Gangster Squad dựa trên chiến dịch trừ khử băng nhóm tội phạm của trùm
Mickey Cohen trong thập kỷ 40 và 50 ở bang Los Angeles. John O’Mara vừa
xuất ngũ về Los Angeles và nhận thấy bạo lực tràn ngập thành phố này.
Luật pháp bó tay còn cảnh sát trưởng chỉ biết nhận xét: “Chúng ta đã bị
xâm lược”. Dĩ nhiên không chịu để thành phố rơi vào tay cái ác, John thu
thập một đội ngũ thanh niên đứng lên lật đổ băng phái Cohen. Không chơi
theo luật hay chiến lược, họ tập trung vào một trận đấu quyết tử để
giành lại công lý cho thành phố...
Thứ Bảy, 30 tháng 7, 2016
Xem phim: "Đội Quân Găngxtơ"
ĐC sưu tầm trên NET)
Like fanpage để cập nhật phim mới
Xem tiếp...
Đội Quân Găngxtơ - Gangster Squad - 2012
Tên phim: Đội Quân Găngxtơ - Gangster Squad - 2012
Đạo diễn: Ruben Fleischer
Diễn viên: Sean Penn, Ryan Gosling, Emma Stone, Julianna Guill, Richard Chamberlain, Nick Swardson, Lance Bass
Thể loại: Phiêu Lưu - Hành Động, Tâm Lý - Tình Cảm
Quốc gia: Mỹ - Châu Âu
Nhà sản xuất: GK Films
Thời lượng: 113 phút + Loại phim: Phụ đề + Điểm IMDB: 7.0/10 +64708 Lượt bình chọn
Năm phát hành: 2012
Đạo diễn: Ruben Fleischer
Diễn viên: Sean Penn, Ryan Gosling, Emma Stone, Julianna Guill, Richard Chamberlain, Nick Swardson, Lance Bass
Thể loại: Phiêu Lưu - Hành Động, Tâm Lý - Tình Cảm
Quốc gia: Mỹ - Châu Âu
Nhà sản xuất: GK Films
Thời lượng: 113 phút + Loại phim: Phụ đề + Điểm IMDB: 7.0/10 +64708 Lượt bình chọn
Năm phát hành: 2012
VÕ THUẬT TINH HOA 46
(ĐC sưu tầm trên NET)
Võ sư Ngô Bông (còn có tên là Lâm Hổ hay Lâm Hổ Ngô Bông), sinh năm 1928 (theo thẻ căn cước của võ sư) trong một gia đình nghèo ở huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Cha bị quân Pháp sát hại, mẹ mất sớm nên ông phải về nhà ngoại ở. Tại đó, ông được hai cậu ruột là Lê Chót và Lê Thùy dạy võ Tây Sơn. Trong số những bài võ ấy có Hùng Kê quyền, tương truyền do Nguyễn Lữ sáng tác từ các thế đánh của gà chọi. Khi trưởng thành, võ sư Ngô Bông theo học võ Thiếu Lâm với hai người thầy nổi tiếng ở Quảng Ngãi là Bảo Truy Phong (Gấu già) và Lâm Võ. Cũng như nhiều võ sinh lúc bấy giờ, võ sư Ngô Bông nhiều lần thượng đài thi đấu quyền Anh và võ tự do. Ông đã từng thắng nhiều võ sĩ tên tuổi lúc bấy giờ như Đinh Hổ (võ sĩ Campuchia), Đinh Đam (võ sĩ người Huế), Trực Hùng, Trực Ninh...
Bắt đầu theo nghiệp võ từ năm 11 tuổi. Suốt mấy chục năm tầm sư học đạo, khổ luyện những chiêu thức tinh hoa của võ nghệ, võ sư Ngô Bông thông thạo được nhiều loại vũ khí như: đao, thương, kiếm, côn... Thời đó, võ sư Bảo Truy Phong và Lâm Võ, hai người thầy của Ngô Bông, đã đặt cho ông biệt danh Lâm Hổ bởi ông Ngô Bông đã nhiều năm khổ luyện thành công các bài Hắc hổ, Mãnh hổ xuất sơn, Hắc hổ hạ sơn, Ngọa hổ phục lâm. Để có bộ trảo như móng vuốt của hổ, ông đã khổ công luyện Thiết sa chưởng với cát và sỏi. Từ đó, 10 ngón tay ông được cho là có thể chọc thủng tường gạch, phá tan đá, gỗ. Một danh sư trong làng võ khẳng định về Lâm Hổ Ngô Bông: "Ngoài bài Hùng Kê quyền, lão võ sư này còn nhiều bài quyền mà làng võ Việt Nam sắp thất truyền". Điều khác biệt giữa lão võ sư Ngô Bông và các võ sư khác ở Quảng Ngãi là ông chuyên tâm nghiên cứu về võ cổ truyền. Võ sư Tấn Tương Lai, Chủ tịch Liên đoàn võ thuật tỉnh Quảng Ngãi, người từng làm tổ trưởng trọng tài quốc gia và có cơ hội cọ xát với nhiều môn phái, khẳng định: "Rất là độc đáo, bài võ cổ truyền nổi tiếng nào hô lên là võ sư Ngô Bông thuộc làu".
Các học trò của võ sư Ngô Bông có nhiều người thành danh. Ngô Ân, Ngô Lâm, Ngô Sĩ, Ngô Ngân, Nguyễn Văn Thiều, Ngô Dung... từng đoạt huy chương vàng, bạc tại các giải võ cổ truyền Quảng Ngãi hoặc giải vô địch toàn quốc. Võ sư Ngô Bông chọn và dạy học trò rất kỹ lưỡng do ông quan niệm ngoài việc dạy võ, người thầy phải dạy cho võ sinh cách sống ở đời. Võ sư Ngô Bông thường tìm hiểu và thử thách võ sinh một thời gian, nếu xét thấy siêng năng, cần cù, biết vâng lời, chung thủy, có tư cách, không tự ái, không bê tha tửu sắc thì mới nhận làm học trò chính thức. Với những đóng góp cho phong trào võ thuật, võ sư Ngô Bông được Liên đoàn võ thuật cổ truyền Việt Nam mời làm cố vấn khi liên đoàn này mới thành lập. Năm 2004, lúc ông Ngô Bông đã ngoài 70 tuổi, tại Liên hoan võ thuật truyền thống thế giới tổ chức tại Hàn Quốc, trước 70 môn phái võ thuật nổi tiếng của nhiều nước, bài Hùng Kê quyền do chính lão võ sư thể hiện đã nhận được sự hoan nghênh nhiệt liệt. Với những đóng góp cho sự nghiệp võ cổ truyền của dân tộc, võ sư Ngô Bông đã được Ủy ban Thể dục thể thao tặng huy chương Vì sự nghiệp thể dục thể thao.
Ông Ngô Bông được giới võ thuật cả nước biết đến với tư cách là võ sư duy nhất phục dựng toàn bộ bài võ Hùng Kê quyền của Nguyễn Lữ, người em út của nhà Tây Sơn. Đây là thế võ dựa vào các miếng đánh của gà chọi và "nâng cấp" lên thành một trường phái trong võ cổ truyền. Miếng đánh "song túc tề phi" (hai chân cùng bay) này đã góp phần không nhỏ trong những lần chinh Nam dẹp Bắc của quân Tây Sơn, nhất là lần tiến quân ra Thăng Long vào mùa xuân năm Kỷ Dậu 1789, đại phá 29 vạn quân Thanh.
Tuy nhiên, thế võ độc đáo ấy đã "sụp đổ" cùng nhà Tây Sơn và thất truyền suốt mấy trăm năm qua. Cho đến một ngày, cách đây gần 20 năm, võ sư Ngô Bông đã làm cho giới võ thuật cả nước kinh ngạc với "miếng đánh" của Hùng Kê quyền cùng bài thiệu đi kèm, nói về xuất xứ của nó. Đó là năm 1993, nhân Giải võ cổ truyền toàn quốc tổ chức tại TP Hồ Chí Minh, ban tổ chức yêu cầu các võ sư biểu diễn bài quyền nào thì phải kèm theo "xuất xứ" của nó.
"Hùng Kê quyền" là do một trong ba anh em Tây Sơn, Nguyễn Lữ sáng tạo. Vốn người mảnh khảnh, yếu hơn các anh mình là Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ. Tính Nguyễn Lữ hiền hòa, ưa thanh tịnh, thích giao du với các nhà sư Ấn Độ và Trung Quốc, thích học văn hơn học võ. Tuy nhiên, với tư cách một trong những võ tướng đầu lĩnh của Tây Sơn khởi nghĩa, ông cũng đã học thập bát ban võ nghệ và chuyên về môn Miên quyền, Nhu quyền.
Ông nhận thấy võ thuật Thiếu Lâm phần nhiều thiên về dương cương, có những điểm không phù hợp với thể chất người Việt Nam. Để học thông môn phái Thiếu Lâm phải mất hàng chục năm, trong khi yêu cầu cấp bách của nghĩa quân là tinh thông võ nghệ càng nhanh càng tốt. Nguyễn Lữ cũng say mê nghệ thuật chọi gà. Trong một dịp tết, ông quan sát đôi gà chọi, một con to lớn kềnh càng, dũng mãnh, mặt đỏ gay, các đòn nặng nề sát thủ và một con nhỏ bé mà linh hoạt. Nhưng con gà to lớn kia đã liên tục phải cúp đuôi bỏ chạy trước sức tấn công bền bỉ, liên tiếp, nhanh như chớp của con gà nhỏ.
Từ đó ông nghiệm ra nguyên lý của nước mà con gà nhỏ đã áp dụng theo bản năng miên viễn, bền bỉ, nhẹ nhàng nhưng dữ dội, có thể chọc phá bất cứ một sơ hở nhỏ nào. Ông đã sáng tạo ra bài "Hùng Kê quyền" vừa phù hợp với sở học của bản thân, vừa phù hợp với thể chất người Việt nói chung, vừa thích ứng với nhu cầu cấp thiết của nghĩa quân Tây Sơn giai đoạn đó. Đặc tính của nước được áp dụng trong bài bằng những yếu lĩnh, nhằm đến mục tiêu yếu có thể đánh mạnh, thấp có thể đánh cao, nhỏ có thể đánh lớn, ít có thể đánh nhiều, gần có thể đánh xa.
Như những động tác dũng mãnh của con gà chọi nhỏ bé mà nhanh nhạy trước đối thủ, bài Hùng Kê quyền sử dụng ngón tay trỏ để đâm (nhất dương chỉ) mô phỏng hình mỏ gà, và các ngón còn lại co vào như chiếc cựa gà. Thủ pháp độc đáo như vậy lại nhằm vào những mục tiêu hiểm của đối thủ, như các huyệt đạo, ngực, hầu... Bộ pháp của bài hết sức linh hoạt, thần tốc, xoay chuyển một cách biến ảo đã hỗ trợ cho việc thi triển thủ pháp một cách kiến hiệu, khiến đối thủ luôn phải hứng chịu những đòn thế có tính sát thương cực cao.
Hùng Kê quyền ra đời trên đất Bình Định, nhưng lại được một võ sư Quảng Ngãi "ủ lửa" hơn 200 năm sau mới có dịp trình làng. Và võ sư Ngô Bông đã trở thành "truyền nhân" của Hùng Kê quyền, được Liên đoàn Võ thuật VN công nhận. Ông đã mang Hùng Kê quyền đi khắp năm châu bốn bể. Đến đâu biểu diễn Hùng Kê quyền, giới võ thuật cũng hết lời khen ngợi và nể phục về thế võ độc nhất vô nhị này, lại được một võ sư đã vượt ngưỡng tám mươi gìn giữ trọn vẹn.
Sưu tầm
Ở cái tuổi 79 nhưng thân pháp của võ sư Ngô Bông vẫn mềm mại như rồng, mau lẹ như báo, mãnh liệt như hổ. Ánh mắt như xuyên thấu tâm can đối thủ, mười ngón tay quắp lại hình ngũ trảo tung ra, vuốt vào, xoáy tròn, bất thần đập ngược trở lại. Gân cốt trên bắp tay của lão võ sư như cuộn dây thừng bện chặt. Bất cứ vật gì rơi vào vòng xoắn của ngũ trảo thép đều bị bấu nát và bẻ gãy trong nháy mắt.
Bắt đầu theo nghiệp võ từ năm 11 tuổi. Suốt mấy chục năm tầm sư học đạo, khổ luyện những chiêu thức tinh hoa của võ nghệ, võ sư Ngô Bông đã thông thạo được nhiều tuyệt kỹ: đao, thương, kiếm, côn, quyền… Thời đó, võ sư Bảo Tuy Phong và Lâm Võ - hai người thầy lừng danh ở Quảng Ngãi đã đặt cho người học trò của mình biệt danh Lâm Hổ. Bởi võ sư Ngô Bông đã nhiều năm khổ luyện thành công các bài Hắc hổ, Mãnh hổ xuất sơn, Hắc hổ hạ sơn, Ngọa hổ phục lâm. Để có bộ trảo như móng vuốt của hổ, ông đã khổ công luyện thiết sa chưởng với cát, sỏi. Từ đó, mười ngón tay dường như có thể chọc thủng tường gạch, phá tan đá, gỗ; mỗi lần tung đòn, uy lực của ngũ trảo ào ạt như vũ bão.
Qua câu chuyện thì suốt mấy chục năm qua, đòn ngũ trảo đã theo ông phiêu bạt ra Bắc, vào Nam, qua Thái Lan…thi đấu không biết bao nhiêu trận và đều mang về chiến thắng vang dội.
Ngoài võ thuật, sở thích nuôi gà chọi có liên quan với niềm đam mê võ thuật của lão võ sư Ngô Bông - một trong những truyền nhân của bài võ Hùng kê quyền nổi tiếng của anh em nhà Tây Sơn tam kiệt ngoài hàng loạt bài: Nghiêm thương của Nguyễn Huệ, Thanh Long đại chiến, Hùng gia quyền, Mai hoa quyền…
Cha bị bắt đưa đi Côn Lôn khi ông vừa sinh ra được ba ngày. Người mẹ vào Nam tìm chồng cũng bặt tin và chết sau đó ít lâu. Ban ngày chăn trâu, ban đêm ông và bạn bè bí mật vào khu Gò Cháy để học võ của cậu Sáu - một người uyên thâm võ học của Tây Sơn. Thời đó, nếu lý trưởng, hương mục và ông trùm mà phát hiện học võ thì tất cả sẽ bị phạt bỏ vào nhà lao. Mỗi lần tập xong, ông mò về nhà và cố nuốt hai bát cơm nguội ụp chung.
Lớn lên trong cảnh côi cút và cùng cực, lão võ sư Ngô Bông dường như thấu hiểu cuộc đời như võ học: “Võ thì cả đời cũng không thể biết hết được; học võ cốt để giúp đời”. Tâm niệm điều này, thời trai trẻ ông đã mang võ học đi đánh giặc. Các địa danh Tu Bông, Dốc Mõ, Dốc Quýt, Xóm Cút đều lần lượt in dấu chân ông. Trở thành lính của Tiểu đoàn 365 đóng quân tại Phú Yên.
“Ai vật khỏe nhất sẽ được thưởng” - trong một lần nghe Tiểu đoàn trưởng Hà Duy Tùng tuyên bố, chàng trai cân nặng 58 kg đã xông ra đọ sức với người cận vệ của tiểu đoàn trưởng có sức khỏe như voi, nặng 72 kg. Lần lượt ba hiệp, ông tung đòn tảo địa cước, kết hợp với thế quật của Hùng kê quyền và ném chàng cận vệ khổng lồ này lăn kềnh ra đất. Từ đó, ông trở thành cận vệ số một suốt ba năm của tiểu đoàn trưởng. Sau đó, Trung đội mồ côi có 48 người được thành lập và ông chịu trách nhiệm huấn luyện võ thuật. Điều đặc biệt là tất cả những người trong đơn vị này đều có hoàn cảnh không cha mẹ. Dù vũ khí còn thiếu thốn, chỉ có độc khẩu Max76, tuy nhiên trung đội mồ côi đã làm điên đầu bọn giặc.
Nhiều trận đánh giáp lá cà, biệt danh lâm tướng của ông lại nổi như cồn bởi lúc cận chiến, nhiều tên giặc đã ngã gục dưới uy lực của ngũ trảo từ trong rừng bất thần xuất hiện. “Lúc bom rơi, đạn nổ, sức mạnh của ngũ trảo dường như khó có thể lường được” - ông cho biết. Với sức vóc như hổ, nhiều trận ông cõng đồng đội bị thương chạy băng băng thoát ra khỏi họng súng. Rồi trong một trận đánh, ông bị thương nặng và phải trở về quê để an dưỡng và tiếp tục ôn luyện nghiệp võ.
Nặng lòng với võ Tây Sơn
Ngoài võ thuật được học của nhiều sư phụ, kinh nghiệm ông thu nạp được nhờ nhiều trận tử chiến với những võ sĩ lừng danh thiên hạ. Ông từng qua Thái Lan nghênh chiến bốn lần thì bị thua một, huề một, thắng hai. “Gay go và ác liệt nhất là gặp võ sĩ Phi-nát, nó toàn chơi đòn phá ngựa, chỏ lật rất gian ác. Trận đầu bị nó đánh rớt ngay sau vài hiệp. Về luyện tập và tiếp tục qua giao đấu. Ròng rã sáu hiệp, hai bên bắt tay xin hòa” - ông kể lại những trận tử chiến của mình.
Lưỡng kê giao nạp thủy tranh hùng
Song túc tề phi trảo thượng xung
Trấn ải kim thương như bạch hổ
Phủ quan ngân kiếm tựa thanh long
Xuyên khung độc tiễn tăng ư trác
Hồi thủ đơn câu thủ tứ hung
Khiêu, tẩu, rượt, đâm thiên sở tứ
Nhu, cương, cường, nhược, tận kỳ trung…
Đó là lời thiệu trong bài Hùng kê quyền của Nguyễn Nhạc…Đọc lời thiệu xong, ông đi một lượt bài Hùng kê quyền.
Còn đây là lời thiệu trong bài “Thanh long đại pháp nhị kim cương”
của Triệu Tử Long, một vị tướng thời kỳ cuối nhà Đông Hán và thời Tam
Quốc mà sau này nghĩa quân Tây Sơn cũng sử dụng…Ông đi như múa với cây
đại đao đầy mãnh lực. Dù đã già nhưng trí nhớ ông dường như thuộc làu
những điều đã học trong võ thuật.
Gia đình lão võ sư Ngô Bông có tám người con, Ngô Lâm Em và Ngô Sỹ là hai con trai nối nghiệp võ của cha. Ngoài ra, ông còn có hàng ngàn môn sinh được truyền thụ võ thuật. “Nghề võ không giàu nhưng cả đời tôi mong truyền thụ cho con cháu, sau này không mất đi những tinh hoa mà các thế hệ cha ông đã khổ luyện để giữ gìn non sông, bờ cõi” - hỏi về dự định trong tương lai, lão võ sư Ngô Bông chia sẻ tâm nguyện của mình trong những ngày cuối năm như vậy.
Vóc người nhỏ bé nhưng lão võ sư tinh
thông rất nhiều tuyệt kỹ và được ví như một 'mãnh hổ' của làng võ Việt.
Huyền thoại khét tiếng
Võ sư Ngô Bông (còn có tên là Lâm Hổ hay Lâm Hổ Ngô Bông), sinh năm 1928 trong một gia đình nghèo ở huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi.
Cha bị quân Pháp sát hại, mẹ mất sớm nên ông phải về nhà ngoại ở. Tại đó, ông được 2 cậu ruột dạy võ Tây Sơn.
Trong số những bài võ ấy có Hùng kê quyền, tuyệt kỹ do danh tướng Nguyễn Lữ thời Tây Sơn sáng tạo từ các thế đánh của gà chọi.
Hồi trẻ, võ sư Ngô Bông còn theo học võ Thiếu Lâm với 2 người thầy nổi tiếng ở Quảng Ngãi là Bảo Truy Phong (Gấu già) và Lâm Võ.
Cũng như nhiều võ sĩ lúc đương thời, Ngô Bông nhiều lần thượng đài thi đấu quyền Anh và võ tự do.
Theo nhiều tài liệu có ghi lại, bắt đầu đến với võ thuật từ năm 11 tuổi cho đến suốt mấy chục năm tầm sư học đạo, khổ luyện những chiêu thức tinh hoa của võ nghệ, võ sư Ngô Bông thông thạo được nhiều loại vũ khí như: đao, thương, kiếm, côn...
Thời đó, 2 người thầy của Ngô Bông là võ sư Bảo Truy Phong và Lâm Võ đã đặt cho Ngô Bông biệt danh Lâm Hổ bởi ông đã nhiều năm khổ luyện thành công các bài Hắc hổ, Mãnh hổ xuất sơn, Hắc hổ hạ sơn, Ngọa hổ phục lâm...
Để có bộ trảo lợi hại như hổ, cố võ sư Ngô Bông đã trải qua nhiều năm khổ công luyện Thiết sa chưởng với cát và sỏi. Tương truyền, những đòn trảo của ông có uy lực khủng khiếp tới nỗi có thể chọc thủng tường gạch, phá tan đá, gỗ.
Một danh sư trong làng võ khẳng định về Ngô Bông rằng: 'Ngoài bài Hùng Kê quyền, lão võ sư này còn nhiều bài quyền mà làng võ Việt Nam sắp thất truyền.
Điều đặc biệt độc đáo ở chỗ, bài võ cổ truyền nổi tiếng nào hô lên là võ sư Ngô Bông cũng thuộc làu'.
Võ sư Ngô Bông còn khiến giới làng võ khâm phục bởi ở thời điểm ông sắp bước vào độ tuổi bát tuần, ông vẫn sở hữu thân pháp mềm mại như rồng, mau lẹ như báo, mãnh liệt như hổ, mỗi lần tung đòn, uy lực của ngũ trảo vẫn ào ạt như vũ bão.
Cố võ sư Ngô Bông được giới 'võ lâm' Việt Nam công nhận là võ sư duy nhất phục dựng toàn bộ bài võ Hùng kê quyền của Nguyễn Lữ. Đây là thế võ dựa vào các miếng đánh của gà chọi và nó đặc sắc tới mức đã trở thành một trường phái trong võ cổ truyền Việt Nam.
Miếng đánh 'song túc tề phi' (2 chân cùng bay) này đã thất truyền nếu không được sự lĩnh hội và truyền dạy của võ sư Ngô Bông.
Mấy trăm năm kể từ sau khi nhà Tây Sơn suy tàn, tưởng chừng không một ai có thể tái hiện tuyệt kỹ Hùng kê quyền, cho đến khoảng hơn 20 năm về trước.
Đó là năm 1993, nhân giải võ cổ truyền toàn quốc tổ chức tại TP HCM, Ngô Bông đã làm cho giới võ thuật cả nước kinh ngạc với tuyệt kỹ của Hùng kê quyền cùng bài thiệu đi kèm, nói về xuất xứ của nó.
Đến năm 2004, tại Liên hoan võ thuật truyền thống thế giới tổ chức tại Hàn Quốc, trước 70 môn phái võ thuật nổi tiếng của nhiều nước, một lần nữa lão võ sư Ngô Bông trình diễn tuyệt kỹ Hùng kê quyền với sự trầm trồ và tán dương của cực kỳ đông đảo giới võ thuật.
Nguyễn Lữ nhận thấy võ công Thiếu Lâm phần nhiều thiên về cương, có những điểm không phù hợp với thể chất người Việt Nam.
Để học thông môn phái Thiếu Lâm phải mất hàng chục năm, trong khi yêu cầu cấp bách của nghĩa quân là tinh thông võ nghệ càng nhanh càng tốt.
Nguyễn Lữ cũng rất say mê món chọi gà. Trong một dịp tết, ông quan sát đôi gà chọi, một con to lớn kềnh càng, dũng mãnh, các đòn nặng nề sát thủ đấu với một con nhỏ bé mà linh hoạt.
Ông đã rất bất ngờ khi con gà to lớn kia đã liên tục phải cúp đuôi bỏ chạy trước sức tấn công bền bỉ, nhanh như chớp của con gà nhỏ. Từ đó Nguyễn Lữ nghiệm ra rằng, dù nhỏ bé nhưng bền bỉ, dữ dội, nhanh nhẹn thì vẫn có thể hạ gục bất cứ đối thủ nào.
Từ đó, ông đã sáng tạo ra bài Hùng kê quyền vừa phù hợp với sở học của bản thân, vừa phù hợp với thể chất người Việt nói chung, vừa thích ứng với nhu cầu cấp thiết của nghĩa quân Tây Sơn giai đoạn đó.
Đặc tính của Hùng kê quyền là lấy sở đoản biến thành sở trường, yếu có thể đánh mạnh, thấp có thể đánh cao, nhỏ có thể đánh lớn, ít có thể đánh nhiều, gần có thể đánh xa...
Mặc dù tưởng chừng đơn giản nhưng để lĩnh hội hết được những tinh hoa của Hùng kê quyền là cả một vấn đề rất lớn, đòi hỏi võ sĩ phải có trình độ nội công thâm hậu cũng như thân pháp rất linh hoạt.
Bộ pháp của bài hết sức linh hoạt, thần tốc, xoay chuyển một cách biến ảo đã hỗ trợ cho việc thi triển thủ pháp một cách rất hiệu quả, khiến đối thủ luôn phải hứng chịu những đòn thế có tính sát thương cực cao.
Trải qua quãng thời gian quá dài tưởng chừng đã bị thất truyền, Hùng kê quyền lại được tái hiện bởi Ngô Bông.
Giặc cũng phải 'ngán'!
Thời trai trẻ, Ngô Bông cũng đã mang võ học đi đánh giặc. Rất nhiều địa danh ở khu vực miền Trung đều lần lượt in dấu chân ông. Ông cũng trở thành lính của Tiểu đoàn 365 đóng quân tại Phú Yên.
Tại tiểu đoàn này, trong một lần nghe Tiểu đoàn trưởng Hà Duy Tùng tuyên bố: 'Ai vật khỏe nhất sẽ được thưởng'. Ngô Bông với thân hình nhỏ bé đã xông ra đọ sức với người cận vệ của tiểu đoàn trưởng có sức khỏe như voi, to lớn hơn ông rất nhiều.
Lần lượt 3 hiệp, ông tung đòn tảo địa cước, kết hợp với thế quật của Hùng kê quyền và ném chàng cận vệ to lớn này lăn kềnh ra đất. Từ đó, ông trở thành cận vệ suốt 3 năm của tiểu đoàn trưởng và chịu trách nhiệm huấn luyện võ thuật.
'Lúc bom rơi, đạn nổ, sức mạnh của ngũ trảo dường như khó có thể lường được' - ông cho biết.
Với sức vóc như hổ, nhiều trận ông cõng đồng đội bị thương chạy băng băng thoát ra khỏi họng súng. Rồi trong 1 trận đánh, ông bị thương nặng và phải trở về quê để an dưỡng.
Gắn bó nghiệp võ cả đời, cố võ sư Ngô Bông luôn tâm niệm: 'Võ thì cả đời cũng không thể biết hết được, học võ cốt để giúp đời'.
Các học trò của võ sư Ngô Bông có nhiều người thành danh. Ngô Ân, Ngô Lâm, Ngô Sĩ, Ngô Ngân, Nguyễn Văn Thiều, Ngô Dung... từng đoạt rất nhiều HCV tại các giải võ cổ truyền Quảng Ngãi và giải vô địch toàn quốc.
Võ sư Ngô Bông chọn và dạy học trò rất kỹ lưỡng do ông quan niệm ngoài việc dạy võ, người thầy phải dạy cho võ sinh cách sống ở đời.
Thông thường, ông hay tìm hiểu và thử thách võ sinh một thời gian, nếu xét thấy siêng năng, cần cù, biết vâng lời, chung thủy, có tư cách, không tự ái, không bê tha tửu sắc thì mới nhận làm học trò chính thức.
Với những đóng góp to lớn cho kho tàng võ cổ truyền, võ sư Ngô Bông đã được Ủy ban TDTT tặng huy chương Vì sự nghiệp TDTT. Ông mất năm 2011, hưởng thọ 83 tuổi.
Chỉ sau một cú nhồi máu cơ tim và thêm dăm ngày nằm viện, lão
võ sư Lâm Hổ Ngô Bông, truyền nhân bài Hùng Kê Quyền của Đông Định
Vương Nguyễn Lữ, đã ra đi, bỏ lại xứ võ núi Ấn sông Trà vốn đầy ắp
những huyền thoại sự trống vắng, bởi cái bóng của cụ Ngô Bông ở xứ võ
này nó rợp, nó đầy đặn làm sao.
Tài
thì đã hẳn. Danh thì mới gần đây nhất bộ phim tài liệu "Đời võ" nói về
thân thế võ sư Ngô Bông đã đoạt vòng nguyệt quế tại Liên hoan phim
Milano cho mảng đề tài chân dung thể thao. Về sự đức độ và lòng nhân ái
thì nói không quá, những người được cụ chữa bệnh bốc thuốc cho phải lên
đến hàng ngàn, học trò được cụ nuôi ăn nuôi ở, bất kể có thành tài hay
không, phải lên đến hàng trăm.
Người thầy tốt đến độ học trò vẫn cứ than thầm trong lòng mà không hề dám tỏ chút bất kính là "sinh nhầm thế kỷ" bởi đằng đẵng hàng chục năm trời cứ nuôi không một lô một lốc học trò trong thời buổi gạo châu củi quế đận bao cấp, thậm chí cho đến cả khi kinh tế thị trường rầm rập gõ cửa từng gia đình thì cái nếp hào sảng ấy vẫn không hề thay đổi.
Tôi vẫn nhớ như in những bữa cơm trong gia đình lão võ sư Ngô Bông hồi đầu năm 2005 khi kẻ ngoại đạo là tôi tá túc ở nhà thầy non tháng trời. Một bát mắm mực để ở giữa mâm, một đĩa rau luộc, một bát nước canh. Cái công thức ẩm thực ấy gần như không thay đổi. Và cụ ông, cụ bà ngày nào cũng như ngày nào đều để dành phần cơm cho một vị khách trời ơi đất hỡi như tôi, người hồi năm 2003 lẫn hồi 2005 bước vào nhà cụ xin ở nhờ chỉ với đúng một câu giới thiệu: Con là bạn của một người đệ tử cũ của thầy! Không một câu căn vặn, không một lời dò xét, cánh cửa ngôi nhà cũ kỹ chẳng chút tiện nghi trên khu Gò Sa, xã Nghĩa Hành ấy luôn mở rộng.
Cái nghĩa cử cao đẹp ấy, cái tấm chân tình hiếm hoi ấy đã khiến cho tờ An ninh thế giới Cuối tháng hồi đó hồ hởi vỡ vạc ra những là tượng đài võ thuật xứ Quảng Ngãi như "Gấu già" Bảo Truy Phong Chín Sửu, Lâm Hổ Ngô Bông; những dòng họ can đảm dũng mãnh….
Trời Quảng Ngãi sụt sùi trong cơn bão số 5 nhưng những đệ tử của võ sư Ngô Bông từ khắp mọi miền đã đổ về quần tụ trước linh cữu thầy. Tấm biển “Võ đường Ngô Bông” bình thường được khiêm tốn để phía trong nhà, nay được trang trọng lau cho sáng bóng lên, đường bệ rực lên trong ánh nến. Những đệ tử đã thành danh của Ngô phái đã ba đêm nay túc trực bên linh cữu sư phụ: "gà nòi" Ngô Ân, người đã đi vào tâm khảm người yêu võ Quảng Ngãi với trận đánh kinh điển năm 1983 với "hùm xám miền Trung" Tấn Nhất Di, trận đánh mà người hâm mộ đông đến mức đẩy đổ cả tường rào sân vận động để tràn vào; Ngô Khẩn, người thuở nào từng 5 năm liền không có đối thủ về võ tự do hạng cân 54kg…
Trong số những đệ tử ấy, có cả những người đã thay đổi cả cuộc đời chính từ sự nhân ái của thầy Ngô Bông, chứ không phải từ những đòn đánh bí truyền. Tôi biết người đệ tử không đêm nào không nằm ngủ bên linh cữu sư phụ ấy là tổng giám đốc của một công ty xây dựng lớn ở Thanh Hóa. Mười mấy tuổi, anh phải tha hương. Võ đường kiêm đại gia đình trên đỉnh Gò Sa ấy đã cưu mang anh, cho anh một chốn nương thân và những bài học về võ thuật và võ đạo. Kể từ khi thầy Ngô Bông trở bệnh cho đến khi ra đi, người học trò ấy chưa hề một phút trễ nải.
Có lẽ cái nề nếp, cái phái phong ấy bắt nguồn từ chính cách hành xử của lão võ sư Ngô Bông đối với những người thầy của mình. Đận năm 2003, khi đã 76 tuổi, thế mà khi nghe tôi nhờ đưa đến thăm cụ Chín Sửu, ông Ngô Bông ngay lập tức vào nhà thay quần áo, đích thân dùng xe máy đưa tôi đến nhà thầy. Xem ra cái việc ông thênh thang truyền hẳn cho một gã ngoại đạo như tôi nguyên bài võ quạt còn dễ dàng hơn việc chấp nhận một ai đó thay ông đưa người khác đến thăm thầy. Và tôi đã được chứng kiến đầy đủ sự cung kính, ngập ngừng pha lẫn lúng túng của người học trò trước thầy giáo, dù một người đã 76 tuổi và người kia đã 93.
Một người dáng mảnh khảnh luôn khiêm tốn ngồi từ đằng xa nhưng tôi biết hiếm khi vắng mặt kể từ khi lão võ sư lâm bệnh chính là đạo diễn Nhật Thảo của bộ phim "Đời võ", một bộ phim tài liệu khá kỳ công về gốc tích những bài võ thành danh của võ sư Ngô Bông cũng như các phả hệ lẫn tư liệu liên quan để đưa ông về với gốc tích nhà Tây Sơn. Thú thực tôi khá có thành kiến với kiểu làm phim tư liệu của mình, khá áp đặt và suy diễn, nhưng đã ngạc nhiên về cách làm phim có tư duy phản biện, luôn đặt câu hỏi và tìm cách trả lời câu hỏi một cách khả dĩ nhất này. Hóa ra vị đạo diễn trẻ ấy cũng là con nhà tông, vốn là con trai của nhà thơ Thanh Thảo.
Nhật Thảo tâm sự anh đã "lên đồng" trong quá trình làm phim, không phải sự lên đồng vì kiếm tìm được một tài năng đích thực hay những chi tiết chưa từng được khám phá, mà là vì nhân cách và sự quên mình vì võ học của cụ Ngô Bông. Càng tiếp xúc với nhiều nhân chứng, anh càng hứng khởi trước sự giàu có về nhân cách của một võ sư gia cảnh luôn không hề dư giả. Nhận định này khiến tôi nhớ tới ông Trương Quang Trung, nguyên Tổng thư ký Liên đoàn Võ thuật cổ truyền Việt Nam, người mà hễ cứ nhắc tới cụ Ngô Bông đều rưng rung nước mắt vì cảm động.
Kể ra cũng là lạ với cái tấm chân tình nồng ấm của một vị quan chức đối với một vị võ sư, cái thứ mà chúng tôi trong quá trình làm nghề vốn dĩ lại chứng kiến khá nhiều sự lành lạnh nhàn nhạt hờ hững. Trong cuộc trò chuyện thẳng thắn với ông Trung trong đận ông đưa lão võ sư Ngô Bông sang Hàn Quốc biểu diễn võ thuật, tôi đã hỏi ông Trung cơn cớ gì ông lại quý mến ông Ngô Bông đến vậy. Hóa ra nguồn cơn lại đến từ quãng thời gian ông Trung căng mình ra làm một công việc hồi đó bị cho rằng là "đội đá vá trời": thống nhất các bài võ cổ truyền của Việt Nam.
Trong cơ man nào là các cuộc tiếp xúc, trong bộn bề những là hóa giải quyền lợi của các võ đường, quyền lợi của các địa phương vùng miền, trong đau đầu chiến thắng và dẹp bỏ cái tôi cố hữu của quan niệm "võ vô đệ nhị" để tìm đến một tiếng nói chung cho nền võ thuật Việt Nam, ông Trung đã bị chinh phục bởi một lão võ sư đến từ một miền quê. Ngày qua ngày, sự hy sinh không đong đếm, sự xả thân không mảy may đòi hỏi, sự hòa đồng với tất thảy mọi người, sự cầu thị và sẵn sàng sẻ chia các bí quyết bản thân của lão võ sư Ngô Bông… đã khiến ông Trung cảm mà phục, kính mà yêu, nể mà trọng.
Trong cái ngạch quan chức nặng tình với lão võ sư Ngô Bông còn phải kể đến một nhân vật nữa là ông Nguyễn Ninh, hiện là Giám đốc Trung tâm Thể dục Thể thao tỉnh Quảng Ngãi. Ông Ninh cũng một thời lừng danh trên các võ đài quyền Anh Việt Nam bằng võ danh Phi Hùng. Tuy không là học trò của võ sư Ngô Bông, nhưng ông Ninh lại coi ông Bông như bậc đàn anh trong nghề, qua đàm đạo chuyện nghề, truyền nghề cho nhau mà nể phục và tôn trọng.
Tôi tình cờ biết được hóa từ trước đến giờ chuyện lớn nhỏ gì của gia đình võ sư Ngô Bông đều do một tay ông Ninh âm thầm quán xuyến, giúp đỡ. Âu cũng là sự bù đắp hoàn khuyết khi có bao nhiêu thời gian lão võ sư Ngô Bông đều dành cho học trò, cho việc tập hợp các bài võ, bài giới thiệu để đóng góp cho nền võ thuật Việt Nam. Nếu không có người vợ tần tảo, nếu không có những vị huynh đệ chí tình như ông Nguyễn Ninh lo lắng định hướng công việc cho đám con cháu, đệ tử trong nhà, liệu lão võ sư Ngô Bông có thể toàn tâm toàn ý mà cống hiến cho nền võ thuật Việt Nam?
Những người dân Gò Công và khắp nơi ở Quảng Ngãi vẫn đang đội mưa đến viếng "ông thầy Bông", cái tên quen thuộc mà họ đặt cho ông Bông. Dù không một ngày học võ nhưng rất nhiều người trong số họ đã khỏe mạnh trở lại, hoặc phục hồi sau chấn thương, hoặc thậm chí thoát chết… từ những bài thuốc của võ sư Ngô Bông.
Y đức của ông lan tỏa đến độ những câu chuyện chữa bệnh hiểm nghèo của ông đã trở thành câu chuyện thường nhật của người dân Gò Sa. Những ánh mắt ấm áp, những ấm trà và bánh ngọt miễn phí đem ra đãi khách của các hàng quán, những lời mời nếu không có chỗ ngủ thì cứ ở nhà tôi đây của người dân Gò Sa chỉ vì một lý do… là người ở xa đến viếng "ông thầy Bông" có lẽ là sự vinh danh tốt đẹp nhất đối với một tư cách lớn, một võ sư lớn: Ngô Bông!
Minh Trí
Xem tiếp...
Lão võ sư Ngô Bông một huyền thoại trong làng võ thuật Việt Nam
Võ sư Ngô Bông (còn có tên là Lâm Hổ hay Lâm Hổ Ngô Bông), sinh năm 1928 (theo thẻ căn cước của võ sư) trong một gia đình nghèo ở huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Cha bị quân Pháp sát hại, mẹ mất sớm nên ông phải về nhà ngoại ở. Tại đó, ông được hai cậu ruột là Lê Chót và Lê Thùy dạy võ Tây Sơn. Trong số những bài võ ấy có Hùng Kê quyền, tương truyền do Nguyễn Lữ sáng tác từ các thế đánh của gà chọi. Khi trưởng thành, võ sư Ngô Bông theo học võ Thiếu Lâm với hai người thầy nổi tiếng ở Quảng Ngãi là Bảo Truy Phong (Gấu già) và Lâm Võ. Cũng như nhiều võ sinh lúc bấy giờ, võ sư Ngô Bông nhiều lần thượng đài thi đấu quyền Anh và võ tự do. Ông đã từng thắng nhiều võ sĩ tên tuổi lúc bấy giờ như Đinh Hổ (võ sĩ Campuchia), Đinh Đam (võ sĩ người Huế), Trực Hùng, Trực Ninh...
Bắt đầu theo nghiệp võ từ năm 11 tuổi. Suốt mấy chục năm tầm sư học đạo, khổ luyện những chiêu thức tinh hoa của võ nghệ, võ sư Ngô Bông thông thạo được nhiều loại vũ khí như: đao, thương, kiếm, côn... Thời đó, võ sư Bảo Truy Phong và Lâm Võ, hai người thầy của Ngô Bông, đã đặt cho ông biệt danh Lâm Hổ bởi ông Ngô Bông đã nhiều năm khổ luyện thành công các bài Hắc hổ, Mãnh hổ xuất sơn, Hắc hổ hạ sơn, Ngọa hổ phục lâm. Để có bộ trảo như móng vuốt của hổ, ông đã khổ công luyện Thiết sa chưởng với cát và sỏi. Từ đó, 10 ngón tay ông được cho là có thể chọc thủng tường gạch, phá tan đá, gỗ. Một danh sư trong làng võ khẳng định về Lâm Hổ Ngô Bông: "Ngoài bài Hùng Kê quyền, lão võ sư này còn nhiều bài quyền mà làng võ Việt Nam sắp thất truyền". Điều khác biệt giữa lão võ sư Ngô Bông và các võ sư khác ở Quảng Ngãi là ông chuyên tâm nghiên cứu về võ cổ truyền. Võ sư Tấn Tương Lai, Chủ tịch Liên đoàn võ thuật tỉnh Quảng Ngãi, người từng làm tổ trưởng trọng tài quốc gia và có cơ hội cọ xát với nhiều môn phái, khẳng định: "Rất là độc đáo, bài võ cổ truyền nổi tiếng nào hô lên là võ sư Ngô Bông thuộc làu".
Các học trò của võ sư Ngô Bông có nhiều người thành danh. Ngô Ân, Ngô Lâm, Ngô Sĩ, Ngô Ngân, Nguyễn Văn Thiều, Ngô Dung... từng đoạt huy chương vàng, bạc tại các giải võ cổ truyền Quảng Ngãi hoặc giải vô địch toàn quốc. Võ sư Ngô Bông chọn và dạy học trò rất kỹ lưỡng do ông quan niệm ngoài việc dạy võ, người thầy phải dạy cho võ sinh cách sống ở đời. Võ sư Ngô Bông thường tìm hiểu và thử thách võ sinh một thời gian, nếu xét thấy siêng năng, cần cù, biết vâng lời, chung thủy, có tư cách, không tự ái, không bê tha tửu sắc thì mới nhận làm học trò chính thức. Với những đóng góp cho phong trào võ thuật, võ sư Ngô Bông được Liên đoàn võ thuật cổ truyền Việt Nam mời làm cố vấn khi liên đoàn này mới thành lập. Năm 2004, lúc ông Ngô Bông đã ngoài 70 tuổi, tại Liên hoan võ thuật truyền thống thế giới tổ chức tại Hàn Quốc, trước 70 môn phái võ thuật nổi tiếng của nhiều nước, bài Hùng Kê quyền do chính lão võ sư thể hiện đã nhận được sự hoan nghênh nhiệt liệt. Với những đóng góp cho sự nghiệp võ cổ truyền của dân tộc, võ sư Ngô Bông đã được Ủy ban Thể dục thể thao tặng huy chương Vì sự nghiệp thể dục thể thao.
Ông Ngô Bông được giới võ thuật cả nước biết đến với tư cách là võ sư duy nhất phục dựng toàn bộ bài võ Hùng Kê quyền của Nguyễn Lữ, người em út của nhà Tây Sơn. Đây là thế võ dựa vào các miếng đánh của gà chọi và "nâng cấp" lên thành một trường phái trong võ cổ truyền. Miếng đánh "song túc tề phi" (hai chân cùng bay) này đã góp phần không nhỏ trong những lần chinh Nam dẹp Bắc của quân Tây Sơn, nhất là lần tiến quân ra Thăng Long vào mùa xuân năm Kỷ Dậu 1789, đại phá 29 vạn quân Thanh.
Tuy nhiên, thế võ độc đáo ấy đã "sụp đổ" cùng nhà Tây Sơn và thất truyền suốt mấy trăm năm qua. Cho đến một ngày, cách đây gần 20 năm, võ sư Ngô Bông đã làm cho giới võ thuật cả nước kinh ngạc với "miếng đánh" của Hùng Kê quyền cùng bài thiệu đi kèm, nói về xuất xứ của nó. Đó là năm 1993, nhân Giải võ cổ truyền toàn quốc tổ chức tại TP Hồ Chí Minh, ban tổ chức yêu cầu các võ sư biểu diễn bài quyền nào thì phải kèm theo "xuất xứ" của nó.
"Hùng Kê quyền" là do một trong ba anh em Tây Sơn, Nguyễn Lữ sáng tạo. Vốn người mảnh khảnh, yếu hơn các anh mình là Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ. Tính Nguyễn Lữ hiền hòa, ưa thanh tịnh, thích giao du với các nhà sư Ấn Độ và Trung Quốc, thích học văn hơn học võ. Tuy nhiên, với tư cách một trong những võ tướng đầu lĩnh của Tây Sơn khởi nghĩa, ông cũng đã học thập bát ban võ nghệ và chuyên về môn Miên quyền, Nhu quyền.
Ông nhận thấy võ thuật Thiếu Lâm phần nhiều thiên về dương cương, có những điểm không phù hợp với thể chất người Việt Nam. Để học thông môn phái Thiếu Lâm phải mất hàng chục năm, trong khi yêu cầu cấp bách của nghĩa quân là tinh thông võ nghệ càng nhanh càng tốt. Nguyễn Lữ cũng say mê nghệ thuật chọi gà. Trong một dịp tết, ông quan sát đôi gà chọi, một con to lớn kềnh càng, dũng mãnh, mặt đỏ gay, các đòn nặng nề sát thủ và một con nhỏ bé mà linh hoạt. Nhưng con gà to lớn kia đã liên tục phải cúp đuôi bỏ chạy trước sức tấn công bền bỉ, liên tiếp, nhanh như chớp của con gà nhỏ.
Từ đó ông nghiệm ra nguyên lý của nước mà con gà nhỏ đã áp dụng theo bản năng miên viễn, bền bỉ, nhẹ nhàng nhưng dữ dội, có thể chọc phá bất cứ một sơ hở nhỏ nào. Ông đã sáng tạo ra bài "Hùng Kê quyền" vừa phù hợp với sở học của bản thân, vừa phù hợp với thể chất người Việt nói chung, vừa thích ứng với nhu cầu cấp thiết của nghĩa quân Tây Sơn giai đoạn đó. Đặc tính của nước được áp dụng trong bài bằng những yếu lĩnh, nhằm đến mục tiêu yếu có thể đánh mạnh, thấp có thể đánh cao, nhỏ có thể đánh lớn, ít có thể đánh nhiều, gần có thể đánh xa.
Như những động tác dũng mãnh của con gà chọi nhỏ bé mà nhanh nhạy trước đối thủ, bài Hùng Kê quyền sử dụng ngón tay trỏ để đâm (nhất dương chỉ) mô phỏng hình mỏ gà, và các ngón còn lại co vào như chiếc cựa gà. Thủ pháp độc đáo như vậy lại nhằm vào những mục tiêu hiểm của đối thủ, như các huyệt đạo, ngực, hầu... Bộ pháp của bài hết sức linh hoạt, thần tốc, xoay chuyển một cách biến ảo đã hỗ trợ cho việc thi triển thủ pháp một cách kiến hiệu, khiến đối thủ luôn phải hứng chịu những đòn thế có tính sát thương cực cao.
Hùng Kê quyền ra đời trên đất Bình Định, nhưng lại được một võ sư Quảng Ngãi "ủ lửa" hơn 200 năm sau mới có dịp trình làng. Và võ sư Ngô Bông đã trở thành "truyền nhân" của Hùng Kê quyền, được Liên đoàn Võ thuật VN công nhận. Ông đã mang Hùng Kê quyền đi khắp năm châu bốn bể. Đến đâu biểu diễn Hùng Kê quyền, giới võ thuật cũng hết lời khen ngợi và nể phục về thế võ độc nhất vô nhị này, lại được một võ sư đã vượt ngưỡng tám mươi gìn giữ trọn vẹn.
Sưu tầm
Ngón ngũ trảo của Ngô Bông
Thứ Bảy, ngày 30/1/2010 - 00:07
Võ sư Ngô Bông -
hiện ở huyện Nghĩa Hành, tỉnh Quảng Ngãi là truyền nhân của võ Tây Sơn.
Hự! Bằng một đòn thế dũng mãnh, lão võ sư già như một con hổ dũng mãnh
gầm lên và ra đòn ngũ trảo tàn khốc.
Uy lực ngũ trảo hổỞ cái tuổi 79 nhưng thân pháp của võ sư Ngô Bông vẫn mềm mại như rồng, mau lẹ như báo, mãnh liệt như hổ. Ánh mắt như xuyên thấu tâm can đối thủ, mười ngón tay quắp lại hình ngũ trảo tung ra, vuốt vào, xoáy tròn, bất thần đập ngược trở lại. Gân cốt trên bắp tay của lão võ sư như cuộn dây thừng bện chặt. Bất cứ vật gì rơi vào vòng xoắn của ngũ trảo thép đều bị bấu nát và bẻ gãy trong nháy mắt.
Bắt đầu theo nghiệp võ từ năm 11 tuổi. Suốt mấy chục năm tầm sư học đạo, khổ luyện những chiêu thức tinh hoa của võ nghệ, võ sư Ngô Bông đã thông thạo được nhiều tuyệt kỹ: đao, thương, kiếm, côn, quyền… Thời đó, võ sư Bảo Tuy Phong và Lâm Võ - hai người thầy lừng danh ở Quảng Ngãi đã đặt cho người học trò của mình biệt danh Lâm Hổ. Bởi võ sư Ngô Bông đã nhiều năm khổ luyện thành công các bài Hắc hổ, Mãnh hổ xuất sơn, Hắc hổ hạ sơn, Ngọa hổ phục lâm. Để có bộ trảo như móng vuốt của hổ, ông đã khổ công luyện thiết sa chưởng với cát, sỏi. Từ đó, mười ngón tay dường như có thể chọc thủng tường gạch, phá tan đá, gỗ; mỗi lần tung đòn, uy lực của ngũ trảo ào ạt như vũ bão.
Qua câu chuyện thì suốt mấy chục năm qua, đòn ngũ trảo đã theo ông phiêu bạt ra Bắc, vào Nam, qua Thái Lan…thi đấu không biết bao nhiêu trận và đều mang về chiến thắng vang dội.
Ngoài võ thuật, sở thích nuôi gà chọi có liên quan với niềm đam mê võ thuật của lão võ sư Ngô Bông - một trong những truyền nhân của bài võ Hùng kê quyền nổi tiếng của anh em nhà Tây Sơn tam kiệt ngoài hàng loạt bài: Nghiêm thương của Nguyễn Huệ, Thanh Long đại chiến, Hùng gia quyền, Mai hoa quyền…
Ngũ trảo như thép của lão võ sư Ngô Bông (trái). Truyền dạy võ thuật cho các thế hệ sau là tâm niệm lớn nhất của ông.
Dạy võ cho “trung đội mồ côi” Cha bị bắt đưa đi Côn Lôn khi ông vừa sinh ra được ba ngày. Người mẹ vào Nam tìm chồng cũng bặt tin và chết sau đó ít lâu. Ban ngày chăn trâu, ban đêm ông và bạn bè bí mật vào khu Gò Cháy để học võ của cậu Sáu - một người uyên thâm võ học của Tây Sơn. Thời đó, nếu lý trưởng, hương mục và ông trùm mà phát hiện học võ thì tất cả sẽ bị phạt bỏ vào nhà lao. Mỗi lần tập xong, ông mò về nhà và cố nuốt hai bát cơm nguội ụp chung.
Lớn lên trong cảnh côi cút và cùng cực, lão võ sư Ngô Bông dường như thấu hiểu cuộc đời như võ học: “Võ thì cả đời cũng không thể biết hết được; học võ cốt để giúp đời”. Tâm niệm điều này, thời trai trẻ ông đã mang võ học đi đánh giặc. Các địa danh Tu Bông, Dốc Mõ, Dốc Quýt, Xóm Cút đều lần lượt in dấu chân ông. Trở thành lính của Tiểu đoàn 365 đóng quân tại Phú Yên.
“Ai vật khỏe nhất sẽ được thưởng” - trong một lần nghe Tiểu đoàn trưởng Hà Duy Tùng tuyên bố, chàng trai cân nặng 58 kg đã xông ra đọ sức với người cận vệ của tiểu đoàn trưởng có sức khỏe như voi, nặng 72 kg. Lần lượt ba hiệp, ông tung đòn tảo địa cước, kết hợp với thế quật của Hùng kê quyền và ném chàng cận vệ khổng lồ này lăn kềnh ra đất. Từ đó, ông trở thành cận vệ số một suốt ba năm của tiểu đoàn trưởng. Sau đó, Trung đội mồ côi có 48 người được thành lập và ông chịu trách nhiệm huấn luyện võ thuật. Điều đặc biệt là tất cả những người trong đơn vị này đều có hoàn cảnh không cha mẹ. Dù vũ khí còn thiếu thốn, chỉ có độc khẩu Max76, tuy nhiên trung đội mồ côi đã làm điên đầu bọn giặc.
Nhiều trận đánh giáp lá cà, biệt danh lâm tướng của ông lại nổi như cồn bởi lúc cận chiến, nhiều tên giặc đã ngã gục dưới uy lực của ngũ trảo từ trong rừng bất thần xuất hiện. “Lúc bom rơi, đạn nổ, sức mạnh của ngũ trảo dường như khó có thể lường được” - ông cho biết. Với sức vóc như hổ, nhiều trận ông cõng đồng đội bị thương chạy băng băng thoát ra khỏi họng súng. Rồi trong một trận đánh, ông bị thương nặng và phải trở về quê để an dưỡng và tiếp tục ôn luyện nghiệp võ.
Nặng lòng với võ Tây Sơn
Ngoài võ thuật được học của nhiều sư phụ, kinh nghiệm ông thu nạp được nhờ nhiều trận tử chiến với những võ sĩ lừng danh thiên hạ. Ông từng qua Thái Lan nghênh chiến bốn lần thì bị thua một, huề một, thắng hai. “Gay go và ác liệt nhất là gặp võ sĩ Phi-nát, nó toàn chơi đòn phá ngựa, chỏ lật rất gian ác. Trận đầu bị nó đánh rớt ngay sau vài hiệp. Về luyện tập và tiếp tục qua giao đấu. Ròng rã sáu hiệp, hai bên bắt tay xin hòa” - ông kể lại những trận tử chiến của mình.
Lưỡng kê giao nạp thủy tranh hùng
Song túc tề phi trảo thượng xung
Trấn ải kim thương như bạch hổ
Phủ quan ngân kiếm tựa thanh long
Xuyên khung độc tiễn tăng ư trác
Hồi thủ đơn câu thủ tứ hung
Khiêu, tẩu, rượt, đâm thiên sở tứ
Nhu, cương, cường, nhược, tận kỳ trung…
Trong
hội nghị chuyên môn toàn quốc võ cổ truyền năm 1993, bài Hùng kê quyền
do ông biểu diễn đã được bình chọn vào danh sách các bài võ thống nhất
của võ cổ truyền Việt Nam. Ghi nhận sự đóng góp của ông, Ủy ban Thể dục
thể thao đã tặng võ sư Ngô Bông huy chương Vì sự nghiệp thể dục thể
thao.
|
Gia đình lão võ sư Ngô Bông có tám người con, Ngô Lâm Em và Ngô Sỹ là hai con trai nối nghiệp võ của cha. Ngoài ra, ông còn có hàng ngàn môn sinh được truyền thụ võ thuật. “Nghề võ không giàu nhưng cả đời tôi mong truyền thụ cho con cháu, sau này không mất đi những tinh hoa mà các thế hệ cha ông đã khổ luyện để giữ gìn non sông, bờ cõi” - hỏi về dự định trong tương lai, lão võ sư Ngô Bông chia sẻ tâm nguyện của mình trong những ngày cuối năm như vậy.
LÊ VĂN CHƯƠNG
Huyền thoại võ sư Việt khiến người Tây nhìn là sợ
Thứ năm, 03/09/2015 20:48
Võ sư Ngô Bông (còn có tên là Lâm Hổ hay Lâm Hổ Ngô Bông), sinh năm 1928 trong một gia đình nghèo ở huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi.
Cha bị quân Pháp sát hại, mẹ mất sớm nên ông phải về nhà ngoại ở. Tại đó, ông được 2 cậu ruột dạy võ Tây Sơn.
Trong số những bài võ ấy có Hùng kê quyền, tuyệt kỹ do danh tướng Nguyễn Lữ thời Tây Sơn sáng tạo từ các thế đánh của gà chọi.
Hồi trẻ, võ sư Ngô Bông còn theo học võ Thiếu Lâm với 2 người thầy nổi tiếng ở Quảng Ngãi là Bảo Truy Phong (Gấu già) và Lâm Võ.
Cũng như nhiều võ sĩ lúc đương thời, Ngô Bông nhiều lần thượng đài thi đấu quyền Anh và võ tự do.
Võ sư Ngô Bông luyện võ
Mặc dù sở hữu vóc dáng nhỏ bé, gầy guộc nhưng với những tuyệt kỹ võ công,
ông đã từng thắng nhiều võ sĩ khét tiếng lúc bấy giờ như Đinh Hổ (võ sĩ
Campuchia), Đinh Đam (võ sĩ người Huế), Trực Hùng, Trực Ninh... và được
giới 'giang hồ' thời đó hết sức kính nể.Theo nhiều tài liệu có ghi lại, bắt đầu đến với võ thuật từ năm 11 tuổi cho đến suốt mấy chục năm tầm sư học đạo, khổ luyện những chiêu thức tinh hoa của võ nghệ, võ sư Ngô Bông thông thạo được nhiều loại vũ khí như: đao, thương, kiếm, côn...
Thời đó, 2 người thầy của Ngô Bông là võ sư Bảo Truy Phong và Lâm Võ đã đặt cho Ngô Bông biệt danh Lâm Hổ bởi ông đã nhiều năm khổ luyện thành công các bài Hắc hổ, Mãnh hổ xuất sơn, Hắc hổ hạ sơn, Ngọa hổ phục lâm...
Để có bộ trảo lợi hại như hổ, cố võ sư Ngô Bông đã trải qua nhiều năm khổ công luyện Thiết sa chưởng với cát và sỏi. Tương truyền, những đòn trảo của ông có uy lực khủng khiếp tới nỗi có thể chọc thủng tường gạch, phá tan đá, gỗ.
Một danh sư trong làng võ khẳng định về Ngô Bông rằng: 'Ngoài bài Hùng Kê quyền, lão võ sư này còn nhiều bài quyền mà làng võ Việt Nam sắp thất truyền.
Điều đặc biệt độc đáo ở chỗ, bài võ cổ truyền nổi tiếng nào hô lên là võ sư Ngô Bông cũng thuộc làu'.
Võ sư Ngô Bông còn khiến giới làng võ khâm phục bởi ở thời điểm ông sắp bước vào độ tuổi bát tuần, ông vẫn sở hữu thân pháp mềm mại như rồng, mau lẹ như báo, mãnh liệt như hổ, mỗi lần tung đòn, uy lực của ngũ trảo vẫn ào ạt như vũ bão.
Lão võ sư Ngô Bông tại Liên hoan võ thuật truyền thống thế giới tổ chức tại Chungju (Hàn Quốc) năm 2004
Hùng kê quyền uy chấn giang hồCố võ sư Ngô Bông được giới 'võ lâm' Việt Nam công nhận là võ sư duy nhất phục dựng toàn bộ bài võ Hùng kê quyền của Nguyễn Lữ. Đây là thế võ dựa vào các miếng đánh của gà chọi và nó đặc sắc tới mức đã trở thành một trường phái trong võ cổ truyền Việt Nam.
Miếng đánh 'song túc tề phi' (2 chân cùng bay) này đã thất truyền nếu không được sự lĩnh hội và truyền dạy của võ sư Ngô Bông.
Mấy trăm năm kể từ sau khi nhà Tây Sơn suy tàn, tưởng chừng không một ai có thể tái hiện tuyệt kỹ Hùng kê quyền, cho đến khoảng hơn 20 năm về trước.
Đó là năm 1993, nhân giải võ cổ truyền toàn quốc tổ chức tại TP HCM, Ngô Bông đã làm cho giới võ thuật cả nước kinh ngạc với tuyệt kỹ của Hùng kê quyền cùng bài thiệu đi kèm, nói về xuất xứ của nó.
Đến năm 2004, tại Liên hoan võ thuật truyền thống thế giới tổ chức tại Hàn Quốc, trước 70 môn phái võ thuật nổi tiếng của nhiều nước, một lần nữa lão võ sư Ngô Bông trình diễn tuyệt kỹ Hùng kê quyền với sự trầm trồ và tán dương của cực kỳ đông đảo giới võ thuật.
Võ sư cùng một đệ tử
Hùng kê quyền sở dĩ được mọi người ca ngợi là vì sức mạnh tiền ẩn bên
trong của nó. Vào thời Tây Sơn, Nguyễn Lữ chính là một trong các nhân
vật chủ chốt. Ông học thập bát ban võ nghệ và chuyên về môn Miên quyền,
Nhu quyền.Nguyễn Lữ nhận thấy võ công Thiếu Lâm phần nhiều thiên về cương, có những điểm không phù hợp với thể chất người Việt Nam.
Để học thông môn phái Thiếu Lâm phải mất hàng chục năm, trong khi yêu cầu cấp bách của nghĩa quân là tinh thông võ nghệ càng nhanh càng tốt.
Nguyễn Lữ cũng rất say mê món chọi gà. Trong một dịp tết, ông quan sát đôi gà chọi, một con to lớn kềnh càng, dũng mãnh, các đòn nặng nề sát thủ đấu với một con nhỏ bé mà linh hoạt.
Ông đã rất bất ngờ khi con gà to lớn kia đã liên tục phải cúp đuôi bỏ chạy trước sức tấn công bền bỉ, nhanh như chớp của con gà nhỏ. Từ đó Nguyễn Lữ nghiệm ra rằng, dù nhỏ bé nhưng bền bỉ, dữ dội, nhanh nhẹn thì vẫn có thể hạ gục bất cứ đối thủ nào.
Từ đó, ông đã sáng tạo ra bài Hùng kê quyền vừa phù hợp với sở học của bản thân, vừa phù hợp với thể chất người Việt nói chung, vừa thích ứng với nhu cầu cấp thiết của nghĩa quân Tây Sơn giai đoạn đó.
Đặc tính của Hùng kê quyền là lấy sở đoản biến thành sở trường, yếu có thể đánh mạnh, thấp có thể đánh cao, nhỏ có thể đánh lớn, ít có thể đánh nhiều, gần có thể đánh xa...
Mặc dù tưởng chừng đơn giản nhưng để lĩnh hội hết được những tinh hoa của Hùng kê quyền là cả một vấn đề rất lớn, đòi hỏi võ sĩ phải có trình độ nội công thâm hậu cũng như thân pháp rất linh hoạt.
Ngũ trảo như thép của võ sư Ngô Bông
Hùng Kê quyền sử dụng ngón tay trỏ để đâm (nhất dương chỉ) mô phỏng
hình mỏ gà và các ngón còn lại co vào như chiếc cựa gà. Hùng kê quyền
hướng tới những điểm tấn công vào những mục tiêu hiểm của đối thủ, như
các huyệt đạo, ngực, hầu...Bộ pháp của bài hết sức linh hoạt, thần tốc, xoay chuyển một cách biến ảo đã hỗ trợ cho việc thi triển thủ pháp một cách rất hiệu quả, khiến đối thủ luôn phải hứng chịu những đòn thế có tính sát thương cực cao.
Trải qua quãng thời gian quá dài tưởng chừng đã bị thất truyền, Hùng kê quyền lại được tái hiện bởi Ngô Bông.
Giặc cũng phải 'ngán'!
Thời trai trẻ, Ngô Bông cũng đã mang võ học đi đánh giặc. Rất nhiều địa danh ở khu vực miền Trung đều lần lượt in dấu chân ông. Ông cũng trở thành lính của Tiểu đoàn 365 đóng quân tại Phú Yên.
Tại tiểu đoàn này, trong một lần nghe Tiểu đoàn trưởng Hà Duy Tùng tuyên bố: 'Ai vật khỏe nhất sẽ được thưởng'. Ngô Bông với thân hình nhỏ bé đã xông ra đọ sức với người cận vệ của tiểu đoàn trưởng có sức khỏe như voi, to lớn hơn ông rất nhiều.
Lần lượt 3 hiệp, ông tung đòn tảo địa cước, kết hợp với thế quật của Hùng kê quyền và ném chàng cận vệ to lớn này lăn kềnh ra đất. Từ đó, ông trở thành cận vệ suốt 3 năm của tiểu đoàn trưởng và chịu trách nhiệm huấn luyện võ thuật.
Võ sư Ngô Bông luyện mắt
Đối đầu với giặc Pháp trong nhiều trận đánh giáp lá cà, tên tuổi của
Ngô Bông lại nổi như cồn. Nhiều tên giặc chưa kịp nổ súng thì đã gục ngã
trước ngũ trảo rồi.'Lúc bom rơi, đạn nổ, sức mạnh của ngũ trảo dường như khó có thể lường được' - ông cho biết.
Với sức vóc như hổ, nhiều trận ông cõng đồng đội bị thương chạy băng băng thoát ra khỏi họng súng. Rồi trong 1 trận đánh, ông bị thương nặng và phải trở về quê để an dưỡng.
Gắn bó nghiệp võ cả đời, cố võ sư Ngô Bông luôn tâm niệm: 'Võ thì cả đời cũng không thể biết hết được, học võ cốt để giúp đời'.
Các học trò của võ sư Ngô Bông có nhiều người thành danh. Ngô Ân, Ngô Lâm, Ngô Sĩ, Ngô Ngân, Nguyễn Văn Thiều, Ngô Dung... từng đoạt rất nhiều HCV tại các giải võ cổ truyền Quảng Ngãi và giải vô địch toàn quốc.
Võ sư Ngô Bông chọn và dạy học trò rất kỹ lưỡng do ông quan niệm ngoài việc dạy võ, người thầy phải dạy cho võ sinh cách sống ở đời.
Thông thường, ông hay tìm hiểu và thử thách võ sinh một thời gian, nếu xét thấy siêng năng, cần cù, biết vâng lời, chung thủy, có tư cách, không tự ái, không bê tha tửu sắc thì mới nhận làm học trò chính thức.
Với những đóng góp to lớn cho kho tàng võ cổ truyền, võ sư Ngô Bông đã được Ủy ban TDTT tặng huy chương Vì sự nghiệp TDTT. Ông mất năm 2011, hưởng thọ 83 tuổi.
Câu nói nổi tiếng của võ sư Ngô Bông:
- Võ thì cả đời cũng không thể biết hết được, học võ cốt để giúp đời
- Chỉ dạy võ cho người có tư cách đúng mực, nếu không sẽ có hại cho môn phái và xã hội.
-
Nghề võ không giàu nhưng cả đời tôi mong truyền thụ cho con cháu, sau
này không mất đi những tinh hoa mà các thế hệ cha ông đã khổ luyện để
giữ gìn non sông, bờ cõi
Một người bạn từng nhận xét về Ngô Bông:
'Anh
Bông là con người điềm đạm, tế nhị và sống có tình, có nghĩa. Về võ
nghệ anh nắm vững bài bản của võ Tây Sơn, di chuyển bộ ngựa rất linh
hoạt, có thể khống chế, hóa giải các đòn tấn công của đối thủ.
Dù
tuổi cao nhưng các động tác đâm, gạt, đỡ thương của anh gọn gàng và
nhuần nhuyễn. Anh sở đắc mấy bài thương có giá trị như: Đệ nhất kim
thương, Đệ nhị mai hoa thương... rất cần được bảo tồn'.
Theo Thiên Hà/Soha.vn/Ttvn.vn
Làng võ cổ truyền khuyết đi lão võ sư Lâm Hổ Ngô Bông
21:35 26/10/2011
Chỉ sau một cú nhồi máu cơ tim và thêm dăm ngày nằm viện, lão
võ sư Lâm Hổ Ngô Bông, truyền nhân bài Hùng Kê Quyền của Đông Định
Vương Nguyễn Lữ, đã ra đi, bỏ lại xứ võ núi Ấn sông Trà vốn đầy ắp
những huyền thoại sự trống vắng, bởi cái bóng của cụ Ngô Bông ở xứ võ
này nó rợp, nó đầy đặn làm sao.
Cố võ sư Ngô Bông. |
Người thầy tốt đến độ học trò vẫn cứ than thầm trong lòng mà không hề dám tỏ chút bất kính là "sinh nhầm thế kỷ" bởi đằng đẵng hàng chục năm trời cứ nuôi không một lô một lốc học trò trong thời buổi gạo châu củi quế đận bao cấp, thậm chí cho đến cả khi kinh tế thị trường rầm rập gõ cửa từng gia đình thì cái nếp hào sảng ấy vẫn không hề thay đổi.
Tôi vẫn nhớ như in những bữa cơm trong gia đình lão võ sư Ngô Bông hồi đầu năm 2005 khi kẻ ngoại đạo là tôi tá túc ở nhà thầy non tháng trời. Một bát mắm mực để ở giữa mâm, một đĩa rau luộc, một bát nước canh. Cái công thức ẩm thực ấy gần như không thay đổi. Và cụ ông, cụ bà ngày nào cũng như ngày nào đều để dành phần cơm cho một vị khách trời ơi đất hỡi như tôi, người hồi năm 2003 lẫn hồi 2005 bước vào nhà cụ xin ở nhờ chỉ với đúng một câu giới thiệu: Con là bạn của một người đệ tử cũ của thầy! Không một câu căn vặn, không một lời dò xét, cánh cửa ngôi nhà cũ kỹ chẳng chút tiện nghi trên khu Gò Sa, xã Nghĩa Hành ấy luôn mở rộng.
Cái nghĩa cử cao đẹp ấy, cái tấm chân tình hiếm hoi ấy đã khiến cho tờ An ninh thế giới Cuối tháng hồi đó hồ hởi vỡ vạc ra những là tượng đài võ thuật xứ Quảng Ngãi như "Gấu già" Bảo Truy Phong Chín Sửu, Lâm Hổ Ngô Bông; những dòng họ can đảm dũng mãnh….
Trời Quảng Ngãi sụt sùi trong cơn bão số 5 nhưng những đệ tử của võ sư Ngô Bông từ khắp mọi miền đã đổ về quần tụ trước linh cữu thầy. Tấm biển “Võ đường Ngô Bông” bình thường được khiêm tốn để phía trong nhà, nay được trang trọng lau cho sáng bóng lên, đường bệ rực lên trong ánh nến. Những đệ tử đã thành danh của Ngô phái đã ba đêm nay túc trực bên linh cữu sư phụ: "gà nòi" Ngô Ân, người đã đi vào tâm khảm người yêu võ Quảng Ngãi với trận đánh kinh điển năm 1983 với "hùm xám miền Trung" Tấn Nhất Di, trận đánh mà người hâm mộ đông đến mức đẩy đổ cả tường rào sân vận động để tràn vào; Ngô Khẩn, người thuở nào từng 5 năm liền không có đối thủ về võ tự do hạng cân 54kg…
Trong số những đệ tử ấy, có cả những người đã thay đổi cả cuộc đời chính từ sự nhân ái của thầy Ngô Bông, chứ không phải từ những đòn đánh bí truyền. Tôi biết người đệ tử không đêm nào không nằm ngủ bên linh cữu sư phụ ấy là tổng giám đốc của một công ty xây dựng lớn ở Thanh Hóa. Mười mấy tuổi, anh phải tha hương. Võ đường kiêm đại gia đình trên đỉnh Gò Sa ấy đã cưu mang anh, cho anh một chốn nương thân và những bài học về võ thuật và võ đạo. Kể từ khi thầy Ngô Bông trở bệnh cho đến khi ra đi, người học trò ấy chưa hề một phút trễ nải.
Có lẽ cái nề nếp, cái phái phong ấy bắt nguồn từ chính cách hành xử của lão võ sư Ngô Bông đối với những người thầy của mình. Đận năm 2003, khi đã 76 tuổi, thế mà khi nghe tôi nhờ đưa đến thăm cụ Chín Sửu, ông Ngô Bông ngay lập tức vào nhà thay quần áo, đích thân dùng xe máy đưa tôi đến nhà thầy. Xem ra cái việc ông thênh thang truyền hẳn cho một gã ngoại đạo như tôi nguyên bài võ quạt còn dễ dàng hơn việc chấp nhận một ai đó thay ông đưa người khác đến thăm thầy. Và tôi đã được chứng kiến đầy đủ sự cung kính, ngập ngừng pha lẫn lúng túng của người học trò trước thầy giáo, dù một người đã 76 tuổi và người kia đã 93.
Một người dáng mảnh khảnh luôn khiêm tốn ngồi từ đằng xa nhưng tôi biết hiếm khi vắng mặt kể từ khi lão võ sư lâm bệnh chính là đạo diễn Nhật Thảo của bộ phim "Đời võ", một bộ phim tài liệu khá kỳ công về gốc tích những bài võ thành danh của võ sư Ngô Bông cũng như các phả hệ lẫn tư liệu liên quan để đưa ông về với gốc tích nhà Tây Sơn. Thú thực tôi khá có thành kiến với kiểu làm phim tư liệu của mình, khá áp đặt và suy diễn, nhưng đã ngạc nhiên về cách làm phim có tư duy phản biện, luôn đặt câu hỏi và tìm cách trả lời câu hỏi một cách khả dĩ nhất này. Hóa ra vị đạo diễn trẻ ấy cũng là con nhà tông, vốn là con trai của nhà thơ Thanh Thảo.
Nhật Thảo tâm sự anh đã "lên đồng" trong quá trình làm phim, không phải sự lên đồng vì kiếm tìm được một tài năng đích thực hay những chi tiết chưa từng được khám phá, mà là vì nhân cách và sự quên mình vì võ học của cụ Ngô Bông. Càng tiếp xúc với nhiều nhân chứng, anh càng hứng khởi trước sự giàu có về nhân cách của một võ sư gia cảnh luôn không hề dư giả. Nhận định này khiến tôi nhớ tới ông Trương Quang Trung, nguyên Tổng thư ký Liên đoàn Võ thuật cổ truyền Việt Nam, người mà hễ cứ nhắc tới cụ Ngô Bông đều rưng rung nước mắt vì cảm động.
Kể ra cũng là lạ với cái tấm chân tình nồng ấm của một vị quan chức đối với một vị võ sư, cái thứ mà chúng tôi trong quá trình làm nghề vốn dĩ lại chứng kiến khá nhiều sự lành lạnh nhàn nhạt hờ hững. Trong cuộc trò chuyện thẳng thắn với ông Trung trong đận ông đưa lão võ sư Ngô Bông sang Hàn Quốc biểu diễn võ thuật, tôi đã hỏi ông Trung cơn cớ gì ông lại quý mến ông Ngô Bông đến vậy. Hóa ra nguồn cơn lại đến từ quãng thời gian ông Trung căng mình ra làm một công việc hồi đó bị cho rằng là "đội đá vá trời": thống nhất các bài võ cổ truyền của Việt Nam.
Trong cơ man nào là các cuộc tiếp xúc, trong bộn bề những là hóa giải quyền lợi của các võ đường, quyền lợi của các địa phương vùng miền, trong đau đầu chiến thắng và dẹp bỏ cái tôi cố hữu của quan niệm "võ vô đệ nhị" để tìm đến một tiếng nói chung cho nền võ thuật Việt Nam, ông Trung đã bị chinh phục bởi một lão võ sư đến từ một miền quê. Ngày qua ngày, sự hy sinh không đong đếm, sự xả thân không mảy may đòi hỏi, sự hòa đồng với tất thảy mọi người, sự cầu thị và sẵn sàng sẻ chia các bí quyết bản thân của lão võ sư Ngô Bông… đã khiến ông Trung cảm mà phục, kính mà yêu, nể mà trọng.
Trong cái ngạch quan chức nặng tình với lão võ sư Ngô Bông còn phải kể đến một nhân vật nữa là ông Nguyễn Ninh, hiện là Giám đốc Trung tâm Thể dục Thể thao tỉnh Quảng Ngãi. Ông Ninh cũng một thời lừng danh trên các võ đài quyền Anh Việt Nam bằng võ danh Phi Hùng. Tuy không là học trò của võ sư Ngô Bông, nhưng ông Ninh lại coi ông Bông như bậc đàn anh trong nghề, qua đàm đạo chuyện nghề, truyền nghề cho nhau mà nể phục và tôn trọng.
Tôi tình cờ biết được hóa từ trước đến giờ chuyện lớn nhỏ gì của gia đình võ sư Ngô Bông đều do một tay ông Ninh âm thầm quán xuyến, giúp đỡ. Âu cũng là sự bù đắp hoàn khuyết khi có bao nhiêu thời gian lão võ sư Ngô Bông đều dành cho học trò, cho việc tập hợp các bài võ, bài giới thiệu để đóng góp cho nền võ thuật Việt Nam. Nếu không có người vợ tần tảo, nếu không có những vị huynh đệ chí tình như ông Nguyễn Ninh lo lắng định hướng công việc cho đám con cháu, đệ tử trong nhà, liệu lão võ sư Ngô Bông có thể toàn tâm toàn ý mà cống hiến cho nền võ thuật Việt Nam?
Những người dân Gò Công và khắp nơi ở Quảng Ngãi vẫn đang đội mưa đến viếng "ông thầy Bông", cái tên quen thuộc mà họ đặt cho ông Bông. Dù không một ngày học võ nhưng rất nhiều người trong số họ đã khỏe mạnh trở lại, hoặc phục hồi sau chấn thương, hoặc thậm chí thoát chết… từ những bài thuốc của võ sư Ngô Bông.
Y đức của ông lan tỏa đến độ những câu chuyện chữa bệnh hiểm nghèo của ông đã trở thành câu chuyện thường nhật của người dân Gò Sa. Những ánh mắt ấm áp, những ấm trà và bánh ngọt miễn phí đem ra đãi khách của các hàng quán, những lời mời nếu không có chỗ ngủ thì cứ ở nhà tôi đây của người dân Gò Sa chỉ vì một lý do… là người ở xa đến viếng "ông thầy Bông" có lẽ là sự vinh danh tốt đẹp nhất đối với một tư cách lớn, một võ sư lớn: Ngô Bông!
Minh Trí
NÉT KHÁC BIỆT GIỮA ĐỜI 7
Khác nhau cái áo cái quần
Cởi ra trần truồng ai cũng như ai
--------------------------------------------------
(ĐC sưu tâm trên NET)
-Đây là công an nhân dân:
-Đây là công an nhà nước:
-Còn đây là cướp ngày:
-Và thành...chuyện tiếu lâm:
Xem tiếp...
Cởi ra trần truồng ai cũng như ai
--------------------------------------------------
(ĐC sưu tâm trên NET)
-Đây là công an nhân dân:
-Đây là công an nhà nước:
-Còn đây là cướp ngày:
-Và thành...chuyện tiếu lâm:
CÂU CHUYỆN KHOA HỌC 68
(ĐC sưu tầm trên NET)
[1] Thần: Một lực lượng siêu tự nhiên mà nhân loại từng sử dụng nhiều từ ngữ khác nhau để gọi tên, như Phật, Đại Giác Giả, Thượng đế, Đấng Tối cao, Chúa, Đấng Sáng tạo, Jehovah, Allah,, , Bà Mẹ Tự nhiên, Nhà thiết kế vĩ đại… [2] God: God là một từ tiếng Anh ám chỉ một vị Thần nói chung theo định nghĩa ở chú thích [1]. Tuy nhiên, vì Ki-tô giáo là tôn giáo chính yếu ở Tây Phương, nên khi nhắc đến God, người ta thường mặc định ám chỉ đến Chúa trong tín ngưỡng Ki-tô Giáo. Tuy nhiên trong phạm vi bài viết này, trừ trong các trường hợp cụ thể, chúng ta nên hiểu rộng nghĩa của từ God theo chú thích [1].
Xem tiếp...
Nhà toán học lớn nhất thế kỷ 20: “Chủ nghĩa Duy vật là Sai lầm”
Trong bài báo “Kurt Gödel: Chủ
nghĩa duy vật là sai lầm”, TS John Spencer viết: “Trong mọi trường hợp,
dù bạn đưa ra bao nhiêu lập luận logic chống lại chủ nghĩa duy vật hoặc
dẫn ra bao nhiêu ý kiến của các nhà khoa học hàng đầu bác bỏ chủ nghĩa
duy vật, cuối cùng nhà duy vật cứng đầu vẫn bỏ ngoài tai”. Rồi Spencer
đặt câu hỏi: “Phải chăng Plato đúng khi quy kết các nhà duy vật là
‘những kẻ tệ hại’ hoặc ‘những gã bướng bỉnh ngoan cố’?”. Trong trường
hợp này, hỏi tức là đã trả lời…
Lược sử tối giản của chủ nghĩa duy vật
Chủ nghĩa Duy vật là tư tưởng và học
thuyết cho rằng toàn bộ thế giới hiện thực là vật chất và chỉ có vật
chất mà thôi – không tồn tại bất cứ cái gì là phi vật chất hoặc siêu tự
nhiên, không có Thần [1], không có phép mầu,… Với chủ nghĩa duy vật, các
khái niệm tưởng là phi vật chất như tư tưởng, tinh thần xét cho cùng
cũng chỉ là sự biểu lộ của hoạt động vật chất.
Chủ nghĩa duy vật không phải là một hiện
tượng mới mẻ. Nó vốn có từ xa xưa, ít nhất từ thời cổ Hy Lạp. Có lẽ
ngay từ thời ấy nó đã tỏ ra kém cỏi trong khả năng giải thích thế giới
nên Plato, một trong những cha đẻ của nền văn minh triết học và khoa học
Tây phương, đã phải phê phán nó một cách gay gắt như đã dẫn trong bài
báo của John Spencer nói trên. Đối với Plato, Cái Đẹp (The Beauty), Cái
Thiện (The Goodness), Luật Đạo Đức (The Moral Law) là những giá trị phi
vật chất nói lên sự hiện hữu của Thần. Nếu không tin Thần đã « thổi »
tâm tính tốt đẹp vào con người thì sẽ rất khó giải thích vì sao con
người có xu hướng tôn vinh Cái Đẹp, Cái Thiện và Đạo Đức, trong khi mọi
tạo vật khác không có ý thức về những giá trị này (Chú ý rằng xu hướng
tôn vinh Cái Đẹp, Cái Thiện và Đạo Đức hoàn toàn trái ngược với quy luật
“đấu tranh sinh tồn, mạnh được yếu thua” của thuyết tiến hóa Darwin).
Nhưng mặc dù chủ nghĩa duy vật đã có từ
xa xưa, nó chưa bao giờ trồi lên mạnh mẽ như từ giữa thế kỷ 19 để trở
thành một hệ tư tưởng khuynh đảo xã hội từ đó cho tới nay. May mắn thay,
chính khoa học lại cung cấp ngày càng nhiều bằng chứng cho thấy chủ
nghĩa duy vật không phải là một tiến bộ về nhận thức, mà hóa ra mà là
một bước thụt lùi. Đó là lý do để giữa thế kỷ 20, đúng vào lúc chủ nghĩa
duy vật lên đến tột đỉnh và các nhà duy vật đang ngạo nghễ đắc thắng,
nhà toán học trứ danh Kurt Gödel đã hạ bệ nó bằng một tuyên bố chắc
nịch: « Chủ nghĩa duy vật là sai lầm ! ».
Mãi đến cuối thế kỷ 20, khi Định lý Bất
toàn (Theorem of Incompleteness) của Gödel được thừa nhận một cách rộng
rãi thì nhiều người mới bắt đầu giật mình tỉnh ngộ ra để nhìn nhận lại
bản chất của chủ nghĩa duy vật. Tại sao vậy ? Vì định lý Gödel chỉ ra
rằng chủ nghĩa duy vật, bao gồm logic máy móc và tư duy cơ giới thô
thiển, đã tự bịt mắt trước sự thật – thế giới hiện thực rộng hơn thế
giới nhận thức ; thế giới nhận thức rộng hơn tư duy khoa học; tư duy
khoa học rộng hơn tư duy logic máy móc… Nói cách khác, có nhiều chân lý
nằm bên ngoài thế giới nhận thức bằng thực chứng và logic – khoa học duy vật không bao giờ đủ để nhận thức được chân lý đầu tiên, chân lý cuối cùng và chân lý toàn thể.
Muốn nhận thức sâu hơn và rộng hơn về thế giới, bắt buộc con người phải
sử dụng nhiều phương pháp nhận thức khác nhau để tiệm cận tới chân lý.
Những phương pháp nhận thức này tuy khác nhau, nhưng bổ sung cho nhau,
trong đó trực giác đóng vai trò định hướng dẫn đường.
Trực giác là gì nếu không phải ánh sáng của Thần soi rọi vào mỗi con người ?
Albert Einstein là người nhấn mạnh đến
trực giác nhiều nhất. Ông từng nói « Tư duy trực giác là quà tặng thiêng
liêng… » (The intuitive mind is the sacred gift…). Quà tặng thiêng
liêng đó là của ai, nếu không phải của Thần ? Không thừa nhận sự thật
này thì làm thế nào để giải thích sự hiện hữu của trực giác ? Computer
vượt xa chúng ta về tốc độ và sức khỏe tính toán nhưng chỉ là một gã ngu
đần khi đứng trước một vấn đề đòi hỏi trực giác. Chủ nghĩa duy vật
không dám phủ nhận trực giác, nhưng nó lúng túng không biết làm thế nào
để giải thích trực giác, vì thế nó nói bừa rằng đó là bản năng tự nhiên
và nhờ “tiến hóa” mà có. Khái niệm “tiến hóa” là một khái niệm mơ hồ,
bởi thực tế không bao giờ có một cơ chế tiến hóa nào có thể kiểm chứng
được một cách cụ thể, rõ ràng.
Thực tế, trực giác là một trong những bí
ẩn lớn nhất của tự nhiên – khả năng nắm bắt được bản chất sự vật một
cách trực tiếp ngay tức khắc không thông qua lý luận. Trực giác có nhiều
tầng khác nhau. Ở tầng thấp, một học trò có trực giác tốt sẽ định hướng
lời giải của một bài toán hình học nhanh hơn những học trò có trực giác
kém. Ở tầng cao, trực giác giúp Isaac Newton cảm thấy có lực hấp dẫn
giữa các vật chất có khối lượng, Albert Einstein “nhìn thấy” quy luật
tương đối chi phối tự nhiên, Louis Pasteur “cảm thấy” tính bất đối xứng
của sự sống,… Ở tầng cao hơn nữa, nó giúp con người “nhìn thấy” những
thế giới không nhìn thấy – thế giới siêu tự nhiên, phi vật lý, nơi
phương pháp thực chứng và logic của khoa học hoàn toàn bất lực. Vì thế
những thầy giáo giỏi không phải là những người truyền đạt giỏi, mà là
những người giỏi đánh thức người học, giúp người học tỉnh thức để vận
dụng trực giác sẵn có trong tâm mà thấu cảm chân lý, thay vì lý luận
chứng minh. Đức Phật và Đức Chúa Jesus là những nhà truyền giảng và đánh
thức vĩ đại. Câu nói bất hủ của Chúa Jesus, rằng “Phúc cho ai không
thấy mà tin” là một lời đánh thức tất cả những ai muốn tìm chân lý,
nhưng rất tiếc là có nhiều người không hiểu, thờ ơ với lời đánh thức đó.
Nhưng những người như Kurt Gödel thì không như vậy. Lời nói quả quyết
của ông, Chủ nghĩa duy vật là sai lầm, chứng tỏ ông là một người tỉnh
thức hơn ai hết – ông phủ nhận chủ nghĩa duy vật và vô thần quyết liệt
tới chừng nào.
Thực tế cho thấy ngày càng có nhiều
người hiểu Gödel hơn, và do đó ngày càng có nhiều người từ bỏ chủ nghĩa
duy vật hơn. Tiến sĩ John Spencer, với tư cách một nhà triết học về vật
lý lượng tử, đã ủng hộ Gödel bằng lập luận logic một cách mạnh mẽ đến
nỗi phải trích dẫn Plato để phê phán chủ nghĩa duy vật như một thứ triết
học tầm thường và ngoan cố. Lập luận của Spencer vừa mang tính khoa học
vừa mang tính triết học.
Logic bác bỏ chủ nghĩa duy vật
Trong bài báo nói trên, Spencer lưu ý
độc giả rằng : Kurt Gödel tuy không nổi tiếng như Albert Einstein, nhưng
đừng quên rằng ông là một trong những nhà toán học vĩ đại nhất thế kỷ
20, và là nhà logic vĩ đại nhất kể từ sau Aristotle; bản thân Einstein
trong thời gian làm việc cùng với Gödel tại Viện nghiên cứu cao cấp
Princeton đã từng công khai nói với mọi người rằng ông đến Viện nghiên
cứu chỉ cốt để gặp gỡ trò chuyện với Gödel, rồi cùng đi bộ với Gödel về
nhà; một bạn thân khác của Gödel tại đây là nhà toán học lừng danh John
von Newman, một trong những cha đẻ của computer ngày nay.
Vậy điều gì đã làm cho một nhà khoa học bậc nhất như Gödel chối bỏ chủ nghĩa duy vật?
Spencer nói: “Chủ nghĩa duy vật, một thứ
triết lý dựa trên tiên đề cho rằng chỉ có vật chất mới là cái có thật,
đã trở thành nền tảng cố hữu không thể tranh cãi trong rất nhiều trường
phái khoa học chính thống”.
Cái nền tảng ấy đã trở thành một xiềng
xích trói buộc, một tảng đá đè nặng lên tư duy khoa học, cản trở tư duy
sáng tạo đến nỗi nhà thần kinh học Mario Beauregard đã phải lên tiếng
kêu gọi: “Nay đã đến lúc chúng ta phải tự giải phóng mình ra khỏi những
xiềng xích trói buộc và những tấm vải che mắt của ý thức hệ duy vật cỗ
lỗ sĩ” (It’s now time to free ourselves from the shackles and blinders
of the old materialist ideology).
Thực ra những người tài giỏi thực sự
không cần phải chờ đợi lời kêu gọi đó. Họ đã tự giải phóng mình từ lâu,
đúng như Spencer nhận xét: “Trớ trêu thay, có một sự thật là nhiều nhà
khoa học đi tiên phong trong khoa học hiện đại từ vài thế kỷ trước đây
cho tới những nhà sáng lập cơ học lượng tử như Max Planck và Werner
Heisenberg cũng đều bác bỏ chủ nghĩa duy vật”.
Ủng hộ lời kêu gọi của Mario Beauregard, John Spencer nêu lên một lập luận 9 điểm để bác bỏ chủ nghĩa duy vật:- Các định luật vật lý là nền tảng của tất cả mọi khoa học.
- Các định luật vật lý là những quan hệ toán học.
- Các quan hệ toán học phụ thuộc vào các con số.
- Mọi con số được xây dựng từ 1 và 0 (“2” là 1 + 1, và zero là sự vắng mặt của mọi thứ)
- Số 0 bản thân nó là phi vật lý (nó không đại diện cho bất kỳ một vật chất cụ thể nào cả).
- Số 1 bản thân nó cũng phi vật lý. Có thể có 1 cái cây, 1 cái ôtô,… nhưng bản thân số 1 không phải cái cây hoặc cái ôtô (số 1 chỉ là một mã hoặc một thông tin).
- Vì các số là “cái gì đó” phi vật lý, do đó các định luật vật lý thể hiện hoặc phụ thuộc vào cái gì đó phi vật lý.
- Vậy buộc phải đi đến kết luận: hoặc a) các định luật vật lý là có thực nhưng phi vật lý, điều này cho thấy chủ nghĩa duy vật là sai; hoặc b) các định luật vật lý là phi hiện thực, điều này làm cho nền tảng của mọi khoa học trở thành phi hiện thực.
- Bất chấp thắng lợi phi thường bề ngoài của khoa học, nếu nền tảng của khoa học là phi hiện thực thì rốt cuộc nó không thể cung cấp bất kỳ cơ sở nào cho chân lý khách quan trong hiện thực, và do đó không thể nói rằng chủ nghĩa duy vật phản ánh chân lý khách quan.
Tuy nhiên, sự thật vẫn là sự thật. Sự
thật dễ thấy nhất là hầu hết những nhà khoa học giỏi nhất, thâm thúy
nhất đều từ chối chủ nghĩa duy vật. Để lập một danh sách những nhà khoa
học như thế, xin lấy một nhận định của Louis Pasteur làm tiêu chuẩn: “Một ít khoa học làm ta xa rời Chúa [2]; nhiều khoa học làm ta quay về với Chúa” (Un peu de science nous éloigne de Dieu, beaucoup nous y ramène).
Đó là một nhận định chính xác. Quan sát
thực tế, tôi thấy đa số những người có đầu óc khoa học nửa vời, thậm chí
tầm thường, thường trở thành những kẻ tự phụ, tưởng mình có thể “thế
thiên hành đạo”, bịa ra những lý thuyết giải thích thế giới mà không cần
đến Thần; ngược lại những người tài giỏi thực sự lại có thái độ khiêm
tốn, biết kinh ngạc thán phục trước những kỳ quan của Tạo Hóa, và do đó
tin vào sự hiện hữu của những lực lượng siêu nhiên.
Einstein có lẽ là một nhân vật tiêu biểu
nhất cho loại người biết kinh ngạc trước những phép mầu của Tự nhiên,
vì thế ông cũng là người nêu lên một công thức chính xác để đo lường tri
thức của con người: Ego = 1/Knowledge (Cái tôi = 1/Tri thức) – cái tôi tỷ lệ nghịch với tri thức, tri thức càng ít thì cái tôi càng lớn, tri thức càng nhiều thì cái tôi càng nhỏ.
Người có cái tôi lớn thường không thừa
nhận Thần, người có cái tôi nhỏ thường thừa nhận Thần, thán phục Thần.
Một người có khiêm tốn hay không, hãy xem anh ta đối xử với Thần như thế
nào. Cách đo lường đó hoàn toàn phù hợp với “tiêu chuẩn” của Pasteur
nói trên. Vậy dựa trên “tiêu chuẩn” này, xin nêu một danh sách những nhà
khoa học vĩ đại nhất mọi thời đại từ chối chủ nghĩa duy vật như sau
đây.
NHỮNG NHÀ KHOA HỌC VĨ ĐẠI NHẤT MỌI THỜI ĐẠI CÓ ĐỨC TIN VÀO THẦN
1.Galileo Galilei (1564-1642) :
Việc
Tòa án Giáo hội Công giáo La mã năm 1633 kết tội Galileo vì ông ủng hộ
thuyết Nhật tâm đã trở thành một vết đen trong lịch sử Công giáo, đánh
dấu một cuộc đối đầu không đáng có giữa khoa học và tôn giáo, để lại một
hệ lụy vô cùng đáng tiếc cho tới tận hôm nay. Hệ lụy lớn là gây ra một
sự hiểu lầm vô cùng tai hại rằng khoa học và tôn giáo là hai hệ thống
nhận thức đối đầu nhau và loại trừ lẫn nhau từ trong bản chất. Hệ lụy
nhỏ là gây ra sự hiểu lầm lớn rằng Galileo là người vô thần, chống đối
tôn giáo. Cả hai hệ lụy đó đều bắt nguồn từ sai lầm của Tòa án Giáo hội
năm 1633. Năm 1992, sau 13 năm nghiên cứu lại vụ án Galileo, Giáo hội
Công giáo La mã dưới triều đại của Đức Giáo hoàng Jean Paul II đã chính
thức sửa chữa sai lầm của 359 năm trước: thừa nhận Tòa án Giáo hội sai
và Galileo đúng, khôi phục lại mọi danh dự cho nhà khoa học chính trực
Galileo Galilei. Đây là một quyết định dũng cảm, nhân bản, đề cao công
lý, thể hiện rõ ý Chúa. Nhân dịp này báo chí thế giới cũng nói nhiều đến
Galileo, qua đó cho thấy ông là người có Đức tin vững chắc. Thật vậy,
ông tuyên bố: “Chúa được biết đến nhờ những công trình Ngài kiến tạo
trong tự nhiên, và nhờ những lời dạy Ngài vén mở trong các kinh sách”
(God is known by nature in His works, and by doctrine in His revealed
word). Đối với Galileo, khoa học càng làm ông tin chắc vào vai trò sáng
tạo của Chúa. Đây, hãy nghe ông nói: “Toán học là bảng chữ cái trong đó
Chúa viết về vũ trụ” (Mathematics is the alphabet in which God has
written the universe).
2.Isaac Newton (1643-1727) :
Newton
nổi tiếng là một người Thiên Chúa giáo ngoan đạo, vì thế ông cũng là
người rất khiêm tốn, biết mình bé nhỏ và tầm thường trước Đấng Sáng tạo
vĩ đại. Khi được hỏi làm thế nào để ông có thể khám phá được nhiều điều
kỳ lạ đến thế, ông nói ông chỉ giống như một đứa trẻ dạo chơi ngoài bãi
biển, say mê nhặt những vỏ sò đẹp, và mỗi khám phá của ông giống như một
vỏ sò đẹp mà thôi. Khi ông khám phá ra Định luật Vạn vật Hấp dẫn rồi
dùng nó để giải thích chuyển động của các hành tinh quanh Mặt Trời, có
người chất vấn ông: “Nếu không có chuyển động quán tính của hành tinh
theo phương tiếp tuyến với quỹ đạo thì hành tinh sẽ bị hút vào Mặt Trời,
vậy chuyển động quán tính ấy từ đâu mà ra?”. Newton đáp ngay: “Đó là cú
hích ban đầu của Chúa!”. Ngày xưa thầy dạy vật lý của tôi kể lại chuyện
này cho học trò nghe rồi kết luận: “Newton rốt cuộc vẫn là người duy
tâm”. Ý thầy chê duy tâm là kém. Lũ trẻ nhỏ chúng tôi đứa nào chẳng tin
thầy? Sau này lớn lên tôi mới vỡ nhẽ ra rằng một nhận định sai của giáo
dục một khi đã được nhồi nhét vào đầu trẻ em sẽ để lại một hậu quả vô
cùng tai hại đối với con người, và điều đó rất khó sửa chữa. Đó chính là
tình trạng của thuyết tiến hóa hiện nay. Sau này tự đọc sách, tự suy
ngẫm, tôi hiểu ra rằng chỗ thầy tôi chê Newton chính là chỗ để lộ thiên
tài của Newton. Thiên tài hơn người tầm thường ở chỗ cảm nhận
được cái gì là có thể, cái gì là không thể. Giải thích nguyên nhân đầu
tiên là không thể! Nguyên nhân đầu tiên luôn luôn thuộc về Chúa.
Tôi dám phát biểu điều đó như một định lý. Sự sống đầu tiên cũng vậy.
Thuyết tiến hóa SAI vì nó bịa ra sự sống đầu tiên nẩy sinh từ “nồi soup
nguyên thủy”. Hơn 150 năm sau vẫn không làm thế nào mà chứng minh được
chuyện bịa này là sự thật. Thay vì thừa nhận chuyện bịa đó đã thất bại,
các nhà tiến hóa lại bịa ra những giả thuyết mới, chẳng hạn giả thuyết
về “thế giới RNA”, và cứ thế kéo một đám đông khờ dại cả tin đi theo họ.
Đám đông này bị cuốn theo đống chữ nghĩa phức tạp hàn lâm mà cứ ngỡ đó
là khoa học. Trong khi đó Newton rất tỉnh táo, ông không để cho ai có
thể lung lạc được ông. Ông trả lời người chất vấn ông ngay tức khắc bằng
một câu trả lời cần thiết nhất, dứt khoát nhất, như một bài học dạy cho
người hỏi. Newton biết rõ ai tin Chúa, ai không tin. Hãy nghe ông nói:
“Người suy nghĩ nửa vời sẽ không tin Chúa; nhưng người suy nghĩ thấu đáo
sẽ phải tin Chúa” (He who thinks half-heartedly will not believe in God
; but he who thinks really has to believe in God).
3.Blaise Pascal (1623-1662) :
Tôi
đã thảo luận khá nhiều về Pascal trên tất cả những diễn đàn mà tôi từng
tham gia, nhưng chưa bao giờ cảm thấy là đủ, vì nhiều lý do. Một, ông
quá vĩ đại để có quá nhiều điều cho hậu thế học hỏi, bàn luận; Hai, ông
là người Thiên Chúa giáo có Đức tin mãnh liệt, một nhà khoa học có uy
tín lớn bênh vực Thiên Chúa giáo, vì thế ông bị giới vô thần ngấm ngầm
chống đối bằng cách che đậy, tảng lờ các công trình của ông về triết học
và thần học, sao cho càng ít người biết tư tưởng của ông càng tốt.
Chính Pascal cũng biết điều đó. Ông nói: “Người ta khinh thường tôn giáo. Họ thù ghét nó nhưng sợ nó đúng”
(Les hommes ont mépris pour la réligion. Ils en ont haine et peur
qu’elle soit vraie). Vì thế tôi muốn giới thiệu với mọi người càng nhiều
về Pascal càng tốt, nhất là về những gì bấy lâu nay ít người biết. Càng
đọc Pascal, tôi càng ngạc nhiên và choáng ngợp vì tầm vóc và chiều sâu
tư tưởng của ông. Ông chính là người đầu tiên chứ không phải Kurt Gödel
đã thảo luận rất kỹ về tính hạn chế của toán học nói riêng và nhận thức
lý lẽ nói chung. Đó là những công trình ông viết về cơ sở của Hình học,
trong đó ông chỉ ra rằng không có cách nào để kiểm tra một hệ tiên đề là
đầy đủ và tuyệt đối chắc chắn. Từ đó suy ra rằng toán học nói riêng và
khoa học nói chung là không đầy đủ và không tuyệt đối chắc chắn. Nhận
thức muốn vươn lên cao hơn, phải vận dụng “lý lẽ của trái tim” (la
raison du Coeur), Pascal nói, “chính trái tim giúp ta nhận biết Chúa chứ
không phải lý lẽ” (C’est le Coeur qui sent Dieu et non la raison). Nếu
Gödel có gì khác Pascal, thì đơn giản là ông sinh sau đẻ muộn hơn Pascal
gần 3 thế kỷ, và biến những luận điểm triết học khoa học của Pascal
thành một định lý toán học không thể tranh cãi: Định lý Bất toàn
(Theorem of Incompleteness). Vấn đề này đã được thảo luận kỹ trong nhiều
bài viết trên PVHg’s Home: “Lý lẽ của Trái tim” (La Raison du Cœur)
ngày 05/12/2013, “LỬA của PASCAL” (PASCAL’s FIRE) ngày 16/12/2013; “VỀ
TÍNH BẤT TOÀN: TỪ PASCAL ĐẾN GODEL (On the Incompleteness: From Pascal
to Godel)” ngày 28/05/2015. Trong những bài đó, tôi đã trích dẫn một ý
kiến của Pascal mà qua đó có thể thấy Pascal đánh giá thấp tư tưởng duy
vật như thế nào: “Chủ nghĩa vô thần thể hiện sức mạnh của tinh thần,
nhưng chỉ ở một mức độ nhất định mà thôi” (Athéisme marque de force
d’esprit, mais jusqu’à un certain degré seulement).
4.Gregor Mendel (1822-1884) :
Mendel
là một tu sĩ Công giáo toàn tâm toàn ý, vì thế không có gì phải nghi
ngờ Đức tin của ông đối với Thần. Trong cuốn “Các nhà khoa học có Đức
tin” (Scientists of Faith), Dan Graves nhận xét về Mendel như sau: “Mặc
dù ông đọc Darwin, nhưng ông không chấp nhận nhiều lý thuyết của Darwin,
vì ông tin rằng Thần sáng tạo ra thế giới và sự ngẫu nhiên mù quáng
không thể là lý do tạo ra thế giới…” (Although he read Darwin, he
[Mendel] did not accept many of his [Darwin’s] theories, believing that
God had created the world and blind chance could not be responsible for
the outcome…) [1]. Chú ý rằng thuyết tiến hóa của Darwin nói rằng sự
sống đầu tiên hình thành một cách ngẫu nhiên, mù quáng, vô mục đích từ
vật chất không sống. Và đó là điều Mendel không thể nào chấp nhận được!
Năm 1966, trong một hội nghị lớn tại Mỹ, các nhà toán học cũng thảo luận
về xác suất để sự sống hình thành ngẫu nhiên từ các phân tử không sống.
Hội nghị đã đi đến kết luận rằng xác suất này vô cùng nhỏ, nhỏ gần như
bằng 0, và do đó sự sống không thể xẩy ra ngẫu nhiên. Nhà toán học Anh
Fred Hoyle đặc biệt quan tâm tới thuyết tiến hóa, cũng đi đến kết luận
rằng sự sống không thể hình thành từ “nồi soup nguyên thủy”. Mendel rất
giỏi toán, không biết ông có nghĩ tới việc tính xác suất để phủ nhận
Darwin hay không, nhưng trực giác thiên tài của ông đã đủ để ông bác bỏ
Darwin. Xin lưu ý độc giả rằng thông tin Mendel bác bỏ Darwin bị giới
tiến hóa che đậy trong hơn 150 năm qua. Hiện nay dưới ánh sáng internet,
sự thật ngày càng được sáng tỏ. Từ đó tôi dám nói rằng ai đã thực sự
ngưỡng mộ Mendel thì ắt phải bác bỏ Darwin. Trường phái “Darwin mới”
(Neo-Darwinism) đã phải vội vàng kết hợp học thuyết di truyền của Mendel
vào thuyết tiến hóa, nhưng thực chất đã phản lại chính Darwin, vì quan
điểm về di truyền của Darwin hoàn toàn khác với các định luật di truyền
của Mendel. Quan niệm di truyền của Darwin tiếp thu từ Lamark là một
quan niệm hoàn toàn sai lầm, nhưng giới tiến hóa che đậy sự thật này,
giấu nhẹm sai lầm của Darwin. Nhưng không che giấu được những người ham
hiểu biết. Chỉ cần vào Google, gõ “what did Darwin learn from Lamark?”,
sự thật sẽ lộ ra ngay.
5.Louis Pasteur (1822-1895):
Nếu
phải mô tả Pasteur bằng một câu ngắn nhất thì đó là : « Pasteur : Người
con ưu tú của Chúa và ân nhân của nhân loại ». Giới vô thần không yêu
mến Pasteur, vì ông có Đức tin Thiên Chúa giáo sâu sắc, và vì ông chống
thuyết tiến hóa một cách rõ rệt. Tương tự như cách họ đối xử với Pascal,
giới vô thần cố làm cho mọi người nhắc đến Pasteur càng ít càng tốt,
đơn giản vì càng nhắc đến ông càng làm cho thuyết tiến hóa lộ diện là
một lý thuyết ngụy khoa học. Đó là lý do vì sao người ta không tiếc lời
ca ngợi Pasteur như cha đẻ của khoa học vi sinh (microbiology) và miễn
dịch học (immunology), nhưng người ra rất ít nói đến Pasteur như
một nhà khoa học lớn khám phá ra những nguyên lý cơ bản của sự sống. Cụ
thể người ta rất sợ nhắc đến hai định luật cơ bản của sự sống do
Pasteur khám phá: Định luật sự sống bất đối xứng (thuận tay trái) và
Định luật sự sống chỉ ra đời từ sự sống (biogenesis). Lẽ ra
những định luật mang tính cơ bản này phải được dạy trong chương trình
Sinh học ở trường phổ thông. Nhưng chỉ có những sinh viên đại học chuyên
ngành mới được học. Tại sao họ sợ hai định luật đó? Vì cả hai đều phủ
nhận thuyết tiến hóa khi thuyết này nói rằng sự sống hình thành một cách
tự phát và ngẫu nhiên từ vật chất không sống. Chương trình Sinh học ở
trường phổ thông phớt lờ hai định luật cơ bản này và tiếp tục nhồi nhét
vào đầu học trò kiến thức sai lầm rằng sự sống hình thành một cách ngẫu
nhiên từ vật chất không sống, mặc dù không làm thế nào mà chứng minh
được nhận định đó. Khi học trò trở thành người lớn, rất khó để sửa chữa
nhận thức sai lầm này, ngay cả khi được trông thấy những bằng chứng rành
rành tố cáo sự gian lận của thuyết tiến hóa. Đó là một thảm họa. Tôi
tin rằng đến một ngày nào đó, khi thuyết tiến hóa hoàn toàn bị xóa bỏ,
công lao của Pasteur sẽ còn được đánh giá cao hơn nữa. Nhưng bản thân
ông, ông biết rõ rằng thành công của ông là nhờ có may mắn – ông “có Chúa ở bên trong”.
Thật vậy, ông nói: “Người Hy-lạp hiểu được sức mạnh bí ẩn nằm bên dưới
sự vật. Chính họ đã cho chúng ta một trong những từ ngữ đẹp nhất trong
ngôn ngữ của chúng ta, đó là chữ “enthousiasme” (cảm hứng), chữ Hy-lạp
là Εν Θεος , có nghĩa là ‘có Chúa ở bên trong’. Tầm vóc hành vi của con
người được đo bởi niềm cảm hứng mà từ đó những hành vi ấy hiện ra. Hạnh
phúc thay cho ai có Chúa ở bên trong”.
6.Henri Poincaré (1854-1912) :
Khi
còn là học sinh, Poincaré đã được mệnh danh là “con quỷ toán học”
(monstre de mathématiques). Ở tuổi trưởng thành, giới toán học gọi ông
là « Mozart của toán học ». Tổng kết cả cuộc đời, giới bác học mô tả ông
như “the last Universalist” (nhà đại quảng bác cuối cùng), bởi khó có
thể tưởng tượng được bề rộng của những mảnh đất toán học và vật lý mà
ông đã khám phá ra hoặc đặt chân tới, rồi để lại ở đó những dấu ấn sâu
sắc, những di huấn, những tư tưởng, những bài toán khổng lồ cho hậu thế
tiếp tục khai phá. Nhà toán học đàn em nhưng cùng thời với ông, Bertrand
Russell, người nổi tiếng với Nghịch lý Russell, không tiếc lời ngợi ca
Poincaré là “nhà toán học vĩ đại nhất đang còn sống”, bất chấp sự hiện
diện của những nhà toán học lớn đương thời khác như David Hilbert,… Có
thể quên công trình nào đó của Poincaré, nhưng không được phép quên ông
là cha đẻ của Topo Đại số, cha đẻ của Giả thuyết Poincaré, người đầu
tiên định hướng cho lời giải tổng quát của Bài toán Ba Vật thể (Problème
à Trois Corps), người đặt nền móng cho Lý thuyết Hỗn độn (Theory of
Chaos), đồng tác giả của Thuyết Tương đối hẹp, và đặc biệt, một nhà
triết học khoa học nhìn xa trông rộng, kẻ thù số 1 của chủ nghĩa toán
học hình thức do Hilbert cầm đầu… Chỉ cần ghé qua tiểu sử khoa học của
ông, một người trung thực không thể không có cảm giác khiếp sợ trước
những công trình sáng tạo vĩ đại của ông, cả về số lượng lẫn tầm vóc
khổng lồ về tư tưởng. Một người vĩ đại như thế mà vẫn biết rằng có Thần,
và Thần chính là tác giả của những quy luật vũ trụ được diễn đạt bằng
ngôn ngữ toán học: “Nếu Thần nói với con người, không nghi ngờ gì nữa rằng Ngài sử dụng ngôn ngữ toán học” (If God speaks to man, He undoubtedly uses the language of mathematics), Poincaré nói [2].
7.Max Planck (1858-1947):
Là
cha đẻ của Thuyết Lượng tử, Planck ắt hẳn phải là một nhà tư tưởng. Đối
với ông, Thần là nhu cầu tất yếu của cả tôn giáo lẫn khoa học. Ông nói:
“Cả tôn giáo lẫn khoa học đều cần đến Đức tin vào Thần để phụng sự cho
hoạt động của mình, hơn nữa, tôn giáo cần có Thần ngay từ lúc khởi đầu,
khoa học cần đến Thần vào lúc kết thúc toàn bộ tư duy. Đối với tôn giáo,
Thần là nền tảng, đối với khoa học, Thần là đỉnh cao nhất của bất kỳ lý
lẽ nào liên quan đến vũ trụ quan” (Both religion and science need for
their activities the belief in God, and moreover God stands for the
former in the beginning, and for the latter at the end of the whole
thinking. For the former, God represents the basis, for the latter – the
crown of any reasoning concerning the world-view).
8.Albert Einstein (1879-1955):
Einstein
nổi tiếng là người hay nhắc đến Thần như Đấng Sáng tạo vũ trụ và tác
giả của các định luật vũ trụ. Ông yêu Cái Đẹp và Cái Trật tự say đắm đến
nỗi tin chắc rằng Thần bao giờ cũng ngay ngắn rõ ràng mạch lạc đẹp đẽ,
Thần không thể chơi trò may rủi ú tim nước đôi lập lờ. Vì thế ông chống
đối Nguyên lý Bất định đến cùng, và điều đó làm rạn nứt tình bạn vốn có
giữa ông với Niels Bohr. Mặc dù Thần của Einstein không phải là Chúa của
Thiên Chúa giáo, nhưng ông cho rằng niềm tin vào Thần của ông, Đấng
Sáng tạo, là điều ắt phải có đối với một nhà khoa học. Thậm chí ông coi
đó là một tôn giáo đích thực. “Khoa học không có tôn giáo là khoa học
khập khiễng; tôn giáo không có khoa học là tôn giáo mù quáng” (Science
without religion is lame; Religion without science is blind). Hóa ra
Einstein đã phát biểu một chân lý rõ ràng rằng khoa học và tôn giáo rất
cần thiết có nhau, bổ sung cho nhau, thay vì loại trừ nhau như chủ nghĩa
duy vật tuyên bố. Nói cách khác, Einstein đã mặc nhiên bác bỏ chủ nghĩa
duy vật. Ông tuyên bố: “Càng nghiên cứu khoa học tôi càng tin vào Thần”
(The more I study science, the more I believe in God).
9.Werner Heisenberg (1901-1976):
Sau
khi Einstein và Bohr mất, Heisenberg được tôn vinh như nhà vật lý số 1
của thế giới. Ông đã phạm sai lầm lớn về chính trị khi làm giám đốc
chương trình nghiên cứu chế tạo bom nguyên tử của Hitler. Có lẽ việc này
để lại trong lòng ông một nỗi hối hận suốt đời. Theo những gì tôi biết,
ông là người ngây thơ về chính trị, nhưng ông không phải kẻ ác. Đây là
vấn đề thuộc về lịch sử, đáng để cho những ai yêu lịch sử tìm hiểu kỹ.
Nhưng về triết học và vũ trụ quan, ông là người vô cùng sâu sắc. Ông
nhắn nhủ các nhà khoa học rằng: “Ngụm nước đầu tiên từ cốc nước khoa học
tự nhiên sẽ biến bạn thành một người vô thần, nhưng ở đáy cốc Thần đang
đợi bạn” (Der erste Trunk aus dem Becher der Naturwissenschaft macht
atheistisch, aber auf dem Grund des Bechers wartet Gott). Đối chiếu câu
nói này của Heisenberg với câu nói của Pasteur ở trên (mà tôi lấy làm
tiêu chuẩn đo lường tri thức của các nhà khoa học), ta thấy hai câu nói
giống nhau đến mức có thể nghĩ rằng “Heisenberg nhắc lại lời Pasteur
chăng?”. Không! Đó là “tư tưởng lớn gặp nhau!” (Les grands esprits se
rencontrent!)
10. Kurt Gödel (1906-1978):
Toàn
bộ bài viết mà độc giả đang đọc có thể xem như một bình luận về tư
tưởng của Gödel. Có lẽ Gödel là nhà khoa học bác bỏ chủ nghĩa duy vật
thẳng thắn nhất, rõ ràng nhất, mạnh mẽ nhất. Chúng ta đã thấy nhiều bậc
tiền bối của Gödel có những suy nghĩ rất giống ông, điển hình là Blaise
Pascal, hay sau này là Max Planck. Nhưng công lao và thiên tài của Gödel
là ở chỗ ông đã biến tất cả những nhận định mang tính triết học bác bỏ
chủ nghĩa duy vật thành những định lý toán học không thể tranh cãi được.
Thiết tưởng nếu không có Định lý Bất toàn của ông thì không biết những
trường phái duy vật và vô thần như Hilbert sẽ còn làm mưa làm gió đến
bao giờ. Bài báo “Gödel chứng minh Thần hiện hữu (Gödel proved that God
Exists)” trên PVHg’s Home ngày 17/09/2014 đã cung cấp cho độc giả một
cái nhìn tương đối đầy đủ về vũ trụ quan và tư tưởng triết học và thần
học của Gödel. Nhưng sau khi trình bầy 14 quan điểm triết học của Gödel
(nội dung bác bỏ chủ nghĩa duy vật và khẳng định sự cần thiết của Đức
tin) bài báo đã kết luận bằng lời của Thánh Thomas Aquinas
rằng “Đối với người có đức tin, không cần có sự giải thích nào cả. Đối
với người không có đức tin, chẳng có lời giải thích nào là đủ” (To one
who has faith, no explanation is necessary. To one without faith, no
explanation is possible). Nhận định đó thật chí lý.
Kết
Cuối thế kỷ 19, Friedrich Nietzsche
tuyên bố: “Chúa đã chết!”. Tuyên bố này nổi tiếng đến nỗi được coi là
cột mốc đánh dấu sự chuyển tiếp của nền văn minh nhân loại từ văn minh
hữu thần sang văn minh vô thần, kéo dài hơn một thế kỷ rưỡi nay.
Gần đây Richard Dawkins, một môn đệ
trung thành nhất và mạnh miệng nhất của chủ nghĩa Darwin, nhắc lại tuyên
bố của Nietzsche dưới một dạng thức nhấn mạnh hơn: “Chúa không chết.
Chúa ngay từ đầu đã không bao giờ sống!” (God is not dead. He was never
alive in the first place).
Stephen Hawking cũng mạnh miệng không
kém. Ông tuyên bố nhân dịp ra mắt cuốn “Grand Design” (Thiết kế Lớn) năm
2013: “Big Bang không cần Chúa” (Big Bang didn’t need God), và “Vì có
một định luật như định luật hấp dẫn, vũ trụ có thể và sẽ tự tạo ra nó từ
hư không…” (Because there is a law such as gravity, the universe can
and will create itself from nothing…).
Rất may, uy tín khoa học của những người
như Nietzsche, Dawkins hoặc Hawking không thể so sánh với 10 nhân vật
vĩ đại trong bảng danh sách nói trên. Vì thế sức thuyết phục kém. Tuy
nhiên những ý kiến này giúp chúng ta chiêm nghiệm câu nói của Thánh
Thomas Aquinas. Vậy toàn bộ câu chuyện của chúng ta hôm nay có ý nghĩa
gì?
Câu trả lời nằm trong ý kiến sau đây của Nicolas Tesla, một thiên tài kỹ thuật trong thế kỷ 20:
“Quà tặng về sức mạnh tinh thần đến từ
Chúa, Đấng Thiêng liêng, và nếu chúng ta tập trung suy nghĩ của chúng ta
vào chân lý đó, chúng ta sẽ trở nên hòa hợp với sức mạnh vĩ đại đó. Mẹ
tôi dạy tôi tìm mọi chân lý trong Kinh Thánh” (The gift of mental power
comes from God, Divine Being, and if we concentrate our minds on that
truth, we become in tune with this great power. My mother had taught me
to seek all truth in the Bible).
Và Kinh Thánh nói: “Phúc cho ai không thấy mà tin”.
Chú thích:[1] Thần: Một lực lượng siêu tự nhiên mà nhân loại từng sử dụng nhiều từ ngữ khác nhau để gọi tên, như Phật, Đại Giác Giả, Thượng đế, Đấng Tối cao, Chúa, Đấng Sáng tạo, Jehovah, Allah,, , Bà Mẹ Tự nhiên, Nhà thiết kế vĩ đại… [2] God: God là một từ tiếng Anh ám chỉ một vị Thần nói chung theo định nghĩa ở chú thích [1]. Tuy nhiên, vì Ki-tô giáo là tôn giáo chính yếu ở Tây Phương, nên khi nhắc đến God, người ta thường mặc định ám chỉ đến Chúa trong tín ngưỡng Ki-tô Giáo. Tuy nhiên trong phạm vi bài viết này, trừ trong các trường hợp cụ thể, chúng ta nên hiểu rộng nghĩa của từ God theo chú thích [1].
Bài viết thể hiện quan điểm của tác giả, không nhất thiết phản ánh quan điểm của Đại Kỷ Nguyên.
Giảng dạy: Từng giảng dạy các môn
Toán Kinh tế; Cơ học Lý thuyết; Sức bền Vật liệu; Toán luyện thi đại
học. Hiện thỉnh giảng Toán cao cấp tại một đại học ở VN.
Tác giả: Phạm Việt Hưng, viethungpham.com.
Đăng tải với sự cho phép. Đọc bản gốc ở đây.
Đăng tải với sự cho phép. Đọc bản gốc ở đây.
Bạn có biết thời gian trôi chậm hơn khi càng tiến gần đến trung tâm Trái Đất?
Theo thuyết tương đối rộng của Albert
Einstein, một vật thể với khối lượng sẽ có khả năng uốn cong không-thời
gian, từ đó thay đổi “sự nhanh chậm” của thời gian.
Câu hỏi: Liệu thời gian có trôi chậm hơn khi bạn tiến gần hơn đến trung tâm Trái Đất?
Trả lời: Thuyết tương đối của Einstein nói rằng bạn càng tiến gần hơn đến trung tâm Trái Đất, thì thời gian sẽ trôi qua càng chậm.
Lấy ví dụ, tại đỉnh núi Everest, một năm sẽ ngắn hơn khoảng 15 microsecond (15 phần triệu giây) so với tại mực nước biển.
Các nhà
khoa học đã thử nghiệm thuyết tương đối của Einstein tại các khoảng cách
nhỏ mà chúng ta đi lên đi xuống hàng ngày. Sử dụng các đồng hồ chính
xác nhất trên thế giới, họ đã xác nhận được rằng các đồng hồ đeo tay của
chúng ta sẽ chạy tại một mức vận tốc hơi chút khác biệt khi chúng ta đi
thang máy, leo cầu thang, hay thậm chí ngồi thẳng trên giường.
Theo
thuyết tương đối rộng của Einstein, các vật thể lớn với trọng lực lớn
như ngôi sao và hành tinh sẽ uốn cong kết cấu của không gian và thời
gian, giống như một quả bóng bowling trên một tấm bạt lò xo.
Bạn càng
tiến đến gần những vật thể này, lực kéo của trọng lực sẽ trở nên càng
mạnh và thời gian trôi qua càng chậm. Nếu một phi hành gia quan sát một
cái đồng hồ rơi vào một cái hố đen, anh ta hoặc cô ta sẽ nhìn thấy các
cái kim dần dần chạy chậm lại khi lực kéo của trọng lực gia tăng. Kim
phút sẽ tích một lần mỗi giờ, sau đó một lần mỗi thập kỷ, rồi cuối cùng
ngừng hẳn.
Xem video thí nghiệm thả một cái đồng hồ vào hố đen:
Nghiên cứu: Đường hầm xuyên ‘thời-không’ có thể dẫn đến vũ trụ khác
Theo một giả thuyết mới, tàu vũ
trụ có thể đi xuyên qua “lỗ sâu” (wormhole), lọt ra phía bên kia để đến
một vũ trụ khác mà không xảy ra vấn đề gì.
Lỗ sâu này còn được biết đến với cái tên “đường hầm xuyên qua thời gian – không gian”, gọi tắt là đường hầm xuyên thời-không.
Tuy
nhiên, các nhà khoa học cho rằng các cửa ngõ thời-không này không được
ổn định. Khi một hạt phân tử tiến vào một lỗ sâu, nó sẽ tạo ra các đợt
dao động nguy hiểm khiến cấu trúc của nó tự vỡ vụn rồi thu nhỏ vào bên
trong.
Theo lý
thuyết mới đề xuất từ các nhà vật lý khác cho rằng, con người hay tàu vũ
trụ có thể đi xuyên qua lỗ sâu ở trung tâm các hố đen một cách an toàn,
và có thể giúp các nhà du hành vũ trụ tiếp cận vũ trụ khác ở phía bên
kia.
Cũng
theo các nhà nghiên cứu, lỗ sâu là một đường hầm lý thuyết đóng vai trò
như các đường tắt trong thời-không. Nếu nó thật sự tồn tại, thì đường
tắt vũ trụ này có thể giúp chúng ta đi tới những nơi xa xôi của vũ trụ
trong một khoảng thời gian tương đối ngắn.
Lỗ sâu
này được cho là ở tại trung tâm của một hố đen. Các nhà nghiên cứu từ
Đại học Lisbon ở Bồ Đào Nha đã đề xuất một mô hình miêu tả cách thức các
vật thể như một cái ghế, một người và một con tàu không gian có thể đi
xuyên qua lỗ sâu này… mà vẫn còn nguyên vẹn.
“Chúng
tôi xem xét lại câu hỏi cơ bản về mối liên hệ giữa trọng lực và cấu trúc
cơ bản của không gian – thời gian”, GS Diego Rubiera-Garcia từ Đại học
Lisbon ở Bồ Đào Nha, một thành viên trong nhóm nghiên cứu, nói.
“Trên
thực tế, chúng tôi đã bỏ giả thuyết bao hàm thuyết tương đối rộng này
sang một bên, nhưng trước đó không có một lý do thuyết phục nào để bao
hàm điều này trong lý thuyết mà chúng tôi đặt ra”, GS Rubiera-Garcia nói
thêm.
Nhóm
nghiên cứu đã phân tích riêng từng đối tượng như một vật thể vật lý dịch
chuyển hướng đến một hố đen, thiết lập mô hình một tập hợp điểm liên
kết với nhau bởi lực tương tác vật lý khi chúng dịch chuyển dọc theo một
‘đường trắc địa’.
“Mỗi hạt phần tử của người quan sát sẽ tuân theo một đường trắc địa được xác định bởi trường hấp dẫn”, GS Rubiera-Garcia
nói. “Mỗi đường trắc địa sẽ cảm giác được một lực hấp dẫn với đôi chút
khác biệt, nhưng sự tương tác giữa các thành phần cấu tạo của vật thể
vẫn có thể duy trì vật thể đó”.
Theo
thuyết tương đối rộng được Albert Einstein công bố vào năm 1915, một
“vật thể” tiếp cận một hố đen sẽ bị nghiền nhỏ dọc theo một chiều và
căng duỗi dọc theo chiều còn lại, hay nói cách khác bị cán dẹp ra như
sợi mì spaghetti. Vì bán kính lỗ sâu được cho là có giới hạn, nên các
nhà nghiên cứu đã chứng minh được rằng vật thể này sẽ bị nghiền nhỏ
xuống kích thước của lỗ sâu.
Trong nghiên cứu được công bố trên tạp chí Trọng lực Cổ điển và Lượng tử (Classical and Quantum Gravity),
các nhà khoa học đã chứng minh được lý thuyết của họ bằng cách cho một
tia sáng có thể dịch chuyển qua lại trong một thời gian hữu hạn.
Các nhà
nghiên cứu giải thích rằng các lực hữu hạn, bất kể mạnh đến đâu, đều có
khả năng bù đắp cho tác động của một trường hấp dẫn lên một vật thể vật
lý khi nó di chuyển tới gần và vào bên trong lỗ sâu.
“Do đó,
các bộ phận khác nhau của vật thể sẽ vẫn tạo ra các tương tác vật lý
hoặc hóa học, nên luật nhân quả sẽ vẫn áp dụng xuyên suốt lỗ sâu”, các
nhà khoa học giải thích.
Theo GS Rubiera-Garcia, một vật thể vật lý vẫn có thể đi xuyên qua một lỗ sâu, lọt ra phía bên kia để đến một vũ trụ tiềm năng khác mà vẫn nguyên vẹn. Tuy
nhiên, vật thể này sẽ bị nghiền nhỏ xuống kích thước của lỗ sâu hữu
hạn. Nên ít nhất, nó sẽ có thể đi xuyên qua lỗ sâu đó phải không?
“Đối với
một nhà vật lý lý thuyết, việc các nhà quan sát [mạo hiểm xông vào hố
đen] và chịu đựng các lực tác động là điều chấp nhận được (một người
thậm chí có thể nhìn nhận đây là một phần công việc của nhà thực
nghiệm), nhưng việc bị phá hủy hoàn toàn quả là điều khó tin”, GS Rubiera-Garcia và nhóm nghiên cứu của ông đã viết.
Tuy nhiên, tất cả những điều này vẫn chỉ là một lý thuyết cho tới khi chúng ta có thể thực sự nhìn thấy một hố đen.
Xem video miêu tả cảnh tượng một vật thể rơi vào hố đen:
Tác giả: Ivan Petricevic, Ancient-code.
Đăng tải với sự cho phép. Đọc bản gốc ở đây.
Quý Khải biên dịch
Đăng tải với sự cho phép. Đọc bản gốc ở đây.
Quý Khải biên dịch
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)