Chiến thắng của tư tưởng Duy vật biện chứng và Chân lý khách quan khoa học
Phép biện chứng duy vật
Thế giới quan là hệ thống những quan niệm
của con người về thế giới, về vị trí của con người trong thế
giới, nhằm giải đáp những vấn đề về nguồn gốc, mục đích, ý
nghĩa cuộc sống của con người. Thế giới quan là sự thống nhất giữa tri
thức và niềm tin. Do đó có thể coi thế giới quan là lăng kính
qua đó con người xem xét, nhìn nhận thế giới, từ đó định hướng
cuộc sống, chi phối nhận thức và hoạt động thực tiễn của con
người.
Khác với thần thoại và tôn giáo, triết học
là lý luận về thế giới quan, diễn tả những vấn đề của thế giới
quan không phải bằng niềm tin tôn giáo hay thuần thoại mà
bằng hệ thống các khái niệm, các phạm trù lý luận. Chỉ có triết
học mới có thể giải quyết được những vấn đề chung nhất của thế giới
quan mà không một ngành khoa học cụ thể nào có thể làm được.
Phép biện chứng duy vật của Karl Marx
là sự thống nhất giữa thế giới quan duy vật và phương pháp
luận biện chứng, nhờ đó nó đã khắc phục được những hạn chế
trước đây của phép biện chứng chất phác và biện chứng duy tâm,
và thực sự trở thành một lĩnh vực khoa học. Có thể nói phép
biện chứng duy vật là hệ thống tri thức lý luận khoa học, phản ánh thế
giới một cách biện chứng, vạch ra những quy luật chung nhất của
sự vận động và phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy con
người.
Phép biện chứng duy vật gồm hai nguyên lý cơ
bản là Nguyên lý về Mối Quan hệ Phổ biến và Nguyên lý Phát
triển của các sự vật và hiện tượng. Từ hai nguyên lý cơ bản
đó, phép biện chứng duy vật nêu lên ba quy luật cơ bản bao gồm: Quy
luật Thống nhất và Đấu tranh giữa các mặt đối lập, Quy luật Lượng
Chất và Quy luật Phủ định của Phủ định.
Nguyên lý về Mối Quan hệ Phổ biến là mối
liên hệ giữa các sự vật với nhau bao gồm mối liên hệ bên ngoài
và mối liên hệ bên trong. Nguyên lý này giúp ta thực hiện
nguyên tắc toàn diện trong nhận thức, xem xét để tìm ra các mối
liên hệ, trong đó có mối liên hệ chủ yếu quyết định và ảnh hưởng đến
toàn bộ các mối liên hệ khác.
Nguyên lý Phát triển của các sự vật và hiện
tượng xem bất kỳ sự vật nào cũng vận động và phát triển không
ngừng. Nguyên tắc này giúp ta xem xét các sự việc trong trạng
thái động, khái quát xu hướng chung của sự vận động là xu
hướng đi lên, cái mới ra đời thay thế cái cũ. Sự vận động đi lên có thể
diễn ra theo chiều hướng từ thấp tới cao, từ đơn giản đến phức
tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện.
Quy luật Thống nhất và Đấu tranh giữa các
mặt đối lập có vị trí quan trọng vạch ra nguồn gốc, động lực
của sự phát triển. Nghiên cứu quy luật này phải thừa nhận mâu
thuẫn khách quan và là hiện tượng phổ biến. Mỗi sự vật và hiện
tượng đều là một thể thống nhất của các mặt, các thuộc tính, các
khuynh hướng đối lập nhau nhưng lại liên hệ ràng buốc với nhau
tạo thành mâu thuẫn. Giải quyết mâu thuẫn tạo tiền đề cho sự
vật phát triển đi lên.
Quy luật Lượng Chất chỉ ra sự thay đổi về
lượng dẫn tới sự thay đổi về chất và ngược lại. Đó là cách
thức của sự vận động và phát triển của sự vật. Sự thay đổi về
lượng ở một giới hạn nào đó dẫn tới sự thay đổi về chất và ngược
lại. Quá trình tác động lẫn nhau giữa hai mặt chất và lượng tạo nên
con đường vận động liên tục, từ biến đổi dần dần đến nhảy vọt,
rồi lại biến đổi dần dần cho bước nhảy vọt tiếp theo, cứ thế
làm cho sự vật không ngừng biến đổi và phát triển.
Quy luật Phủ định của Phủ định là quy luật
chỉ ra khuynh hướng của sự vận động và phát triển của sự vật.
Thông qua một số lần phủ định thì sự vật cũ mất đi, cái mới
dường như lặp lại cái cũ nhưng trên cơ sở mới cao hơn, hoàn
thiện hơn và tiến bộ hơn, đó là sự phát triển theo đường xoáy trôn ốc.
Học thuyết Tiến hóa của Darwin
Sự nhìn nhận và hiểu biết về bản chất sự
sống tùy thuộc vào trình độ khoa học của từng thời đại và quan
điểm triết học của nhà khoa học. Ngay từ khi con người nhận
thức được sự hiện diện của mình trong thế giới xung quanh thì câu
hỏi được đặt ra đầu tiên là về nguồn gốc sự sống và nguồn gốc của
chính con người. Quan điểm về sự sống là lĩnh vực đấu tranh
quyết liệt và không khoan nhượng giữa các trường phái triết
học khác nhau qua mọi thời đại.
Mặc dù những kiến thức sinh học đã được hệ
thống lại ngay từ thời cổ Hy Lạp, nhưng lịch sử sinh học với
tư cách là khoa học của sự sống cũng phải trải qua những thăng
trầm và trì trệ do ảnh hưởng của những quan điểm triết học
siêu hình, duy tâm, máy móc như quan điểm của các nhà Sinh Lực Luận về
lực sống hay mầm sống. Điều này cản trở sự tìm kiếm bản chất
đích thực của sự sống trong một thời gian rất dài .
Học thuyết Tế bào (Matthias Schleiden &
Theodor Schwann 1838 – 1839) và Học thuyết Tiến hóa (Charles
Darwin, 1859) ra đời đã đánh dấu bước ngoặt lịch sử, đưa Sinh
học từ một lĩnh vực nặng về quan sát và mô tả trở thành một
ngành khoa học chính xác, đồng thời cũng là cơ sở vững chắc cho tư duy
triết học duy vật biện chứng. Chính vì vậy, nhà duy vật biện
chứng Fridrick Engels đã đánh giá rất cao các phát kiến này và
cho rằng Học thuyết Tế bào, Học thuyết Tiến hóa và Định luật
Bảo toàn Năng lượng là ba phát minh khoa học tự nhiên vĩ đại
nhất của thế kỷ XIX.
Từ một nhà duy tâm theo tư tưởng Thiên chúa
giáo coi muôn loài là do thượng đế sáng tạo ra và bất biến,
Darwin sau những cuộc hành trình gian khổ nghiên cứu thực tế
đã cho ra đời học thuyết Tiến hóa. Học thuyết Tiến hóa của
Darwin cho rằng đặc tính thích nghi của cơ thể và sự đa dạng về loài là
kết quả của quá trình tiến hóa lâu dài, loài mới xuất hiện từ
loài cũ, thông qua đấu tranh sinh tồn và chọn lọc tự nhiên.
Trong cuốn “Nguồn gốc các loài” Darwin cho
rằng tiến hoá bằng con đường chọn lọc tự nhiên là áp dụng cho
tất cả các sinh vật, kể cả con người. Trong cuốn “Nguồn gốc
loài người và chọn lọc sinh dục” ông khẳng định con người có
nguồn gốc từ động vật và tổ tiên con người có chung nguồn gốc với khỉ.
Học thuyết Tiến hóa của Darwin như một bản
tuyên ngôn chống lại quan điểm duy tâm siêu hình cho rằng loài
có tính đứt đoạn, bất biến và không có mối liên hệ với nhau.
Học thuyết Tiến hóa cũng thể hiện tính cách mạng trong tư duy
về thế giới khi cho rằng thế giới là một thực thể khách quan luôn biến
đổi và phát triển và có thể nhận thức được. Động lực của sự
phát triển là những nhân tố tự nhiên, khách quan chứ không
phải do một lực huyền bí siêu nhiên điều khiển. Điều này hoàn
toàn phù hợp với các nguyên lý về mối quan hệ phổ biến và
nguyên lý phát triển của sự vật và hiện tượng theo quan điểm
biện chứng duy vật. Như vậy, Học thuyết Tiến hóa có thể được
xem như là nền tảng của triết học duy vật biện chứng về thế giới
sống.
Học thuyết Tiến hóa Tổng hợp
Học thuyết Tiến hóa của Darwin đã làm cuộc
cách mạng thực sự trong khoa học và tư duy. Tuy vậy, vào thời
kỳ Học thuyết Tiến hóa ra đời, một số vấn đề vẫn chưa giải
thích được và được xem là những điểm yếu của Học thuyết Tiến hóa
của Darwin. Ngay cả Darwin cũng chưa lý giải được cơ chế di truyền
các đặc điểm thích nghi. Darwin đề cập đến hiện tượng biến dị
của cá thể trong quần thể. Ông cho rằng điều kiện tự nhiên đã
chọn lọc các biến dị đó, nhưng chưa phân biệt rõ thường biến
và biến dị di truyền và nguyên nhân của biến dị là gì. Chính
vì vậy, nhiều người ủng hộ học thuyết Tiến hóa đã cho rằng
nguyên nhân của biến dị là do điều kiện môi trường thay đổi.
Theo quan điểm này, Lysenko (1940 -1960) cho rằng có thể dùng điều
kiện ngoại cảnh để chọn lọc những biến dị có lợi và áp đặt quan
điểm này trong thực tế ở Liên Xô trước đây. Với sai lầm này,
trường phái Lysenko tồn tại hơn hai mươi năm đã làm tụt hậu
đáng kể không chỉ nền sản suất nông nghiệp mà còn cản trở bước
tiến của khoa học sinh học Xô Viết trong một thời gian dài.
Với sự phát triển nhanh chóng của khoa học
sinh học, đặc biệt là các Định luật di truyền của Melden phát
hiện ra gene với tên gọi là “nhân tố di truyền cố định”, phát
minh của Watson và Crick về cấu trúc phân tử của DNA và sự
phát triển như vũ bão của di truyền học và sinh học phân tử trong
những năm 50 của thế kỷ XX đã làm sáng tỏ bản chất và khẳng
định tính đúng đắn của thuyết Tiến hóa của Darwin. Đây được
coi là Học thuyết Tiến hóa tổng hợp.
Học thuyết về đột biến của di truyền đã
làm rõ bản chất học thuyết của Darwin khi chỉ ra rằng đột
biến gene, đột biến thể nhiễm sắc cũng như biến dị tái tổ hợp
là đặc tính của cơ thể xảy ra trong quá trình biến đổi của vật
chất sống, không mang tính định hướng, là nguyên liệu cho tác động
của chọn lọc tự nhiên. Theo thuyết Tiến hóa Tổng hợp thì biến đổi thích nghi là kết quả của đột biến di truyền và chọn lọc tự nhiên.
Đột biến là hiện tượng phổ biến trong cơ thể sống từ virus cho
đến con người và được xem là một đặc tính của sự sống, bởi
đột biến là nguyên liệu của chọn lọc tự nhiên và bản chất của
di truyền là truyền lại cho thế hệ sau gene và hệ gene (kể cả
đột biến và không đột biến), tức là genotip chứ không phải di
truyền trực tiếp các tính trạng phenotip.
Học thuyết của Darwin chủ yếu đề cập đến
biến dị của từng cá thể trong quần thể và mối tương quan sinh
sản giữa các cá thể, mà chưa đề cập đến vốn gene của quần thể.
Darwin cũng chưa đưa ra được tiêu chí để xác định loài cũng
như chưa làm sáng tỏ được cơ chế hình thành loài mới từ các thứ hoặc
loài phụ. Sau khi di truyền học quần thể ra đời với các quy luật
của Hardy – Weinberg, người ta mới hiều rõ rằng tác động của
chọn lọc tự nhiên không chỉ ở mức cá thể mà còn thể hiện ở mức
quần thể. Vốn gene của quần thể có thể thay đổi do nhiều
nguyên nhân như đột biến, gene nhảy, do dòng gene, do cách ly
sinh sản hay cách ly địa lý sinh thái v.v. Chính nhân tố chọn
lọc tự nhiên đã tác động lên vốn gene của quần thể, làm biến
đổi các mức độ thứ, loài phụ thành loài mới. Vì vậy học thuyết
Tiến hóa Tổng hợp đã xác định loài là đơn vị của tiến hóa và chia
quá trình tiến hóa thành tiến hóa vi mô và tiến hóa vĩ mô.
Cho dù có những hạn chế nhất định, học thuyết Tiến hóa của
Darwin thực sự là phát kiến thiên tài, đã mở ra một trang mới
của lịch sử phát triển sinh học đồng thời khẳng định tính đúng
đắn của tư duy duy vật biện chứng. Bản thân Darwin cũng là
tấm gương lớn về nhân cách của một nhà khoa học chân chính
không màng vinh hoa, không sợ chỉ trích, lao động quên mình và
luôn kiên trì trên con đường gian nan vô tận để tìm kiếm chân lý khoa
học khách quan.
Thuyết tiến hóa—Giả thuyết và sự thật
Phút hiện tại 0:00
Duration 0:00
Một
nhà khoa học tiến hóa nổi tiếng là giáo sư Richard Dawkins quả quyết:
“Thuyết tiến hóa là chân lý giống như sức nóng của mặt trời”16.
Dĩ nhiên, các cuộc thử nghiệm và quan sát trực tiếp chứng tỏ mặt trời
rất nóng, nhưng chúng có chứng minh thuyết tiến hóa là chân lý một cách
rõ ràng như thế không?
Trước
khi trả lời câu hỏi đó, chúng ta cần làm rõ một điểm. Nhiều nhà khoa
học nhận thấy qua một thời gian dài, các thế hệ sau của sinh vật có thể
thay đổi chút ít. Chẳng hạn, người ta có thể chọn những con chó giống để
sau này chúng sinh ra những con chân ngắn hoặc lông dài hơn các thế hệ
trước chúng*. Một số nhà khoa học gọi những thay đổi nhỏ như thế là “tiến hóa vi mô”.
Tuy
nhiên, những người theo thuyết tiến hóa dạy rằng các thay đổi nhỏ tích
lũy dần qua hàng tỷ năm dẫn đến những thay đổi lớn để loài cá tiến hóa
thành loài lưỡng cư, vượn người thành con người. Những điều mà họ cho là
lớn này được gọi là “tiến hóa vĩ mô”.
Thí dụ, ông Charles Darwin dạy rằng những thay đổi nhỏ chúng ta thấy ám chỉ là những thay đổi lớn có thể xảy ra, nhưng không ai thấy17.
Ông cho rằng qua thời gian dài, một số hình thái ban đầu, được gọi là
hình thái sự sống đơn giản, tiến hóa dần thành hàng triệu hình thái sự
sống khác nhau trên trái đất, nhờ “những thay đổi rất nhỏ”18.
Đối với nhiều người, điều này có vẻ hợp lý. Họ tự nhủ: “Nếu có những thay đổi nhỏ diễn ra trong một loài*,
thì sao lại không có những thay đổi lớn sau các khoảng thời gian dài?”.
Nhưng thật ra, học thuyết của thuyết tiến hóa dựa vào ba giả thuyết.
Chúng ta hãy xem xét những điều sau đây.
Giả thuyết 1. Sự đột biến cung cấp các nguyên liệu cơ bản để tạo ra loài mới. Thuyết
tiến hóa vĩ mô dựa trên giả thuyết sự đột biến (sự thay đổi ngẫu nhiên
trong mã di truyền của động thực vật) không chỉ tạo ra loài mới mà còn
cả họ động thực vật mới19.
Sự thật. Nhiều đặc điểm của động thực vật có được do các thông tin trong mã di truyền, tức thông tin chi tiết chứa trong nhân mỗi tế bào*.
Các nhà nghiên cứu khám phá rằng sự đột biến có thể làm thay đổi các
thế hệ sau của động thực vật. Nhưng sự đột biến có thật sự làm xuất hiện
các loài hoàn toàn mới không? Qua một thế kỷ nghiên cứu về lĩnh vực di
truyền học, người ta biết được điều gì?
Vào
cuối thập niên 1930, các nhà khoa học rất hào hứng đón nhận một ý tưởng
mới. Họ cho rằng quá trình chọn lọc tự nhiên (quá trình một sinh vật
thích ứng tốt nhất với môi trường sống thì có nhiều khả năng sống sót và
sinh sản) có thể tạo ra loài thực vật mới nhờ sự đột biến ngẫu nhiên.
Vì thế, họ cho rằng nếu con người lựa chọn các đột biến thì có thể cho
ra cùng kết quả nhưng tốt hơn. Một nhà khoa học tại viện nghiên cứu về
giống cây trồng ở Đức (Max Planck Institute for Plant Breeding Research)
là ông Wolf-Ekkehard Lönnig nói: “Những nhà sinh học nói chung cũng như
những nhà di truyền học và những người gây giống nói riêng đều rất phấn
khích”*.
Tại sao họ phấn khích? Ông Lönnig, người đã dành khoảng 30 năm nghiên
cứu đột biến di truyền ở thực vật, cho biết: “Những nhà nghiên cứu này
nghĩ rằng đã đến lúc để thay đổi phương pháp nhân giống động thực vật
truyền thống. Họ cho rằng qua việc kích thích và lựa chọn những đột biến có lợi, họ có thể tạo ra các loài động thực vật mới và tốt hơn”20. Thật vậy, một số người đã hy vọng sẽ tạo ra các loài hoàn toàn mới.
Những
nhà khoa học tại Hoa Kỳ, châu Á và châu Âu bắt đầu lập quỹ cho các
chương trình nghiên cứu dùng các phương pháp hứa hẹn thúc đẩy sự tiến
hóa. Sau hơn 40 năm nghiên cứu chuyên sâu, kết quả thế nào? Nhà nghiên
cứu Peter von Sengbusch nói: “Dù chi tiêu nhiều nhưng nỗ lực để thúc đẩy
sản sinh các loài tốt hơn nhờ tia phóng xạ [để tạo đột biến] đã thất
bại trên bình diện rộng”21.
Ông Lönnig nói: “Đến thập niên 1980, niềm hy vọng và sự phấn khích của
các nhà khoa học trên khắp thế giới đã tắt. Các nước phương tây đã bỏ
môn nghiên cứu đột biến gây giống. Hầu hết các đột biến... đã chết hoặc
yếu hơn những loài trong tự nhiên”*.
Dù
thế, với dữ liệu được thu thập trong khoảng 100 năm nghiên cứu về đột
biến nói chung và 70 năm gây giống đột biến nói riêng, các nhà khoa học
đã có thể kết luận về khả năng đột biến làm xuất hiện các loài mới. Sau
khi xem xét bằng chứng, ông Lönnig kết luận: “Sự đột biến không thể biến
đổi loài [động thực vật] ban đầu thành một loài hoàn toàn mới. Kết luận
này đúng với mọi thử nghiệm, kết quả nghiên cứu đột biến trong thế kỷ
20 và cả luật xác suất”.
Vậy,
sự đột biến có thể khiến một loài tiến hóa thành loài hoàn toàn mới
không? Bằng chứng cho thấy là không! Qua nghiên cứu của mình, ông Lönnig
đưa ra kết luận: “Những loài mang gen khác nhau có ranh giới rõ ràng,
không thể bị phá hủy hoặc xâm phạm bằng những đột biến ngẫu nhiên”22.
Hãy
xem những điều được đề cập ở trên có nghĩa gì. Nếu các nhà khoa học có
chuyên môn không thể tạo ra các loài mới bằng cách can thiệp và chọn lựa
những đột biến thích hợp, thì làm sao một quá trình vô tri có thể làm
được tốt hơn? Nếu việc nghiên cứu cho thấy sự đột biến không thể biến
đổi loài ban đầu thành loài hoàn toàn mới, thì làm sao có sự tiến hóa vĩ
mô?
Giả thuyết 2. Quá trình chọn lọc tự nhiên tạo ra các loài mới. Ông
Darwin tin rằng điều mà ông gọi là chọn lọc tự nhiên sẽ chọn những hình
thái sự sống thích hợp nhất với môi trường, còn những hình thái sự sống
ít thích hợp hơn sẽ dần dần chết đi. Các nhà ủng hộ thuyết tiến hóa
hiện đại dạy rằng khi các loài tản ra và chiếm lĩnh một nơi, sự chọn lọc
tự nhiên chọn ra những loài có đột biến gen khiến chúng có khả năng tồn
tại trong môi trường mới. Vì thế, họ suy đoán những nhóm riêng biệt này
cuối cùng cũng tiến hóa thành loài hoàn toàn mới.
Sự thật. Như
đề cập ở trên, các bằng chứng từ việc nghiên cứu cho thấy rõ sự đột
biến không thể tạo ra loài động thực vật hoàn toàn mới nào. Tuy nhiên,
những người ủng hộ thuyết tiến hóa đã đưa ra những bằng chứng nào nhằm
ủng hộ niềm tin của họ về chọn lọc tự nhiên, chọn ra các đột biến thích
hợp để tạo ra loài mới? Viện Hàn lâm Khoa học (National Academy of
Sciences, viết tắt NAS) tại Hoa Kỳ đã xuất bản một cuốn sách vào năm
1999 đề cập đến “13 loài chim sẻ do ông Darwin nghiên cứu trên quần đảo
Galápagos, nay được biết đến là các loài chim sẻ của Darwin”23.
Vào
thập niên 1970, một nhóm nghiên cứu do ông bà Peter R. và B. Rosemary
Grant thuộc đại học Princeton dẫn đầu đã bắt đầu nghiên cứu các loài
chim sẻ này và họ phát hiện là sau một năm hạn hán trên quần đảo, loài
chim sẻ mỏ lớn có khả năng sống sót cao hơn những loài có mỏ nhỏ hơn.
Việc quan sát kích cỡ và hình dạng của mỏ chim là một trong những cách
chính để nhận ra chúng thuộc loài nào trong 13 loài chim sẻ này. Vì vậy,
họ nghĩ những khám phá đó rất quan trọng. Sách của NAS cho biết thêm:
“Cặp vợ chồng ấy đã dự đoán là nếu hạn hán xảy ra cứ 10 năm một lần trên
quần đảo thì chỉ khoảng 200 năm sau, một loài chim sẻ mới có thể xuất
hiện”24.
Tuy
nhiên, sách này không đề cập đến việc loài chim sẻ mỏ nhỏ hơn lại sống
sót nhiều hơn loài kia trong những năm sau hạn hán. Các nhà nghiên cứu
nhận thấy rằng khi điều kiện thời tiết trên đảo thay đổi, chim sẻ có mỏ
lớn hơn chiếm ưu thế trong một năm nhưng sau đó thì tới loài chim có mỏ
nhỏ hơn. Họ cũng để ý thấy một số “loài” chim sẻ khác nhau giao phối và
sinh con có khả năng sống sót tốt hơn so với cha mẹ. Họ kết luận rằng
nếu chúng tiếp tục giao phối thì có thể dẫn đến việc lai tạo giữa hai
“loài”25.
Vậy,
chọn lọc tự nhiên có thật sự tạo ra các loài hoàn toàn mới không? Cách
đây vài thập kỷ, nhà sinh học tiến hóa George Christopher Williams bắt
đầu đặt nghi vấn về khả năng đó của sự chọn lọc tự nhiên26.
Trong năm 1999, nhà lý luận về tiến hóa Jeffrey H. Schwartz viết là sự
chọn lọc tự nhiên có thể giúp các loài thích nghi để tồn tại nhưng không
tạo ra loài mới nào27.
Thật
vậy, các loài chim sẻ của Darwin không tiến hóa thành “bất cứ loài mới
nào”. Chúng vẫn là chim sẻ. Việc chúng giao phối với nhau khiến người ta
nghi ngờ về một số phương pháp mà các nhà ủng hộ tiến hóa dùng để định
nghĩa một loài. Hơn nữa, những thông tin về loài chim này cho biết ngay
cả những viện khoa học có uy tín cũng trình bày về các bằng chứng theo ý
kiến chủ quan của mình.
Giả thuyết 3. Mẫu hóa thạch chứng tỏ có sự thay đổi trong tiến hóa vĩ mô. Cuốn
sách của NAS (được đề cập ở trên) khiến độc giả nghĩ rằng những mẫu hóa
thạch do các nhà khoa học tìm ra chứng minh rõ ràng là có tiến hóa vĩ
mô. Sách này cho biết: “Người ta đã phát hiện được rất nhiều loài trung
gian giữa cá và loài lưỡng cư, giữa loài lưỡng cư và loài bò sát, giữa
loài bò sát và động vật có vú, cũng như động vật linh trưởng, nên khó
xác định rõ khi nào sự chuyển tiếp từ loài này sang loài khác xảy ra”28.
Sự thật. Những
lời quả quyết trong sách của NAS rất kỳ lạ. Tại sao thế? Một người kiên
định ủng hộ thuyết tiến hóa là ông Niles Eldredge nói rằng những mẫu
hóa thạch cho thấy sự thay đổi không tích lũy dần dần, nhưng trong thời
gian dài “rất ít hoặc không có sự thay đổi nào diễn ra trong đa số các
loài”29.*
Những mẫu hóa thạch cho thấy tất cả các nhóm động vật chính xuất hiện đột ngột và gần như không thay đổi
Cho
đến nay, các nhà khoa học trên thế giới đã khai quật và ghi vào danh
mục khoảng 200 triệu mẫu hóa thạch lớn và hàng tỷ mẫu hóa thạch nhỏ.
Nhiều nhà nghiên cứu đồng ý rằng những dữ liệu khổng lồ này cùng những
chi tiết được ghi lại cho thấy các nhóm động vật chính xuất hiện đột
ngột và gần như không thay đổi, trong đó có nhiều loài biến mất đột ngột
như khi chúng xuất hiện.
Tin nơi thuyết tiến hóa có cơ sở không?
Tại
sao nhiều nhà ủng hộ thuyết tiến hóa nổi tiếng cứ cho rằng tiến hóa vĩ
mô là có thật? Ông Richard Lewontin, một nhà ủng hộ thuyết tiến hóa có
ảnh hưởng, thẳng thắn viết rằng những nhà khoa học sẵn sàng chấp nhận
những thông tin khoa học chưa được chứng minh vì họ “có một niềm tin
mạnh hơn, niềm tin nơi chủ nghĩa duy vật”*.
Thậm chí, nhiều nhà khoa học cũng không nghĩ đến khả năng có một Đấng
Tạo Hóa thông minh vì như ông Lewontin viết “chúng ta không thể để cho
Chúa Trời chen chân vào”30.
Về vấn đề này, tờ Scientific American trích
lời của nhà xã hội học Rodney Stark: “Qua 200 năm cổ vũ ý tưởng nếu bạn
muốn theo đuổi khoa học thì đừng để mình bị tôn giáo ảnh hưởng”. Ông
cho biết thêm rằng trong các đại học nghiên cứu khoa học, “những người
có đạo không nói về Đấng Tạo Hóa”31.
Nếu
bạn xem thuyết tiến hóa vĩ mô là có thật, bạn cũng phải tin rằng những
nhà khoa học theo thuyết bất khả tri hoặc vô thần sẽ không để quan điểm
riêng ảnh hưởng đến sự giải thích của họ về những khám phá khoa học. Bạn
cũng phải tin rằng sự đột biến và chọn lọc tự nhiên tạo ra mọi hình
thái sự sống phức tạp, dù qua một thế kỷ nghiên cứu cho thấy rằng những
đột biến không thể biến đổi ngay cả một loài có gen riêng biệt thành
loài hoàn toàn mới. Bạn cũng phải tin rằng mọi sinh vật tiến hóa dần dần
từ một hình thái sự sống đầu tiên, dù mẫu hóa thạch cho thấy rõ các
loài động thực vật chính xuất hiện đột ngột và không tiến hóa thành loài
khác, thậm chí qua hàng triệu năm. Những niềm tin này dựa trên các sự
kiện có thật hay dựa vào các giả thuyết? Thế thì niềm tin nơi thuyết
tiến hóa có cơ sở không?
Tranh cãi "có một không hai" về Thuyết tiến hóa
19.540
Cách
đây hơn 150 năm, cuốn sách “ Nguồn gốc các chủng loại” của nhà nghiên
cứu sinh học người Anh Charles Darwin ra đời đã làm thay đổi nhận thức
của con người về quá trình tiến hóa. Tuy nhiên, ngay từ khi ra đời cho
đến thời điểm hiện tại, có khá nhiều nhà khoa học đã tìm ra mâu thuẫn
cũng như muốn bác bỏ học thuyết vĩ đại này.
Khi nói đến Thuyết tiến hóa,
người ta thường nghĩ đến Charles Darwin. Tuy nhiên, sự thật thì Darwin
không phải là người đầu, mà cũng không phải là người cuối làm cho Thuyết tiến hóa trở
thành một sự kiện khoa học đã được công nhận sâu rộng như ngày nay.
Trước Darwin đã có nhiều nhà khoa học như Paley , Lyell, và Malthus...
đã có những tư tưởng về tiến hóa nhằm giải thích nguồn gốc con người,
tuy nhiên đó chỉ là những tài liệu manh mún và chưa đầy đủ.
Chân dung Charles Darwin
Sau khi cuốn sách: “Nguồn gốc các chủng loại”
ra đời, có những người đã thần thánh hóa lý thuyết của Darwin và cho
rằng ông là một vĩ nhân đã tìm ra nguồn cội của con người. Hiện nay theo
nhiều nhà khoa học đánh giá, nếu nhìn vào Thuyết tiến hóa một cách khoa
học và khách quan sẽ tìm thấy nhiều lỗ hổng trong công trình nghiên cứu
mang tính lịch sử này. Sở dĩ có quan điểm như vậy là do có những khảo
cứu thực tiễn trong thời đại của Darwin mà sau này đã không còn thích
hợp.
Theo nghiên cứu của một giáo sư người Anh cho biết, trong cuốn “Nguồn gốc các chủng loại” có nhắc tới một tộc người khá lạ lùng ở khu vực Nam Thái Bình Dương.
Đây là tộc người có ngoại hình vô cùng bé nhỏ, sinh sống trên đảo
Tasmania mà sau này trở thành thuộc địa của Anh. Sau khi người Anh đến
chiếm đóng thì tộc người bé nhỏ này cũng đã bị diệt vong một cách nhanh
chóng.
Trong “Nguồn gốc các chủng loại”- Darwin
khi viết về câu chuyện này đã có nhận định rằng: Sau khi thực dân Anh
xâm chiếm đảo Tasmania, đã dẫn đến sự thay đổi kết cấu của thực vật bản
địa. Kết quả là phụ nữ tại đảo Tasmania đã không thể có thai và dẫn tới
sự tuyệt chủng.
Theo nhà nghiên cứu người Anh đã nói ở
trên thì nguyên nhân dẫn tới sự tuyệt chủng của tộc người này không nằm ở
chỗ thay đổi kết cấu thực vật bản địa. Trong công trình nghiên cứu của
mình, ông cho biết: Trong kết quả điều tra dân số của đảo Tasmania thì
tổng nhân khẩu khi đó có khoảng 53.700 người. 14 năm sau chỉ còn 36.359,
tức là đã giảm mất 32.29%. Nếu so với tốc độ gia tăng dân số của đảo
khi đó thì việc diệt vong của tộc người bé nhỏ chỉ nằm ở vấn đề thời
gian.
Trong khi đó, bị bào mòn sức lao động
rồi trở thành nô lệ trên ngay vùng đất của mình đã khiến cuộc sống của
người dân trên đảo Tasmania trở nên vô cùng khó khăn. Hơn thế nữa, do bị
lấy sạch nguồn tài nguyên thiên nhiên, dinh dưỡng lại hạn chế đã khiến
phụ nữ trên đảo ít người có khả năng thụ thai. Theo nghiên cứu tại thời
điểm đó, cứ 22 phụ nữ của tộc người trên đảo Tasmania thì mới có 1 người
có khả năng sinh con. Vì thế chỉ sau một thời gian ngắn tộc người này
đã hoàn toàn biến mất.
Lỗ hổng không thể lấp đầy (?)
Không chỉ nêu ra một số nhận định được
cho là sai lầm của Darwin trong công trình nghiên cứu vĩ đại của mình,
một số người theo Kito giáo thời điểm đó cũng đã “nóng mặt” khi Darwin
viết trong cuốn Nguồn gốc các chủng loại rằng: “Không có bàn tay
Thượng Ðế trong việc tạo ra vũ trụ, nhất là việc tạo ra các chủng loại
mới. Con người cũng như các sinh vật khác là những sản phẩm của sự tiến
hóa từ các chủng loại trước”.
Quá trình tiến hóa của loài người theo học thuyết của Darwin.
Những người theo Kito giáo một cách cuồng tín cho tới ngày nay vẫn luôn chống đối Thuyết tiến hóa vì
họ luôn có niềm tin vào sự “sáng tạo” của Thiên Chúa. Vì thế để xoa
dịu tư tưởng “phản bác” khoa học của một số người cuồng tín, Giáo hoàng
John Paul II , trong một bài phát biểu đã nhấn mạnh rằng: “Thân xác
con người có thể không phải là sự sáng tạo tức thời của Thượng đế, mà
là kết quả của một quá trình tiến hóa dần dần... Những kiến thức mới
nhất dẫn đến việc phải chấp nhận Thuyết Tiến Hóa hơn chỉ là một giả
thuyết”.
Không chỉ có những người cuồng tín mới có tư tưởng phản bác “Thuyết tiến hóa”, trong bài viết của một nhà nghiên cứu khá nổi tiếng của Mỹ cũng ghi rằng: “Có
nhiều hệ truyền giống song song với nhau nhưng không bao giờ gặp nhau.
Giống như một hệ Khỉ kéo dài hàng triệu năm, một hệ Người chừng vài trăm
ngàn năm, hai hệ này có một số đặc tính tương tự nhưng không giao thoa
với nhau và không phải là truyền nhân của nhau”. Ý kiến này được đưa ra để phản bác lại học thuyết của Darwin rằng: “Những sinh vật xuất hiện trước là cha đẻ của nhửng sinh vật sau”.
Để minh chứng cho nhận định của mình, nhà nghiên cứu này đưa ra ví dụ gây sốc:
Năm 1967, ở bang Texas của Mỹ xảy ra một vụ tai nạn mà “tang vật” thu
được lại hết sức lạ lùng. Trong một cái lọ thủy tinh lớn, cảnh sát Texas
dùng để chứa một cái thai “người” gần đủ, với tay chân, mắt mũi. Viên
quản thủ tang vật cho biết đó là một cái thai “khỉ”! Một con khỉ Hắc
tinh tinh cái, cao gần 5 bộ, có thai, đi lạng quạng từ trong một khu
rừng gần nơi ở của người ra ngoài đường và bị xe cán chết. Thấy con khỉ
có thai to lớn, các viên chức mới mổ bụng ra, lấy cái thai ra ngoài, và
hết sức ngạc nhiên khi đó là một thai người! Giả thuyết cho rằng đó là
kết quả giao hợp của một thổ dân nào sống gần đó với con khỉ cái Các bác
sĩ phụ khoa đều xác nhận rằng đó là một phiên bản của một “bé trai” đã
chín tháng!
Sau khi đưa ra ví dụ này, nhà nghiên cứu trên đã kết luận: “Đây
chỉ là kết quả của một sự pha giống đột biến hiếm hoi trong một môi
trường nào đó, một không – thời gian nào đó, mà không phải lúc nào cũng
có thể thực hiện được. Bằng chứng là cả vài chục ngàn năm nay, chưa có
khám phá nào cho thấy những con khỉ có đột biến dần dần thành người như
rụng bớt lông, như bập bẹ nói, như bỏ đặc tính leo trèo. Vài chục ngàn
năm đối với vũ trụ thì như hạt cát, nhưng với sự tiến hóa của loài người
thì đó là một con số lớn. Vậy mà từ khi có lịch sử loài người, không
thấy biến đổi thêm gì. Vì thế học thuyết này của Darwin là một lỗ hổng
không thể lấp đầy” (?).
Cái chết bí ẩn của Darwin
Mặc dù có rất nhiều tranh cãi và tư
tưởng chống đối lại học thuyết tiến hóa của Darwin, nhưng không một ai
có thể phủ nhận rằng những đóng góp của ông cho nhân loại quá lớn lao vì
nó đã đặt nền móng cho thuyết tiến hóa vạn năng. Không những thế,
trong những giả định về cái chết của nhà khoa học này trước đây, nhiều
học giả cho rằng: “Darwin đã chết là do quá đam mê công việc nghiên cứu của mình”.
Darwin và công trình vĩ đại "Nguồn gốc các chủng loại" của ông
Trong bệnh án của Darwin, các bác sỹ khi đó ghi rằng: “Darwin
bị bệnh Chagas, do nhiễm ký sinh trùng nguyên sinh Trypanosoma Cruzii,
thường giới hạn ở một số vùng thuộc Nam Mỹ, gây viêm nhiễm và tổn thương
các nội tạng. Đồng thời ông còn bị viêm loét dạ dày do vi trùng
Helicobacter pilori gây ra”. Tất cả những căn bệnh đặc biệt này là
do ông ăn phải côn trùng gây bệnh khi tham gia cuộc hành trình nghiên
cứu trên biển kéo dài 5 năm liền trên con tàu Beagle với các đồng
nghiệp.
Sau cái chết bất ngờ của Darwin, đã có
rất nhiều chuyên gia vào cuộc để truy tìm nguyên nhân. Có nhiều bác sỹ
đã phủ nhận bệnh trạng Darwin mắc phải là do ăn nhầm ký sinh trùng. Họ
cho rằng, do thời gian sống trên thuyền lênh đênh trên biển quá lâu nên
ông đã mắc chứng tự kỷ… mà chết.
Tuy nhiên, trong một kết quả nghiên cứu gần đây bởi các nhà khoa học của Nga dựa trên các bức thư mà tác giả của Thuyết tiến hóa
trao đổi với người thân và bè bạn lại chứng minh rằng: Darwin chết là
do bị bệnh tim. Một bệnh lý khá phổ biến và rất khó chữa tại thời điểm
đó.
Cập nhật: 19/05/2011Theo Người đưa tin
9 lý do chứng minh thuyết tiến hóa của Darwin sai
Chủ nhật, 14/10/2018 • 146.0k lượt xem
Thuyết
tiến hóa, nói cho cùng, vẫn còn là một giả thuyết đang tranh cãi, tuy
nhiên, ở nhiều nơi, nó vẫn đang được rao giảng như một chân lý, và học
sinh không được phép đặt câu hỏi hay phản biện về nó. Tuy nhiên, nếu
thực sự có thể phản biện, người ta sẽ thấy thuyết này có quá nhiều sơ
hở.
Trang New Scientist đã đăng bài “Darwin đã sai” với 9 luận điểm chính – những sơ hở to lớn của học thuyết này, dưới đây là bản dịch của trang Huyền Học, được PVHg’s home biên tập.
1. Quy luật Tạo Sinh (the Law of Biogenesis) của Louis Pasteur
Louis Pasteur
(27 tháng 12, 1822 – 28 tháng 9, 1895), nhà khoa học nổi tiếng người
Pháp, là người tiên phong trong lĩnh vực vi sinh vật học, tuyên bố: Sự
sống phải bắt nguồn tự sự sống. Nói 1 cách đơn giản, con cái phải có bố
mẹ sinh ra. Một sinh vật có ý thức dù là một tế bào nhỏ nhất, đơn giản
nhất cũng không thể được tạo ra từ sự kết hợp ngẫu nhiên của những
nguyên tử hóa học vô thức. Đây là một định luật đã được Pasteur chứng
minh bằng thực nghiệm, được gọi là Định luật Tạo sinh (Biogenesis).
Đến
nay câu hỏi nguồn gốc sự sống bắt nguồn như thế nào vẫn tiếp tục là một
câu hỏi chưa có lời giải đáp đối với khoa học chính thống. Muốn cho
Darwin đúng thì Định luật Tạo sinh – một trong những định luật nền tảng
và vững chắc nhất của sinh học – phải sai. Sau thí nghiệm không thể
tranh cãi, Pasteur tuyên bố dứt khoát:
“Học
thuyết sự sống tự phát (spontaneous generation) sẽ không bao giờ có thể
hồi phục lại được từ cú đấm như trời giáng của thí nghiệm đơn giản này.
Không, không có một trường hợp nào được biết để có thể khẳng định rằng
vi sinh vật có thể có mặt mà không có vi trùng, không có cha mẹ giống
chúng.”
2. Tế bào nhân sơ không tiến hóa lên tế bào nhân chuẩn qua đột biến
Tế
bào nhân sơ không tiến hóa lên tế bào nhân chuẩn qua đột biến, mà qua
dị hợp cộng sinh (symbiosis). Sự kiện các vi khuẩn đơn bào tiến hóa
thành những tế bào lớn hơn và phức tạp chúng gấp trăm lần là một câu
chuyện bị bỏ trống hoàn toàn trong thuyết tiến hóa.
Tế bào nhân sơ thật ra có cấu trúc phức tạp hơn Darwin tưởng tượng rất nhiều.
“Đúng
là tế bào nhân chuẩn là những tế bào phức tạp nhất mà chúng ta biết.
Nhưng các dạng sống đơn giản nhất mà chúng ta biết, các tế bào nhân sơ,
bản thân chúng cũng cực kì phức tạp. Nếu nhân chuẩn là một chiếp laptop
thì nhân sơ cũng là một chiếc điện thoại di động. Không có bất cứ bằng
chứng nào cho thấy có những dạng sống đơn giản hơn mà từ nó nhân sơ tiến
hóa thành.” – Jonatthan Wells (nhà sinh học) và William Dembski (nhà toán học)
Ví
dụ: ty lạp thể trong tế bào phức tạp tới mức nào? Ngoài mạng lưới các
cỗ máy ATP, bên trong ty lạp thể còn có nhiều hệ thống máy móc khác:
3. Sự bùng nổ sự sống trong kỷ Cambri
Đó
là sự xuất hiện một cách đột ngột của hầu hết các nhánh ngành động vật
chính cách đây khoảng 530 triệu năm như các lưu trữ hóa thạch đã chứng
minh. Trước đó, hầu hết các sinh vật chỉ là những cá thể đơn giản. Chỉ
trong vòng 70-80 triệu năm tốc độ tiến hóa đã gia tăng với một tốc độc
ngạc nhiên đến bí ẩn. Chính Darwin đã ghi chú trong cuốn sách Nguồn Gốc
Các Loài của ông rằng, sự xuất hiện đột ngột các động vật chân đốt trong
các lưu trữ hóa thạch trong kỷ Cambri nêu lên một khúc mắc cho học
thuyết tiến hóa. (Thuyết Darwin nói sự tiến hóa diễn ra từ từ từng tí
một và trải qua thời gian vô cùng dài, nhưng sự bùng nổ sự sống trong kỷ
Cambri trái ngược hoàn toàn với tưởng tượng của Darwin. PVHg)
ADVERTISEMENT
4. Không có các mắt xích nối kết trung gian
“Số
lượng các hình thái trung gian, đã phải từng tồn tại trên trái đất,
phải là rất lớn. Vậy mà tại sao các nối kết trung gian này lại không thể
được tìm thấy trong các lớp địa tầng? Đây có lẽ là sự phản đối rõ ràng
và mạnh mẽ nhất có thể được nêu lên để chống lại giả thuyết của tôi.” – Charles Darwin, Nguồn Gốc Các Loài
“Mọi
nhà cổ sinh vật học đều biết rằng các lưu trữ hóa thạch chứa đựng rất
ít các dạng sinh vật trung gian; quá trình chuyển đổi giữa các nhóm
chính có thể nói là xảy ra một cách đột ngột.” – Stephen J. Gould, giáo sư đại học Harvard.
5. Tính cố định, không thay đổi, của sinh vật.
“Tính
cố định (stasis) của hầu hết các giống loài hóa thạch xuyên suốt quá
trình tồn tại lâu dài của nó như được thấy trong địa chất đã được tất cả
các nhà cổ sinh vật học công nhận một cách hiển nhiên, nhưng hầu như
chưa bao giờ được nghiên cứu chi tiết vì cái giả thuyết [tiến hóa] thịnh
hành xem nó như là một phản-bằng-chứng không thú vị. Sự đại trà áp đảo
của tính cố định trong các tàn tích hóa thạch trở thành một đặc điểm
đáng xấu hổ, nhưng đã bị bỏ lơ đi như là không có gì cả.” – Stephen J. Gould
6. Thông tin trong DNA
“Thông
tin là thông tin, thông tin không phải là vật chất hay năng lượng. Chủ
nghĩa vật chất nào thất bại trong việc nhận thức điều này sẽ không sống
sót nổi một ngày.” – Norbert Weiner (giáo sư toán học tại đại học MIT, được xem là cha đẻ của ngành điều khiển học, cybernetics)
Thông
tin không phải là vật chất, nhưng nó có thể được chuyển tải thông qua
vật chất. Chưa có một bằng chứng nào cho thấy thông tin có thể tiến hóa
hay cải tiến thông qua đột biến.
Lỗi
sao chép, còn gọi là đột biến điểm, xảy ra 1 lần trong 10 tỉ ký tự. Và
mỗi chuỗi DNA con người chứa khoảng 3 tỉ kí tự di truyền.
“DNA cũng giống như một chương trình điện toán, nhưng cao cấp hơn nhiều, rất nhiều bất cứ một phần mềm nào đã từng được tạo ra.” – Bill Gates
“Số
lượng thông tin có thể chứa trong DNA trên một đầu kim tương đương với
một chồng sách bìa mỏng 500 lần độ dài từ trái đất đến mặt trời, với nội
dung riêng biệt không lặp lại.” – Jonathan Sarfati, nhà vật lý học và hóa học.
Nói cách khác nếu chúng ta có một ổ cứng 40 GB, một đầu kim DNA có thể chứa một lượng thông tin lớn gấp 100 triệu lần ổ cứng đó.
Do đó không thể nào tin rằng có thể xẩy ra sự tiến hóa ngẫu nhiên và mù quáng.
“Kiến
thức về DNA đã cho thấy, bởi độ phức tạp hầu như là không thể tin được
về sự sắp xếp cần thiết để có thể sản sinh ra sự sống, rằng một ý thức
thông minh phải có dính líu để có thể làm cho các nguyên tố cực kì đa
dạng này vận hành được.” – Antony Flew, nhà vô thần nổi tiếng người Anh.
Các cỗ máy phân tử phức tạp làm nhiệm vụ sao chép DNA trong tế bào:
7. Đấu tranh sinh tồn không phải là động lực chính cho tiến hóa.
Các nhà khoa học tại Đại học Bristol cho rằng “không gian sinh sống” mới chính là động lực chính.
“Các
nghiên cứu mới nêu ra rằng những thay đổi lớn trong tiến hóa xảy ra khi
động vật di chuyển đến một không gian sinh sống mới, chưa bị chiếm cứ
bởi những động vật khác.” – BBC News
8. Cây Sự Sống của Darwin không diễn tả đúng thực tế
“Một
mô hình diễn tả sự liên kết giữa các giống loài đúng hơn nên là một bụi
rậm không phải một cái cây. “Chúng ta không có bằng chứng nào chứng
minh cái cây sự sống là một hiện thực.” – Eric Bapteste, nhà sinh vật học tại Đại Học Pierre and Marie Curie của Pháp.
Những
thí nghiệm di truyền trên vi khuẩn, cây cối và động vật càng ngày càng
tiết lộ rằng các loài khác nhau lai hợp nhiều hơn là chúng ta từng nghĩ.
Có nghĩa là thay vì các giống loài chỉ đơn giản truyền thừa xuống giống
nòi riêng rẽ của nó, nó còn trao đổi, lai tạp với những nhánh tiến hóa
khác. Dẫn đến kết quả là một bụi rậm sự sống phức tạp hơn nhiều cái gọi
là cây sự sống.
“Cây sự sống đang
được chôn vùi một cách tế nhị. Điều ít được chấp nhận hơn là cái nhìn
nền tảng về sinh học cần phải được thay đổi” – Michael Rose, nhà sinh học tại đại học UCI
9. Người không tiến hóa từ vượn
Quan
niệm cho rằng DNA của vượn giống DNA của người đến 99% không còn đúng
nữa. Các nghiên cứu mới nhất cho thấy con số này chỉ còn 93%. Khác biệt
lớn xảy ra ở cấu trúc cơ thể, não bộ, trí khôn, và hành vi….(“How Much
DNA Do We Share With Chimps?” Softpedia, Nov. 20, 2006, p. 1)
Khám phá thế giới - Những Hiện Tượng Bí Ẩn Nhất Hành Tinh || Tập 4
Kì dị những người có khả năng nhìn xuyên thấu
Thứ bảy, 26/04/2014, 07:15 (GMT+7)
(Thể thao) - Đối
với một vài người, câu tầm nhìn xa trên 10km trong các bản tin thời
tiết trở thành sai lầm vì họ có thể nhìn được các sự việc xảy ra cách họ
hàng trăm km. Con mắt nhìn xuyên không gian
Thế kỷ 19 có một người có khả năng nhìn xa hàng trăm km ở Thụy Điển.
Khả năng đặc biệt này tự nhiên đến với anh ta chứ không phải do luyện
tập hay đột biến sau những chấn thương hoặc tai nạn. Sự tích này được
ghi trong từ điển Bách khoa tri thức như sau:
Ngày 10/7/1897 vào buổi tối, một người Thụy Điển tên là Maniwair đang
cùng ăn tối với mấy người bạn ở thành phố Stockholm bỗng mặt anh ta
thất sắc rồi kêu to: “Hỏng rồi! ở thành phố có khu nhà đang cháy lớn,
ngọn lửa đang cháy lan, ôi chao, nhà của ông bạn cũng đã bốc lửa, nhà
tôi cũng rất nguy hiểm”.
Một lát sau anh lại nói: “Tốt rồi, lửa đã bị dập tắt ở ngôi nhà lầu
cách nhà tôi 3 căn nhà”. Nhà của Maniwair ở Sdenmar cách nơi họ đang ăn
đến 400 km, thế mà anh nói chắc chắn như sự việc đang diễn ra ngay trước
mắt, nên các bạn ăn cơm cùng anh có vẻ hoài nghi. Nhưng ngay sau đó,
qua kiểm tra thông tin đã chứng thực lời của Maniwair hoàn toàn đúng
khiến mọi người vô cùng thán phục và gọi mắt anh là con mắt thần.
Maniwair dần trở nên nổi tiếng và nhiều người đã tìm đến nhờ anh sử
dụng khả năng thần kỳ để giúp đỡ. Điển hình như ông đại sứ Hà Lan ở Thụy
Điển. Ông này đã mua một món đồ bạc từ một cửa hàng nhưng ngay sau đó
ông chết đột ngột. Nhà buôn nhân cơ hội định kiếm một món tiền nữa nên
đến tòa đại sứ đòi bà phu nhân.
Món tiền rõ ràng đã được trả từ khi ông đại sứ còn sống nhưng bây giờ
không tìm thấy hóa đơn, không có cách gì chứng minh với nhà buôn. Cuối
cùng đại sứ quán Hà Lan tìm đến Maniwair nhờ giúp đỡ.
Maniwair đến đại sứ quán hướng tầm mắt về phía trước rồi nhìn lướt
một hồi sau đó nói với phu nhân đại sứ: “Tờ hóa đơn đó chưa mất đâu,
hiện giờ nó vẫn nằm trong ngăn kéo ở chiếc bàn ở lầu hai của nhà bà”.
Phu nhân đại sứ làm theo lời Mamiwair quả nhiên đã tìm thấy tờ hóa đơn. Những đôi mắt nhìn xuyên thấu
Khác với Maniwair, cô Laura Castro ở Miami bang Florida nước Mỹ lại
có cặp mắt có thể nhìn xuyên thấu qua mọi môi trường dù là sắt thép hay
gỗ, bê tông. Điều kì dị là mắt của cô chỉ có một màu trắng chứ không có
con ngươi.
Laura Castro với đôi mắt kỳ lạ.
Cuốn Thế giới kỳ bí của Nxb Thanh Hóa cho biết lúc mới sinh ra, mắt
của Laura cũng bình thường như mọi người nhưng đến năm 10 tuổi thì đôi
mắt biến đổi thành màu nâu vàng rồi màu trắng. Cha mẹ đã đưa cô đi khám.
Nhiều chuyên gia mắt đã nghiên cứu nhưng không có kết quả và cũng không
tìm ra nguyên nhân gì tạo ra đôi mắt trắng của cô bé.
Mẹ của Laura cho biết: “Các bác sĩ nói họ chưa từng thấy một đôi mắt
nào tương tự như thế. Tôi cũng vậy. Laura có thể nhìn thấy tất cả mọi
thứ cả ban ngày lẫn đêm tối. Và mỗi ngày, đôi mắt Laura càng trắng và
tầm nhìn của nó càng mạnh mẽ”.
Người ta cũng thử khả năng nhìn xuyên của Laura khi bắt cô nhìn qua
một tấm bê tông dày 10 cm và thừa nhận khả năng của cô là có thật.
Mẹ Laura kể thêm: “Lần đầu tiên Laura phát hiện ra khả năng nhìn
xuyên thấu mọi vật là vào một buổi sáng. Sau khi tỉnh dậy, con bé bất
ngờ nhìn thấy tất cả những gì có trong cơ thể mình. Con bé nhìn thấy tim
mình đang đập và nó đã hét lên đầy sợ hãi”.
Ngoài Laura Castro, thế giới còn biết đến một cô gái nữa có khả năng
nhìn xuyên thấu nữa là Natasha Demkina. Cô gái Nga này sinh năm 1987 tại
thành phố Saransk. Nhưng khác với Laura Castro, Demkina có khả năng này
khi cô trải qua một ca phẫu thuật ruột thừa năm lên 10 tuổi.
Vài ngày sau khi trải qua ca phẫu thuật , Demkina giật mình phát hiện
và nói với mẹ rằng: “Mẹ ơi, bụng mẹ có hạt đậu và cái vòi xếp nếp kìa.
Cả cái quả gì đo đỏ đang cử động nữa”.
Thấy con gái nói những điều kỳ lạ, mẹ Demkina vô cùng hoảng sợ và
nhanh chóng đưa con đến bệnh viện kiểm tra. Khi vừa đến bệnh viện, cô
cũng khiến các bác sĩ giật mình khi miêu tả các bộ phận trong cơ thể
ông. Tuy nhiên, do không biết tên chính xác từng bộ phận nên em đã mô tả
thận là hạt đậu, ruột là chiếc vòi xếp nếp…
Không dừng lại ở đó, Demkina còn có khả năng “siêu âm” các bộ phận cơ
thể con người và phát hiện ra bệnh tật chính xác hơn cả máy chụp
X-quang.
Qua nhiều cuộc kiểm tra, các bác sĩ kinh ngạc phát hiện đôi mắt của
Demkina có khả năng siêu âm cơ thể con người vô cùng chính xác, thậm chí
có phần vượt trội hơn những thiết bị y tế hiện đại.
Năm 2005, Demkina được mời sang Nhật Bản. Giáo sư Yoshio Machi của
Đại học Tokyo là chuyên gia nghiên cứu nổi tiếng về các khả năng kỳ lạ
của con ngườic cũng hết sức bất ngờ về cô gái có “đôi mắt X-quang”.
Tại đây, cô có thể nói chính xác bệnh tật của từng người ngay cả khi
không nhìn thấy đối phương mà chỉ cần nhìn vào một tấm ảnh của người
được hỏi. Hiện, cô làm việc cho Trung tâm Chẩn đoán đặc biệt ở Thủ đô
Moscow để giúp đỡ các bác sĩ ở đây chẩn đoán bệnh.
Với sự xuất hiện những cặp mắt đặc biệt này, khái niệm thiên lý nhãn,
thần nhãn được đề cập trong các câu chuyện cổ tích đã không còn là viễn
tưởng nữa mà đã thành sự thật. Dẫu sao đây chỉ là khả năng đặc biệt của
một vài người trong số 7 tỉ người sống trên trái đất. Cho đến nay câu
hỏi về cơ chế nào đưa đến những khả năng đó vẫn còn là một bí ẩn chờ
giải đáp.
(Theo Người Đưa Tin)
Giải mã những người có khả năng tự chữa lành bệnh ung thư
Nhiều nhà tu hành có thể chiến thắng ung thư hoặc tự chữa khỏi bệnh này
là nhờ thoát áp lực về tinh thần, không tham sống cũng không sợ chết và
luôn giữ cho tâm hồn thanh thản nhẹ nhàng.
Theo Health Sina, một người có khả năng tự chữa lành ung thư
không phải kỳ tích mà được ghi nhận nhiều trong y khoa. Trên thực tế
bệnh có thể chữa khỏi được hay không một mặt phụ thuộc vào bản chất của
ung thư, một mặt phụ thuộc vào những nhân tố khác trong quá trình điều
trị. Ghi nhận trong hầu hết trường hợp tự khỏi ung thư, điều quan trọng
nhất và cũng là điều duy nhất bệnh nhân có thể kiểm soát được chính là
vấn đề tâm lý và tinh thần.
Một số nghiên cứu cho thấy có người sau khi bị bệnh ung thư lại mắc thêm
chứng tâm thần phân liệt. Điều này có thể xem là tồi tệ. Tuy nhiên,
thực tế ghi nhận những người mắc ung thư mà không bị tâm thần phân liệt,
sau một thời gian điều trị đã qua đời sớm, có thể do bản chất bệnh ung
thư hoặc do không chịu nổi tác dụng phụ của hóa trị. Còn người ung thư
bị tâm thân phần liệt thì vẫn sống, thậm chí khối u trong cơ thể họ dần
biến mất. Các nhà nghiên cứu cho rằng điều kỳ lạ này do vấn đề "mệnh
lệnh tâm lý": Người bệnh tâm thần phân liệt không phải chịu những áp lực
tinh thần nặng nề và ham muốn được sống của người bình thường sau khi
biết mình bị ung thư.
Một số nghiên cứu trên các nhà sư phát hiện một điều bất ngờ rằng những
chỉ tiêu kiểm tra liên quan mật thiết đến sức khỏe và tuổi thọ với người
bình thường đều không được các bậc tu hành coi trọng. Tuy vậy những nhà
sư thường sống rất thọ, chiếm tỷ lệ lớn trong số người cao tuổi. Nguyên
nhân được cho là do tâm trí người xuất gia không có những gánh nặng và
ham muốn của người bình thường; trong khi đó gánh nặng lo âu sẽ gây ra
bệnh hoặc khiến bệnh trạng trầm trọng thêm.
"Dù là người bị tâm thần phân liệt hay người xuất gia, lý do họ có thể
vượt qua ung thư hoặc tự chữa khỏi đều do thoát được áp lực về tinh
thần, không tham sống cũng không sợ chết, luôn thanh thản nhẹ nhàng",
nhóm nghiên cứu kết luận.
Thống kê y khoa cho thấy trong số bệnh nhân tử vong vì ung thư có 1/3 do
sợ hãi cái chết, 1/3 bởi dùng thuốc quá mức khiến cơ thể không chịu
nổi, 1/3 còn lại vì chữa trị vô hiệu và các nguyên nhân khác. Nhiều
chuyên gia khuyên người bệnh ung thư không nên quá sợ hãi. Mọi người
thường có quan niệm rằng “ung thư là căn bệnh không thể chữa trị”, nhưng
lại muốn “phải trị dứt điểm các khối u”. Trong khi cao huyết áp, tiểu
đường, bệnh mạch vành tim đều là những căn bệnh khó chữa, vậy tại sao
ung thư nhất định phải chữa? Thực tế có những người bệnh dù đã ở giai
đoạn di căn vẫn có thể sống được thêm vài năm, thậm chí trên 10 năm.
Theo cơ chế tiến triển thông thường của bệnh, rất nhiều loại ung thư sẽ
di căn. Với sự tiến bộ liên tục các liệu pháp chống ung thư, thời gian
sống của bệnh nhân ung thư ngày càng được kéo dài, điều này đã và đang
mang lại sự tự tin cho các y bác sĩ và bệnh nhân. Người bệnh nên hiểu
rằng hiện tại y học đã phát triển, ngay khi khối u đã di căn, các bác sĩ
vẫn có cách để chữa trị và kéo dài sự sống cho bạn. Do đó không ai khác
mà chính là người bệnh cần giải tỏa tâm lý cho mình nếu không muốn chết
sớm. Khi đó bạn sẽ không nằm trong số 30% bệnh nhân vì quá sợ ung thư dẫn đến lo âu trầm cảm, suy giảm hệ miễn dịch và qua đời chỉ sau thời gian ngắn phát hiện bệnh.
Các chuyên gia nhấn mạnh rằng mục tiêu của nghiên cứu này không nhằm
khẳng định ung thư có thể chữa trị hoàn toàn mà đừng coi "đây là bản án
tử treo đầu giường". Tốt nhất nên đặt nó dưới sự kiểm soát, giữ tinh
thần ổn định sẽ khiến bệnh tiến triển chậm và giảm nỗi đau đớn cho bệnh
nhân, góp phần tăng tỷ lệ sống còn và chất lượng cuộc sống.
Trần Ngoan
Người đàn ông tự chữa khỏi bệnh cho mình dù bác sĩ bó tay
Nhờ sự kiên trì và nghị lực mà Derek Chan đã tự chữa khỏi
được căn bệnh mãn tính của mình vốn được tưởng như đã không có biện pháp
khôi phục.
Đây có thể coi là một trường hợp hiếm
thấy trên thế giới khi bệnh nhân tự mình tìm cách chữa trị một bệnh về
tâm thần, vốn được coi là rất khó trong y học.
Là
một nhà điều hành tài chính của một công ty đa quốc gia, Chan bị chẩn
đoán mắc chứng rối loạn tâm trí và suy nhược cách đây 7 năm lúc còn sống
ở Hồng Kông. Anh đã tự nghiên cứu dùng thuốc sau nhiều năm điều trị tốn
kém mà không có hiệu quả.
Chan tự nghiên cứu và mua thuốc chữa căn bệnh tâm thần của mình.
Đã
từng, vào 3 năm trước, anh đã chi cả đống tiền để chữa bệnh theo yêu
cầu của bác sĩ đa khoa, chuyên gia tâm lý học và bác sĩ tâm thần, mà
bệnh tình không hề có khởi sắc.
Chan nói: “Tôi
bị các triệu chứng bệnh như đau nửa đầu, đau bụng, mệt mỏi, đau cơ, rối
loạn tâm trạng, trí nhớ kém, IQ giảm sút và hiệu quả công việc đi xuống.
Tôi luôn thấy khó tập trung, đầu óc không sáng suốt như trước. Thế là
tôi có thói quen tránh các công việc phức tạp mà thay vào đó là tìm kiếm
những vụ dễ dàng hơn để thực hiện”.
Một bác sĩ chuyên khoa dạ dày đã làm nội soi dạ dày cho anh nhưng không thể tìm thấy bất cứ điều gì bất bình thường.
Anh
kể: "Sau đó, tôi đã giới thiệu tới khám ở một bác sĩ tâm thần, người
cho rằng những cơn co thắt dạ dày của tôi có thể là do căng thẳng thần
kinh."
Bảo hiểm y tế của Chan không có tác dụng
cho việc điều trị sức khỏe tâm thần, vì thế việc điều trị cùng với các
bác sĩ tâm thần và tâm lý học đã khiến anh gặp căng thẳng về mặt tài
chính đồng thời tuyệt vọng với khả năng khỏi bệnh.
Derek
Chan tự nghĩ cách chữa khỏi chứng ngưng thở khi ngủ thay vì dùng máy áp
lực hô hấp, khiến mũi anh bị khô theo lời khuyên của bác sĩ.
Thế
rồi, 3 năm trước, khi chuyển đến Bắc Kinh, Chan đã thay đổi. Anh bắt
đầu nghiên cứu các tạp chí y khoa và các tài liệu nghiên cứu trên mạng,
để tự tìm ra biện pháp riêng chữa trị cho mình.
Chan
cho hay: “Các nhà nghiên cứu sớm cho rằng thiếu serotonin là nguyên
nhân chính gây ra trầm cảm. Do đó, các bác sĩ đều khuyên bệnh nhân nên
uống thuốc chống trầm cảm để tăng serotonin trong não. Nhưng sau đó
người ta lại phát hiện ra rằng yếu tố thần kinh có nguồn gốc từ não
(BDNF), thay vì serotonin, mới là mấu chốt của vấn đề. Bộ não giải phóng
hormone cortisol mỗi khi nó bị căng thẳng.
Những loại thuốc Chan thường tự mua qua mạng để chữa chứng trầm cảm của anh.
Cortisol
làm giảm nồng độ BDNF và gây viêm trong não, khiến cho các nhánh thần
kinh bị héo rút. Các sợi nhánh càng khỏe mạnh dày và dày đặc thì bộ não
mới hoạt động tốt được."
Để tăng nồng độ BDNF,
Chan bắt đầu dùng thuốc Prozac, gastrodin, thuốc chống viêm và các chất
bổ sung khác. Kết quả là 3 năm sau, kết hợp chế độ thuốc tự kê đơn này,
cùng với thiền định và tập thể dục nhẹ như chạy bộ, đã làm giảm bớt
chứng trầm cảm của anh.
Chan nói: "Tôi cảm thấy
chức năng của bộ của mình đã trở lại trạng thái cao nhất trước khi tôi
phát bệnh trầm cảm, các kỹ năng nhận thức, giải quyết vấn đề và trí nhớ
cũng trở nên tốt hơn".
Chan thừa nhận việc tự
dùng thuốc có thể nguy hiểm và cho hay anh không khuyến khích hành động
này. Nhưng anh cũng cho biết phương pháp điều trị "bài bản" của bác sĩ
trong việc điều trị chứng trầm cảm, cụ thể là ở Hồng Kông, đã tồn tại
những thiếu sót.
Để điều trị chứng trầm cảm,
người bệnh thông thường không có hỗ trợ bảo hiểm y tế, họ phải tự trả
những chi phí đắt đỏ cho những giờ trị liệu riêng cùng bác sĩ tâm lý,
tâm thần. Thời gian điều trị bệnh kéo dài cùng nỗi lo kinh tế khiến thần
kinh vốn đang bất ổn của họ càng thêm tiêu hao. Đó là lý do tại sao
nhiều người bị trầm cảm đang phải sống trong tình trạng bất lực vì không
chữa khỏi được bệnh.
Sau khi tìm được giải pháp
chữa bệnh riêng mình, Chan đã đi kết luận rằng nếu chỉ trông chờ vào
bác sĩ thì các căn bệnh mãn tính sẽ rất khó khỏi được. Giờ Chan đã có
thể coi là một dược sĩ nghiệp dư sau khi tích lũy khá nhiều kinh nghiệm
trong việc dùng thuốc chữa bệnh.
Minh Minh(Theo SCMP)
Có hay không nguồn năng lượng có khả năng chữa bệnh?
ANTĐ Chỉ bằng việc thổi năng lượng vào đồ
ăn, nước uống, thậm chí qua điện thoại hay giữ năng lượng trong phòng để
người bệnh ngồi điều dưỡng là đã có thể giúp họ đỡ đau, khỏi bệnh; chỉ
cần dùng bàn tay được tập trung năng lượng áp vào chỗ đau, hay truyền
năng lượng qua việc… bắt tay, kỳ lạ hơn là ngồi thiền cạnh ngôi mộ có
năng lượng thần kỳ để chữa bệnh… Những hình thức chữa bệnh kỳ lạ này đã
thu hút hàng triệu bệnh nhân khắp nơi, nhất là những người mang bệnh nan
y đến chữa, trong khi vẫn chưa có một nghiên cứu chính thức nào đủ sức
thuyết phục để chứng minh tính hiệu quả của nó.
Dù chưa có nghiêm cứu chính thức nhưng chữa bệnh bằng truyền năng lượng
đang thu hút rất nhiều người
Chữa bệnh bằng… thổi năng lượng
Cô Bùi Thị Đoan (Gia Lâm, Hà Nội) có khả năng chữa bệnh khá lạ lùng,
người bệnh đau chỗ nào cô chỉ cần xoa đôi bàn tay của mình vài lần rồi
đặt lên chỗ đau, vừa day vừa thổi “phù phù” để truyền năng lượng sang
người bệnh. Cô còn cho bệnh nhân uống một cốc nước đã được truyền năng
lượng, nhiều người còn mang chai nước lọc đến để cô thổi năng lượng vào
mang về uống.
Không chỉ vậy, cô còn truyền năng lượng qua… điện thoại để chữa bệnh cho
những người ở xa. Người nhà bệnh nhân chỉ cần gọi điện đến, cô sẽ làm
động tác thổi vào chiếc điện thoại của mình và phát ra những âm thanh lạ
tai, theo cô như vậy sẽ truyền được năng lượng đến người bệnh làm họ
hết đau, khỏi bệnh. Cô hướng dẫn người bệnh chỉ cần dùng 50 quả trứng gà
công nghiệp (theo cô là để tránh sát sinh vì trứng gà công nghiệp không
có trống) để vào cái rổ, rồi mua một bình nước 20 lít sau đó gọi điện
cho cô để cô thổi năng lượng vào, mỗi ngày luộc 5 quả trứng rồi chườm
vào chỗ đau, vừa chườm vừa niệm “A di đà phật”, đồng thời người nhà cũng
thay nhau liên tục niệm “A di đà phật”, càng nhiều người niệm người
bệnh càng nhanh khỏi. Nước được cô thổi năng lượng thì dùng để uống.
Theo cô bằng cách này cô đã chữa cho rất nhiều trường hợp bị ung thư.
Thậm chí có bệnh nhân ung thư phổi giai đoạn cuối, đã di căn vào xương,
thận, lên não, hai mắt lồi ra nhưng nhờ cô thổi qua điện thoại giờ đã
“khỏe như vận động viên”, rất nhiều bệnh nhân ung thư sau khi được cô
chữa đi xét nghiệm đã hết “tế bào lạ”, khỏi hoàn toàn. Hay có cháu bé đã
bị cắt hết ruột, phải làm hậu môn giả ở bụng, cũng bằng cách niệm Phật
và nhờ cô thổi năng lượng một tháng sau đã trở lại bình thường. Cô cũng
giải thích là khi cô thổi tức là cô “cầu mười phương chư phật cứu người
bệnh” chứ không phải cô cứu, vì vậy phải niệm Phật thì Phật mới đến
cứu.
Với phương pháp chữa bệnh kỳ lạ này ngày càng nhiều bệnh nhân đến nhờ cô
Đoan chữa bệnh. Những người dân xung quanh nhà cô cho biết liên tục có
người đến đón cô đi chữa bệnh khắp nơi hoặc đến nhà cô chữa bệnh. Tuy
nhiên hiệu quả thực sự của phương pháp chữa bệnh này thì chưa ai xác
thực chắc chắn. Một người dân gần nhà cô Đoan cho biết trước đây con chị
bị bệnh rất lạ, suốt 4 năm liền không ăn một hột cơm nào vào bụng nhưng
vẫn lao động bình thường. Khi đến nhà cô Đoan, cô khuyên nên về lập
điện thờ. Được một thời gian thì con chị trở lại ăn uống bình thường.
“Cũng có một trường hợp đứa bé không hiểu bị bệnh gì nhưng cứ nghẹo đầu
nghẹo cổ, ngày nào cũng được người nhà cõng đến nhà cô Đoan chữa bệnh.
Được một thời gian thì thấy đứa bé cũng ngóc đầu lên được” - người này
cho biết.
Mới đây, phóng viên cũng được chứng kiến khả năng chữa bệnh một cách lạ
lùng của một công chức nghỉ hưu (giấu tên) ở Vũng Tàu trong dịp bà ra Hà
Nội để được Trung tâm Nghiên cứu và ứng dụng tiềm năng con người khảo
nghiệm khả năng chữa bệnh đặc biệt của mình. Qua quan sát, chúng tôi
thấy chỉ bằng cách tập trung năng lượng rồi day ấn bàn chân và hỏi có
đau hay không, bà có thể đọc được hết các bệnh trong cơ thể người được
khám. Cách chữa bệnh của bà là day ấn một điểm nào đó ở bàn chân (tương
ứng với vùng bị bệnh trên cơ thể), dù động tác không quá mạnh nhưng lại
khiến người bệnh vô cùng đau đớn. Sau cơn đau đó thì tất cả đều cho
biết là cảm thấy rất dễ chịu và bệnh đỡ dần. Một bệnh nhân là tiến sĩ
của một trường đại học nổi tiếng cho biết, anh bị bệnh “tay lò xo” khiến
ngón tay không thể cử động được đã đi chữa khắp nơi đông tây y, trong
và ngoài nước nhưng không khỏi. Vậy mà chỉ đến chữa tại đây chục ngày,
bệnh gần như đã khỏi hoàn toàn. Theo lý giải của bà thì bà có thể chữa
được bệnh vì có một nguồn năng lượng sinh học rất mạnh. Một số bức ảnh
chụp người phụ nữ này được lưu lại trên máy tính có xuất hiện những vầng
sáng xung quanh được cho là nguồn năng lượng phát ra từ cơ thể bà.
Có khả năng chữa bệnh hay không?
Thời gian gần đây, Viện nghiên cứu và ứng dụng tiềm năng con người đã
nhận được nhiều yêu cầu xin kiểm chứng khả năng chữa bệnh bằng năng
lượng và đã công nhận nhiều trường hợp. Cụ thể là ông Võ Tấn Hùng
(phường Hưng Thạnh, quận Cái Răng, thành phố Cần Thơ), từng là giảng
viên của Đại học Cần Thơ. Ông Hùng có khả năng chữa bệnh lạ lùng chỉ
bằng cách… ngồi nói chuyện với những người bị bệnh. Ông Hùng có khả năng
nói chuyện một cách cuốn hút, hết chuyệt nọ đến chuyện kia, không đầu
không cuối. Điều lạ là những người bị bệnh sau khi ngồi nghe ông nói
chuyện thấy trong người thoải mái, bệnh tật lui dần. Theo tổng hợp của
Viện nghiên cứu và ứng dụng tiềm năng con người thì kết quả trắc nghiệm
chữa bệnh của ông Võ Tấn Hùng cho thấy có gần 80% số người đến nghe nói
chuyện cho biết có cảm nhận tốt, trong đó, nhóm bệnh nhân đau đầu, dạ
dày, tiêu hóa, đau khớp là cảm nhận rõ nhất. Theo lý giải của các nhà
nghiên cứu về trường hợp của ông Hùng thì cách chữa bệnh của ông là dùng
năng lượng của mình đẩy những khí xấu ra khỏi người bệnh.
Vậy nguồn năng lượng chữa bệnh có từ đâu?
Theo chia sẻ của một chuyên gia nghiên cứu về dưỡng sinh thì lý thuyết
môn dưỡng sinh này lý giải các bệnh tật đều do sự thiếu cân bằng trong
con người mà sinh ra. Bởi vậy, cân bằng lại âm dương trong cơ thể sẽ dần
dần hàn gắn được những tổn thương và duy trì được sức khoẻ. Theo tập
môn dưỡng sinh, người bệnh sẽ được học cách thở đúng cách để thu nhận
nhiều nhất khí ôxy, từ đó huy động được những năng lượng tiềm ẩn trong
mỗi người và tiếp nhận năng lượng từ mặt đất (khí âm) hoặc năng lượng từ
bầu trời (khí dương) và khí cân bằng âm dương trong vũ trụ. Những người
có nguồn năng lượng lớn sẽ dùng chính năng lượng của mình để tác động
trực tiếp lên người bệnh bằng cách xoa, vuốt, đấm… giúp người bệnh nhanh
khoẻ hơn.
Một trong những người được ghi nhận có khả năng chữa bệnh bằng dưỡng
sinh là bà Tôn Nữ Hoàng Hương (thường được gọi là Má Hai Hương, Má Hai
Bình Định). Năm 1963, khi đang mang thai, bà bị một tai nạn bất ngờ và
ngất đi. Sau khi chết lâm sàng 3 ngày, bà sống lại và phát hiện ra mình
có một khả năng kỳ lạ và bà đã dùng chính bàn tay của mình xoa nóng để
chữa cho thai nhi trong bụng. Sau đó bà áp dụng môn dưỡng sinh này (gọi
là dưỡng sinh tâm thể) đi chữa bệnh nhiều nơi và nhiều tài liệu đã khẳng
định tính hiệu quả.
Còn lý giải của bộ môn nhân điện thì năng lượng vũ trụ đi vào cơ thể con
người qua các luân xa, các lỗ tự nhiên, tai, mắt, mũi, mồm... rồi biến
thành năng lượng sinh học. Bằng lý thuyết có thể giải thích các hình
thức tương tác giữa người sử dụng trường sinh học với người bệnh để chẩn
đoán và điều trị. Nguyên tắc chung là nhà ngoại cảm dùng trường sinh
học của mình tác động lên trường sinh học của người bệnh. Nguồn năng
lượng này được đi qua các “luân xa” mà người bệnh sẽ được hướng dẫn
thiền để mở các luân xa này, đón nhận nguồn năng lượng…
Cho đến thời điểm này, chưa có công trình nghiên cứu nào được y học
chính thống chứng minh nhân điện, dưỡng sinh... có khả năng chữa bệnh.
Các phương pháp chữa bệnh bằng năng lượng, không dùng thuốc có những phù
hợp nhất định đối với y học. Tuy nhiên nó cần được nghiên cứu sâu, đưa
ra những kết luận khoa học về hiệu quả của phương pháp này, tạo điều
kiện cho những người có khả năng thực sự chữa bệnh cũng như giúp người
bệnh có nhiều cơ hội để chữa bệnh. Hiện nay, cơ quan liên quan và hiểu
sâu sắc nhất về năng lượng trường sinh học là Trung tâm Nghiên cứu ứng
dụng tiềm năng con người được cho là đã phát hiện và nghiên cứu nhiều
trường hợp có khả năng chữa bệnh đặc biệt, tuy nhiên phương pháp nghiên
cứu còn giản đơn chưa đủ sức thuyết phục. Trong khi đó, ngày càng có
nhiều người được “thần thánh hóa”, không ít người hoang tưởng về khả
năng chữa bệnh của mình khiến người bệnh đổ xô đến chữa.
Bí mật của xuất hồn – thoát xác
Đại tá, nhà nghiên cứu Đỗ Kiên CườngViện Vật lý Y Sinh học - Trung tâm Khoa học kỹ thuật và công nghệ quân sự - Bộ Quốc phòng - Thể thao Văn hóa
09:01' CH - Thứ tư, 29/01/2014
Xuất
hồn hay thoát xác là hiện tượng khá phổ biến trong hầu hết các nền văn
hóa. Người ta tin rằng, khi đó “hồn” bay khỏi “xác”, bồng bềnh giữa
không trung, quan sát thể xác và thế giới xung quanh. Nhiều người xem đó
là bằng chứng của “linh hồn” và “thế giới tâm linh”...
Theo
nữ tâm lý gia Susan Blackmore, người đã nghiên cứu hiện tượng này hơn 40
năm, xuất hồn là “kinh nghiệm mà dường như một người cảm nhận được thế
giới từ một vị trí ngoài cơ thể vật chất”. Còn theo Irwin, đó là kinh
nghiệm mà “trung tâm ý thức dường như chia tách với cơ thể”. Các nhà tâm
lý cho rằng, xuất hồn không phải là hiện tượng “tâm linh”, mà là một
trạng thái ý thức biến đổi. Nó có thể liên quan với psi (đã giải thích
trong các kỳ trước), nhưng không phải là psi. Bằng chứng thống kê
Theo
Blackmore, khoảng 15-20% dân chúng thi thoảng xuất hồn. Đa phần chỉ một
vài lần trong đời, nhưng một số xuất hồn khá thường xuyên, còn một số
ít thì luyện tập đến mức xuất hồn lúc nào cũng được!
Xuất hồn
thường xảy ra lúc nghỉ ngơi, trước khi ngủ hay đang thiền. Đặc trưng
chung của trạng thái là thư giãn, giảm hay mất cảm giác bản thể và kích
thích cảm giác. Nó xảy ra trong thời gian ngắn, thường bắt đầu với cảm
giác đi vào đường hầm tối đen với ánh sáng rực rỡ phía cuối, giống trạng
thái cận kề cái chết. Có người thấy “hồn” xuất rồi lại nhập vào xác.
Hành trình của linh hồn trong sự tưởng tượng của các họa sĩ
Xuất
hồn độc lập với tuổi, giới tính, học vấn hay tôn giáo, mà phụ thuộc chủ
yếu vào khả năng bị thôi miên và sự nhập vai. Vì thế giới nghệ sĩ dễ
xuất hồn. Nhiều kỹ thuật có thể tạo xuất hồn, phần lớn xem thư giãn và
tưởng tượng là yếu tố cơ bản. Thôi miên là kỹ thuật được ưa thích. Một
số thuốc hướng thần cũng gây xuất hồn, như thuốc gây ảo giác, thuốc
mê... nên có người thấy xuất hồn khi được phẫu thuật.
Để lý giải
xuất hồn, hiện có ba giả thuyết chính: một cái gì đó (“hồn”) rời khỏi
xác, ảo giác kết hợp với ngoại cảm và các lý thuyết tâm lý. Thoát xác
Đa
số người xuất hồn thấy thoát xác, dẫn tới giả định về sự tồn tại của
“linh hồn”, độc lập với thể xác và có thể tồn tại sau cái chết của thể
xác. Đây là một quan điểm sai lầm vì chia tách con người thành thể xác
và linh hồn và xem chúng khác nhau. Vậy chúng tương tác với nhau như thế
nào? Khi chết hồn bay đi đâu? Ở người chết đi sống lại, hồn thoát rồi
nhập xác ra sao? Đó là những câu hỏi chưa bao giờ được trả lời. Ảo giác và ngoại cảm
Tyrrell
là người đầu tiên giả định xuất hồn là những ảo giác mang thông tin thu
được nhờ ngoại cảm. Nói cách khác, do đọc ý nghĩ từ xa trong lúc ảo
giác mà người xuất hồn cảm thấy hồn như bay lên quan sát các sự kiện,
thậm chí từ xa. Điểm yếu của lý thuyết là giả định về ngoại cảm, vì bản
thân ngoại cảm cũng là chủ đề chưa được làm rõ. Không thể giải thích một
hiện tượng chưa biết bằng một hiện tượng chưa biết khác! Các lý thuyết tâm lý
Nhóm
lý thuyết này quan tâm tới các yếu tố nội tại của xuất hồn như ảo giác,
ước vọng, các quá trình tâm lý và sự tưởng tượng. Chúng không loại trừ
nhưng cũng không lưu tâm đặc biệt tới ngoại cảm.
Ảo giác là lý
thuyết đầu tiên, sau đó là các lý thuyết phân tâm học. Từ những năm
1970, các lý thuyết chính thống hơn được phát triển. Palmer xem xuất hồn
là sự giảm hay mất cảm giác bản thể. Irin hay Blackmore nhấn mạnh sự
thay đổi tri giác, nhất là sự cách ly cảm giác (thí nghiệm tại ĐH
McGill, Canada, 1951, cho thấy, khi bị cách ly cảm giác, người tình
nguyện thấy “hồn” bay lơ lửng giữa khoảng không để quan sát xác). Trên
thực tế, khi xuất hồn, các hình ảnh bản thể và thế giới bị phá vỡ nên
tâm trí phải tái cấu trúc một hiện thực ảo để thay thế, trên cơ sở ký ức
và tưởng tượng cá nhân, nên người xuất hồn như “thấy” bản thân từ bên
ngoài cơ thể. Khả năng dị thường khi xuất hồn
Các
thành viên Hội nghiên cứu tâm linh Mỹ tổ chức một số thí nghiệm có kiểm
soát để kiểm tra khả năng ngoại cảm khi xuất hồn. Chẳng hạn năm 1971,
Osis nghiên cứu một đối tượng là Swann bằng cách đặt đồ vật trên giá cao
3m và yêu cầu Swann gửi “hồn” lên để đọc. Osis tuyên bố kết quả khả
quan, nhưng nghiên cứu tiếp theo không lặp lại được kết quả.
Hiện
tượng xuất hồn cũng là dấu hiệu đặc trưng của kinh nghiệm cận kề cái
chết. Nhiều bệnh nhân được cứu sống hay tỉnh lại sau phẫu thuật tuyên bố
họ cảm nhận được các biến cố xung quanh “thể xác đang chết” của họ, một
tuyên bố không được thực tế khẳng định. Cho đến nay nhiều người vẫn xem
xuất hồn là bằng chứng của linh hồn bất tử. Tuy nhiên thành tựu mới
trong các khoa học tâm trí không ủng hộ quan điểm này. Thực tế xuất hồn
chỉ là những ảo giác xuất hiện khi hệ cảm giác bản thể của cơ thể bị rối
loạn.
Nhiều
người cho rằng, trạng thái thoát xác là bằng chứng cho thấy sự tồn tại
của linh hồn và thế giới bên kia. Tuy nhiên, một nghiên cứu mới công bố
lại cho rằng, đó chỉ là kết quả của tình trạng rối loạn tâm trí.
Khoảng
10 năm trước, trong lúc nghiên cứu bộ não ở một phụ nữ bị bệnh động
kinh, TS Olaf Blanke (Bệnh viện Đại học Gevena, Thụy Sỹ) đã tình cờ tạo
ra được trạng thái tương tự như thoát xác được mô tả trong hầu hết các
tài liệu. Khi sử dụng điện cực để kích thích vào hồi góc ở thùy thái
dương, bệnh nhân cho biết đã thấy mình nhẹ đi, bay lên khoảng 2m, lơ
lửng gần trần nhà và từ đó nhìn xuống cơ thể vẫn nằm trên giường. Tuy
mỗi lần chỉ kéo dài vài giây, nhưng cảm giác này lặp đi lặp lại đến 3
lần trong thí nghiệm. Nó khiến TS Olaf tin rằng, thoát xác không phải là
điều gì huyền bí, mà chỉ là một dạng phản ứng nào đó của não khi bị
kích thích. Nhà
khoa học này cùng đồng nghiệp đã bền bỉ theo đuổi những nghiên cứu
trong lĩnh vực này trong nhiều năm qua và công trình mới nhất của họ
được công bố tại Hội nghị của Hiệp hội vì Sự tiến bộ Khoa học (AAAS)
đang diễn ra tại Washington cho thấy, thoát xác là kết quả của tình
trạng rối loạn tâm trí.
Nhóm
nghiên cứu của TS Olaf đã đưa những người tình nguyện vào một căn phòng
ảo do máy tính tạo ra bằng công nghệ 3D. Ở đó, có một mô hình người
lặp lại chính xác toàn bộ các hành động và di chuyển của họ, được gọi là
avatar. Khi các nhà khoa học đánh vào tay người tình nguyện bằng một
cây gậy thì máy tính cũng tạo ra một cú đánh tương tự vào tay avatar.
Điều ngạc nhiên là những người tham gia thí nghiệm hòa nhập vào môi
trường ảo đến mức, họ tin rằng mình đang sở hữu cơ thể của avatar thay
vì cơ thể thật của chính họ.
Trong
một thí nghiệm khác, những người tình nguyện đứng trước một màn hình,
trên đó là avatar quay lưng lại phía họ. Các nhà khoa học chạm vào người
tình nguyện bằng một cây gậy thật, đồng thời máy tính cũng chạm vào
avatar bằng một cây gậy ảo. Nhưng người tình nguyện không nhận ra sự
khác biệt đó. Họ đinh ninh rằng cơ thể mình đang ở phía trước, cách xa
cơ thể thật đến 2m và cảm giác bị đụng chạm mà họ cảm thấy không phải là
cảm giác thật... Các nhà khoa học còn thử bóp nhẹ ngón tay trỏ của
những người tình nguyện, nhưng không đụng đến avatar. Khi tưởng rằng cơ
thể mình là cơ thể avatar, người tình nguyện ít cảm thấy đau hơn lúc
bình thường.
Từ những thí
nghiệm này, TS Olaf và đồng nghiệp cho rằng, trạng thái thoát xác sẽ xảy
ra khi bộ óc bị làm cho rối loạn và nhầm lẫn giữa các giác quan, đặc
biệt là xúc giác và thị giác. Kỹ thuật mà họ sử dụng để tạo ra trạng
thái thoát xác có thể ứng dụng để sản xuất các trò chơi nhập vai, hoặc
để điều trị những căn bệnh bắt nguồn từ việc cảm nhận méo mó về ngoại
hình như chứng chán ăn.
Theo Bee
Lời giải về khả năng dịch chuyển đồ vật bằng ý nghĩ
Ai đã từng xem bộ phim truyền hình Mỹ
Phép thuật (Charmed) của đạo diễn Aaron Spelling sẽ nhớ hình ảnh cô chị
Prue có khả năng di chuyển đồ vật bằng ý nghĩ (Telekinesis). Liệu con
người chúng ta có khả năng dịch chuyển đồ vật bằng suy nghĩ không hay
chỉ có những năng lượng siêu nhiên xuất hiện trong phim ảnh mới có khả
năng kì diệu này?
Những câu chuyện có thật
Nina
Kulagina (Nga) được mệnh danh là “nữ phù thủy” có khả năng dùng tâm trí
di chuyển đồ vật. Một lần, khi Nina mở một ngăn tủ trong phòng, chiếc
ngăn tủ bị hỏng rồi tung ra, khiến mọi thứ văng tung tóe. Nina tỏ ra vô
cùng bực tức. Cùng lúc đó, những ngọn đèn trong phòng cứ bật rồi tắt
liên tục, những đồ vật rơi dưới đất bỗng gắn chặt lấy Nina. Từ đó Nina
phát hiện ra một sự thật kì diệu rằng, cô có khả năng điều khiển mọi vật
thông qua ý nghĩ.
Nina Kulagina đang cố gắng tập trung suy nghĩ để di chuyển đồ vật.
Nina
Kulagina đã phát hiện ra khả năng của mình trong khi cố gắng để phát
triển sức mạnh tâm linh khác vì cô luôn tin rằng, mình có sức mạnh siêu
nhiên gì đó trong người. Được biết, cô đã chứng minh khả năng thiên bẩm
của mình bằng cách di chuyển nhiều đồ vật như quả bóng, bánh mì, bát
thủy tinh lớn, đồng hồ quả lắc, một ống điếu xì gà. Nhiều người hồ nghi
về khả năng của cô vì cho rằng, nó chẳng khác gì những trò ảo thuật trên
tivi nhưng Nina luôn quả quyết, mình có khả năng điều khiển đồ vật bằng
suy nghĩ.
Miroslaw
Magola (Ba Lan) cũng có khả năng kì lạ là dùng năng lượng từ sự vận
động trí óc để nâng các vật xung quanh. Anh có thể nâng được mọi thứ từ
chảo kim loại, bức tượng cẩm thạch, đưa chúng di chuyển trong không khí
rồi gắn chặt với người mình. Miroslaw là người say mê hiện tượng năng
lượng trí óc, dịch chuyển đồ vật bằng ý nghĩ, anh đã phát triển kỹ năng
điều khiển các vật thể vô tri tuân theo ý nghĩ của mình, thậm chí bắt
chúng quay vòng tròn hoặc lắc. Năng lực của Miroslaw mạnh đến nỗi anh có
thể nhảy vòng quanh trong khi một vật thể dính chặt vào đầu mà không
mất khả năng giữ vật thể. Anh đưa ra lời lý giải về khả năng của mình,
đó là do cơ thể được nạp đầy năng lượng ở cùng một thời điểm, đồng thời
anh tập trung suy nghĩ, cố gắng điều khiển chúng. Miroslaw đã trải qua
rất nhiều cuộc kiểm tra nhưng khả năng kì lạ của anh vẫn là một điều bí
ẩn đối với khoa học.
Miroslaw Magola cùng khả năng kì lạ - dùng năng lượng từ sự vận động trí óc để nâng các vật xung quanh.
Stanislawa
Tomczyk (Ba Lan) cũng gây chú ý bởi khả năng điều khiển đồ vật của mình
nhưng chỉ khi cô bị thôi miên. Trong trạng thái thôi miên, Tomczyk có
thể điều khiển cho vật thể nhỏ bay lên khi cô đặt tay lên 2 thái dương.
Đầu năm 1900, một điều tra viên tên là Julien Ochorowicz xem lại những
đồ vật bay lên ở khoảng cách rất gần và quan sát thấy có những sợi mỏng
phát ra từ lòng bàn tay và ngón tay của cô. Có vẻ đây không phải là thủ
thuật bởi trước khi quan sát, họ đã phải kiểm tra kĩ lưỡng. Những sợi
này giống như tơ nhện và dần trở nên mờ đi.
Stanislawa Tomczyk với khả năng điều khiển đồ vật của mình.
Lý giải khoa học
Thuật
ngữ Telekinesis hoặc Psychokinesis chỉ khả năng di chuyển vật thể bằng
cách sử dụng tâm trí. Một số người tin rằng, bất kì ai trong chúng ta
cũng có thể di chuyển các đồ vật bằng suy nghĩ với điều kiện là phải
trải qua thời gian dài rèn luyện, thực hành.
Một
số nhà nghiên cứu cho rằng, hình thức phổ biến nhất của khả năng dịch
chuyển đồ vật bằng suy nghĩ là một trong những ý thức không dự định. Nó
được tạo ra khi ý thức con người bị căng thẳng, rối loạn cảm xúc hoặc
thậm chí do nội tiết tố trong người sinh ra. Nếu không có sự kiểm soát ý
thức, đồ vật bị di chuyển có thể không đi theo quỹ đạo, bay lung tung
và dẫn tới đổ vỡ.
Tuy
nhiên, cũng có nghiên cứu chỉ ra rằng, khả năng điều khiển đồ vật bằng ý
nghĩ là do sóng điện từ của não gây ra, chỉ cần con người có khả năng
phát huy các sóng điện từ này và tập luyện để có thể sử dụng chúng đúng
mục đích là khả năng này sẽ được phát hiện.
Tạp
chí Mỹ - Omni đã tham gia thực nghiệm một số thí nghiệm để đảm bảo
không có gì gian lận và họ quả quyết rằng, một vài trường hợp tồn tại
sức mạnh tiềm ẩn là có thật. Tạp chí Nature, một tạp chí có uy tín khoa
học của Trung Quốc cũng đã tham gia kiểm duyệt và chứng kiến những màn
thử nghiệm gây bất ngờ này.
Bên
cạnh đó, các nhà khoa học cho biết, kết quả thí nghiệm liên quan đến
các hạt nguyên tử có thể bị thay đổi bởi suy nghĩ của những người quan
sát thí nghiệm. Nếu một hạt nguyên tử bị thay đổi bởi ý thức không kiểm
soát được của một nhà khoa học rất có thể sẽ dẫn tới kết quả nghiên cứu
bị sai lệch hoàn toàn.
Sự
phát triển của tâm linh và ý thức cũng như điều khiển đồ vật bằng ý
nghĩ là một khả năng tiềm ẩn trong mỗi con người. Nhiều nghiên cứu chỉ
ra rằng, con người chúng ta có khả năng điều khiển đồ vật nếu như chúng
ta tin tưởng mình có thể làm được, học cách tập trung và tăng cường chức
năng hoạt động của não. Bạn tập trung nhìn vào một đồ vật khoảng 10
phút cho đến khi cảm thấy nó là một phần của cơ thể, hình dung bạn có
thể làm gì với đồ vật ấy, cố gắng di chuyển nó bằng ý thức. Tuy nhiên,
chúng ta nên để cho khả năng này được bộc lộ và phát triển tự nhiên tại
một thời điểm thuận lợi nào đấy, điều này sẽ rất có lợi thay vì phải tập
trung, cố gắng thúc đẩy bản ngã hay lợi dụng khả năng này để kiếm tiền.