|
|
Trên hướng chủ yếu, trung đoàn 102
được tăng cường tiểu đoàn 11 và tiểu đoàn 40 pháo 75mm được giao nhiệm
vụ tiêu diệt Phố Lu, một vị trí lớn do một đại đội Pháp và một đại đội
lính khố đỏ cùng 80 lính dõng rất gian ác đóng giữ. Đây là cửa ngõ hiểm
yếu trên con đường Việt Trì - Phú Thọ lên biên giới Lào Cai nên địch xây
dựng kiên cố, bố phòng cẩn mật với hệ thống lô cốt, tháp canh, hàng
rào. Chúng làm tường trình dày hai mét cao hai mét bao quanh thị trấn bố
trí những hỏa điểm mạnh để ngăn cản ta tiến công. Cạnh căn cứ là một
sân bay dã chiến. Viên chỉ huy phân khu coi Phố Lu là một vị trí bất khả
xâm phạm.
Đây là trận đầu tiên ta đánh công kiên cấp trung đoàn,
có sử dụng lực lượng pháo binh tập trung bắn cấp tập trước khi bộ binh
xung phong và yểm hộ cho bộ binh phát triển chiến đấu.
Theo kế
hoạch, tiểu đoàn phóng pháo 69, trung đoàn 102 sẽ bắn loạt mở màn; pháo
binh từng khẩu bắn vào các mục tiêu được phân công; tiểu đoàn 79 được
tăng cường một đại đội của tiểu đoàn 54 đảm nhiệm hướng đột kích chủ
yếu, từ phía đông đánh vào thị trấn; tiểu đoàn 18 vượt sông sang bố trí
đánh chặn viện và phối hợp đánh từ phía tây (phía sau) vào thị trấn;
tiểu đoàn 54 (thiếu một đại đội) bố trí vòng ngoài bắn máy bay và làm
lực lượng dự bị. Tiểu đoàn 11 sẵn sàng vào chiến đấu khi mũi đột kích
chủ yếu của tiểu đoàn 79 gặp khó khăn.
Hướng thứ yếu đánh vào Nghĩa Đô do trung đoàn 165 và một số đơn vị bộ đội địa phương đảm nhiệm.
Đêm
7 tháng 2 năm 1950, khi hành quân vào vị trí chiếm lĩnh, một chiến sĩ
quân báo để lộ. Các hướng, mũi tiếp tục hành quân vào triển khai chiến
đấu, nhưng yếu tố bí mật bất ngờ đã mất, địch đề phòng, tăng cường tuần
tiễu, sục sạo và canh gác.
Trên hướng Phố Lu, 17 giờ ngày
8 tháng 2, ta nổ súng tiến công, nhưng do hiệp đồng giữa bộ binh và
pháo binh không chặt, sử dụng pháo binh chưa đúng (pháo bố trí phân tán,
bắn rải rác không phá được tường trình, không diệt được hỏa điểm), nên
mặc dù xung phong rất quyết liệt, nhưng tiểu đoàn 79 không đột phá được
hai lô cốt số 1, số 2 và không đánh chiếm được khu đồn dõng. Đợt tiến
công đầu tiên phải tạm ngừng.
Địch cho một đại đội tăng viện từ
Lào Cai xuống. Tiểu đoàn 18 chặn đánh nhưng chỉ diệt được một số tên, số
còn lại tháo chạy. Ta tiếp tục bao vây Phố Lu. Sang ngày 10, tiểu đoàn
54 vào thay tiểu đoàn 69, chia thành ba mũi xung phong quyết liệt, nhưng
cả hai mũi của hai đại đội 267 và 269 đều bị hỏa lực địch ngăn chặn, ta
thương vong nhiều mà không tiến lên được. Mũi của đại đội 273 do đồng
chí Phúc Anh chỉ huy, được khẩu sơn pháo 65mm từ bên kia sông từng bước
bắn yểm hộ chính xác, sau loạt đạn pháo, dãy nhà lính bốc cháy, hỏa lực
địch rối loạn, đại đội tràn vào được trong đồn, diệt được một số hỏa
điểm, nhưng sau đó bị địch tập trung hoả lực ngăn chặn nên cũng không
phát triển được. Tình huống ngày càng khó khăn, trung đoàn phải ra lệnh
lui quân.
Ngày 12, ta tiến công lần thứ ba. Lần này ta điều cả
ba khẩu pháo của tiểu đoàn 40 do đồng chí Doãn Tuế chỉ huy, đồng chí
Nguyễn Đình Ước làm chính trị viên về phía đông để tập trung bắn chế áp
địch. Tiểu đoàn 11 do đồng chí Dũng Mã chỉ huy được lệnh vào chiến đấu.
Trung đoàn hình thành hai hướng rõ rệt: Hướng chủ yếu từ phía đông đánh
vào lô cốt số 1 và 2; hướng thứ yếu từ phía tây, sườn bên phải thị trấn
vào diệt lô cốt số 3. Các hoả lực cối 81mm được tận dụng triệt để. Ngoài
ra trung đoàn kiên quyết đem các cỡ súng trợ chiến bắn thẳng vào gần
hơn nữa nhằm tập trung hỏa lực bịt lỗ châu mai, kịp thời yểm hộ cho bộ
binh đột phá, xung phong. Đến 16 giờ 30 phút, sau bốn ngày vây hãm, ba
lần tiến công ta chiếm được Phố Lu; phần lớn địch ở đây bị diệt, trong
đó có đại úy đồn trưởng Gô-chi-ê (Gauthier), ta loại khỏi vòng (chiến
đấu hai đại đội địch, số còn lại chạy về Lào Cai.
Trên hướng Nghĩa Đô,
lượng thứ yếu của chiến dịch: 24 giờ ngày 27 tháng 2, tiểu đoàn 115 và
một bộ phận của tiểu đoàn 542 bắt đầu nổ súng tiến công phân khu Nghĩa
Đô. Nhưng do không giữ được bí mật nên cả ba lần tiến công đều không
thành công. Sau đó ta chuyển sang bao vây. Ngày 24 tháng 2, địch tăng
cường một tiểu đoàn biệt kích dù cho Nghĩa Đô. Ta tiếp tục bao vây, vị
trí Nghĩa Đô bị uy hiếp mạnh. Ngày 10 tháng 3, địch buộc phải rút khỏi
Nghĩa Đô về Bắc Hà.
4 giờ 30 phút ngày 9 tháng 2, một tiểu đoàn
của trung đoàn 165 và một đại đội bộ đội địa phương tiến công địch ở Bản
Lầu, địch ở đây phải rút chạy về Mường Khương. Ngay sau đó bộ đội chủ
lực cùng bộ đội địa phương tiến hành vũ trang tuyên truyền, phá tề trừ
gian, đánh tan hai trung đội địch từ Bản Phiệt sục sạo sang Bản Lầu.
Trong 10 ngày (từ ngày 11 đến ngày 22 tháng 2), hai lần quân ta đánh lui
quân địch từ Lào Cai, Bản Phiệt đến phản công định chiếm lại đồn Bản
Lầu.
Ở Bắc Hà, ta vừa đánh vừa kêu gọi binh lính địch ra hàng,
phá được đồn Nậm Núc và Nậm Lùng, tiếp nhận 107 hàng binh, một trung
liên và 100 súng trường.
Ngày 20 tháng 2, tiểu đoàn 564 của
trung đoàn 165 vòng qua biên giới đánh đồn Bát Xát nhưng không kết quả
vì chuyển quân qua sông chậm.
Ở Trịnh Tường, nhờ làm tốt công tác địch vận, ta chiếm được đồn địch, thu toàn bộ vũ khí và lương thực.
Tại Bảo Thắng,
sau khi diệt vị trí Phố Lu, ta bắn pháo vào đồn Làng Cù, địch sợ bỏ đồn
chạy, nhưng sau đó chúng chiếm lại; đến 27 tháng 2, bộ đội địa phương
tiến hành đánh đồn này, địch bỏ đồn rút chạy. Trước đó ngày 26, bộ đội
địa phương san bằng đồn Bền Đền, giải phóng 3000 dân; hai xã Xuân Giao
và Gia Phú được giải phóng hoàn toàn.
Phía Tả ngạn sông Hồng,
trước sức ép về quân sự và hoạt động địch vận của ta, hai tiểu đội lính
dõng ở bốt Làng Chì và Làng Nhò xã Xuân Quang cùng với số tàn quân từ
Phố Lu chạy sang đã ra đầu hàng quân ta.
Phối hợp với chiến dịch
Lê Hồng Phong 1, hai đại đội 96 và 97 bộ đội địa phương tỉnh Yên Bái và
trung đội bộ đội địa phương của huyện Văn Bàn kiềm chế địch ở Ca Vịnh,
Võ Lao và Phong Dụ, đã giải phóng một nửa xã Phong Dụ, một phần thôn Ba
Xá và các làng Võ Lao của người H’mông và người Dao làng Cam Cọn xã Kèn
Sơn.
Trước tình hình đó, địch vội vàng thả 200 quân dù xuống Võ
Lao, tăng cường cho Lào Cai và bổ sung quân cho vị trí Pa Kha. Ngày 7
tháng 3, địch tăng cường phòng thủ. Nhận thấy sức chiến đấu của quân ta
đã giảm sút vì thương vong nhiều, Bộ Tổng tư lệnh quyết định kết thúc
chiến dịch.
Kết quả: Ta tiêu diệt bốn vị trí, bức rút năm vị trí
khác, phá vỡ một phần phòng tuyến Tây Bắc của địch, uy hiếp Lào Cai,
làm cho khối ngụy quân, ngụy quyền hoang mang và bắt đầu tan rã. Ta diệt
300 tên địch, bắt 34 tên, buộc ra hàng 157 tên; phá hủy một khẩu pháo,
ba cối 81mm, một kho lương thực; thu ba đại liên, chín trung liên, một
cối 60mm, 300 súng trường và tiểu liên; giải phóng 6.000 dân và một vùng
đất rộng 2.000 km2.
Chiến dịch kết thúc nhưng không
đạt được các mục tiêu đề ra. Hiệp đồng giữa bộ binh và pháo binh không
chặt chẽ, sử dụng hỏa lực pháo binh quá phân tán, không tạo được áp lực
khống chế để tạo thuận lợi cho bộ binh đột phá, hiệu quả về chiến thuật
không đạt cho nên cả mục tiêu chủ yếu (Phố Lu) và thứ yếu (Nghĩa Đô) đều
bị “sượng”, đợt 1 đánh trầy trật mấy ngày không được nhưng Bộ chỉ huy
không kịp thời rút kinh nghiệm cho đợt 2. Mặt khác, Bộ chỉ huy chiến
dịch chưa giải quyết thành công việc đánh viện binh và đánh địch rút
chạy. Nghệ thuật chiến dịch trong chỉ đạo chiến thuật với từng trận
đánh, nhất là trận then chốt còn thiếu linh hoạt và nhạy bén. Nhận thức
về “thắng” và “bại”, về ưu và khuyết điểm của cả Bộ chỉ huy và bộ đội
chưa đúng đắn để làm bài học cho các chiến dịch sau1
______________________________________
1. Trong bức điện ngày 20 tháng 3 năm 1950 của Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp gửi Ban chỉ huy mặt trận Lê Hồng Phong 1 đã chỉ rõ:
“1- Ban chỉ huy mặt trận cần tự kiểm thảo nghiêm ngặt. Đứng trên quan
điểm nào mà kiểm thảo? Đứng trên quan điểm đường lối chiến lược, chiến
thuật của ta nói chung và nói riêng là chủ trương của Bộ trong lúc này.
Đường lối ấy là: tiêu diệt sinh lực dịch, nghĩa là vừa tiêu diệt địch,
vừa bồi dưỡng sức của ta, nghĩa là nhằm theo sự bồi dưỡng lực lượng ta
sau chiến dịch mà kiểm điểm chứ không chỉ nhìn thấy sự thiệt hại của
địch (... ). 2- Trong trận Phố Lu, ta tiêu diệt được một thị
trấn quan trọng của địch, thu được vũ khí, đạn dược, địch bị thiệt hại
gần 100, nhưng ta bị hy sinh 100 chiến sĩ, trong đó có 11 cán bộ cấp
trung đội và đại đội, bị thương 180, trong đó có 13 cán bộ. Vấn
đề cụ thể là: Trước khi đánh Phố Lu, Ban chỉ huy ước lượng mức hy sinh
như thế nào? Và nếu biết trước là phải hy sinh đến chừng ấy thì có quyết
định đánh không? Nếu không ước lượng trước là khuyết điểm. Nếu
ước lượng đúng rồi chủ trương đánh, cũng là khuyết điểm. Trong hai
trường hợp, Ban chỉ huy đều phải thấy khuyết điểm của mình, nhất là
trong lúc chiến thắng. 3- Nhận khuyết điểm rồi mới tìm nguyên nhân. Nếu ước lượng mức hy sinh quá thấp thì tức là không hiểu địch, chủ quan về địch (... ).
4- Nếu sự hy sinh tăng lên vì “bộ đội quá hăng”, hoặc vũ khí bắn sai,
thì tức là khuyết điểm trong việc sử dụng vũ khí, trong việc phối hợp
pháo binh và bộ binh (... ). 5- Ban chỉ huy mặt trận Lê Hồng Phong có tự kiểm thảo theo tinh thần trên hay không?
a) Thư đồng chí Song Hào: “Sự thiệt hại kể cũng hơi nặng, nhưng
Phố Lu là một thị trấn, công sự của địch rất kiên cố, vào đến nơi mới
thấy rằng lấy được đồn Phố Lu, mức hy sinh như vậy cũng chưa phải là
nhiều”. b) Thư đồng chí Khánh về Phố Lu, nêu nhiều kinh
nghiệm, nhiều nhận xét, mà không có nhận xét gì về tổn thất của ta. Theo
thư ấy thì nếu địch còn tinh thần thì ta còn tốn máu nhiều.
c) Thư đồng chí Bằng Giang: Tiêu hao nặng của ta không phải vì địch làm
ta tiêu hao nhiều, mà chính vì tinh thần của anh em quá hăng nên mới
xảy ra. Tự kiểm điểm như vậy là không nghiêm ngặt, là chỉ thấy
ưu điểm mà không thấy khuyết điểm, thấy thiệt hại của địch mà không thấy
thiệt hại của ta, cắt nghĩa mà không nhận khuyết điểm. Nhân tiện, tôi nhắc các đồng chí kiểm điểm trận Nghĩa Đô:
1- Địch bị tiêu hao một số. Ta thu được 20 súng trường và tiểu liên,
bị tiêu hao 32 súng trường, bốn trung và tiểu liên, 91 bị hy sinh và
thất lạc, 202 bị thương (... ). 2- Thế là thất bại hay không?
Đồng chí Khánh cho rằng “không phải hoàn toàn thất bại”. Lúc kết luận
cả hai mặt trận thì cho rằng kết qủa thực tế của ban đầu đã làm được bảy
phần mười. Nhưng riêng ta thì mua hơi đắt. 3- Trận Nghĩa Đô
phải coi là một trận thất bại. Không nên vì địch rút, vì địch tiêu hao
một số, vì gần đây dõng đầu hàng, mà không kiểm điểm nghiêm ngặt những
khuyết điểm ở Nghĩa Đô. Và nếu làm lễ chiến thắng ở Nghĩa Đô thì
trong việc khen thưởng từng chiến sĩ, hay từng đơn vị, không nên để cho
cán bộ hiểu nhầm rằng trận Nghĩa Đô là một thành công (...)”.
|
|
|
|
|
CHIẾN DỊCH TRÀ VINH
(Tiến công, từ ngày 26 tháng 3 đến ngày 7 tháng 5 năm 1950)
Trước
sự phát triển lớn mạnh và sức tiến công của quân ta, trong hai năm
(1948 - 1949) trên chiến trường chính Bắc Bộ, quân Pháp đang lâm dần vào
thế bị động. Trên chiến trường Nam Bộ, cuối năm 1949, đầu 1950 quân ta
hoạt động mạnh và liên tục, chiến tranh du kích phát triển rộng khắp
khiến cho quân địch luôn bị tiêu hao, tinh thần mệt mỏi. Trước tình hình
đó, thực dân Pháp ra sức bắt lính để tăng cường quân đội, xây dựng hệ
thống đồn bốt xung quanh các thành phố, thị xã và trên các trục giao
thông quan trọng; tập trung lực lượng mở các cuộc hành quân càn quét để
mở rộng sự kiểm soát ra các vùng nông thôn; thực hiện âm mưu cắt đứt sự
liên lạc giữa hai vùng đông và tây Nam Bộ của ta, tiêu diệt lực lượng du
kích và chuyển một phần lực lượng quân chính quy ra tăng viện cho chiến
trường chính Bắc Bộ.
Tại Trà Vinh, một tỉnh nằm trong vựa lúa
đồng bằng sông Cửu Long, người dân tộc Khơ-me chiếm 80 phần trăm dân số,
ngay từ ngày chiếm đóng, thực dân Pháp đã thực hiện chính sách chia rẽ
dân tộc. Chúng ráo riết bắt lính và tổ chức tề ngụy ở nông thôn, hình
thành một tổ chức mới gọi là “bảo an Miên”, lùa hầu hết thanh niên thậm
chí có cả người già năm mươi tuổi trong vùng kiểm soát của chúng vào tổ
chức này, thực hiện vũ trang không thoát ly, tạo thành lực lượng đông
đảo tại chỗ để chống phá cách mạng. Chúng xây dựng ở Trà Vinh thuộc phân
khu Sóc Trăng thành sáu tiểu khu: thị xã Trà Vinh, Cầu ngang, Cầu Cống,
Trà Cú, Bắc Trang và Tiểu Cần. Sau chiến dịch tiến công Cầu Kè
(12-1949) của ta, địch ở Trà Vinh ráo riết củng cố và xây dựng hệ thống
cứ điểm dọc các trục giao thông và các vùng đông dân, tăng cường vũ
trang cho lực lượng “bảo an Miên”, tuyên truyền kích động dân chúng để
thực hiện âm mưu chia rẽ dân tộc, “Dùng người Miên diệt người Việt”.
Để
phá hệ thống phòng ngự, thu hẹp phạm vi chiếm đóng của địch và cầm chân
không cho địch tiếp viện cho chiến trường Bắc Bộ, Bộ tư lệnh Nam Bộ
quyết định mở chiến dịch Mùa xuân 1950 trên toàn chiến trường Nam Bộ,
lấy tỉnh Sóc Trăng của Khu 9 làm hướng chính, các khu khác trong đó có
Trà Vinh là hướng phối hợp (vì không gian chiến dịch “Mùa xuân 1950”
trải rộng trên miền Tây Nam Bộ, nên ở trên mỗi hướng lại tổ chức một
chiến dịch cụ thể, chủ trương này để tạo cho các hướng tinh thần chủ
động đánh địch. Chiến dịch Trà Vinh là một trong những chiến dịch thực
hiện theo chủ trương đó).
Trà Vinh nằm giữa hai con sông lớn Cổ
Chiên và Bát Sác (nay gọi là Tiền Giang và Hậu Giang), có nhiều rạch lớn
đổ ra biển như rạch Giăng, rạch Giốc, rạch Ông Bích, rạch Gia, rạch Cỏ,
rạch Ba Động, rạch Láng Sắc, Cồn Lai, La Chỉ... Mỗi sông lớn (sông Tiền
và sông Hậu) lại có nhiều vàm, sông Măng Thít nối sông Tiền và sông Hậu
là tuyến giao thông thủy chiến lược, tàu lớn đi lại dễ dàng. Tóm lại hệ
thống giao thông thuỷ thuận tiện cho ta khi vận chuyển nội địa, nhưng
lại bất lợi khi vận tải liên tỉnh, nhất là khi địch dùng trực thăng và
súng pháo trên tàu lớn khống chế.
Đường bộ có liên tỉnh lộ 70
(nay là quốc lộ 53) mặt đường trải nhựa, đây là tuyến đường giao thông
huyết mạch nối liền Vĩnh Long - Trà Vinh. Tỉnh lộ 6A nối Trà Vinh với
thị xã Bến Tre. Tỉnh lộ 34 từ Trà Vinh đi Tiểu Cần. Tỉnh lộ 36 từ Trà
Vinh qua Trà Cú sang Đôn Châu. Tỉnh lộ 37 nối huyện lỵ Tiểu Cần với
huyện lỵ Cầu Kè. Tỉnh lộ 39 nối Cầu Kè với Trung Hiệp. Ngoài ra còn các
tuyến đường liên huyện, liên xã tạo nên mạng lưới giao thông bộ thuận
tiện.
Đường không, có sân bay thị xã Trà Vinh do Pháp xây dựng
năm 1948. Từ đây, máy bay Đa-cô-ta, trực thăng cất cánh đi bắn phá và
yểm trợ cho các cuộc hành quân càn quét của chúng.
Lực lượng địch ở Trà Vinh
gồm hai tiểu đoàn bộ binh, một đại đội cơ giới, một đại đội pháo và một
lực lượng bảo an Miên đông đảo. Chúng tổ chức biên chế thành hai bộ
phận. “Bộ phận cơ động” gồm một đại đội bộ binh và một đại đội cơ giới,
ngày thường đóng tại thị xã Trà Vinh với nhiệm vụ phản kích khi tác
chiến phòng ngự và càn quét khi tiến công. “Bộ phận chiếm đóng” phân tán
rải rác ở sáu tiểu khu và dọc trục đường giao thông. Mỗi tiểu khu có từ
một trung đội đến một đại đội, trang bị từ một đến hai cối 60mm, hai
đến bốn súng máy (trung, đại liên), còn lại là súng trường, tiểu liên và
lựa đạn. Bộ phận này có nhiệm vụ kết hợp với bảo an Miên giữ gìn trật
tự, bảo vệ giao thông, chiến đấu giữ vị trí khi đối phương tiến công.
Công sự phổ biến xây bằng gạch, có hàng rào tre ở bên ngoài.
Căn
cứ vào chủ trương của Bộ tư lệnh Nam Bộ, Bộ chỉ huy Khu 8 quyết định mở
đợt hoạt động Trà Vinh (sau này tổng kết gọi là “Chiến dịch Trà Vinh”)
để phối hợp với chiến dịch Sóc Trăng nhằm mục đích: Bao vây và đánh các
tháp canh, bao vây cứ điểm để đánh địch tiếp viện, gây lại cơ sở cách
mạng trong vùng địch tạm chiếm, phá lực lượng “bảo an Miên”, đập tan âm
mưu “dùng người Miên đánh người Việt” của địch.
Lực lượng tham gia chiến dịch gồm năm tiểu đoàn (307, 309, 308, 310 và 312) 1 (thiếu hai đại đội) và một trung đội liên quân Miên - Việt.
Đồng
chí Nguyễn Văn Quạn, Phó tư lệnh Khu 8 làm Chỉ huy trưởng chiến dịch;
Nguyễn Đặng, Phó tư lệnh Khu 8, Nguyễn Hữu Xuyến, Chỉ huy trưởng liên
trung đoàn 109 - 111 và Lê Văn Bông, Ủy viên Ủy ban kháng chiến hành
chính Trà Vinh làm Phó chỉ huy chiến dịch 2.
Phương châm tác chiến là:
Đánh điểm diệt viện và vây điểm diệt viện. Tiến công quân sự kết hợp
với địch vận, mật giao, tuyên truyền vũ trang để tạo thế mạnh từ đầu đến
khi kết thúc chiến dịch.
Kế hoạch tác chiến: Chia thành
ba đợt hoạt động; mỗi đợt từ năm đến sáu ngày, giữa hai đợt có một vài
ngày củng cố, nghi binh và bổ sung kế hoạch.
Ý định chiến dịch:
Phân tán lực lượng, chia khu vực hoạt động tác chiến cho các tiểu đoàn.
Mỗi tiểu đoàn hoạt động độc lập trên một khu vực, đơn vị tác chiến
chính là đại đội, nhưng tiểu đoàn phải áp dụng linh hoạt hình thức phân
tán và tập trung để đạt được mục đích tác chiến, hoàn thành được nhiệm
vụ.
Ở chiến dịch này, tuy chưa thành lập đảng bộ và cử đảng ủy,
chưa có ban công tác chính trị, mọi mặt công tác chuẩn bị về quân sự
chính trị, hậu cần đều do thủ trưởng quân chính trực tiếp chỉ đạo, nhưng
trước chiến dịch, Bộ chỉ huy đã tiến hành chỉ đạo các đơn vị giáo dục
nhiệm vụ, động viên tinh thần thi đua giết giặc lập công đối với bộ đội
đồng thời tích cực làm công tác dân vận, cùng với lãnh đạo, chính quyền
địa phương huy động được hàng nghìn ngày công phục vụ chiến dịch. Toàn
bộ việc cung cấp, tiếp tế lương thực, thực phẩm, tải thương... đều do
dân quân du kích và quần chúng nhân dân thực hiện. Trước và trong chiến
dịch, công tác địch vận đã phát huy tác dụng làm tan rã tổ chức bảo an
của địch, một số binh linh đã tình nguyện chạy sang hàng ngũ cách mạng.
__________________________________
1. Trong
cuốn “Lực lượng vũ trang nhân dân Trà Vinh 30 năm kháng chiến” Đảng ủy -
BCHQS Trà Vinh, Nxb QĐND, 1998, trang 94 ghi: Lực lượng tham gia chiến
dịch gồm có tiểu đoàn 307 cơ động của Khu 8, các tiểu đoàn 308, 310 và
312 cùng các đại đội địa phương quân tỉnh, du kích tập trung huyện, thị
và công an. 2. Hồ
sơ lưu trữ BTTM(T35(24)721.3) ghi rõ: Về tổ chức chỉ huy không thấy nói
đến vai trò lãnh đạo của tổ chức đảng và của chính ủy, mà là một tổ
chức thống nhất quân chính, không có tổ chức hậu phương riêng của quân
đội mà tất cả mọi vấn đề: Cung cấp lương thực, tiếp tế, tải thương...
đều do cơ quan đoàn thể địa phương đảm nhiệm.
|
|
|
|
|
Đợt 1 (từ Ngày 25 tháng 3 đến ngày 1 tháng 4 năm 1950):
Phạm
vi tác chiến chia thành ba khu vực hoạt động: Từ Giồng Lức - Hưng Hòa -
Bắc Trang đến Đôn Châu do tiểu đoàn 307, 309 và một đại đội thuộc tiểu
đoàn 312 đảm nhiệm.
- Khu vực Giồng Lức - Cầu Cống - Ba Cum do hai tiểu đoàn 308 và 310 (thiếu hai đại đội) đảm nhiệm.
- Khu vực Ba Cum - Đôn Châu - La Bang do tiểu đoàn 312 (thiếu một đại đội) đảm nhiệm.
23 giờ ngày 25 tháng 3, ta nổ súng1. Đến gần sáng 26 tháng 3, ta mới hạ được tháp canh Xà Lơn2,
tước vũ khí và giải tán toàn bộ lính bảo an Miên ở hai sóc Xà Lơn và Cổ
Chi. Các nơi khác chỉ tước được một phần vũ khí của bảo an Miên, còn
phần lớn chúng chạy thoát. 9 giờ sáng 26 tháng 3, địch cho hai trung đội
từ Tiểu Cần xuống thăm dò, đến ngã ba rạch Lớp gặp một bộ phận quân ta
chặn đánh, địch chết 10 tên, bỏ lại một khẩu tiểu liên, số còn lại chạy
về Tiểu Cần.
Ngày 27, địch đổ bộ 200 quân lên rạch Lớp. Cùng
ngày, địch phái một tiểu đoàn bộ binh và một lực lượng cơ giới hình
thành một mũi đánh vào đội hình ta đang bao vây Cầu Cống. Bộ chỉ huy kịp
thời chỉ thị cho tiểu đoàn 307 và 308 tập trung đánh cánh quân này; đến
tối ta hạ được năm tháp canh, thu toàn bộ vũ khí và giải tán số bảo an
Miên của ba sóc.
10 giờ ngày 28, địch từ Giồng Lức tổ chức hai
cánh quân, dưới sự yểm trợ của không quân và pháo binh đánh xuống Cầu
Cống. Cánh 1 - tiểu đoàn 1 Âu - Phi của trung đoàn 6 tiến xuống đến
giồng Cổ Chi lọt vào trận địa phục kích của tiểu đoàn 308. Ta nổ súng,
địch chết và bị thương nhiều3, số còn lại quay chạy về Giồng Lức cố thủ.
Cánh
2 - một tiểu đoàn Ma-rốc tiến qua rạch Lớp đến rạch Te Te bị một bộ
phận quân ta chặn đánh. Thấy cánh 1 bị diệt, cánh 2 không dám tiến vào
Cầu Cống mà phân thành hai bộ phận tiến xuống Trà Trót (Tập Sơn) và ấp
Ba (ngã ba Len) để chạy về Bắc Trang. Quân ta ở khu vực này bố trí quá
phân tán nên không diệt được địch. Địch về đến giồng Bà Của - Cổ Rạng,
bị một đại đội của tiểu đoàn 307 chặn đánh, chúng phải dừng quân, tổ
chức phòng ngự chờ viện binh.
Ngày 29, địch thả 70 dù tiếp tế
cho tiểu đoàn Ma-rốc. Ta xung phong lấy được ba dù, thu hai hòm đạn và
một máy vô tuyến điện. Cánh quân Ma-rốc cố gắng phá vòng vây để trở về
Bắc Trang. Địch cũng tiếp viện cho lực lượng ở Trà Cú 100 dù, sau đó
cánh quân này tổ chức đánh ra; ta bố trí mỏng nên một trung đội bị tiêu
hao nặng.
Ngày 30, địch được tăng viện nhưng chưa dám đánh ra.
Quân ta bao vây và hạ được tháp canh Nomen, bức hàng địch ở tháp canh
Trà Sót, tước khí giới và giải tán toàn bộ bảo an ở sóc Trà Sót. Quân
địch ở Cầu Cống phối hợp với một bộ phận ở Trà Cú cùng 30 xe bọc thép
tập trung ở Sóc Ruộng tiến đánh quân ta ở Đôn Châu. Bộ chỉ huy lệnh cho
tiểu đoàn 310 chặn đánh. Sáng 1 tháng 4, cánh quân này nhờ có gián điệp
chỉ điểm, khi tiến xuống đã phát hiện trận địa phục kích của ta. Trước
tình thế bất lợi, ta quyết định nổ súng rồi xung phong, bắt được một số
tù binh, số khác bỏ chạy, ta truy kích, nhưng do lực lượng quá ít, địch
tập trung binh lực và cơ giới phản kích, đội hình quân ta rối loạn, địch
đánh thẳng vào sở chỉ huy và giành lại số quân vừa bị ta bắt. Ta tiêu
diệt một số tên. Tiểu đoàn 310 bị tiêu hao nặng. Ta chủ động kết thúc
đợt 1.
Đợt 2 (từ ngày 7 đến ngày 11 tháng 4 năm 1950):
Địch
đã tăng cường một trung đội cho vị trí Cầu Ngang và tăng cường canh
phòng tuần tiễu nên Bộ chỉ huy quyết định thay đổi kế hoạch không đánh
Cầu Cống mà đánh giải phóng vùng Đôn Châu (có một cứ điểm và ba tháp
canh). Tiểu đoàn 307 được giao nhiệm vụ diệt cứ điểm Đôn Châu và phối
hợp với tiểu đoàn 309 diệt viện từ Hậu Giang đổ lên. Tiểu đoàn 308 và
một đại đội của tiểu đoàn 310 diệt ba tháp canh. Tiểu đoàn 312 diệt tháp
canh Mẽ Lánh và phục kích tàu địch trên sông Láng Sắt.
Địch ở
Đôn Châu có hơn một trung đội (có sáu lính Pháp). Đêm 7 tháng 4, tiểu
đoàn đào hào lấn vào tiếp cận địch rồi dùng xe trấu, chất củi xung quanh
cứ điểm phóng hỏa đốt (hỏa công). Đốt hai đêm liền nhưng không kết quả
vì địch dùng hoả lực bắn mạnh ngăn chặn ta tiếp cận.
Sáng 9
tháng 4, tiểu đoàn 308 hạ được một tháp canh, hai tháp còn lại địch sợ
bỏ chạy về Cầu Cống. Cùng ngày, tiểu đoàn 310 đánh đắm một tàu chiến
trên sông Láng Sắt. Ngày 11, địch dùng một tiểu đoàn có cơ giới và pháo
binh đi cùng từ Cầu Ngang tiến xuống chi viện cho Đôn Châu. Bộ chỉ huy
chỉ thị cho tiểu đoàn 307 ngừng đánh Đôn Châu, tập trung lực lượng đánh
quân tiếp viện. Nhưng vì tiểu đoàn 307 bố trí quân quá phân tán, tập
trung không kịp, chưa tổ chức chiến đấu xong thì địch đã đến sát trận
địa phục kích. Tiểu đoàn vẫn cố gắng tổ chức đánh tan được bốn đợt xung
phong, tiêu diệt được một số quân và xe cơ giới, buộc địch phải vòng qua
cánh đồng trống để vào Đôn Châu.
________________________________
1.
Ngày 24 tháng 8, trong khi bộ đội đang trên đường hành quân chiếm lĩnh
trận địa thì Bộ tư lệnh Khu 8 nhận được chỉ thị của trên là ngừng hoạt
động vì chiến trường chính Sóc Trăng chưa chuẩn bị xong. Nhưng vì thu
quân không kịp lại sợ lộ hoạt động của bộ đội nên Bộ tư lệnh Khu 8 quyết
định vẫn thực hiện kế hoạch tác chiến và chủ trương kéo dài đợt hoạt
động để phối hợp với chiến trường chính. 2. Cách
đánh tháp canh, vị trí địch: - Bộ đội ta dùng súng máy, súng trường bắn
khía từng viên gạch ở lỗ châu mai, dần dần lỗ châu mai mở rộng thì bộ
đội xung phong, ném lựu đạn vào. - Dùng xe chất đầy bao trấu đi
trước, hai, ba người theo sau tiếp cận địch. Khi tiếp cận rồi thì bắn
kiềm chế cho bộ đội vứt củi vào xung quanh tháp canh sau đó phóng hỏa,
gọi là “chiến thuật hỏa công”. - Dùng bùi nhùi tẩm xăng, châm
lửa rồi quăng lên nóc tháp canh khiến cho nóc tháp canh nóng bỏng. Đây
là sáng kiến của chiến sĩ Nam Bộ ở những năm đầu kháng chiến, khiến cho
quân địch rất sợ hãi. 3. Sách “Lực lượng vũ trang nhân dân Trà Vinh...” ghi: Ta diệt 60 tên, có bảy sĩ quan; bắt 14 sĩ quan trong đó có Rous - quan tư chỉ huy tiểu khu Trà Vinh.
|
|
|
|
|
Đợt 3 (từ ngày 3 đến ngày 7 tháng 5 lăm 1950).
Sau
hai đợt tác chiến, đạn còn quá ít (trung liên 100 viên, súng trường 20
viên/khẩu); bộ đội đã mệt mỏi, sức khoẻ giảm sút. Nhưng ngày 4 tháng 4,
chiến dịch Sóc Trăng đã mở màn; để phối hợp với mặt trận chính, Bộ chỉ
huy quyết định vượt mọi khó khăn, tiếp tục mở đợt 3, tác chiến trong
phạm vi Cầu Kè, Mặt Bắt, Tiểu Cần. Phương châm là đánh nhỏ, tránh mũi
nhọn của địch, kết hợp tác chiến với phá hoại, làm dân vận và địch vận.
Trong
bốn ngày đêm, bộ đội phân tán từng trung đội, đại đội tiến hành bao vây
các tháp canh, phum, sóc, kết hợp với kêu gọi binh lính địch trở về với
nhân dân. Lực lượng dân quân được sự yểm trợ của bộ đội đã cắt đứt các
tuyến giao thông Tiểu Cần - Trà Vinh, Tiểu Cần - Mặt Bắt và Tiểu Cần -
Cầu Kè. Các trục đường này bị hoàn toàn tê liệt đã tạo cơ hội tốt cho bộ
đội hạ được 11 tháp canh, giải tán được nhiều tổ chức bảo an và thu
được nhiều vũ khí của địch.
Vào 21 giờ đêm 30 tháng 4, quân ta
bao vây các bốt Sam Bua, Đông Ray, pháo kích sân bay Trà Vinh, tước vũ
khí bảo an Bào Kiến, hạ lô cốt Lu Tu, chiếm bốt Hồ Kiếm. Dân quân du
kích được sự hỗ trợ của công binh, phá các cầu Ô Chác, Huyền Hội; Bà
Lãnh và phá lộ.
Ngày 1 tháng 5, hạ lô cốt An Bình tại vàm Bông
Bót, hạ lô cốt Trinh Phụ trên đường Tiểu Cần - Mặt Bắt, đốt cháy lô cốt
Đại Trường, Lò Ngò, Lâm Vồ và Sa Đô, hạ lô cốt Cầu Tre, Tha La, Đình
Ông, bao vây tiến công mạnh các lô cốt Ban Chang, Ô Tà Rưng, giồng Cây
Hẹ, Sóc Kha. Dân quân tràn vào phá các trục lộ giao thông, đột nhập Cầu
Kè quấy rối. Trong ngày, phi cơ, pháo binh địch bắn dữ dội vào vùng
Huyền Hội, Ô Đùng, Cầu Kè. Sau đó địch từ Ô Chát cắt đường ruộng xuống
chi viện cho Tiểu Cần.
Ngày 2 tháng 5, địch cho phi pháo bắn phá
vùng phụ cận và dùng 25 xe chở khoảng một tiểu đoàn thuộc trung đoàn
RTA, thận trọng tiến quân xuống Tiểu Cần. Ngày 3 tháng 5, ta hạ lô cốt Ô
Tà Rưng, đêm đến pháo kích Tiểu Cần, Cầu Kè. Dân quân khẩn trương phá
lộ. Ngày 7 tháng 5, một tiểu đoàn bộ binh địch có 25 xe Cờ-ra-béc
(Crabes) và phi pháo yểm trợ, càn vào Tân An - Hựu Thành bắn giết dã
man. Đến 16 giờ 30 phút, ta chặn đánh gần chợ Thầy Phó xã Hựu Thành hạ
ba xe Cờ-ra-béc. Hơn nửa giờ sau cánh quân của ta ở Ngã Chánh cấp tốc
vận động đánh vào sườn đội hình địch. Chúng hoảng sợ rút về đồng Trà
Mẹt, bỏ lại nhiều xác chết và vũ khí.
Trên các hướng kiềm căng
địch: Ở Cầu Ngang, các lực lượng vũ trang và dân quân bao vây huyện lỵ,
bức rút đồn Bến Giá, bao vây đồn Sóc Ruộng, địch phải chi viện một trung
đội đến giữ. Du kích phá sập cầu Tân Lập, phá tuyến lộ từ Trà Vinh đi
Cầu Ngang nhiều ngày. Trục lộ 70 từ Trà Vinh đi Vĩnh Long ta liên tục
phá hoại. Ngay từ đầu chiến dịch ta đã đánh sập cầu Mỹ Huê, đốt cháy cầu
Mây Tức, gỡ hết ván cầu Ba Sỉ... Suốt chiến dịch ta làm chủ lộ 70, địch
chi viện phải dùng tàu đổ bộ lên Trà Vinh hoặc Tiểu Cần...
Ngày 7 tháng 5, Ban chỉ huy quyết định kết thúc chiến dịch1.
Các đơn vị được lệnh hành quân về căn cứ. Quân địch tưởng ta chưa rút
nên chúng dùng một tiểu đoàn cùng một đại đội cơ giới thọc sâu vào vùng
hậu phương của ta. Địch tiến đến xã Hữu Thành bị tiểu đoàn 310 chặn
đánh, bắn cháy ba xe lội nước, diệt toàn bộ số địch trên xe. Địch hoảng
sợ bỏ chạy về Cầu Kè, bỏ lại hơn 30 xác chết và nhiều vũ khí.
Kết quả:
ta đã diệt gần 700 tên địch, triệt hạ 30 tháp canh; bức rút sáu tháp
canh khác; thu 240 khẩu súng và cơ bản đã xoá bỏ hệ thống tổ chức bảo an
Miên của địch nằm trong thôn xóm.
Ta đã đạt được mục
đích của chiến dịch đề ra; tiêu hao tiêu diệt sinh lực địch với số lượng
tương đối lớn, hạ và bức rút được hệ thống tháp canh, giải tán được hệ
thống tổ chức bảo an Miên và thu nhiều vũ khí của địch để tăng cường cho
lực lượng ta. Chiến dịch Trà Vinh thắng lợi đã tạo thuận lợi và hỗ trợ
trực tiếp cho chiến dịch Sóc Trăng - hướng đánh chính, mặt trận chính
của Nam Bộ. Kết quả của chiến dịch vừa gây được thanh thế cho các đơn vị
chủ lực, vừa động viên tinh thần giết giặc lập công của lực lượng vũ
trang địa phương, gây được lòng tin lớn với quần chúng nhân dân; đồng
thời đã làm hoang mang, rệu rã tinh thần và tổ chức của địch trong vùng,
đặc biệt là lực lượng bảo an Miên.
Bộ tư lệnh Khu 8 đã “chọn
chiến trường” đúng nơi địch vốn đã yếu lại bố trí phân tán, công sự
phòng thủ sơ sài và gần sát hậu phương của ta. Về tổ chức chỉ huy, việc
đưa thành viên trong ủy ban kháng chiến hành chính tỉnh vào Ban chỉ huy
chiến dịch đã thống nhất được các lực lượng tham gia chiến dịch, làm cho
hành động giữa quân chủ lực và lực lượng vũ trang địa phương luôn ăn
khớp, tiêu biểu nhất là ở đợt 3, chủ lực bao vây và hạ tháp canh, lực
lượng vũ trang địa phương thì phục kích và chặn cắt giao thông rất hiệu
quả. Do đó, đã huy động được lực lượng to lớn của quần chúng nhân dân
tham gia phá hoại, tiếp tế, cung cấp lương thực, tải thương, v.v... Sử
dụng lực lượng theo kiểu phân tán, phân phạm vi hoạt động cho từng tiểu
đoàn, không có mục tiêu tập trung, không tổ chức lực lượng dự bị - cách
tổ chức này ở tại thời điểm và chiến trường diễn ra chiến dịch là phù
hợp, phát huy được tính chủ động của các đơn vị. Nhưng theo đó, cũng bộc
lộ nhược điểm lớn là, không phát huy và đáp ứng được yêu cầu về chiến
thuật của quân đội ta. Suốt chiến dịch ta chỉ vận dụng hình thức chủ yếu
là phục kích và bao vây tháp canh, với lối đánh “hoả công” tuy đạt được
mục đích nhưng thể hiện rõ tính chất “du kích chiến”, trình độ còn rất
hạn chế của quân ta. Trong sử dụng lực lượng có lúc chưa phù hợp nên hạn
chế đến hiệu suất chiến đấu (tiểu đoàn 308 có kinh nghiệm đánh cứ điểm
lại không giao cho đánh Đôn Châu mà giao cho tiểu đoàn 307 là đơn vị
giỏi đánh phục kích, nên đã không đánh được Đôn Châu). Mệnh lệnh của
người chỉ huy trong nhiều tình huống còn chưa cụ thể rõ ràng, đơn vị
thực hiện khó.
Các chính sách chiến trường (dân vận, địch vận,
thương binh, tử sĩ...) cơ bản làm tốt, mang lại hiệu quả lớn cho chiến
dịch. Nhưng có lúc, có nơi còn khuyết điểm: quân phiệt với dân quân, bản
vị địa phương, một số thương binh bị tử vong vì chăm sóc không chu đáo,
cá biệt có đơn vị đối xử không đúng chính sách với tù, hàng binh. Những
khuyết điểm này ảnh hưởng xấu đến đơn vị và hạn chế thành tích của
chiến dịch.
____________________________________
1. Sách “Lực lượng vũ trang nhân dân Trà Vinh...”
ghi: Chiến dịch Trà Vinh, quân ta đánh chiếm 22 lô cốt: Giồng Lức, Tua
Thóc, Củ Chi, ngã Ba Trẹm, Sà Lơn, Sóc Ruộng, Nộ Men, Trà Sất Ngoài, Ba
Cụm ngoài, Lộ Quẹo, Bà Nhì, kinh La Bang, chùa La Bang, Lu Tu, Đình Ông,
Tha La, Hồ Kiếm, Lâm Vồ, Trinh Phụ, An Bình, Sư Độ, Cầu Tre; huỷ diệt
hai lô cốt: Lò Ngò, Đại Trường; bức rút sáu lô cốt: Tra Suất trong, Ba
Cụm trong, Lạc Sơn, Bến Giá, Cầu Xây, Mé Láng; bắn cháy một tàu, một sà
lan, một xe bọc thép, sáu xe lội nước. Ta diệt và làm bị thương 650 tên
(có năm quan hai chết). Bắt tù binh 125 tên; hàng binh 184; thu 43 súng
(có hai cối 60mm, ba trung liên, 11 tiểu liên, ba Thom Sơn, một vạn viên
đạn, 500 lựu đạn); ba máy vô tuyến điện và một máy phát điện; phá hư
sáu cầu; đào 500m3 đường, đắp 230 mô, đốn ngả 1800 cây cản đường; cắt gần 2.000 mét dây điện...
Ta hy sinh 22 Vệ quốc đoàn, 13 dân quân, bị thương 157 đồng chí, mất
một cối 60mm, hai đại liên, hai trung liên và 12 súng trường.
|
|
|
|
|
CHIẾN DỊCH SÓC TRĂNG 1*
(Tiến công, từ ngày 4 đến ngày 30 tháng 4 năm 1950).
Sóc
Trăng vựa lúa của miền Tây Nam Bộ nằm ở cuối lưu vực sông Hậu, sát biển
Đông với ba cửa biển lớn tàu bè ra vào thuận tiện: cửa Trần Đề, Định An
và Mỹ Thanh. Sóc Trăng là tỉnh đồng bằng châu thổ, không có rừng núi,
chỉ có rừng chồi ngập mặn ven biển, có nhiều cù lao lớn như cù lao Dung,
Phong Nẩm... Hệ thống kênh, rạch, sông chằng chịt, sông Bá Sắc với hai
cửa lớn, tàu 10 vạn tấn có thể ra vào; sông Mỹ Thanh từ cửa biển Mỹ
Thanh vào Cổ Cò, Vàm Lẻo đến trung tâm thị xã Bạc Liêu; sông Xanh Ta,
kênh Quảng Lộ, Phụng Hiệp tàu hàng ngàn tấn đi lại dễ dàng. Đường bộ có
quốc lộ 1 chạy giữa tỉnh nối liền từ Cần Thơ qua trung tâm thị xã Sóc
Trăng đến Bạc Liêu, nối với các tuyến tỉnh lộ, huyện lộ và đường vành
đai ven biển.
Nhân dân Sóc Trăng hơn một nửa là người Kinh, còn
lại người Khơ-me chiếm hai phần ba và một phần ba là người Hoa kiều và
những người có quốc tịch Pháp. Bởi vậy từ năm 1949 đến đầu 1950, thực
dân Pháp vừa ra sức củng cố hệ thống đồn bốt tháp canh ở Sóc Trăng, vừa
ráo riết xây dựng mạng lưới tề điệp, ngụy quân, ngụy quyền, các sóc
Khơ-me vũ trang, tuyên truyền phản động để chia rẽ dân tộc, ra sức xây
dựng địa bàn thành hậu phương vững chắc của chúng để có điều kiện đối
phó với chiến trường Bắc Bộ ngày càng nóng bỏng, đối phó với thực trạng
thiếu quân số nghiêm trọng của chúng.
Về phía ta, Trung ương chỉ
đạo tiếp tục đẩy mạnh cuộc kháng chiến trên chiến trường toàn quốc và
giành thế chủ động trên chiến trường Nam Bộ, mở các chiến dịch liên hoàn
để phối hợp với chiến trường chính mở Chiến dịch Biên Giới. Thực hiện
chủ trương đó, Khu uỷ và Bộ Tư lệnh Khu 9 quyết định mở Chiến dịch mùa Xuân
và chọn Sóc Trăng làm chiến trường chính. Mục đích của chiến dịch là:
Phá hậu phương, thu hẹp phạm vi kiểm soát của địch, phá âm mưu chia rẽ
dân tộc của chúng; đồng thời tiêu hao, tiêu diệt sinh lực địch, tích cực
kiềm chế địch tại chỗ, không để chúng đưa quân ra Bắc Bộ. Khu vực mở
chiến dịch là địa bàn ba huyện Châu Thành, Thạnh Trị và Kế Sách; hướng
chủ yếu là huyện Châu Thành. Phương châm tác chiến là: đánh điểm, vây
điểm để diệt viện, đồng thời với vũ trang tuyên truyền và phá hoại giao
thông.
Lực lượng tham gia chiến dịch có tiểu đoàn 402 chủ
lực của Khu và tiểu đoàn 404 chủ lực Nam Bộ, ba đại đội (1098, 1089 và
1094) thuộc liên trung đoàn 123 - 125, và lực lượng dân quân du kích của
ba huyện Châu Thành, Thạnh Trị và Kế Sách và đơn vị Ít-sa-rắc. Lực
lượng phục vụ chiến dịch có 7.000 dân công của hai tỉnh Bạc Liêu và Sóc
Trăng.
Bộ tư lệnh Nam Bộ cử đồng chí Võ Quang Anh làm Tư lệnh
chiến dịch, đồng chí Nguyễn Hoàn làm Chính uỷ. Tỉnh ủy và Ủy ban kháng
chiến hành chính tỉnh Sóc Trăng đã tập trung chỉ đạo, lãnh đạo địa
phương đẩy mạnh hoạt động và phục vụ chiến dịch.
Bộ chỉ huy
chiến dịch đã chia địa bàn thành ba mặt trận và phân công nhiệm vụ tác
chiến cho từng đơn vị: Mặt trận A (mặt trận chính) tại huyện Châu Thành,
do các tiểu đoàn 402, 404, đại đội 2006, trung đội du kích Châu Thành,
đội biệt động và đại đội công binh đảm nhiệm. Mặt trận B tại huyện Kế
Sách và một phần huyện Long Phú do các đại đội 1089, 1098, trung đội
Ít-sa-rắc và dân quân du kích hai huyện đó đảm nhiệm. Mặt trận C tại
huyện Thạnh Trị do đại đội 1094, trung đội du kích huyện Thạnh Trị và
một bộ phận công binh đảm nhiệm.
Đêm 4 tháng 4, đại đội 3003 chủ
lực Nam Bộ nổ súng tiến công đồn Bưng Tróp trên trục lộ An Thạch đi Bố
Thảo, cách thị xã 12 ki-lô-mét, do một trung đội lính Khơ-me và hai chỉ
huy Pháp đóng giữ. Ta nổ súng muộn nên không diệt được đồn, phải chuyển
sang bao vây để chờ đến đêm hôm sau. Đêm 5 rạng ngày 6 tháng 4, ta tiến
công đến 3 giờ sáng thì địch đầu hàng. Ta bắt tù binh, thu vũ khí và san
bằng đồn. Lực lượng chính trị và dân quân du kích chiếm tuyến Bưng Tróp
làm công tác tuyên truyền vận động quần chúng và truy bắt, giáo dục và
giải tán lực lượng Khơ-me phản động ở đây.
Sáng 6 tháng 4, một
đoàn xe quân sự chở khoảng một đại đội từ thị xã Sóc Trăng kéo theo một
đại bác 90mm vào chi viện, vì đường sá dân quân ta phá nên chúng phải
xuống đi bộ. 11 giờ, địch hành quân đến đoạn Bố Thảo - Mỹ Phước thì lọt
vào trận địa phục kích của ta. Ta nổ súng diệt gọn và thu vũ khí (khẩu
đại bác địch phá cụt nòng nên ta bỏ lại, ta thu 30 súng có một khẩu cối
60mm và một trung liên). Địch cho máy bay đến bắn phá trận địa. Ta vừa
rút lui vừa bắn máy bay. Sau trận công đồn diệt viện đầu tiên giành
thắng lợi, địch ở Sóc Trăng lo sợ không dám ra tiếp cứu phải xin Sài Gòn
chi viện bằng máy bay. Nhiều phum, sóc, chùa chiền bị máy bay bắn phá
hư hỏng. Chính quyền địa phương Châu Thành vẫn huy động 2.000 nhân dân
ra phá các lộ Ba Rinh - Đông Dương, Xeo Gừa - Bố Thảo, Bố Thảo - Sóc
Trăng, để ngăn cản việc di chuyển của địch.
Từ ngày 7 đến ngày
17 tháng 4, lực lượng vũ trang đẩy mạnh vũ trang tuyên truyền. Các tiểu
đoàn được phân tán vào các xóm, chùa nói chuyện tuyên truyền cách mạng
cho quần chúng nhân dân. Bộ đội địa phương huyện Châu Thành liên tục
pháo kích các lô cốt trên tuyến lộ Đông Dương, phát loa kêu gọi, bức rút
một số tháp canh. Ở huyện Kế Sách, Long Phú lực lượng vũ trang tiến
công gỡ đồn Tập Rèn (Kế Sách) và một đồn ở Long Phú, thu toàn bộ vũ khí.
Đại đội 1098 mở nhiều cuộc vũ trang tuyên truyền từ ngã ba An Trạch đi
Vũng Thơm và trên tuyến lộ Chung Đôn sát thị xã Sóc Trăng. 1.500 dân
quân huyện Kế Sách phá hoại tuyến đường Vũng Thơm - Kế Sách, Vũng Thơm -
Trường Khánh. Đại đội 1089 tiến hành vũ trang tuyên truyền trên tuyến
lộ Tân Hương đi Long Phú. Hàng ngàn đồng bào tham gia phá lộ Cái Oanh đi
Long Phú.
Dân quân du kích huyện Thạnh Trị phá sập cầu Cà Lâm
và phá banh lộ Cà Lâm đi Gia Hội. Đại đội 1094 tổ chức nhiều cuộc vũ
trang tuyên truyền với đồng bào Khơ me ở Trà Cuôn - Thanh Phú.
Ngày
24 tháng 4, một đại đội thuộc tiểu đoàn 402 đánh đồn Xã Vì. Ngày 27
tháng 4, tiểu đoàn 402 đánh đồn Gióc-đan (Jourdan) đều không đạt kết
quả.
Ngày 25 tháng 4, tiểu đoàn chủ lực Nam Bộ, có pháo 90mm yểm
trợ, tiến công đồn Mỹ Phước. Sáng hôm sau, ngày 26 tháng 4, địch cho
quân tiếp viện, ta phục kích đánh tiêu diệt một trung đội địch trên lộ
Bố Thảo - Tam Sóc, thu một số vũ khí. Chiến dịch kết thúc ngày 30 tháng 4
năm 1950.
Kết quả: Ta diệt được đồn Bưng Tróp, loại khỏi vòng
chiến đấu hơn một đại đội tiếp viện của địch, thu một pháo 90mm và một
số súng đạn. Về quân sự ta không giành được thắng lợi trọn vẹn như mục
tiêu chiến dịch đề ra, nhưng về chính trị ta đã giành thắng lợi rất lớn.
Ta đã phá vỡ và thâm nhập được vùng mà địch vẫn cho là “bất khả xâm
phạm”; bằng tuyên truyền vũ trang, ta đã đưa được tiếng nói của cách
mạng, “tiếng nói kháng chiến” của “bộ đội Cụ Hồ” vào giác ngộ cho hàng
vạn lượt đồng bào trong vùng đang bị địch kìm kẹp và chia rẽ. Từ đó, làm
lung lạc tinh thần binh lính ngụy, thực hiện được ý định chiến dịch:
căng kéo và kìm chân lực lượng của địch, không cho chúng mở rộng vùng
chiếm đóng, bình định hậu phương và tiếp viện cho chiến trường Bắc Bộ.
Cũng từ các cuộc vũ trang tuyên truyền, ta đã huy động được hàng nghìn
quần chúng nhân dân tham gia phá đường, tiếp lương tải đạn phục vụ chiến
dịch. Đây là thành quả lớn nhất của Chiến dịch Sóc Trăng 1.
Trong
nghệ thuật chiến dịch ta còn bộc lộ nhược điểm là: Trong kế hoạch, chưa
dự kiến hết khả năng đối phó bằng phi pháo của địch nên khi tình huống
xảy ra ta rơi vào thế bị động, lúng túng và không tổ chức bắn trả được
máy bay địch. Công tác nắm địch làm chưa tốt, lực lượng ta bố trí dàn
trải, không tập trung vào những mục tiêu chính nên hạn chế đến kết quả
của chiến dịch.
________________________________________
*.Lúc đầu lấy tên là Chiến dịch TOFACO (tổng phản công). Sau này đổi tên là “Chiến dịch Sóc Trăng 1”.
________________________________________
|
|
|