giết bạo chúa ban đầu là Harmodius và Aristogeiton, một cặp tình nhân đã tìm cách giết anh trai của bạo chúa Athens là Hippias. Mặc dù họ đã không thực hiện được việc sát hại mục tiêu của mình, nhưng hành động của họ đã được lịch sử Athens tôn vinh, và động lực của họ được nâng lên thành lý tưởng của người Athens. Sau cái chết đầy nghĩa khí của họ, các công dân Athens đã thề sẽ ám sát bất kỳ bạo chúa nào trong tương lai, và những người giết chết bạo chúa (và con cháu của họ) được trao phần thưởng như miễn thuế, bữa ăn miễn phí và ngồi ở hàng ghế đầu trong nhà hát.
8. Murder, Inc.
Murder, Inc. là một chi nhánh của tổ chức tội phạm quốc gia, chịu trách nhiệm cho 400 – 1.000 vụ ám sát trong những năm 1930 và 1940. Trụ sở chính của họ ở trong Midnight Rose Candy Store, một cửa hàng mở cửa 24 giờ ở Brooklyn.
Cửa hàng có một dãy điện thoại trả tiền, và những kẻ ám sát sẽ chờ điện thoại reo với thông tin chi tiết về phi vụ tiếp theo. Hầu hết các phi vụ đều nằm dọc theo bờ biển phía Đông, phần lớn được thực hiện với một cái rìu phá băng, và đa số mục tiêu hoặc là những tên côn đồ gây rắc rối nhiều hơn so với giá trị của chúng hoặc những công dân bình thường gặp bất hạnh khi chứng kiến tội ác.
Murder, Inc. được điều hành bởi Louis “Lepke” Buchalter, người đã bị lên ghế điện vào năm 1944. Ban đầu, vụ bắt giữ của ông ta đi kèm với bản án 14 năm về tội ma túy, và vụ xử tử ông ta diễn ra liên quan đến thuyết âm mưu về những người ông ta đã giết và những người mà ông ta thực sự có liên quan.
9. The Nokmim
Một số ít các từ khác nhau đề cập đến các sát thủ Do Thái, những người coi đó là nhiệm vụ của họ, đảm bảo các tội phạm chiến tranh (phát xít Đức) không bị trừng phạt phải trả giá cho hành động của họ. Một số người gọi nhóm là “Nokmim”, người Do Thái gọi là “những người báo thù”.
Nhóm này hoạt động bí mật, và một vài lời chứng thực của các cựu thành viên kể lại những câu chuyện khác nhau và không đưa ra ước tính thực sự nào về việc có bao nhiêu thành viên phát xít bị tổ chức này săn lùng và giết chết. Một phóng viên BBC, người đã viết nhiều về Nokmim, đã kể những câu chuyện về mọi thứ, từ vụ tai nạn giao thông xảy ra với một cựu sĩ quan Gestapo đang nằm trong bệnh viện vì một ca phẫu thuật nhỏ thì bị chết vì dầu hỏa được tiêm vào máu.
Không ai biết Nokmim đã hoạt
động được bao lâu, nhưng có khả năng tổ chức này hoạt động vào những năm
1950. Tầm với của họ là trên toàn thế giới và bao gồm không chỉ các vụ
ám sát cá nhân mà cả các hoạt động lớn nhằm loại bỏ những người có kế
hoạch (bị thất bại) đầu độc nguồn cung cấp nước của toàn thành phố.
10. Các sát thủ của Hassan-Is-Sabbah
Khi Hassan-is-Sabbah qua đời vào năm 1124, ông đã để lại một giáo phái trong pháo đài Alamut, tổng hành dinh của một phường hội sát thủ trong một thế kỷ rưỡi tiếp theo cho đến khi họ bị quân Mông Cổ xóa sổ vào năm 1256.
Một triết gia và nhà thuyết giáo, còn được gọi là “ông già của núi”, đã dạy rằng không có gì vinh dự về những nhà lãnh đạo sống một cuộc sống xa hoa trong khi người dân của họ chết đói. Những người tận tụy nhất đã được huấn luyện để loại bỏ những người đứng đầu nhà nước và quân đội mà họ thấy là tham nhũng và quá quyền lực, cùng với những người theo học thuyết Sunni.
Vụ ám sát được ghi nhận đầu tiên là vào năm 1092, và lệnh này sau đó nhắm vào bất cứ ai mà họ thấy là bất công, kể cả những người đã chiến đấu trong các cuộc thập tự chinh. Tự coi mình là thẩm phán hơn là những kẻ giết người, hàng ngũ sát thủ phát triển lớn đến mức cuối cùng họ chiếm cứ 70 địa điểm và giao tiếp thông qua một ngôn ngữ được mã hóa của riêng họ.
TT&HĐIII - 25/p
Đất tụ nghĩa anh hùng
PHẦN III: NGUỒN CỘI
" Đi đi con!
Trong khinh khi may nhớ nước non
Mà ôn lại cho đừng quên lịch sử
Bốn ngàn năm rồi, Việt Nam bất tử
Dằng dặc đoạn trường chống giặc ngoại xâm
Biết mấy đau thương, biết mấy anh hùng
Ghi tạc địa cầu bao chiến công hiển hách..."
Trần Hạnh Thu
Cervantes (Tây Ban Nha)
Cicero (La Mã)
Đừng khen cõi trần đẹp
Cõi trần là thản nhiên
Chỉ có đời nhơ, đẹp.”
CHƯƠNG IV: ĐỊA LINH NHÂN KIỆT
Hà Nội không phải là một đất thánh, theo cái nghĩa tín đồ hành hương, nhưng Hà Nội là một đất thiêng, kẻ ngoài nào mà xúc phạm vào nó là phải đền tội”
"Rủ nhau xem cảnh Kiếm Hồ
Xem cầu Thê Húc, xem chùa Ngọc Sơn
Đài Nghiên, Tháp Bút chưa mòn
Hỏi ai gây dựng nên non nước này?"
(Khuyết danh)
(Tiếp theo)
Mùa xuân, ngày mồng 2, tháng Giêng, năm Mậu Tuất 1418, Lê Lợi đã cùng những hào kiệt đồng chí hướng như Phạm Vấn, Lê Văn An, Lê Sát, Lưu Nhân Chú, Lê Ngân, Nguyễn Lý... tất cả 50 tướng văn và tướng võ (trong đó có 19 người đã từng kết nghĩa anh em nguyện cùng chí hướng với nhau ở hội thề Lũng Nhai, năm 1416), chính thức phất cờ khởi nghĩa (khởi nghĩa Lam Sơn). Sách "Lam Sơn thực lục" chép rằng: "Nguyên trước Nhà vua kinh doanh việc bốn phương, Bắc đánh giặc Minh, Nam đuổi quân Lào, mình trải trăm trận, đến đâu được đấy, chỉ dùng có quan võ là bọn Lê Thạch, Lê Lễ, Lê Sát, Lê Vấn, Lê Lý, Lê Ngân, ba mươi lăm người; quan văn là bọn Lê văn Linh, Lê quốc Hưng; cùng những quân thân như cha, con; hai trăm thiết kỵ, hai trăm nghĩa sĩ, hai trăm dũng sĩ và mười bốn thớt voi. Còn bọn chuyên chở lương-thảo, cùng già yếu đi hộ vệ vợ con, cũng chỉ hai nghìn người mà thôi".
Sau khi đánh tan giặc Minh xâm lược, thiên hạ đã thái bình, một hôm, Lê Lợi, lúc đó đã là vua, ngự thuyền rồng chơi trên hồ Tả Vọng, bỗng thấy một con rùa lớn nổi lên, bơi theo thuyền, liền rút thanh gươm thần chỉ xuống. Không ngờ con rùa ấy đớp lấy thanh gươm thần rồi lặn mất. Bấy giờ, Lê Lợi mới chợt hiểu ra, liền đổi tên hồ ấy là hồ Hoàn Kiếm, hàm nghĩa là trả lại gươm cho trời. Ngày nay, người ta cũng hay gọi hồ Hoàn Kiếm là hồ Gươm.
Dưới thời nhà Trần, cha ông là Nguyễn Phi Khanh và Nguyễn Hán Anh được Tư đồ Trần Nguyên Đán mời về dạy hai người con gái, con trưởng tên là Thái, con thứ tên Thai. Nguyễn Phi Khanh dạy Thái, nhân gần gũi, đã làm thơ quốc ngữ khêu gợi Thái, có quan hệ nam nữ với Thái, Hán Anh cũng làm thơ quốc ngữ bắt chước Phi Khanh. Rốt cuộc Thái có thai, Nguyễn Phi Khanh và Nguyễn Hán Anh bỏ trốn, đến ngày Thái đẻ, Trần Nguyên Đán mới hỏi Nguyễn Phi Khanh ở đâu, người nhà bảo Nguyễn Phi Khanh đã trốn đi. Trần Nguyên Đán cho gọi hai người về gả con gái cho Nguyễn Phi Khanh, sinh ra Nguyễn Trãi. Sau đó Nguyễn Phi Khanh và Nguyễn Hán Anh thi đỗ, nhưng vua Trần Nghệ Tông bỏ không dùng, cho rằng: "Bọn chúng có vợ giàu sang, như thế là kẻ dưới mà dám phạm thượng''.
Theo nghiên cứu sử gia hiện đại Trần Huy Liệu, Nguyễn Phi Khanh và Trần Thị Thái có với nhau 5 người con theo thứ tự là Nguyễn Trãi, Nguyễn Phi Báo, Nguyễn Phi Ly, Nguyễn Phi Bằng và Nguyễn Phi Hùng. Mẹ ông mất sớm khi Nguyễn Trãi mới 5 tuổi, bố ông ở rể ở nhà ngoại, anh em Nguyễn Trãi ở nhà ông ngoại là Trần Nguyên Đán, đến năm 1390 thì Trần Nguyên Đán mất. Nguyễn Phi Khanh phải một mình nuôi các con.“Bấy giờ có người ở làng Hoắc Sa tỉnh Sơn Tây, tên là Trần Nguyên Hãn, đi bán dầu kiếm ăn. Một bữa trời tối, đi qua làng Chèm, mới vào đền Chèm nằm ngủ. Nửa đêm nghe có tiếng ông thần làng khác vào rủ ông Chèm lên chầu trời. Ông Chèm nói có Quốc Công ngủ trọ không đi được. Đến gà gáy, ông thần kia trở về, ông Chèm hỏi trên trời có việc gì thì ông kia nói rằng:- Thượng Đế thấy nước Nam chưa có chúa, có cho ông Lê Lợi làm chúa, mà ông Nguyễn Trãi thì làm bầy tôi.Trần Nguyên Hãn nghe rõ câu ấy, chịu khó hỏi dò, tìm đến nhà ông Nguyễn Trãi, kể lại chuyện ấy. Nguyễn Trãi không tin, lại về đền Chèm cầu mộng thì thần báo mộng rằng:- Việc thiên đình bí mật lắm, không dám nói lộ ra ngoài. Có chị Tiên Dung (chuyện “Nhất dạ trạch” - NV) biết tường việc ấy, vả lại là đàn bà, thì trời không trách đến, ông nên đem vàng đến nơi ấy mà hỏi.Ông Nguyễn Trãi nghe lời ấy, đến cầu mộng bà Tiên Dung, thì mơ thấy bà ấy gọi bảo rằng:- Nguyễn Trãi! Lê Lợi làm vua, mà anh thì làm bầy tôi, anh chưa biết chuyện ấy à?Ông ấy hỏi cặn kẽ lại thì mới biết ông Lê Lợi là người làng Lam Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Mới cùng Trần Nguyên Hãn vào Lam Sơn, hỏi thăm đến nhà ông Lê Lợi. Bấy giờ Thái Tổ (Lê Lợi) còn hàn vi, khi hai ông kia đến, thì ngoài đang mặc áo cánh cộc, vai vác bừa, tay dắt bò ở ngoài đồng về. Hai ông xin vào hầu, Thái Tổ mời nghỉ lại trong nhà. Xảy gặp hôm ấy nhà có giỗ, hai ông kia xuống bếp thổi nấu, trông trộm lên nhà trên, thì thấy ngài cầm dao thái thịt, đang vừa thái vừa ăn.Hai ông kia bàn riêng với nhau rằng:- Bà Tiên Dung nói lừa chúng ta đây, có lẽ đâu khí tượng thiên tử mà lại thế kia bao giờ?Liền cáo từ ra về, lại đến cầu mộng đền bà Tiên Dung, thì thấy báo mộng rằng:- Lê Lợi làm vua, trời đã nhất định như thế rồi, chỉ vì chưa có thiên tinh giáng đấy thôi.Hai ông lần sau lại đến thăm Thái Tổ, thì bấy giờ ngài đã được quyển thiên thư. Khi ấy, đang đêm đóng cửa xem sách. Nguyễn Trãi đứng ngoài cửa dòm vào, rồi đẩy cửa, hai ông cùng vào. Thái Tổ cắp thanh gươm đi ra, hai ông cùng lạy phục xuống đất và nói rằng:- Chúng tôi xa xôi lặn lội tới đây là vì thấy ngài làm được chúa thiên hạ, xin cho chúng tôi được theo hầu.Thái Tổ cười, lưu hai người ở lại, mưu việc khởi binh. Ông Nguyễn Trãi lấy mỡ viết vào lá cây tám chữ: “Lê Lợi vi quân, Nguyễn Trãi vi thần” (Lê Lợi làm vua, Nguyễn Trãi làm tôi) (một số tướng lĩnh khác như Lê Sát, Phạm Vấn, Lê Thụ bất bình vì cho rằng Nguyễn Trãi quá cao ngạo và coi thường họ, những người đã chịu nhiều lao khổ từ khi cuộc khởi nghĩa còn trong trứng nước. Đinh Liệt hoà giải mâu thuẫn bằng cách đề nghị Nguyễn Trãi đổi lại thành "Lê Lợi vi quân, bách tính vi thần" (nghĩa là Lê Lợi làm vua, trăm họ làm tôi). Về sau sâu cắn những lá ấy rụng xuống, người ta thấy vậy cho là sự trời định, đồn rực cả lên, bởi thế nhân dân tranh nhau theo về với ông ấy, quân thế mỗi ngày một thịnh”.
Ngày ra mắt Nguyễn Trãi trao cho Lê Lợi "Bình Ngô sách", trong đó Nguyễn Trãi vạch ra ba kế sách đánh quân Minh, sách nay không còn. mà chủ yếu là tâm công, đánh vào lòng người để đi đến chiến thắng Sau khi xem "Bình Ngô sách", Nguyễn Trãi được Lê Lợi phong cho chức Tuyên phong đại phu Thừa chỉ Hàn Lâm viện, ngày đêm dự bàn việc quân.
Từ năm 1418 cho đến năm 1426 sách cũng không chép gì về Nguyễn Trãi.
Đầu năm 1427, Lê Lợi phong cho Hàn lâm viện thừa chỉ học sĩ Nguyễn Trãi làm Triều liệt Đại phu Nhập nội Hành khiển Lại bộ Thượng thư, kiêm chức Hành Khu mật viện sự. Đây là lần xuất hiện đầu tiên của sách "Đại Việt sử ký toàn thư" về Nguyễn Trãi khi ông tham gia Khởi nghĩa Lam Sơn. Lê Lợi sai dựng một tòa lầu nhiều tầng ở dinh Bồ Đề, trên bờ sông Hồng, cao ngang tháp Báo Thiên, hàng ngày ngồi trên lầu trông vào thành Đông Quan xem xét hoạt động của quân Minh; Nguyễn Trãi ngồi hầu ở ngay tầng dưới để bàn luận quân cơ và thảo thư từ đi lại. Sách "Đại Việt sử ký toàn thư" chép: "Phong cho viên Hàn Lâm Viện Thừa chỉ học sĩ là Nguyễn Trãi chức “Triều liệt đại phu nhập nội hành khiển, Lại bộ Thượng thư, kiêm Cơ Mật viện”. Hoàng đế sai dựng một cái lầu mấy tầng trong dinh Bồ Đề, hằng ngày ngài ngự tại từng lầu trên cùng, để trông vào thành bên địch, cho Nguyễn Trãi ngồi ở tầng lầu dưới, để bàn luận cơ mưu hầu ngài, và thảo những thư từ gởi tới".
Tại đây, Nguyễn Trãi đã viết hàng chục bức thư gửi vào thành Đông Quan chiêu dụ Vương Thông, gửi đi Nghệ An chiêu dụ Thái Phúc cũng như dụ hàng các tướng lĩnh nhà Minh ở Tân Bình, Thuận Hoá và một số thành trì khác. Kết quả đạt được rất khả quan: các thành Nghệ An, Tân Bình, Thuận Hoá ra hàng đầu năm 1427. Bản thân Nguyễn Trãi cũng đã từng cùng với viên chỉ huy họ Tăng vào dụ hàng thành Tam Giang, khiến Chỉ huy sứ thành này là Lưu Thanh ra hàng vào khoảng tháng 4 năm 1427. Ông cũng đã đem thân vào dụ hàng thành Đông Quan năm lần.
Tháng 11, năm 1427, tổng binh Vương Thông và nội quan Sơn Thọ nhà Minh sai viên thiên hộ họ Hạ mang thư đến giảng hoà, xin mở cho đường về. Lê Lợi chấp nhận, lại gởi tặng thổ sản và hải sản. Dẫu vậy, Vương Thông vấn do dự, chưa quyết, đem quân ra đánh, bị nghĩa quân đánh bại, suýt bị bắt sống. Ngày 22, tháng 11, năm 1427 (Đinh Mùi), Vương Thông và Lê Lợi tiến hành Hội thề Đông Quan ở cửa nam thành, hẹn đến ngày 12, tháng 12 năm Đinh Mùi sẽ rút hết quân về nước. Lúc bấy giờ, một số tướng sĩ đến yết kiến và khuyên Lê Lợi nên đánh thành Đông Quan, giết hết quân Minh để trả thù cho sự bạo ngược mà người Minh đã gây nên ở Đại Việt. Nhưng ý kiến của Nguyễn Trãi thì lại khác. Sách Đại Việt sử ký Bản kỉ thực lục, quyển X, tờ 44a-44b ghi rằng: "Duy có hành khiển Nguyễn Trãi ở nơi tham mưu, được xem thư bọc sáp của [Vương] Thông gửi về nước nói "Chớ tham chỗ đất một góc mà làm nhọc quân đi muôn dặm; giả sử dùng quân được như số quân đi đánh khi đầu, lại được sáu, bảy, tám đại tướng như bọn Trương Phụ thì mới có thể đánh được; tuy nhiên có đánh được cũng không thể giữ được", nên biết rõ thế mạnh yếu của giặc, mới chuyên chủ mặt chủ hoà. Vua (Lê Thái Tổ) nghe theo và hạ lệnh cho các quân giải vây lui ra".
Đầu năm 1428, ngay cả khi chưa chính thức lên ngôi vua, Bình Định Vương đã đại hội các tướng và các quan văn võ, định công ban thưởng. Ngày 29 tháng 4 năm 1428, Lê Lợi làm lễ lên ngôi ở điện Kính Thiên tại Đông Kinh, đại xá thiên hạ, giao cho Nguyễn Trãi viết "Bình Ngô đại cáo" để bố cáo với cả nước về việc chiến thắng quân Minh.
Khoảng cuối năm 1437, đầu năm 1438, Nguyễn Trãi xin về hưu trí ở Côn Sơn- nơi trước kia từng là thái ấp của ông ngoại ông - chỉ thỉnh thoảng mới vâng mệnh vào chầu vua.
Theo sách Lịch triều hiến chương loại chí, sau khi không hợp với Lương Đăng về việc nhạc, ông đã xin về quê hưu trí. Sách Đại Việt sử ký toàn thư cũng không chép ông làm gì sau thời gian này, đến năm 1442, sách mới chép việc ông mời vua Lê Thái Tông về ngự ở Côn Sơn. Theo nghiên cứu của Trần Huy Liệu, căn cứ vào biểu tạ ơn của Nguyễn Trãi, năm 1439, Lê Thái Tông mời ông ra làm quan, khôi phục lại hết các chức tước cũ trừ chức "Lại bộ Thượng thư". Chức danh và tước hiệu đầy đủ của ông khi ấy là:"Vinh lộc Đại phu, Nhập nội Hành khiển, Môn hạ sảnh Tả ty Hữu Gián nghị Đại phu kiêm Hàn Lâm Viện Thừa chỉ học sĩ, tri Tam quán sự, Đề cử Côn Sơn Tư Phúc tự, Á đại trí tự, tứ quốc tính Lê Trãi".
Nguyễn Trãi nhận mệnh vua, dâng biểu tạ ơn với sự hả hê thấy rõ. Trần Huy Liệu cho rằng đây là những năm đắc chí nhất của Nguyễn Trãi.
Tháng 9 năm 1442, vua Lê Thái Tông đi tuần ở miền Đông. Ngày 1 tháng 9 năm 1442, sau khi nhà vua duyệt binh ở thành Chí Linh, Nguyễn Trãi đón Lê Thái Tông đi thuyền vào chơi chùa Côn Sơn. Khi trở về Đông Kinh, người thiếp của Nguyễn Trãi là Nguyễn Thị Lộ theo hầu vua. Ngày 7 tháng 9 năm 1442, thuyền về đến Lệ Chi Viên thì vua bị bệnh, thức suốt đêm với Nguyễn Thị Lộ rồi mất. Các quan giấu kín chuyện này, nửa đêm ngày 9 tháng 9 năm 1442 về đến Đông Kinh mới phát tang. Triều đình qui tội Nguyễn Thị Lộ giết vua, bèn bắt bà và Nguyễn Trãi, khép hai người vào âm mưu giết vua. Ngày 19 tháng 9 năm 1442 (tức ngày 16 tháng 8 năm Nhâm Tuất), Nguyễn Trãi bị giết cùng người thân 3 họ, gọi là tru di tam tộc.
Tháng 8 năm 1464, sau 22 năm, vua Lê Thánh Tông đã xuống chiếu chiêu tuyết cho Nguyễn Trãi, truy tặng ông tước hiệu là Tán Trù bá, bãi bỏ lệnh truy sát của triều đình với gia quyến Nguyễn Trãi và ra lệnh bổ dụng con cháu ông làm quan. Nguyễn Anh Vũ khi ấy đi thi đỗ Hương cống, bèn được nhà vua bổ nhiệm làm Tri huyện.
Năm 1467, Lê Thánh Tông ra lệnh sưu tầm di cảo thơ văn Nguyễn Trãi. Sau khi Nguyễn Trãi bị nạn 70 năm, ngày 8 tháng 8 năm 1512, vua Lê Tương Dực truy tặng Nguyễn Trãi tước Tế Văn hầu.
(Còn tiếp)
---------------------------------------------------------------------------
MUÔN MẶT ĐỜI THƯỜNG I/966
(ĐC sưu tầm trên NET)