Thứ ba, 02 Tháng 9 2014 15:44 | Đăng bởi Đình Minh
Vũ Cao
Núi đôi
Bảy năm về trước em mười bảy Anh mới đôi mươi trẻ rất làng! Xuân Dục Đoài Đông hai gánh lúa Bữa thì em tới, bữa anh sang Lối ta đi giữa hai sườn núi Đôi ngọn nên làng gọi Núi Đôi Em vẫn đùa anh: sao khéo thế Núi chồng núi vợ đứng song đôi ! Bỗng cuối mùa chiêm quân giặc tới, Ngõ chùa cháy đỏ những thân cau. Mới ngỏ lời thôi, đành lỡ hẹn, Đâu ngờ từ đó mất tin nhau. Anh vào bộ đội, lên Đông Bắc Chiến đấu quên mình, năm lại năm. Mỗi bận dân công về lại hỏi Ai người Xuân Dục Núi Đôi chăng? Anh nghĩ: quê ta giặc chiếm rồi, Trăm nghìn căm uất bao giờ nguôi… Mỗi tin súng nổ vùng đai địch Sương trắng người đi lại nhớ người. Qua mấy mùa đông anh tự nhủ: Trung du ngày tháng vẫn chờ trông Núi Đôi bốt dựng kề ba xóm Em vẫn đi về những bến sông? Náo nức bao nhiêu ngày trở lại Lệnh trên ngừng bắn anh về xuôi Hành quân qua tắt đường sang huyện Anh nghé thăm nhà thăm núi Đôi Mới đến đầu ao tin sét đánh Giặc giết em rồi , dưới gốc thông, Giữa đêm bộ đội vây đồn Thứa Em sống trung thành chết thủy chung Anh ngước nhìn lên hai dốc núi Hàng thông, bờ cỏ, con đường quen Nắng lụi bỗng dưng mờ bóng khói Núi vẫn đôi mà anh mất em! Dân chợ Phù Linh ai cũng bảo Em còn trẻ lắm, nhất làng trong Mấy năm cô ấy làm du kích Không hiểu vì sao chẳng lấy chồng? Từ núi qua thôn đường nghẽn lối Xuân Dục Đoài Đông cỏ ngút đầy Sân biến thành ao, nhà đổ chái Ngổn ngang bờ bụi, cánh dơi bay Cha mẹ dìu nhau về nhận đất Tóc bạc thương từ mỗi gốc cau, Nứa gianh nửa mái nhà che tạm Sương nắng khuây dần chuyện xót đau Em mất để làng ta sống mãi Lúa sẽ nhiều bông, bắp sẽ nhiều… Ruộng thấm mồ hôi từng nhát cuốc Làng ta rồi đẹp biết bao nhiêu! Nhưng còn núi kia anh vẫn nhớ Oán thù còn đó, anh còn đây Ở đâu cô gái làng Xuân Dục Đã chết vì dân giữa đất này Ai biết tên em thành liệt sĩ Bên những hàng tên sáng lạ lùng Nhớ nhau, anh gọi em đồng chí Một tấm lòng trong vạn tấm lòng Anh đi bộ đội sao trên mũ Mãi mãi là sao sáng dẫn đường Em sẽ là hoa trên đỉnh núi Bốn mùa thơm mãi cánh hoa thơm!
Vẻ đẹp bài thơ " Núi đôi" của Vũ Cao.-Đặng Thị Xuân Hương
Đối với bạn đọc, Vũ Cao chưa hẳn là một
nhà thơ quen thuộc như Tố Hữu, Chế Lan Viên, Xuân Diệu… Nhưng ai đã đọc “
Núi đôi” của Vũ Cao thì không thể quên những lời thơ, những suy nghĩ
rất thành thật của ông qua bài thơ.
Vũ Cao viết “Núi đôi” trong những ngày
chống Pháp. Nỗi đau của sự mất mát to lớn kết tinh, lắng đọng trong thơ
ông, nhưng nỗi đau không làm người chiến sĩ ngã gục mà từ đó họ vững
vàng hơn trong cuộc chiến đấu mới.
“Núi đôi” là một hiện thực tồn tại của
thiên nhiên, cũng là tồn tại của niềm hạnh phúc trong mối tình Xuân Dục –
Đoài Đông. “Núi đôi” mang phong vị của một bài ca dao. Câu chuyện trong
thơ mang màu sắc dân gian. Hai người yêu nhau. Tình yêu của họ gắn với
tình yêu đất nước, quê hương. Cuối một mùa chiêm quân giặc đến, người
con trai ra trận. Ngày ngừng bắn anh trở về thăm quê hương thì được tin
người con gái đã ngã xuống bên mảnh đất này. Cái chết không đến với
người chiến sĩ mà đến với người du kích ở lại. Vũ Cao viết “Núi đôi”
hình như cũng chỉ để dành riêng cho người đã ngã xuống với tất cả tấm
lòng yêu thương, nhung nhớ. Suốt bài thơ, người con trai gọi “em” xưng
“anh” như đang nói với người con gái ở quê hương
“ Bảy năm về trước em mười bảy
Anh mới đôi mươi trẻ nhất làng
Xuân Dục – Đoài Đông hai cánh lúa
Bữa thì em tới bữa anh sang”
Tình yêu của họ không biết bắt đầu từ bao giờ, nhưng nó gắn bó với cánh đồng, với đồi núi của làng quê Xuân Dục – Đoài Đông.
Có những lần, khi đùa người con gái đã nghĩ đến hạnh phúc trăm năm.
“Lối ta đi giữa hai sườn núi
Đôi ngọn nên làng gọi núi đôi
Em vẫn đùa anh sao khéo thế
Núi Chồng, núi Vợ đứng song đôi”
Những âm tiết cuối của dòng thơ “ núi,
đôi, đôi…” tượng trưng cho sự vững chắc, rắn chắc. Hai từ “ núi đôi”
, “ sánh đôi” có lẽ tượng trưng cho niềm hạnh phúc và sự đau xót lắng
đọng cùng một lúc trong một con người. Núi đôi không phải chỉ có những
lời ca ngợi tình yêu, ca ngợi những kỉ niệm êm đềm nơi đồng quê Xuân
Dục, Đoài Đông mà còn là hình ảnh đau thương của quê hương “ Ngõ chùa
cháy đỏ những thân cau” . Và ngày ngừng bắn khi hành quân qua huyện, anh
ghé “ thăm nhà, thăm núi đôi” nhưng :
“ Mới đến đầu ao tin sét đánh
Giặc giết em rồi dưới gốc thông”
Giặc giết người yêu, giết cả ước mơ,
giết chết hạnh phúc lứa đôi của anh. Biết bao đau đớn bàng hoàng đến vào
lúc anh đang “ náo nức” hy vọng nhất. Giang Nam trong “Quê hương” đã
nói lên nỗi lòng người con trai lúc ấy:
“ Không tin được dù đó là sự thật.
Giặc giết em rồi quăng mất xác
Chỉ vì em là du kích em ơi
Đau xé lòng anh chết nửa con người”
Cùng chung với nỗi đau ấy, Vũ Cao viết “
tin sét đánh” nói lên được sự thảng thốt, bàng hoàng của người chiến sĩ
khi nghe tin người yêu mất. Nhưng người chiến sĩ trong “ Núi đôi” không
gục ngã, cái chết anh dũng “ dưới gốc thông” của người yêu có làm anh
đau đớn tột độ nhưng với những suy nghĩ chân thành tha thiết, anh tự hào
“ Em sống trung thành, chết thuỷ chung”
Chính cuộc kháng chiến anh dũng này,
chính cuộc đời ngắn ngủi nhưng đẹp đẽ, trong sáng vô ngần của người yêu
đã đem lại cho anh trong nỗi nghẹn ngào có niềm kính phục ngưỡng mộ, tôn
vinh.
Nghĩ đến người yêu, anh nghĩ đến kỉ niệm
“Anh ngước nhìn lên hai dốc núi
Hàng thông, bờ cỏ con đường quen
Nắng bụi bỗng dưng mờ bóng khói
Núi vẫn đôi mà anh mất em”
Một hình ảnh tưởng như vô tình mà mang
nhiều ý nghĩa “ anh ngước nhìn” . Trước nỗi đau anh không cúi mặt, câu
thơ diễn tả nỗi niềm mất mát, tâm trạng xúc động tê tái:
“ Núi vẫn đôi mà anh mất em”
Từ tấm lòng nặng ân tình và những suy nghĩ đẹp đẽ ấy, Vũ Cao đã tìm một lời kết đẹp cho bài thơ:
“Anh đi bộ đội sao trên mũ
Mãi mãi là sao sáng dẫn đường
Em sẽ là hoa trên đỉnh núi
Bốn mùa thơm mãi cánh hoa thơm”
Câu thơ được viết ra từ một tâm hồn thi
sĩ – chiến sĩ. Hình ảnh quen thuộc “ Sao trên mũ” đã gắn bó với người
lính trong thời gian “chiến đấu quên mình năm lại năm”. “Sao trên mũ” là
hình ảnh tượng trưng cho lý tưởng, niềm tự hào chính đáng, là hướng đi
của người lính cũng là người bạn chia sẻ cùng anh nỗi buồn, giúp anh
đứng vững trong tư thế người chiến sỹ.
Lý tưởng đẹp ấy là lý tưởng anh đã chiến
đấu suốt bao năm dài, là lý tưởng mà người yêu anh đã ngã xuống vì nó.
Người yêu là người liệt sĩ của Tổ Quốc. Hình ảnh của cô gái Đoài Đông là
một bông hoa tuyệt đẹp trong suy nghĩ của anh, toả cho cuộc sống hương
vị trong lành.
“Em sẽ là hoa trên đỉnh núi.
Bốn mùa thơm mãi cánh hoa thơm”
Là một bông hoa thơm tuyệt đẹp như tâm
hồn người chiến sĩ, như cuộc đời người du kích. Tất cả những gì ở câu
thơ toả ra là một “ngôi sao” ; không phải chỉ ở trên mũ mà ở ngay trong
trái tim anh. Ánh sáng của ngôi sao, qua câu thơ truyền đến mỗi trái tim
người đọc, làm ấm lòng người.
Hình như Vũ Cao không có ý định viết cho
chúng ta, ông viết để tặng riêng cho người du kích. Bài thơ từ đầu đến
cuối vẫn giữ nguyên một giọng điệu, một giọng thơ, giọng những lời tâm
sự âu yếm với người yêu. Lúc reo vui khi nhắc đến kỉ niệm, lúc nghẹn
ngào khi nói đến nỗi đau của sự mất mát, lúc đinh ninh như một lời thề
thuỷ chung.
Dẫu nhà thơ không có ý định viết cho
chúng ta thì những tình cảm chân thành của ông, hình ảnh rất đẹp của mối
tình, cái chết của người con gái và lời kết cuối bài thơ luôn làm chúng
ta suy nghĩ. Mình phải sống như thế nào trong cuộc sống hôm nay.
Thuở còn thơ ngày hai buổi đến trường Yêu quê hương qua từng trang sách nhỏ "Ai bảo chăn trâu là khổ'' Tôi mơ màng nghe chim hót trên cao Có những ngày trốn học Đuổi bướm cạnh bờ ao Mẹ bắt được... Chưa đánh roi nào tôi đã khóc! Có cô bé nhà bên Nhìn tôi cười khúc khích...
Cách mạng bùng lên Rồi kháng chiến trường kỳ Quê tôi đầy bóng giặc Từ biệt mẹ, tôi đi Cô bé nhà bên có ai ngờ! Cũng vào du kích Hôm gặp tôi vẫn cười khúc khích Mắt đen tròn thương thương quá đi thôi! Giữa cuộc hành quân không nói được một lời Đơn vị đi qua, tôi ngoái đầu nhìn lại Mưa đầy trời mà lòng tôi ấm mãi...
Hòa bình tôi trở về đây Với mái trường xưa, bãi mía, luống cày Tôi lại gặp em Thẹn thùng nép sau cánh cửa Vẫn khúc khích cười khi tôi hỏi nhỏ Chuyện chồng con khó nói lắm anh ơi! Tôi nắm bàn tay nhỏ nhắn ngậm ngùi Em vẫn để yên trong tay tôi nóng bỏng...
Rồi hôm nay nhận được tin em Không tin được dù đó là sự thật Giặc bắn em rồi, quăng mất xác Chỉ vì em là du kích, em ơi! Đau xé lòng anh, chết nửa con người!
Xưa yêu quê hương vì có chim, có bướm Có những ngày trốn học bị đòn roi Nay yêu quê hương vì trong từng nắm đất Có một phần xương thịt của em tôi.
Thứ ba, 26 Tháng 11 2013 16:07 | Đăng bởi Hội Nhà Văn Hải Phòng
Nhà thơ Giang Nam tên thật là Nguyễn Sung, sinh năm 1929, tại Ninh Hòa (Khánh Hòa). Các tác phẩm tiêu biểu như: Tháng Tám ngày mai (1962), Quê hương (1965), Người anh hùng Đồng Tháp (1969), Vầng sáng phía chân trời (NXB Văn học Giải phóng TP.HCM 1975), Hạnh phúc từ nay (NXB Tác phẩm mới Hà Nội 1978), Thành phố chưa dừng chân (NXB Tác phẩm mới Hà Nội 1985), Rút từ sổ tay chiến tranh (truyện ngắn và ký, NXB Văn nghệ TP.HCM 1987), trường ca Sông Dinh mùa trăng khuyết…
Trải qua mấy chục năm hoạt động cách
mạng và thơ ca, ông được trao một số giải thưởng cao quý như: Giải ba về
truyện ngắn của báo Thống Nhất năm 1960, Giải nhì về thơ tạp chí Văn
Nghệ năm 1961, Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật.
Giang Nam
Quê Hương
Thuở còn thơ ngày hai buổi đến trường
Yêu quê hương qua từng trang sách nhỏ
“Ai bảo chăn trâu là khổ?”
Tôi mơ màng nghe chim hót trên cao
Những ngày trốn học
Đuổi bướm cầu ao
Mẹ bắt được
Chưa đánh roi nào đã khóc!
Có cô bé nhà bên
Nhìn tôi cười khúc khích…
Cách mạng bùng lên
Rồi kháng chiến trường kỳ
Quê tôi đầy bóng giặc
Từ biệt mẹ, tôi đi
Cô bé nhà bên (có ai ngờ)
Cũng vào du kích
Hôm gặp tôi vẫn cười khúc khích
Mắt đen tròn (thương quá đi thôi)
Giữa cuộc hành quân không nói được một lời
Đơn vị đi qua, tôi ngoái đầu nhìn lại
Mưa đầy trời nhưng lòng tôi ấm mãi…
Hòa bình tôi trở về đây
Với mái trường xưa, bãi mía, luống cày
Lại gặp em
Thẹn thùng nép sau cánh cửa
Vẫn khúc khích cười khi tôi hỏi nhỏ
Chuyện chồng con (khó nói lắm anh ơi!)
Tôi nắm bày tay nhỏ nhắn ngậm ngùi
Em vẫn để yên trong tay tôi nóng bỏng
Hôm nay nhận được tin em
Không tin được dù đó là sự thật
Giặc bắn em rồi, quăng mất xác
Chỉ vì em là du kích em ơi!
Đau xé lòng tôi, chết nửa con người…
Xưa quê hương vì có chim, có bướm
Có những ngày trốn học vị đòn, roi
Nay yêu quê hương vì trong từng nắm đất
Có một phần xương thịt của em tôi.
Nguồn trích dẫn bài thơ “ Thơ Việt nam 1945-1975”
1.Bài thơ Quê hương chính là bài thơ
đã đạt giải nhì về thơ của Tạp chí Văn nghệ. Theo Hoài Thanh,
người có mặt trong BGK cho biết thì lẽ ra bài thơ đạt giải
nhất, nhưng lại có quan điểm không cho giải, hoặc chỉ khuyến
khích vì bài thơ dù hay, nhưng bi luỵ không cổ vũ được phong
trào chiến đấu giải phóng miền Nam lúc ấy. Cuối cùng, sau
tranh luận mãi và BGK quyết định giải pháp trung dung, trao tặng
giải nhì cho tác phẩm này.
2. Nhân vật “cô bé nhà bên” là nhân
vật có thật và không chết như trong bài thơ. Đó chính là phu
nhân của nhà thơ Bà Phạm Thị Triều, nguyên mẫu của “cô bé nhà bên”.
Trước đây trong hgoatj động cách mạng ông bà yêu nhau một thời
gian khá dài, khi ông có tên trong đoàn sĩ quan liên bộ đình chiến vừa
thành lập sắp lên đường ra Bình Định tập trung để chuẩn bị cho việc ký
kết Hiệp định Genevơ; tổ chức mới gợi ý để ông bà làm đám cưới. Ở với
nhau được hai đêm thì ông lên đường ra vùng tự do, Bà từ căn cứ sinh cô
con gái và trở về Nha Trang hoạt động. Năm 1959.trong một đêm, địch
ập vào bắt mẹ con bà giải đi, dù lúc đó đứa con gái đầu còn đỏ hỏn.
Theo lời kể của nhà thơ, cũng vào
một buổi tối của năm 1960, ông được cấp trên thăm hỏi động viên rồi
thông báo tin dữ: vợ và con gái ông đã bị địch giết hại trong nhà tù Phú
Lợi, Sài Gòn.
Đau đớn đến bàng hoàng, ngay đêm hôm đó,
tại căn cứ bí mật của Tỉnh ủy Khánh Hoà đóng dưới chân núi Hòn Dù phía
tây thành phố Nha Trang, bên ngọn đèn thắp bằng nhựa cây, trong xúc cảm
của niềm đau đớn tột cùng ông đã viết nên bài thơ “Quê hương” như vẽ nên
một sự thật đau xót: Giặc bắn em rồi quăng mất xác. Chỉ vì em là du
kích em ơi. Đau xé lòng anh chết nửa con người… Sau này bài thơ đoạt
giải nhì giải thưởng thơ năm 1960-1961 của Tạp chí Văn nghệ và đã trở
thành một dấu mốc trong cuộc đời ông.
Nhưng năm 1962, sau 3 năm bị bắt, vợ và
con gái được thả về do không tìm ra căn cứ kết tội. Sau giải phóng
1975, ông bà sống bên nhau trong căn nhà nhỏ số 46, đường Yersin, thành
phố Nha Trang. Và bà đã ra đi mãi mãi vào tháng 4-2013 ở tuổi
82. Còn nhà thơ đã 83 tuổi nhưng vẫn cặm cụi đánh vật với chữ
nghĩa, những hội thảo văn chương, những trang hồi ký viết dở…
Quê hương tôi có con sông xanh biết Nước gương trong soi tóc những hàng tre Tâm hồn tôi là những buổi trưa hè Toả nẵng xuống giòng sông lấp loáng
Chẳng biết nước có giử ngày giử tháng giử bao nhiêu kỹ niệm của giòng trôi Hỡi con sông đã tắm cả đời tôi Tôi giử mãi mối tình mới mẽ
Sông của quê hương, sông của tuổi trẻ Sông của miền Nam nước Việt thân yêu Khi bờ tre ríu rít tiếng chim kêu Khi mặt nước chập chờn con cá nhảy
Bạn bè tôi tụm năm tụm bảy Bầy chim non khua lội bên sông Tôi giơ tay ôm nước vào lòng Sông mỡ nước ôm tôi vào dạ
Chúng tôi lớn lên mỗi người mổi ngã Kẻ sớm khuya chài lưới bên sông Kẻ cuốc cày mưa nắng ngoài đồng Tôi cầm súng xa nhà đi kháng chiến
Nhưng lòng tôi như mưa người gió biển Lại trở về lưu luyến bên sông ................................................... Hôm nay sống trong lòng miền Bắc Sờ lên ngực nghe trái tim thầm nhắc Hai tiếng Quê Hương hai tiếng miền Nam
Tôi ngớ không nguôi ánh nắng màu vàng Tôi quên sao được sắc trời xanh biếc Tối nhờ cả những người không quên biết Những buổi trưa tôi đứng dưới hàng cây Bổng nghe dâng một nổi tràn đày Hình ảnh con sông quê mát rượi Lai láng chảy hồn tôi như suối tưới Quê hương ơi tình tôi cũng như sông Tình Băc nam tuôn chãy một giòng Không ghềnh thác nào ngăn cản được Tôi lại trở về nơi tôi hằng mơ ước Tôi sẽ trờ về sông nước của quê hương Tôi sẽ trở về sông nước của tình thương
TTO - Nhà thơ Tế Hanh - tác giả
của bài thơ Nhớ con sông quê hương nổi tiếng đã qua đời lúc 12g ngày hôm
nay (16-7) tại Hà Nội sau nhiều năm chống chọi với căn bệnh xuất huyết
não.
TTO - Nhà thơ Tế Hanh - tác giả của bài thơ Nhớ con sông quê hương nổi tiếng đã qua đời lúc 12g ngày hôm nay (16-7) tại Hà Nội sau nhiều năm chống chọi với căn bệnh xuất huyết não.
Tế Hanh tên thật là Trần Tế Hanh, sinh ngày 20-6-1921,
tại thôn Đông Yên, xã Bình Dương, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi. Thuở
nhỏ học trường làng, trường huyện sau ra học tại trường Quốc học Huế. Tế
Hanh được biết đến nhiều với các tác phẩm như Nhớ con sông quê hương, Quê hương - hai bài thơ từng được đưa vào chương trình học phổ thông.
Năm 1947, Tế Hanh làm việc trong Ban phụ trách Trường
trung học bình dân Trung bộ, năm 1948, ông ở trong Ban phụ trách liên
đoàn văn hóa kháng chiến Nam Trung bộ ủy viên thường vụ chi hội Văn nghệ
Liên khu V.
Năm 1957 khi thành lập Hội Nhà văn Việt Nam, ông là Ủy
viên thường vụ Hội khóa I, II, ủy viên thường vụ Hội Liên hiệp Văn học
nghệ thuật Việt Nam (1963), tham gia Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam
nhiều khóa, giữ các chức vụ: Trưởng ban đối ngoại (1968), Chủ tịch Hội
đồng dịch thuật (1983), Chủ tịch Hội đồng thơ (1986).
Ông được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật năm 1996.
Tế Hanh ra đi, giờ đây, những thi sĩ của "Thi nhân Việt Nam" chỉ còn lại mỗi Xuân Tâm!
Ông
là một trong những nhà thơ thành công trong cả phong trào Thơ mới và
sau cách mạng tháng Tám với những bài thơ tinh tế và giàu cảm xúc về
tình yêu quê hương đất nước.
Ông sáng tác thơ từ sớm và đã đứng trong phong trào Thơ mới với tập Nghẹn ngào
giành giải khuyến khích của Tự lực văn đoàn. Tham gia Việt Minh từ
tháng 8 năm 1945, Tế Hanh đã trải qua các công tác văn hóa, giáo dục ở
Huế, Đà Nẵng, là Ủy viên giáo dục trong ủy ban lâm thời thành phố Đà
Nẵng sau khi Cách mạng tháng Tám thành công.
Trong Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh - Hoài Chân đã ca ngợi ông "Tế
Hanh là một người tinh lắm, Tế Hanh đã ghi được đôi nét rất thần tình
về cảnh sinh hoạt chốn quê hương. Người nghe thấy được cả những điều
không hình sắc, không thanh âm như mảnh hồn làng, trên cánh buồm giương,
như tiếng hát của hương đồng quyến rũ, con đường quê nho nhỏ. Thơ Tế
Hanh đưa ta vào một thế giới rất gần gũi..."
Nhà phê bình văn học Vương Trí Nhàn đã từng giành nhiều tình cảm khi viết về ông như: "Trong
thơ Việt Nam tiền chiến, ông chưa bao giờ tạo được một sự hấp dẫn lạ
lùng như Hàn Mặc Tử hoặc Nguyễn Bính, cũng không có lúc nào làm chủ thi
đàn như Thế Lữ hoặc Xuân Diệu. Nhưng ông vẫn có chỗ của mình. Tập Nghẹn
ngào từng được giải thưởng Tự Lực văn đoàn. Từ sau 1945, ông vẫn làm thơ
đều đều, những tập thơ mỏng mảnh, giọng thơ không có gì bốc lên nồng
nhiệt, nhưng được cái tình cảm hồn nhiên, và tập nào cũng có một ít bài
đáng nhớ, khiến cho ngay sau Tố Hữu, Chế Lan Viên, Xuân Diệu người ta
nghĩ ngay đến Tế Hanh." (Vương Trí Nhàn, Cây bút đời người).
Những tập thơ tiêu biểu của ông bao gồm: Hoa niên (1944); Tập thơ tìm lại (1945 ); Hoa mùa thi (1948); Nhân dân một lòng (1953); Lòng miền Nam (1956 ); Gửi miền Bắc (1958); Tiếng sóng (1960); Bài thơ tháng bảy (1961), Hai nửa yêu thương (1963); Khúc ca mới (1966); Đi suốt bài ca (1970), Câu chuyện quê hương (1973); Theo nhịp tháng ngày (1974), Giữa những ngày xuân (1977), Con đường và dòng sông (1980); Bài ca sự sống (1985), Tế Hanh tuyển tập (1987); Thơ Tế Hanh (1989 ); Vuờn xưa (1992); Giữa anh và em (1992); Em chờ anh (1993 ); Tuyển tập Tế Hanh (tập II, 1997).
Quê Hương
Làng tôi ở vốn làm nghề chài lướiNước bao vây cách biển
nửa ngày sôngKhi trời trong, gió nhẹ sớm mai hồng Dân trai tráng giong
thuyền đi đánh cá
Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mãPhăng mái chèo
mạnh mẽ vượt trường giangCánh buồm giương to như mảnh hồn làngRướn thân
trắng bao la thâu góp gió
Ngày hôm sau ồn ào trên bến đỗKhắp dân làng lũ lượt kéo
ghe vềNhờ ơn trời biển lặng cá đầy gheNhững con cá tươi ngon thân bạc
trắng
Dân chài lưới làn da ngăm rám nắngCả thân hình nồng thở
vị xa xămChiếc thuyền im bến mỏi trở về nằmNghe chất muối thấm dần
trong thớ vỏ.
Nay xa cách lòng tôi luôn tưởng nhớMàu nước xanh, cá
bạc, cánh buồm vôiThoáng con thuyền rẽ sóng chạy ra khơiTôi thấy nhớ cái
mùi nồng mặn quá!
Nhớ con sông quê hương
Quê hương tôi có con sông xanh biếc Nước gương trong
soi tóc những hàng tre Tâm hồn tôi là một buổi trưa hè Tỏa nắng xuống
lòng sông lấp loáng.
Chẳng biết nước có giữ ngày, giữ tháng Giữ bao nhiêu kỉ
niệm giữa dòng trôi? Hỡi con sông đã tắm cả đời tôi! Tôi giữ mãi mối
tình mới mẻ Sông của quê hương, sông của tuổi trẻ Sông của miền Nam nước
Việt thân yêu
Khi bờ tre ríu rít tiếng chim kêu Khi mặt nước chập
chờn con cá nhảy Bạn bè tôi tụm năm tụm bảy Bầy chim non bơi lội trên
sông Tôi giơ tay ôm nước vào lòng Sông mở nước ôm tôi vào dạ
Chúng tôi lớn lên mỗi người mỗi ngả Kẻ sớm khuya chài
lưới bên sông Kẻ cuốc cày mưa nắng ngoài đồng Tôi cầm súng xa nhà đi
kháng chiến Nhưng lòng tôi như mưa nguồn, gió biển Vẫn trở về lưu luyến
bên sông
* * *
Tôi hôm nay sống trong lòng miền Bắc Sờ lên ngực nghe
trái tim thầm nhắc Hai tiếng thiêng liêng, hai tiếng "miền Nam"Tôi nhớ
không nguôi ánh nắng màu vàng Tôi quên sao được sắc trời xanh biếc Tôi
nhớ cả những người không quen biết...
Có những trưa tôi đứng dưới hàng cây Bỗng nghe dâng cả
một nỗi tràn đầy Hình ảnh con sông quê mát rượi Lai láng chảy lòng tôi
như suối tưới Quê hương ơi! Lòng tôi cũng như sông Tình Bắc Nam chung
chảy một dòng Không ghềnh thác nào ngăn cản được
Tôi sẽ lại nơi tôi hằng mơ ước Tôi sẽ về sông nước của quê hương Tôi sẽ về sông nước của tình thương...
Lời bài hát gốc MyLyric - Lời bài hát Got a black magic woman Got a black magic woman I’ve got a black magic woman Got me so blind I can’t see That she’s a black magic woman She’s trying to make a devil out of me
Don’t turn your back on me baby Stop messing round with your tricks Don’t turn your back on me baby You just might pick up my magic sticks
Got your spell on me baby Got your spell on me baby Yes you got your spell on me baby Turning my heart into stone I need you so bad , magic woman I can’t leave you alone .
Lời dịch - Lời ViệtCó một người phụ nữ với phép thuật hắc ám Có một người phụ nữ với phép thuật hắc ám Tôi có một người phụ nữ với phép thuật hắc ám Làm cho tôi mù lòa, tôi không thể thấy được Rằng cô ta là một phụ nữ với phép thuật hắc ám Cô ta đang cố biến tôi thành một con quỉ
Đừng quay lưng lại với tôi, em ơi Hãy ngừng làm rối tung mọi chuyện với mấy trò của em Đừng quay lưng lại với tôi, em ơi Em chỉ cần nhặt những cây gậy phép của em lên thôi
Làm cho tôi dính phép thuật của em rồi, em ơi Em ám bùa ngải của em lên tôi rồi, em ơi Vâng, em ám bùa chú của em lên tôi rồi Làm trái tim tôi hóa đá Tôi cần em biết chừng nào, người phụ nữ ma thuật Tôi không thể để em một mình (Tôi không thể rời xa em)
Vào năm 1966, chuyến vượt ngục thành công khỏi nhà tù
Wormwood Scrubs ở London, Anh của điệp viên người Anh làm việc cho tình
báo Liên Xô George Blake đã gây chấn động dư luận. George Blake còn đào
thoát an toàn đến Liên Xô không phải nhờ sự giúp đỡ của tình báo Liên Xô
mà là của 3 bạn tù bị giam giữ với ông.
George Blake.
George
Blake sinh năm 1922 tại thành phố Rotterdam của Hà Lan trong một gia
đình doanh nhân có cha là người Ai Cập mang quốc tịch Anh và mẹ là người
Hà Lan. Năm 1940, khi Đức Quốc xã xâm chiếm Hà Lan, Blake tham gia
chiến đấu trong một tổ chức kháng chiến mật. Năm 1942, khi phong trào
kháng chiến ở Hà Lan bị đàn áp dữ dội, Blake tìm cách đến Anh rồi chẳng
bao lâu sau được Cục Các hành động đặc biệt (SOE) tuyển mộ. Sau khi được
huấn luyện, ông được tung về hoạt động trong lãnh thổ Hà Lan bị chiếm
đóng để móc nối, xây dựng các tổ chức du kích và cả tổ chức phá hoại
nhắm vào các căn cứ quân sự của Đức Quốc xã.
Cũng giống nhiều điệp viên SOE khác, khi chiến tranh thế giới
kết thúc, theo nguyện vọng và khả năng, George Blake được nhận vào làm
việc cho MI-6, Tổng cục Tình báo của Anh và trở thành một điệp viên Anh
nằm vùng tại các khu vực ở Đức do Hồng quân Liên Xô chiếm đóng. Năm
1951, khi chiến tranh Triều Tiên bùng nổ, ông được điều động đến làm
việc tại chi nhánh của MI-6 ở thành phố Seoul. Nhưng chỉ vài tháng sau, ông bị một toán đặc vụ của Bắc Triều Tiên bắt cóc đưa về Bình Nhưỡng giam giữ.
Sau 3 năm bị giam giữ, nhận thức của Blake hoàn toàn thay đổi và
đã biến ông thành một người theo chủ nghĩa Mácxít. Thế nhưng tình báo
Anh lại không hề nghi ngờ về sự thay đổi này của Blake nên khi ông được
phóng thích vào năm 1953, MI-6 lại điều động ông đến làm việc tại
Berlin, Đức dưới vỏ bọc của một điệp viên hai mang và cả ba mang.
Trở thành điệp viên nội ứng làm việc cho tình báo Liên Xô từ
năm 1954, George Blake đã trao cho KGB danh sách hàng trăm điệp viên
phương Tây hoạt động tại các quốc gia Đông Âu, trong đó có danh tính của
42 điệp viên MI-6. Tất cả những điệp viên này sau đó đều bị bắt giữ và
bị hành hình.
Một trong những chiến công lớn của điệp viên nội ứng George
Blake là kịp thời mật báo cho tình báo Liên Xô về việc Cơ quan Tình báo
trung ương Mỹ (CIA) và MI-6 triển khai một điệp vụ có mật danh "Ánh
trăng" đào một đường hầm vào tận khu vực Đông Berlin để cài đặt thiết bị
nghe lén các cuộc điện đàm, truyền và nhận các thông tin mật của Bộ chỉ
huy Hồng quân Liên Xô ở Đông Đức và các cơ quan của Chính phủ Đông Đức.
Để bảo toàn bí mật cho Blake, KGB làm như việc khám phá là một sự tình
cờ ngẫu nhiên. Thất bại của điệp vụ này đã khiến cho CIA và MI-6 phải
ngậm đắng nuốt cay và hoàn toàn không nghi ngờ về hoạt động nội gián của
Blake.
Cuối cùng rồi số phận đã không mỉm cười với George Blake khi
một điệp viên phản bội của tình báo Ba Lan tên Michael Goleniewski đào
thoát sang phương Tây vào tháng 8/1959 và khai ra Blake. Bị bắt giữ về
tội làm điệp viên nội gián cho tình báo Liên Xô, vào tháng 3/1961, ông
bị tuyên án 42 năm tù giam. Đây là bản án cao nhất trong lịch sử ngành
tòa án Anh được phán quyết cho một điệp viên bội phản.
Thụ án tại nhà tù Wormwood Scrubs ở ngoại ô London, nơi chuyên
giam giữ tù chính trị, George Blake nhận được sự ái mộ của nhiều tù nhân
trong đó phải kể đến Michael Randle, Pat Pottle và Sean Bourke là thành
viên của Ủy ban 100 phi hạt nhân, một tổ chức phản chiến chống sự hiện
diện của các căn cứ quân sự Mỹ có chứa vũ khí hạt nhân trên lãnh thổ
Anh.
Được sự chấp thuận của Blake, cả 3 lên kế hoạch giúp ông đào
thoát khỏi nhà tù Wormwood. Theo kế hoạch thì Michael Randle và Pat
Pottle có nhiệm vụ liên hệ với các thành viên tổ chức của mình ở bên
ngoài để mua điện đàm, thuê nhà (để Blake cư ngụ), làm giấy thông hành
giả và cả chuẩn bị để làm thay đổi màu da của Blake nhằm biến ông thành
một người Arập.
Khi công việc chuẩn bị đã hoàn thành, cả nhóm quyết định sẽ tổ
chức cuộc đào thoát cho Blake vào tối thứ bảy ngày 12/8/1966. Vào thời
điểm đó, lợi dụng lúc các nhân viên quản giáo hay tập trung xem truyền
hình, George Blake thoát ra ngoài. Trước khi đi Blake còn để một hình
người của ông làm bằng ván ép tại cửa sổ để đánh lừa sự quan sát của các
nhân viên quản giáo. Ông nhảy xuống một mái hiên nhỏ, vượt qua một hàng
rào rồi lại nhảy xuống một hành lang.--PageBreak--
Sau đó ông lại phải leo lên một bức tường cao chừng 1,5m trước
khi nhảy xuống một đường mòn nhỏ bên ngoài trại giam. Tại đây một chiếc
xe hơi Austin
đang đợi sẵn để đưa về nơi ẩn nấp. Tại nơi trú ngụ mới, Blake được bôi
một loại hóa chất có tên gọi meladin để da có màu sẫm. Cứ từ 5 - 7 ngày,
Blake lại được đổi chỗ ở một lần để tránh sự theo dõi của cảnh sát.
Trong lúc đó thông tin về vụ vượt ngục thành công của George
Blake đã gây chấn động dư luận. Nhiều câu chuyện thêu dệt chung quanh vụ
vượt ngục đã khiến Chính phủ Anh phải cách chức Giám đốc
nhà tù Wormwood Scrubs. Trong khi đó do nghi vấn vụ vượt ngục thành công
của George Blake có sự tiếp tay và đạo diễn của Sứ quán Liên Xô tại Anh
nên cảnh sát và phản gián Anh tập trung theo dõi mọi động tĩnh của tất
cả các nhân viên sứ quán mà không hề nghi ngờ về vai trò của 3 người bạn
tù.
Đến tháng 11/1966, Michael Randle, Pat Pottle và Sean Bourke
mãn hạn tù và liền lên kế hoạch đưa George Blake trốn khỏi nước Anh để
đến một quốc gia XHCN Đông Âu. Cả 3 tiến hành thiết kế một chiếc gầm đặc
biệt bên dưới một chiếc xe nhà kéo, là loại xe mà người dân Anh thường
sử dụng để đưa cả gia đình đi du lịch mà không cần phải lưu trú trong
khách sạn. Đó là nơi sẽ chứa George Blake trong suốt cuộc hành trình đào
thoát khỏi nước Anh. Vào ngày 17/12/1966, Michael Randle đưa cả gia
đình gồm vợ và 3 con đi du lịch đến Pháp và Đức bằng xe nhà kéo. Và
chuyến du lịch đặc biệt đã đưa Blake đào thoát an toàn đến Đông Berlin và sau đó được đưa ngay về Moskva, nơi ông sống suốt quãng đời còn lại của mình.
Mãi đến năm 1998, để làm sáng tỏ dư luận chung quanh vụ vượt
ngục của George Blake, Michael Randle đã cho xuất bản một cuốn sách có
tiêu đề "Chúng tôi đã giúp cho George Blake vượt ngục như thế nào?".
Cuốn sách này khi được phát hành đã khiến cho chính phủ và nhất là tình
báo Anh phải bối rối vì lâu nay họ vẫn cho rằng chính tình báo Liên Xô
đã tổ chức vụ vượt ngục trên mà không hề nghi ngờ đó là hành động của 3
bạn tù người Anh là Michael Randle, Pat Pottle và Sean Bourke Văn Hòa (theo BBC History Magazine)
'Kẻ phản bội' lừng danh trong thế giới tình báo
08:20 09/03/2013
Số phận của các điệp viên luôn là điều bí ẩn, đôi khi
có thể viết thành những thiên tiểu thuyết. Đứng trên ranh giới này, đó
là kẻ phản bội, nhưng đối với dân tộc khác, đó lại là một anh hùng. Và
George Blake là người như vậy.
Tháng 12/1968, tờ Izvestia của Nga tung ra một
loạt bài cáo buộc các nhà báo Anh hoạt động gián điệp tại Nga, trong đó
tiết lộ cả tên và mật danh của các điệp viên này. Vụ việc đã dấy lên
làn sóng phản đối quyết liệt tại xứ sở sương mù, khiến quan hệ song
phương Nga - Anh ít nhiều bị ảnh hưởng.
Thực tế, trong suốt thời gian diễn ra Thế chiến II, BBC đã
gửi đi các tin nhắn được mã hóa cho các nhân viên mật nằm sau tuyến lửa
của kẻ thù, trong đó có một số nhà báo hoạt động cho cơ quan Tình báo
đối ngoại Anh MI6 để đẩy mạnh công tác tuyên truyền.
Điệp viên huyền thoại Georege Blake
Chương trình có tên Radio 4's Document khẳng
định, các tài liệu mật bị tiết lộ trên là chính xác, nó cho biết các
điệp viên của Anh sử dụng nhà báo để thu thập thông tin và hỗ trợ các
nhân viên hoạt động ở nước ngoài như thế nào. Các nhà báo bị tiết lộ
trong tài liệu trên bao gồm David Astor - nhà biên tập của The Observer;
Mark Arnold-Foster - cây bút hàng đầu của The Guardian; Edward Crankshaw - làm việc cho cả The Times và The Observer; Lord Hartwell của tờ The Daily Telegraph; Roy Pawley - người quản lý biên tập của tờ Daily Mail. Tất cả các danh tính bị tiết lộ này đều được cho có mối liên hệ mật thiết với MI6.
Và hãng tin BBC cho rằng, các thông tin bị rò rỉ năm 1968 là do “kẻ phản bội” trứ danh - điệp viên người Anh George Blake thực hiện.
Sinh ra ở Hà Lan trong gia đình có bố là người gốc Do Thái, năm 17 tuổi, chàng trai trẻGeorge
Blake tham gia vào hàng ngũ quân du kích chống lại Đức Quốc xã, rồi bí
mật sang Anh đoàn tụ với gia đình đã kịp di tản trước đó. Ở Anh, Blake
được đào tạo làm lính thủy đặc nhiệm, rồi ông trở thành sĩ quan hải quân
và từ đó, được nhận vào làm trong cơ quan Tình báo MI6.
Năm 1948, Blake được phái sang Seoul làm nhiệm vụ. Khi
chiến tranh Triều Tiên bùng nổ, Blake bị Triều Tiên bắt giữ. Chính trong
thời gian này, “kẻ phản bội” Blake đã nghiền ngẫm và thấm nhuần tư
tưởng của chủ nghĩa Marx, kết hợp với sự tác động của ý thức hệ Cộng sản
tiến bộ vốn tiếp thu được từ người anh họ Henri Curiel, một đảng viên
Cộng sản Ai Cập. Sau khi trở về Anh, Blake được MI6 cử sang nằm vùng tại
địa bàn Berlin nhằm tuyển mộ các cán bộ Đông Âu làm điệp viên 2 mang.
Với vỏ bọc này, ông đã tiếp xúc thành công với tình báo Liên Xô, nhưng
lại bị hệ tư tưởng cộng sản “thức tỉnh”.
Từ đó, Blake cộng tác với tình báo Xô Viết, trở thành
điệp viên nội gián đơn tuyến trực thuộc Ủy ban An ninh Nhà nước Liên Xô
(KGB) cài cắm ở Anh. Các thông tin do Blake cung cấp đã giúp Liên Xô bắt
giữ gần 400 điệp viên MI6 nằm vùng đang hoạt động trên lãnh thổ nước
này và khu vực Đông Âu. Một trong những nguồn tin có giá trị nhất do “kẻ
phản bội” tiết lộ là về tuyến đường hầm bí mật do tình báo Anh và Mỹ
xây dựng bên dưới đường biên giới phân chia Berlin (Đức) nhằm nghe trộm
các cuộc điện đàm của Hồng quân Xô Viết đồn trú tại Đông Berlin.
Năm 1961, Blake bị lộ và vụ xử điệp viên này đã gây
chấn động nước Anh. Blake đã hoàn toàn bất hợp tác với chính quyền Anh
nên phải nhận án 42 năm tù giam. Tuy nhiên, cuộc “vượt ngục” thành công
để sang Nga đã khiến cuộc đời hoạt động của ông thêm huyền bí. Blake
luôn tâm niệm rằng, cuộc đời của một điệp viên là một bộ phim, nhưng nó
trớ trêu và nghiệt ngã. Nhưng những diễn viên thực thì được nhận phần
thưởng vì vai diễn tốt, còn những điệp viên giỏi nhất là những người mà
không ai biết gì về họ cả.
Với những đóng góp của mình, Đại tá Blake của KGB trước
đây và Cục tình báo Đối ngoại (SVR) hiện nay được tặng nhiều phần
thưởng cao quý, gồm Huân chương Lenin, Huân chương Cờ Đỏ, Huân chương
Chiến tranh Vệ quốc hạng Nhất, Huân chương Vì tình hữu nghị giữa các dân
tộc, Huân chương Chiến sĩ dũng cảm, Huy chương Nhân viên Phản gián danh
dự và Huy chương Vì sự nghiệp an ninh hạng Nhất. Ngoài ra, người điệp
viên huyền thoại còn được Tổng thống Nga Vladimir Putin trao tặng Huân
chương Danh dự của Tổng thống vào cuối năm 2007, phần thưởng dân sự cao
nhất ở Liên bang Nga nhân dịp ông tròn 85 tuổi.
Thanh Hương
Theo Infonet
George Blake: Điệp viên thể hiện giá trị cả đời
Thứ Tư, 01/01/2014 10:50
Với một chiếc que sắt và sợi dây
thừng làm thang, George Blake, người vừa bị kết án 42 năm tù giam vì tội
làm gián điệp, đã thoát ra ngoài bức tường cao sừng sững của nhà tù
Wormwood Scrubs (Anh), biến mất vào trong bóng tối. Tới nay, Blake vẫn
có những đóng góp tích cực cho ngành tình báo đối ngoại của Nga, nhất là
trong lĩnh vực huấn luyện điệp viên.
Một phút trầm tư của người cựu điệp viên.
66
năm trước, George Blake rời Rotterdam (Hà Lan) đến Luân Đôn (Anh), sau
đó gia nhập lực lượng hải quân của xứ sở sương mù. Nhờ khả năng tuyệt
vời về ngoại ngữ, trong suốt cuộc Chiến tranh Thế giới lần thứ II, Blake
đã được mời tham gia nhiều điệp vụ, trong đó có việc tung điệp viên vào
những khu vực quân Đức chiếm đóng ở Hà Lan. Sau Chiến tranh Thế giới
lần thứ II, Blake được cơ quan tình báo bí mật Anh (SIS, thường được
biết dưới cái tên MI6) tuyển dụng và đánh đi Hamburg để xây dựng mạng
lưới điệp viên ở Đức. Tuy nhiên, sự nghiệp của Blake bắt đầu phát triển
từ khi Blake được chuyển sang Hàn Quốc công tác dưới lốt phó lãnh sự Mỹ
tại Xơun. Đến Hàn Quốc được vài tháng, Blake bị quân đội CHDCND Triều
Tiên bắt làm tù binh (lúc này Chiến tranh Triều Tiên đang diễn ra).
Trong thời gian bị giam giữ, Blake có điều kiện tiếp xúc với những tác
phẩm của Các Mác, đặt nền móng cho bước chuyển về tư tưởng và sự hợp tác
với tình báo xã hội chủ nghĩa.
Nhà tù Wormwood Scrubs (Anh) nơi George Blake từng bị giam giữ.
Năm
1953, Blake được thả tự do và trở về Anh như một người anh hùng. Không
một sự nghi ngờ, MI6 bổ nhiệm Blake làm phó phòng Y, đảm nhiệm việc giải
mã những bản chặn thu điện thoại các quan chức ngoại giao và sĩ quan
Hồng quân Liên Xô ở châu Âu. Năm 1955, Blake sang Đức phụ trách công tác
tuyển mộ điệp viên Xô viết làm việc cho tình báo Anh. Nhưng song song
với việc thực thi nhiệm vụ trên giao, Blake đã chuyển cho phía Liên Xô
những thông tin chi tiết về 400 điệp viên MI6 hoạt động ở Đức. Không chỉ
có vậy, Blake còn cung cấp cho KGB tin tình báo tuyệt mật về việc cơ
quan an ninh Mỹ và Anh phối hợp đào đường hầm ở Béclin để phục vụ cho
việc nghe trộm thông tin từ Bộ tư lệnh Liên Xô đóng trên đất Đức kể từ
khi Chiến tranh Thế giới lần thứ 2 kết thúc. Nhờ có nó, KGB đã tương kế
tựu kế cho tình báo Mỹ và Anh ăn hàng đống tin giả trong thời gian dài.
George
Blake (phải) cùng điệp viên KGB Kim Philby trong một buổi đi chơi ở
ngoại ô Mátxcơva sau khi Blake trốn thoát khỏi nhà tù của Anh năm 1966.
Năm
1959, sĩ quan tình báo Ba Lan, Michael Goleniewski thông báo cho CIA
biết về hoạt động của gián điệp Liên Xô ở Anh. Thông tin này lập tức
được chuyển cho cơ quan an ninh Anh (MI5). Hậu quả là hàng loạt điệp
viên Liên Xô như: Gordon Lonsdale, Harry Houghton, Peter Kroger và cả
George Blake bị sa lưới. Blake bị buộc tội đã cung cấp thông tin tình
báo, giúp KGB lật tẩy 42 điệp viên MI6 đang hoạt động tại các nước thuộc
phe xã hội chủ nghĩa. Nhưng theo giới truyền thông Mỹ thì con số điệp
viên Anh bị phơi áo bởi Blake lên tới hàng trăm và những tổn thất do
Blake gây ra là không thể đong đếm.
Năm
1961, Blake bị đưa ra tòa, nhận mức án 42 năm tù giam. Năm năm sau,
dưới sự trợ giúp của 3 người bạn cùng buồng giam là: Pat Pottle, Michael
Randle và Sean Bourke, Blake đào thoát thành công khỏi nhà tù Wormwood
Scrubs ở phía bắc Luân Đôn. Một chiến dịch truy bắt Blake lập tức được
mở, nhưng điệp viên hai mang này vẫn bặt vô âm tín. Trên thực tế, Blake
đã chạy sang Liên Xô. Với những chiến công đã lập được, Blake được phong
luôn hàm Đại tá, bắt đầu cuộc sống mới. Sau khi Liên Xô sụp đổ, một số
người kiến nghị trục xuất Blake, nhưng sau đó mấy tháng quan điểm này bị
bác bỏ. Ngày 12/11/2007, nhân kỉ niệm ngày sinh thứ 85 của Blake, đích
thân Tổng thống Nga khi đó là V. Putin đã đọc lời chúc mừng và trao tặng
“Huân chương Hữu nghị” nhằm ghi nhận những công lao đóng góp của lão
điệp viên này. Hiện nay, Blake vẫn sống ở Mátxcơva và không bao giờ nhận
mình là kẻ phản bội bởi ông chưa bao giờ cảm thấy mình là người Anh.
Tuy đã ngoài bát tuần nhưng Blake vẫn có những đóng góp tích cực cho
ngành tình báo đối ngoại của Nga, nhất là trong lĩnh vực huấn luyện điệp
viên. Minh Thành (Tổng hợp)
Một cựu điệp viên Xô viết thắng kiện Chính phủ Anh
TPCN - Cựu điệp viên Xô viết George Blake,
người mở đầu sự nghiệp trong hàng ngũ tình báo Anh nhưng về sau chuyển
sang hàng ngũ tình báo Xô viết, vừa thắng kiện Chính phủ Anh tại Tòa án
châu Âu về quyền con người có trụ sở tại Strasburg nước Đức.
George Blake
George Blake
kiện nhà cầm quyền Anh về tội đã cấm ông nhận khoản tiền nhuận bút mà lẽ
ra ông phải được hưởng khi viết cuốn hồi ký có nhan đề “Không có sự
lựa chọn khác” (“No other way”) xuất bản tại Anh năm 1990.
Trong cuốn hồi ký này Blake kể về những năm tháng ông làm việc tại cơ quan tình báo đối ngoại Anh MI-6.
Tòa án châu Âu về quyền con người phán quyết rằng nhà
cầm quyền Anh đã tỏ ra quá quan liêu trong việc giải quyết đơn kiện của
George Blake khiến việc xét xử kéo dài từ năm 1961, tức là cho tới nay
đã 45 năm. Việc xét xử như vậy đã vi phạm quyền công dân của Blake.
Vì vậy, Tòa án quyết định nhà cầm quyền Anh phải trả
cho Blake 5.000 euro tiền bồi thường thiệt hại tinh thần và 2.000 euro
tiền án phí, tổng cộng 7.000 euro.
George Blake là ai?
George Blake sinh năm 1922 tại thành phố Hà Lan,
Rotterdam. Bố ông là người Do Thái, mẹ ông là người Hà Lan. Trong những
năm Thế chiến thứ hai, ông là lính thủy rồi sĩ quan trong quân đội Hoàng
gia Anh.
Ông cũng đã từng tham gia phong trào Kháng chiến chống
phát xít Đức tại Hà Lan. Năm 1943, ông bí mật từ châu Âu chạy sang Anh
và trở thành nhân viên của cơ quan tình báo Anh MI-6.
Sau khi Thế chiến thứ hai kết thúc, ông làm việc ở
Hamburg, chuyên theo dõi những khu vực do Liên Xô kiểm soát. Năm 1948,
ông hoạt động ở Seoul và đã tận mắt chứng kiến cuộc chiến tranh Triều
Tiên (1950 – 1953).
Chính những cảnh tàn phá khủng khiếp do bom đạn Mỹ gây
ra tại đây đã khiến ông quyết định làm việc cho Liên Xô và về sau trở
thành người cộng sản.
Sau khi chiến tranh Triều Tiên kết thúc, ông trở về
London tiếp tục làm việc cho MI-6, chuyên phụ trách mạng lưới điệp viên
của Anh trên lãnh thổ CHDC Đức nhưng vẫn tiếp tục cộng tác với KGB.
Vào những năm 50 đó, ông đã cung cấp nhiều tin tức tình
báo hết sức giá trị cho phía Xô viết. Chẳng hạn, tin tức về hàng chục
điệp viên Anh hoạt động tại các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu.
Cũng nhờ có Blake mà KGB đã phá tan được một trong
những chiến dịch tuyệt mật của thời kỳ “chiến tranh lạnh” – đó là chiến
dịch có mật danh “Gold” do cơ quan tình báo Anh SIS (“Secret
Intelligence Service”) tiến hành nhằm chống phá Liên Xô.
Năm 1961, George Blake bị một điệp viên Ba Lan phản bội
tố giác. Ông bị triệu về London và bị bắt giữ. Ngay năm đó ông bị xử
kín và phải nhận án 42 năm ngồi tù tại nhà tù nổi tiếng hà khắc
“Wormwood Scrubs” ở London.
Nhưng chỉ 5 năm sau, KGB đã giúp ông thực hiện một cuộc vượt ngục kỳ diệu khỏi “Wormwood Scrubs”. Tiếp đó, ông đến Đức an toàn.
Tại biên giới giữa Tây Đức và Đông Đức, ông được Sergei
Kondrashov, một trong những nhân vật chỉ huy mạng lưới điệp viên Xô
viết nằm vùng ở Đức hồi đó đón tiếp. Hiện nay Kondrashov là Trung tướng
tình báo Nga. Sau đó ông được đưa về Moskva.
Nhà nước Xô viết đánh giá cao công lao của Blake. Ông
được cấp một căn hộ sang trọng ở trung tâm Moskva và một ngôi nhà nghỉ
nhỏ ở ngoại thành.
Ông còn được phong quân hàm Đại tá tình báo, được tặng
thưởng huân chương Lenin và huân chương Cờ Đỏ. Công việc của ông ở
Moskva là nghiên cứu tình hình khu vực Trung Đông và Cận Đông.
Cuốn hồi ký gây chấn động nước Anh
Năm 1990 Blake cho xuất bản tại Anh cuốn hồi ký “No
other way” kể về những năm tháng ông hoạt động tại MI-6. Thực ra, đã
định cho xuất bản cuốn hồi ký tương tự ngay từ năm 1970 nhưng ông đã
phải hoãn lại.
Rất có thể là do thực tế Xô viết không toàn màu hồng
như ông vẫn hình dung khi chưa trực tiếp tiếp xúc nên ông chưa muốn cho
xuất bản. Và cũng rất có thể những biến cố tiếp theo trên thế giới, đặc
biệt là việc Liên Xô sụp đổ, đã khiến ông phải xét lại đôi điều.
Bởi vậy, trong cuốn “No other way”, ông không kể nhiều
về những bí mật quốc gia của nước Anh mà dành khá nhiều trang cho việc
miêu tả những trăn trở nội tâm của một điệp viên trí thức Anh vốn thiên
về lý tưởng và khao khát công bằng xã hội theo kiểu Thiên Chúa giáo cũng
như khao khát tất cả những gì ông hiểu về chủ nghĩa cộng sản.
Ngay sau khi ra mắt bạn đọc ở Anh, cuốn “No other way”
đã lập tức trở thành bestseller (lượng in 19 nghìn bản bán hết chỉ trong
một thời gian rất ngắn). Nhưng đồng thời, cuốn hồi ký cũng vấp phải
phản ứng gay gắt của nhà cầm quyền Anh.
Chính phủ Anh lập tức thi hành mọi biện pháp để ngăn
cản Blake được hưởng nhuận bút cuốn sách (khoảng 90 nghìn bảng Anh).
Theo ý kiến của nhà cầm quyền Anh, đó là số tiền “vô đạo đức” bởi vì tác
giả đã kiếm được “nhờ vào việc phản bội Tổ quốc”.
Quá trình kiện tụng kéo dài gần 9 năm trời cho tới khi
Thượng viện Anh rốt cuộc ra quyết định không cho Blake được hưởng nhuận
bút cuốn hồi ký nói trên. Nhưng Blake không chịu thua. Ông gửi đơn kiện
chính phủ Anh tới Tòa án châu Âu về quyền con người và đã thắng kiện.
Tại sao cuốn “No other way” lại khiến nhà cầm quyền Anh
phản ứng dữ dội như vậy? Chắc chắn không phải vì nội dung cuốn sách bởi
vì như đã nói ở trên, cuốn sách không kể nhiều về những bí mật quốc gia
của nước Anh.
Theo các nhà phân tích, nguyên nhân chính khiến nhà cầm
quyền Anh phản ứng gay gắt bắt nguồn từ hoạt động trước kia của Blake.
Tuy nửa thế kỷ đã trôi qua nhưng hoạt động của Blake đã giáng cho các cơ
quan an ninh Anh hồi đó một đòn nặng tới mức cho tới nay họ vẫn chưa
thể tha thứ cho ông.
Vững tin ở lý tưởng
Tuy những diễn biến trong vài chục năm qua trên thế
giới có khiến cho George Blake phải xét lại một số quan niệm của ông
nhưng trước sau như một ông vẫn trung thành với lý tưởng.
Trong cuộc trả lời phỏng vấn tờ “Times” năm 2003, ông
thừa nhận trước kia ông đã ít nhiều ngộ nhận về con người Xô viết và xã
hội Xô viết.
Tuy nhiên, ông vẫn không mất lòng tin vào chủ nghĩa
cộng sản. Ông nói: “Cần nhiều, rất nhiều thế hệ nữa để nhân loại xây
dựng được xã hội cộng sản”. Ông cũng khẳng định ông đã hành động đúng
khi tham gia vào cuộc “thực nghiệm cao quý” của nhân loại cho dù cuộc
thực nghiệm ấy không thành công.
Hiện nay George Blake đang sống ở Moskva. Tuy đã 83
tuổi nhưng ông vẫn tham gia vào việc đào tạo các điệp viên trẻ của nước
Nga mới.
Ông cũng vẫn đi nhiều nơi khắp nước Nga để phát biểu và
gặp gỡ các tập thể cơ quan an ninh địa phương, các điệp viên ngành tình
báo quân sự, các thủy thủ, các sinh viên v..v.. Ông rất hài lòng với sự
an bài như vậy của số phận và cảm thấy nước Nga đúng là Tổ quốc thứ hai
của ông.
Ngọn gió đưa anh đi mười năm phiêu lãng
Nhìn quê hương qua chứng tích điêu tàn
Triều Ðông hải vẫn thì thầm cát trắng
Chuyện tình người và nhịp thở Trường Sơn
Mười năm nữa anh vẫn lầm lì phố thị
Yêu rừng sâu nên khoé mắt rưng rưng
Tay anh với trời cao chim chiều rủ rỉ
Ðời lênh đênh thu cánh nhỏ bên đường
Mười năm sau anh băng rừng vượt suối
Tìm quê hương trên vết máu đồng hoang
Chiều khói nhạt như hồn ai còn hận tủi
Từng con sông từng huyết lệ lan tràn
Mười năm đó anh quên mình sậy yếu
Ðôi vai gầy từ thuở dựng quê hương
Anh cúi xuống nghe núi rừng hợp tấu
Bản tình ca vô tận của Ðông phương
Và ngày ấy anh trở về phố cũ
Giữa con đường còn rợp khói tang thương
Trong mắt biếc mang nỗi hờn thiên cổ
Vẫn chân tình như mưa lũ biên cương
N.Tr.
4 – 1975
Khung
Trời Cũ
Ðôi
mắt ướt tuổi vàng cung trời hội cũ
Áo màu xanh không xanh mãi trên đồi hoang
Phút vội vã bỗng thấy mình du thủ
Thắp đèn khuya ngồi kể chuyện trăng tàn
Từ núi lạnh đến biển im muôn thuở
Ðỉnh đá nầy và hạt muối đó chưa tan
Cười với nắng một ngày sao chóng thế
Nay mùa đông mai mùa hạ buồn chăng
Ðếm tóc bạc tuổi đời chưa đủ
Bụi đường dài gót mỏi đi quanh
Giờ ngó lại bốn vách tường ủ rủ
Suối nguồn xa ngược nước xuôi ngàn.
Tìm
Em Trong Giấc Chiêm Bao
Ta
tìm em trong giấc chiêm bao
Nỗi buồn thu nhỏ hàng cây cao
Cháy đỏ mùa đông ta vẫn lạnh
Bóng tối vương đầy đôi mắt sâu
Yêu em dâng cả ráng chiều thu
Em đốt tình yêu bằng hận thù
Cháy đỏ mùa đông ta vẫn lạnh
Giấc mơ không kín dãy song tù.
Trại
giam X.4 Sàigòn 79
Ba bài thơ trên đây trích ra từ tập thơ “Tuệ Sỹ: Giấc mơ Trường
Sơn” vừa ấn hành ở Hoa kỳ.
"Lỡ bước sang ngang" - Đọc lại vẫn lay động lòng người (23/06/2011)
Trong
những ngày này, tôi tìm lại bài thơ lục bát rất ấn tượng của nhà thơ
Nguyễn Bính và thấy rằng "Lỡ bước sang ngang" đọc lại vẫn thấy lay động
tâm hồn. Các thế hệ người yêu thơ Việt Nam, trong đó có thể thơ lục bát,
chắc chắn ai cũng đã hơn một lần đọc thơ Nguyễn Bính, một nhà thơ "chân
quê" xuất sắc của thi đàn Việt Nam. Nguyễn Bính không chỉ là nhà thơ
"chân quê" mà còn là một trong những nhà thơ sử dụng rất tài tình thể
thơ lục bát của dân tộc. Cho nên thơ lục bát của ông đọc vài lần là nhớ
và đi theo người đọc gần như suốt cả cuộc đời.
Cuối
năm 1949 của thế kỷ trước, khi còn là một học sinh tiểu học của Hà Nội
bị tạm chiếm, tôi đã say mê ngồi hàng giờ nghe bà ngâm ngợi "Lỡ bước
sang ngang" của Nguyễn Bính xen trong tiếng "kẽo kẹt" của chiếc
võng đay. Lớn lên một chút, tôi tìm mua bằng được những tập thơ Nguyễn
Bính và đọc thuộc lòng bài "Lỡ bước sang ngang", càng đọc càng thấy cay
cay sống mũi, nghẹn ngào nơi cổ họng. Hôm nay, với Mục Lục bát xưa và
nay của lucbat.com, tôi xúc động viết những dòng này để một lần nữa bày
tỏ tình cảm của mình với nhà thơ chân quê Nguyễn Bính, với bài thơ dài
"Lỡ bước sang ngang".
Các
thế hệ phê bình văn học trong suốt gần một thế kỷ qua đã có nhiều bài
bình về thơ Nguyễn Bính, trong đó có bài "Lỡ bước sang ngang" Lần này,
viết lại một số cảm nghĩ của mình, tôi không dám có bình xét gì thêm,
chỉ tâm sự đôi điều sau gần 70 năm đọc lại.
Nguyễn
Bính (1918-1966) làm thơ từ năm 13 tuổi, bài thơ đầu tiên của ông được
đăng báo là bài "Cô hái mơ". Năm 1937, Nguyễn Bính đã được Tự lực văn
đoàn trao giải thưởng cho tập thơ "Tâm hồn tôi" của ông. Trong khoảng
thời gian ba năm, ông đã cho ra đời 7 tập thơ như "Tâm hồn tôi" (1940),
"Hương cố nhân (1941)" "Người con gái ở lầu hoa" (1942), "Mười hai bến
nước" (1942), "Mây Tần" (1942) và tác phẩm được chú ý nhất là "Lỡ bước
sang ngang" (1939)…
Thơ
Nguyễn Bính không dùng câu chữ cầu kỳ nên người đọc có thể hiểu dễ dàng
qua trực cảm. Những trai gái thời ấy yêu đương tìm thấy lời tâm sự sâu
thẳm trong thơ Nguyễn Bính. Những nhớ mong, hò hẹn, chia lìa, đau khổ,
nuối tiếc... cả những giờ phút thăng hoa của tình yêu đều được Nguyễn
Bính giãi bày tâm trạng. Ông hiểu biết sâu sắc tâm lý của trai làng gái
làng. Mỗi câu thơ của ông là một ấn tượng sâu sắc đối với người đọc,
nhất là đối với "dân quê"... Trong lòng bạn đọc, không chỉ ở thôn quê,
đều thấy Nguyễn Bính là một trong những nhà thơ gần gũi với họ, đã nói
hộ họ nhiều điều...
Nguyễn
Bính từ giã chúng ta đã 45 năm, gần một nửa thế kỷ. Tôi đọc thơ Nguyễn
Bính từ khi học lớp Nhì trường tiểu học Phố Hàng Bún (Hà Nội) cũng cách
nay 62 năm. Năm nay tôi đã 76 tuổi, vậy mà đọc lại Thơ Nguyễn Bính nói
chung và "Lỡ bước sang ngang" của thi sĩ nói riêng vẫn thấy lòng mình
xốn xang, trào lên một niềm cảm xúc khó tả:
"Em ơi! Em ở lại nhà
Vườn dâu em đốn mẹ già em thương
Mẹ già một nắng hai sương
Chị đi một bước trăm đường xót xa
Cậy em em ở lại nhà
Vườn dâu em đốn mẹ già em thương..."
Nguyễn
Bính hiểu sâu sắc công việc của nhà nông nói chung và những cô gái chăn
tằm hái dâu nói riêng. Nuôi tằm là phải có thức ăn chính là lá dâu. Sau
một đợt thu hái lá cho tằm ăn, người trồng dâu phải "đốn" dâu để tạo
một loạt lá mới cho đợt tằm ăn mới. Nhà thơ không phải "lơ lửng trên
mây" mà nhà thơ, cũng như văn nghệ sĩ khác, phải lăn mình vào cuộc sống
muôn màu của nhân dân, đưa hơi thở của nhân dân vào thơ thì "thơ mới
sống động, sâu lắng mới được nhân dân yêu chuộng".
"Lỡ
bước sang ngang" quằn quại cùng số phận những người phụ nữ ngày xưa khi
tình yêu trắc trở phải làm lại cuộc đời, có khi phải "lỡ bước ang
ngang" dằn vặt, đau khổ khôn cùng. Không hề giống như "tình yêu sét
đánh" ngày nay, hoặc với một số đối tượng trẻ tuổi bây giờ, đến với tình
yêu quá nhanh, quá nông nổi và khi chia tay người yêu cũng "nhẹ như
lông hồng", ấy là chưa nói đến một bộ phận thanh niên ngày nay, "thay
người yêu như thay áo". Lớp lớp thanh niên ngày nay đã được giải phóng
khỏi cái "vòng kim cô" "cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy" mà có khi ngược
lại, "con đặt cha mẹ ở đâu cha mẹ ngồi đấy". Lại còn cái kiểu "yêu thử,
sống thử" nữa, nghe mà rùng mình, chẳng còn ra cái lề thói quy củ nào
cả, chưa kể nhiều cặp đã "ăn cơm trước kẻng" rồi mới có đám cưới. Thậm
chí có cặp uyên ương tổ chức ngày cưới linh đình, tốn kém, nhưng chỉ ít
tuần sau, khi họ "no xôi chán chè" rồi, thì lại dễ dàng bỏ nhau. Luật
hôn nhân và gia đình của ta tôn trọng yêu đương tự do, cấm mọi hành vi
ép buộc, kế thừa truyền thống "ép dầu ép mỡ ai nỡ ép duyên!". Nhưng hiểu
thế nào cho thật đúng cái nghĩa của tự do hôn nhân và sự gắn bó lâu
dài, gắn bó suốt đời với nhau thì bị coi nhẹ. Tình yêu ngày nay quá
thiên về thực dụng. Tìm hiểu nhau ba bốn năm mà chú rể chưa rõ tên ông
bố vợ tương lai, cô con dâu tương lai không biết mẹ chồng bao nhiêu
tuổi... Tất nhiên, tôi không làm cái việc "vơ đua cả nắm" nhưng rõ ràng
trong yêu đương hôn nhân thời @ này rất cần có sự uốn nắn giáo dục của
các thế hệ đi trước, rất cần có chuẩn mực, vừa hiện đại vừa truyền thống
dân tộc.
Đọc
lại "Lỡ bước ang ngang" của Nguyễn Bính, tôi càng xúc động, thương cảm
một thế hệ phụ nữ ngày xưa. Mỗi câu thơ xé lòng của ông cứ lay động mãi
tâm hồn tôi, một ông già "Khốt-ta-bít" đã quá cái tuổi "cổ lai hi". Như
trên tôi đã nói, tôi không phải một nhà phê bình văn học, phê bình thơ,
nên những ý kiến thô thiền này chỉ là tình cảm của một người đọc lại thơ
Nguyễn Bính, nhất là thơ lục bát của ông, qua bài "Lỡ bước sang ngang"
được xuất bản năm 1940, cách đây 71 năm.
Bài
thơ "Lỡ bước sang ngang" của Nguyễn Bính là một bài thơ dài, thơ dài
những không "thừa một chữ". Trong bài viết này, tôi chỉ xin trích đôi
đoạn. Bạn nào thích toàn bài xin tìm đọc Thơ Nguyễn Bính của Nhà xuất
bản Hà Nội, xuất bản năm 1998 hoặc gửi thư cho tôi theo địa chỉ email:
nguyenthanhhahy@gmail.com, tôi sẽ sẵn sàng gửi lại cho bạn đầy đủ bài
thơ.
Sau đây, xin trích một vài đoạn trong bài "Lỡ bước sang ngang" của nhà thơ Nguyễn Bính:
Thơ » Việt Nam » Hiện đại » Nguyễn Bính » Lỡ bước sang ngang (1940)1
- Em ơi! Em ở lại nhà
Vườn dâu em đốn, mẹ già em thương
Mẹ già một nắng hai sương
Chị đi một bước trăm đường xót xa
Cậy em, em ở lại nhà
Vườn dâu em đốn, mẹ già em thương
Hôm nay xác pháo đầy đường
Ngày mai khói pháo còn vương khắp làng
Chuyến này chị bước sang ngang
Là tan vỡ giấc mộng vàng từ đây
Rượu hồng em uống cho say
Vui cùng chị một vài giây cuối cùng
Rồi đây sóng gió ngang sông
Đầy thuyền hận, chị lo không tới bờ
Miếu thiêng vụng kén người thờ
Nhà hương khói lạnh chị nhờ cậy em
Đêm qua là trắng ba đêm
Chị thương chị kiếp con chim lìa đàn
Một vai gánh lấy giang san...
Một vai nữa gánh muôn vàn nhớ thương
Mắt quầng tóc rối tơ vương
Em còn cho chị lược gương làm gì!
Một lần này bước ra đi
Là không hẹn một lần về nữa đâu
Cách mấy mươi con sông sâu
Và trăm ngàn vạn nhịp cầu chênh vênh
Cũng là thôi cũng là đành
Sang sông lỡ bước riêng mình chị sao?
Tuổi son nhạt thắm phai đào
Đầy thuyền hận, có biết bao nhiêu người!
Em đừng khóc nữa em ơi!
Dẫu sao thì sự đã rồi, nghe em!
Một đi bảy nổi ba chìm
Trăm cay nghìn đắng con tim héo dần
Dù em thương chị mười phần
Cũng không ngăn nổi một lần chị đi
Chị tôi nước mắt đằm đìa
Chào hai họ để đi về nhà ai
Mẹ trông theo, mẹ thở dài
Dây pháo đỏ bỗng vang trời nổ ran
Tôi ra đứng tận đầu làng
Ngùi trông theo chị khuất ngàn dâu thưa...
2
Trời mưa ướt áo làm gì?
Năm mười bảy tuổi chị đi lấy chồng
Người ta pháo đỏ rượu hồng
Mà trên hồn chị một vòng hoa tang
Lần đầu chị bước sang ngang
Tuổi son sông nước đò giang chưa tường
Ở nhà em nhớ mẹ thương
Ba gian trống, một mảnh vườn xác xơ
Mẹ ngồi bên cửi xe tơ
Thời thường nhắc: "- Chị mày giờ ra sao?"
Chị bây giờ... nói thế nào?
Bướm tiên khi đã lạc vào vườn hoang
Chị từ lỡ bước sang ngang
Trời dông bão giữa tràng giang lật thuyền
Xuôi dòng nước chảy liên miên
Đưa thân thế chị tới miền đau thương
Mười năm gối hận bên giường
Mười năm nước mắt bữa thường thay canh
Mười năm đưa đám một mình
Đào sâu chôn chặt mối tình đầu tiên
Mười năm lòng lạnh như tiền
Tim đi hết máu mà duyên không về
Nhưng em ơi! Một đêm hè
Hoa xoan nở, xác con ve hoàn hồn
Dừng chân trên bến sông buồn
Nhà nghệ sĩ tưởng đò còn chuyến sang
Đoái thương thân chị lỡ làng
Đoái thương phận chị dở dang những ngày
Rồi... rồi chị nói sao đây?
Em ơi! nói nhỏ câu này với em...
Thế rồi máu trở về tim
Duyên làm lành chị duyên tìm về môi
Chị nay lòng ấm lại rồi
Mối tình chết đã có người hồi sinh
Chị từ dan díu với tình
Đời tươi như buổi bình minh nạm vàng
Tim ai khắc một chữ "nàng"
Mà tim chị một chữ "chàng" khắc theo
Nhưng yêu chỉ để mà yêu
Chị còn dám ước một điều gì hơn
Một lầm hai lỡ keo sơn
Mong gì gắn lại phím đờn ngang cung
Rồi đêm kia lệ ròng ròng
Tiễn đưa người ấy sang sông, chị về
Tháng ngày qua cửa buồng the
Chị ngồi nhặt cánh hoa lê cuối mùa
3
Úp mặt vào hai bàn tay
Chị tôi khóc suốt ba ngày ba đêm
- Đã đành máu trở về tim
Nhưng khôn buộc nổi cánh chim giang hồ
Người đi xây dựng cơ đồ
Chị về giồng cỏ nấm mồ thanh xuân
Người đi khoác áo phong trần
Chị về may áo liệm dần nhớ thương
Hồn trinh ôm chặt chân giường
Đã cùng chị khóc đoạn trường thơ ngây
Năm xưa đêm ấy giường này
Nghiến răng nhắm mắt cau mày... cực chưa?
Thế là tàn một giấc mơ
Thế là cả một bài thơ não nùng
Tuổi son má đỏ môi hồng
Bước chân về đến nhà chồng là thôi
Đêm qua mưa gió đầy giời
Mà trong hồn chị có người đi qua
Em về thương lấy mẹ già
Đừng mong ngóng chị nữa mà uổng công
Chị giờ sống cũng bằng không
Coi như chị đã ngang sông đắm đò 1939
Bài thơ này đã được nhạc sĩ Song Ngọc phổ nhạc thành bài hát cùng tên.
Nguồn:
1. Tinh tuyển văn học Việt Nam (tập 7: Văn học giai đoạn 1900-1945), Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn quốc gia, NXB Khoa học xã hội, 2004
2. Tuyển tập Nguyễn Bính, NXB Văn học, 1986
3. Hoàng Xuân, Nguyễn Bính - thơ và đời, NXB Văn học, 2003