(Dân trí) - Dù ở cương vị nào, GS Trần Đại Nghĩa cũng quy tụ
được đội ngũ trí thức, đoàn kết và hướng họ vào mục tiêu xây dựng một
nền khoa học Việt Nam hiện đại, đủ sức giải quyết các vấn đề do thực
tiễn đặt ra. Ông trở thành một trong số những người đại diện tiêu biểu
của giới trí thức yêu nước Việt Nam.
Kỳ cuối: Một đại trí thức, nhà khoa học anh hùng
Chống vũ khí hiện đại của Mỹ
Năm
1952, tại Đại hội Anh hùng và Chiến sĩ thi đua toàn quốc lần thứ nhất,
Trần Đại Nghĩa được phong danh hiệu Anh hùng lao động, một trong bảy Anh
hùng lao động đầu tiên của nước ta. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, miền
Bắc được hoàn toàn giải phóng, Trần Đại Nghĩa được chuyển ra ngoài quân
đội. Nhưng một thời gian sau, ông được trở lại để chế tạo vũ khí trong
chiến tranh chống Mỹ.
Năm
1966, Bác Hồ đã nói với Quân uỷ Trung ương: "Kháng chiến chống Pháp tôi
đem chú Nghĩa về nước là để chú ấy phục vụ cho Quốc phòng. Nay kháng
chiến chống Mỹ cũng đang gặp nhiều khó khăn về mặt vũ khí, đạn dược, sao
lại để chú ấy ngồi làm việc ở cơ quan bên ngoài, không gọi chú ấy về
giúp cho Bộ Quốc phòng?" Sau đó, Trần Đại Nghĩa được gọi trở lại Bộ Quốc
phòng, làm Phó Chủ nhiệm Tổng Cục hậu cần, phụ trách về kỹ thuật. Đó
cũng chính là năm ông được bầu làm Viện sĩ tại Viện Hàn lâm khoa học
Liên Xô, danh vị cao nhất của những người làm công tác khoa học.
Về
lại với quân đội, Trần Đại Nghĩa vận dụng tất cả những kinh nghiệm quý
báu tích luỹ được trong cuộc kháng chiến chống Pháp cũng như các kinh
nghiệm rất phong phú của thế giới sau Thế chiến 2. Cần nói thêm rằng,
đến năm 1966, nước ta đã mạnh hơn nhiều so với năm 1946, có đội ngũ Quân
giới mạnh sau 20 năm xây dựng, được Liên Xô và các nước xã hội chủ
nghĩa anh em giúp đỡ nhiệt tình về vũ khí hiện đại và hậu cần. Nhưng về
phía địch thì đế quốc Mỹ năm 1966 mạnh hơn Pháp năm 1946 nhiều lần.
Đối
đầu với những vũ khí, khí tài hiện đại và phức tạp của Mỹ, lúc đầu ta
phải cải tiến các vũ khí được viện trợ. Sau đó, phải phát triển nhiều
loại vũ khí khác nhau để địch đối phó khó hơn. Tình hình chiến trường,
chiến lược, chiến thuật của ta có nhiều điểm khác với các nước, bởi vậy
việc sản xuất thêm vũ khí mới cho thích hợp là rất cần thiết, mặc dù
việc cải tiến các vũ khí tài trợ cũng quan trọng không kém. Chẳng hạn,
máy bay B52 của địch có tầm bay rất cao, ngoài tầm bắn của tên lửa SAM-2
do Liên Xô viện trợ và có sức oanh tạc ghê gớm. Ta phải phá chống nhiễu
của B52 đối với SAM-2, phải nghiên cứu cải tiến để nâng độ bay cao của
SAM-2. Nếu không cải tiến thì tên lửa này khó lòng tiêu diệt được mục
tiêu.
Mỹ
dùng đủ loại vũ khí mới với khối lượng khổng lồ. Những năm 1965 - 1966,
đế quốc Mỹ bắt đầu oanh tạc đường 559 bằng vũ khí đa dạng như bom bi,
bom laze, bom từ trường, cây nhiệt đới, tia hồng ngoại, máy đếm, máy
thông tin... Kèm theo đó là các loại máy bay mà nổi tiếng nhất trong số
đó phải kể đến B52. Ta làm thêm nhiều đường bí mật mới để tăng thêm khối
lượng vận chuyển cho chiến trường miền Nam.
Các đơn vị như Cục Quân giới, Viện Kỹ thuật quân sự, các quân chủng,
binh chủng đều phải nghiên cứu về các loại vũ khí mới của địch.
Các
nhà khoa học đã hướng dẫn cho các đơn vị nhiều biện pháp chống vũ khí,
chẳng hạn bom từ trường, cách chống đơn giản nhất là dùng mảnh sắt buộc
vào đầu dây, kéo qua chỗ có bom để phá. Cây nhiệt đới thì lấy dây buộc
các cành lại làm chúng mất tác dụng. Bom laze thì đốt khói đánh lừa. Với
mìn lá thì ta đối phó bằng cách đi theo những con đường mòn sẵn có,
không có cỏ, có thể tránh được mìn. Khi phát hiện thì gom cành lá cây
vun lại thành đống lá để người sau phát hiện được. Đặc biệt, với máy bay
B52- loại pháo đài bay chiến lược của Mỹ, ta đã nghiên cứu và có những
biện pháp đối phó hữu hiệu, như dùng cao xạ phòng không, cải tiến nâng
tầm cao của tên lửa SAM-2...
Nhận
định về những vũ khí, khí tài của Mỹ, Trần Đại Nghĩa cho rằng vũ khí
cho dù có hiện đại đến mấy đi nữa thì vẫn có nhược điểm. Ta cần nghiên
cứu, phát hiện và khoét sâu vào những nhược điểm và đó là biện pháp đối
phó tích cực nhất. Ngày 30/4/1975, miền Nam
hoàn toàn được giải phóng. Ngày lịch sử ấy, ông ghi vào sổ tay: "Nhiệm
vụ của Bác giao cho chúng tôi và tập thể các nhà khoa học Việt Nam là tham gia về mặt vũ khí và khoa học quân sự trong hai cuộc kháng chiến đã được hoàn thành".
Đưa Phạm Tuân lên vũ trụ
Ngay sau khi miền Nam được giải phóng, tháng 5/1975 Chính phủ đã quyết định thành lập Viện Khoa học Việt Nam
- Trung tâm nghiên cứu khoa học lớn nhất cả nước về khoa học tự nhiên
và một số ngành kỹ thuật. Viện sĩ Trần Đại Nghĩa lúc này là Chủ nhiệm Uỷ
ban Khoa học và Kỹ thuật Nhà nước được cử kiêm chức vụ Viện trưởng đầu
tiên của Viện khoa học Việt Nam.
Ban
lãnh đạo Viện phải gánh vác trách nhiệm nặng nề, xây dựng nền khoa học
Việt Nam trong hoàn cảnh vô cùng khó khăn, đất nước vừa trải qua hai
cuộc chiến tranh, thiếu thốn đủ mọi đường, từ lực lượng cán bộ khoa học,
cơ sở vật chất, kinh phí... Nhưng Giáo sư Trần Đại Nghĩa vẫn luôn dành
sự quan tâm đặc biệt đến việc bồi dưỡng thế hệ trẻ, đội ngũ nhà khoa học
giỏi.
Năm
1979, có một sự kiện rất đáng nhớ: Viện được giao nhiệm vụ phối hợp với
Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô để thực hiên chương trình khoa học cho
chuyến bay vào vũ trụ của nhà du hành Phạm Tuân vào giữa năm 1980. Viện
sỹ Trần Đại Nghĩa cùng các đồng sự của ông đã có những chuẩn bị rất tích
cực.
Vào lúc 1 giờ 33 phút 03 giây (giờ Hà Nội) ngày 24/7/1980, tại sân bay vũ trụ Bai-cô-nua (Liên Xô) tàu vũ trụ Liên hợp 37 do Gorơbatco và Phạm Tuân điều khiển đã phóng lên quỹ đạo. Tới 3 giờ 2 phút ngày 25/7/1980,
tàu đã thực hiện thành công việc lắp ghép với tổ hợp qũy đạo "Salút 6".
Khi bay lên vũ trụ, Pham Tuân mang theo Quốc huy Việt Nam, Huy hiệu Chủ
tịch Hồ Chí Minh, chân dung hai Tổng Bí thư Đảng cộng sản: Brê-giơ-nép
và Lê Duẩn, bản Tuyên ngôn độc lập của Bác, Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí
Minh, một nắm đất lấy từ quảng trường Ba Đình, nơi Bác đọc Tuyên ngôn
độc lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hoà...
Những
kỷ vật ấy đều gắn với lịch sử dân tộc, mang ý nghĩa rất lớn. Chuyến bay
lên vũ trụ có ý nghĩa đặc biệt đối với nhân dân ta. Riêng với Viện khoa
học Việt Nam và Viện sĩ Trần Đại Nghĩa thì ý nghĩa về mặt khoa học và chính trị càng to lớn.
Một tấm gương trí thức sáng ngời
Về
già, giáo sư Trần Đại Nghĩa mới có dịp hồi tưởng lại những gì đã trải
qua trong suốt cuộc đời ông. Ông mồ côi cha từ năm lên bảy. Tuổi thơ bất
hạnh của người con duy nhất trong gia đình tạo cho ông sớm có nếp suy
nghĩ tự lập. Từ trí óc non nớt, ông đã chấp nhận một cuộc sống cô đơn
với đèn sách để mong có ngày đền đáp lại công đức của cha mẹ, người thân
ruột thịt đã từng nuôi dạy giúp đỡ. Chính sự dồn nén, kiên nhẫn quyết
tâm lâu ngày trở thành một tập quán trong sinh hoạt định hình của ông,
đó là suốt ngày cặm cụi đọc tài liệu, ghi chép và suy tư.
Hình
ảnh của Trần Đại Nghĩa lắng đọng sâu đậm nhất trong tâm trí mọi người
là một con người nhân hậu, khiêm tốn, bình dị. Tấm lòng ông rộng mở với
mọi người. Những người từng tiếp xúc với ông luôn thấy ở ông vẻ hiền
lành bình dị rất đáng mến. Dù là một nhà khoa học uyên bác, một GS.VS
nhưng ông luôn khiêm nhường. Ông luôn ca tụng hết lời những nhà khoa học
khác như Tạ Quang Bửu, Tôn Thất Tùng, Lê Văn Thiêm... và nhận phần yếu
kém hơn về mình.
Những
ngày cuối cùng, nhà khoa học tuổi già sức yếu, sống cùng bệnh tật.
16h20 ngày 09 tháng 08 năm 1997, ông đã qua đời hưởng thọ 85 tuổi. Người
ta nói rằng, vẻ mặt ông lúc ra đi rất thanh thản, ông nhìn người vợ đã
tần tảo bên ông suốt mấy chục năm bằng ánh mắt trìu mến, rồi nhẹ nhàng
trút hơi thở cuối cùng. Cuộc đời ông chính là cuộc đời phù hợp với bức
chân dung lý tưởng của người Việt đi du học để tiếp thu những gì cần
thiết cho đất nước rồi trở về hoà mình với nhân dân trong nước, đem trí
tuệ, tài năng, công sức tham gia chiến đấu và xây dựng Tổ quốc.
Lê Bảo Trung
Trần Đại Nghĩa– bỏ mức lương 20 lạng vàng theo Bác Hồ
-
Ngày 30/04/1975, ông ghi vào cuốn sổ của mình: “Đã hoàn thành nhiệm
vụ”– đó là nhiệm vụ cứu nước, cứu dân mà khi mới 20 tuổi ông ấp ủ. Ông
đã từ bỏ mức lương 20 lạng vàng 1 tháng để về Việt Nam theo cách mạng.
Năm 1946, người trí thức Trần Đại Nghĩa, sau cuộc gặp với Bác
Hồ ở Pháp đã quyết định theo Bác về nước chiến đấu. Ông trở thành Cục
trưởng đầu tiên của Cục quân giới và được mệnh danh là “Ông vua
vũ khí” của Việt Nam.
Ngày đất nước thống nhất 30/4/1975, Trần Đại Nghĩa có ghi vào cuốn sổ
tay của mình một câu: “Đã hoàn thành nhiệm vụ!”. Lúc sinh thời ông từng
nói: “Bạn bè của tôi ở lại bên Pháp, họ đều sung sướng, đầy đủ hơn tôi
rất nhiều. Nhưng về khía cạnh phụng sự Tổ quốc, họ chẳng có gì cả”.
Và như thế, được phụng sự, đóng góp công sức cho dân tộc đã là lí tưởng mà ông muốn cho cuộc đời mình.
Hành trang của một người trí thức yêu nước
Năm 1913, cậu bé Phạm Quang Lễ (tên thật của Thiếu tướng, Giáo sư –
Viện sĩ Trần Đại Nghĩa) cất tiếng khóc chào đời trong một gia đình nhà
giáo nghèo ở tỉnh Vĩnh Long. 7 tuổi đã mồ côi cha, nhưng Trần Đại Nghĩa
vẫn được đi học là nhờ sự tần tảo của má và sự hi sinh của người chị
gái.
Chị gái ông khi đó mới 8 tuổi, đã nghỉ học ở nhà, cùng má làm lụng
nuôi em trai ăn học. Là học sinh trường Petrus Ký nổi tiếng Sài Gòn, cậu
học trò nghèo Phạm Quang Lễ bao giờ cũng đứng đầu lớp.
Vì học giỏi nên ngày đó chính quyền Pháp có ý đưa Phạm Quang Lễ ra Hà
Nội học làm quan, nhưng ông từ chối, vì đó là công việc ‘bán nước, hại
dân”. Thay vì làm quan, ông nhận học bổng đi học ở Pháp năm 1935, với
ước mơ sau này sẽ quay về giúp dân, cứu nước.
Từ khi còn trẻ, cậu học trò Phạm Quang Lễ đã có một suy nghĩ: nước
Việt Nam có truyền thống đánh giặc cả nghìn năm, lòng can đảm và lòng
yêu nước đều không thiếu, nhưng người Việt Nam vẫn bị thực dân Pháp
khuất phục là do ta không có
vũ khí hiện đại như Pháp.
|
Bác Hồ và Thiếu tướng Trần Đại Nghĩa |
Chính vì thế khi sang Pháp du học, Phạm Quang Lễ đã thề sẽ học cho bằng được cách chế tạo
vũ khí
đề về đánh Pháp. Nhưng sang đến Pháp, Phạm Quang Lễ mới nhận ra suy
nghĩ của mình quá đơn giản. Người Pháp không đời nào cho phép một du học
sinh nước ngoài ở Pháp học ngành chế tạo
vũ khí.
Ngành học đó chỉ dành cho những sinh viên Pháp. Không nản chí, ngoài
việc học ở trường, Phạm Quang Lễ còn tự mày mò đọc những sách về
vũ khí tại nhà.
Sau này tốt nghiệp đại học, trở thành kỹ sự của một hãng chế tạo máy
bay, dù kiếm được bao nhiêu tiền, Phạm Quang Lễ cũng đều dồn cả vào mua
sách liên quan đến
vũ khí. Ông đọc sách ngày đêm, chờ cơ hội về giúp nước.
Thời cơ đến vào năm 1946, khi Bác Hồ sang Pháp, trong cuộc gặp gỡ
kiều bào Việt ở Pháp, Bác Hồ đã lắng nghe nguyện vọng của Phạm Quang Lễ.
Bác hỏi: “Chú về nước chế tạo
vũ khí, cách mạng sẽ rất cần. Nhưng trong nước khổ lắm. Chú có chịu nổi không?”.
Phạm Quang Lễ gật đầu: “Thưa Bác, cháu đã chờ đợi ngày này suốt 11
năm trời”. Năm đó, khi Bác Hồ rời Pháp về Việt Nam, có một người trí
thức tên Trần Đại Nghĩa đã đi theo. Người trí thức đó chính là Phạm
Quang Lễ.
Và cái tên Trần Đại Nghĩa mà Bác Hồ đặt cho ông năm đó, là cái tên đã đưa ông đi vào lịch sử ngành chế tạo
vũ khí
của Việt Nam. Từ bỏ công việc kỹ sư ở một hãng chế tạo máy bay lớn,
Trần Đại Nghĩa đã từ bỏ mức lương tương đương với 20 lạng vàng 1 tháng
để về Việt Nam theo cách mạng.
Hành trang trở về của ông là 1 tấn sách toàn về
vũ khí.
Ông trở thành Cục trưởng đầu tiên của Cục Quân giới. Chiến công đầu
tiên của ông là chế tạo thành công súng Bazooka, một loại súng bắn xe
tăng đầu tiên do Việt Nam chế tạo.
Khi mới bước vào cuộc kháng chiến chống Pháp, thực dân Pháp rất coi
thường quân đội Việt Nam. Chúng tuyên bố: “Chỉ cần mất 8 ngày, sẽ tiêu
diệt hoàn toàn cách mạng Việt Nam”. Sở dĩ chúng chủ quan thế là bởi
chúng biết Việt Nam chưa có súng bắn xe tăng – thế mạnh chủ lực của Pháp
khi ấy.
Nhưng chúng không biết rằng Việt Nam đã có nhà khoa học Trần Đại
Nghĩa. Về Việt Nam, ông ngay lập tức bắt tay vào chế tạo súng Bazooka,
theo những mẫu của nước ngoài.
Trong cuộc hành quân đầu tiên của xe tăng Pháp tấn công vào quân ta,
súng Bazooka vừa bắn ra đã làm cháy chiếc xe tăng dẫn đầu của Pháp.
Chúng hoảng loạn, bỏ chạy, quân ta thắng trận đó mà không hề hi sinh bất
cứ một ai.
Sau thành công đầu tiên, Trần Đại Nghĩa tiếp tục mày mò nghiên cứu để chế tạo thêm
vũ khí đánh giặc. Ông được mệnh danh là “ông vua
vũ khí của Việt Nam” từ ngày đó. Ông trở thành Thiếu tướng trong đợt phong hàm đầu tiên của Quân đội Nhân dân Việt Nam.
“Ông Tướng gàn” Trần Đại Nghĩa
Vai trò của ngành chế tạo
vũ khí
rất được Bác Hồ coi trọng, thể hiện qua những đặc quyền mà Bác dành cho
Thiếu tướng Trần Đại Nghĩa. Ngày đó, Bác thường dặn dò quân nhu: “Chú
Nghĩa nghiện thuốc lá. Phải nhớ chuẩn bị đủ thuốc lá cho chú ấy hút để
chú ấy còn nghiên cứu”.
Thiếu tướng Trần Đại Nghĩa cũng là một trong rất ít những người có
thể trực tiếp gọi điện hay đến gặp Bác Hồ mà không cần thông qua bất cứ
ai. Nhưng Trần Đại Nghĩa lại sống rất giản dị, đúng như những lời hứa
của ông với Bác khi trở về Việt Nam theo cách mạng.
Bà Nguyễn Thị Khánh, phu nhân của Thiếu tướng Trần Đại Nghĩa, là
người hiểu hơn ai hết lối sống bình dị của ông. Ông bà gặp nhau tại
chiến khu Việt Bắc, khi ông đang là Cục trưởng Cục Quân giới, còn bà là y
tá của Cục.
Hồi còn ở Pháp, ông đã thề sẽ không lấy vợ, để cống hiến đời mình cho
cách mạng. Có cô gái người Pháp xinh đẹp si mê ông, ông cũng khéo léo
chối từ, dù trong lòng cũng thấy rung động. Nhưng ở chiến khu, trước cô
gái Nguyễn Thị Khánh xinh xắn, can đảm, ông đã từ bỏ ý định không lấy
vợ.
Đám cưới của ông bà được tổ chức ở Việt Bắc. Trước hôm đám cưới, có
người định viết thư báo với Bác để Bác cho ít quà làm đám cưới cho ông,
ông gạt đi: “Bác còn bao nhiêu việc, đừng làm phiền Bác việc cỏn con”.
Ông vét túi được 50 đồng, đi mua 1 bao quả mắc cọp ở chợ thị xã về
làm cỗ cưới. Anh em các cục, các đơn vị đến ăn cưới, thấy thế bèn góp
thêm mỗi người vài đồng để nhờ các anh nuôi của Cục Quân giới mua đồ ăn
nấu cỗ cưới cho ông.
Bà Nguyễn Thị Khánh kể, ngày chưa cưới ông, dù đã nghe kể về sự tài
giỏi của ông và rất phục ông, nhưng bà vẫn nhận ra là ông rất “gàn”, ăn
mặc lôi thôi, đầu tóc bù xù, trong đầu lúc nào cũng chỉ có
vũ khí. Nhưng vì anh em vun vào, bà đã lấy ông – dù ông hơn bà tới 14 tuổi.
Sau đám cưới, bà mới chứng kiến được hết cái sự “gàn” của chồng mình.
Bà bảo ông có một thói xấu lớn, đó là thói ở bẩn. Ông chẳng mấy khi
chịu tắm rửa, giặt giũ quần áo, đầu tóc lúc nào cũng bù xù. Làm bất cứ
việc gì mà để mất thời gian đọc tài liệu, nghiên cứu
vũ khí, ông đều tiếc.
Hồi mới yêu nhau, có lần ông gọi bà lên, hốt hoảng: “Bác Hồ sắp đến
thăm đơn vị. Khánh giúp anh dọn dẹp phòng ốc với. Bác nhìn thấy thế này
phê bình chết”. Bà nhìn căn phòng bừa bộn, chăn màn lung tung và đống
quần áo bẩn ông giấu trong hòm mà thở dài ngao ngán…
Sau này nên vợ nên chồng, tính cách của ông cũng không hề thay đổi.
Ông bà có 4 người con, cả 4 người con đều do bà tự tay chăm sóc, nuôi
nấng. Việc duy nhất tồn tại trong đầu ông là
vũ khí và
vũ khí. Có những lúc bà gọi ông ra ăn cơm, mà ông cứ ngồi im như phỗng vì đang mải mê đọc một tài liệu hay.
Cũng có lần, anh em trong đơn vị tìm ông cả ngày không thấy, đến lúc
ra bờ suối thì thấy ông đang ngồi hý hoáy ghi ghi, chép chép bên bờ
suối. Là vợ Thiếu tướng Trần Đại Nghĩa, bà Khánh đã quen với những đêm
ông nằm ngủ mà miệng vẫn lẩm nhẩm chuyện
vũ khí.
Có đêm đang ngủ, chợt nghĩ ra một công thức nào đó, ông bật dậy ghi
ghi, chép chép rồi lại tiếp tục đi ngủ. Thỉnh thoảng bà vẫn phàn nàn ông
là “ông Nghĩa gàn dở”, vì tính ông cả đời chỉ biết cống hiến, không bao
giờ nghĩ đến bản thân mình.
Sau kháng chiến chống Pháp về Hà Nội, ông bà được phân cho ở tại số
nhà 56 Hàng Chuối, cùng với một gia đình khác. Cấp dưới đến nhà thấy nhà
cửa chật chội nói với ông: “Sao thủ trưởng không lên tiếng? Thủ trưởng
phải được ở một chỗ tốt hơn như thế này”. Ông gạt đi: “Thế này là tốt
lắm rồi. Có người còn không có nhà mà ở”.
Từng là Cục trưởng Cục quân giới, là Hiệu trưởng trường Đại học Bách
khoa, rồi là Thứ trưởng Bộ Công thương, cùng với nhiều chức vụ khác,
nhưng đến lúc về già, ông vẫn chẳng có gì.
Cuối những năm 1980, ông đưa cả gia đình vào Nam sinh sống. Thành phố
cấp cho ông một căn nhà nhỏ có từ thời trước 1975 trong con ngõ trên
đường Nguyễn Trọng Tuyển, quận Phú Nhuận.
Năm này qua năm khác, những nhà khác xây cao lên, xây to ra, có nhà
bên cạnh còn lấn chiếm đất nhà ông, bà nhắc ông, ông cũng bảo “kệ người
ta, họ thích lấn thì cứ cho họ lấn, mình vẫn còn nhà để ở”.
Cũng có lúc bà than phiền với ông vì các nhà bên cạnh đều xây cao
lên, nhà ông bà vẫn ở thấp, nên mỗi khi trời mưa, nước lại ngập nhà”,
ông cũng tặc lưỡi: “Nhà ngập thì ta tát nước ra chứ sao, lại khô như
thường”.
Biết tính chồng, nên diết rồi bà Khánh cũng không bao giờ than phiền
với chồng bất cứ điều gì nữa. Bà âm thầm đi bên ông, hi sinh cho ông,vui
vẻ ở cùng ông trong căn nhà cũ kĩ suốt mấy chục năm trời.
Ông là Thiếu tướng, là Giáo sư, Viện sĩ, là Anh hùng Lao động được
phong danh hiệu đợt đầu tiên, cái đó ai cũng biết. Nhưng sau lưng ông,
người vợ của ông đã phải vất vả, khổ cực như thế nào, thì không phải ai
cũng biết.
Ngày 30/04/1975, khi nước nhà thống nhất, ông có ghi vào cuốn sổ tay
của mình: “Đã hoàn thành nhiệm vụ” – đó là nhiệm vụ cứu nước, cứu dân mà
khi mới 20 tuổi, ông đã ấp ủ trong lòng. Ông đã từ bỏ mức lương 20 lạng
vàng 1 tháng để về Việt Nam theo cách mạng.
Nếu ở lại Pháp, có lẽ ông đã sung sướng, giàu có như những bạn bè của
ông ở lại trên đất nước ấy. Nhưng đổi lại, khi về Việt Nam, ông có danh
hiệu “ông vua
vũ khí
Việt Nam” và một thứ quan trọng hơn cả mọi danh hiệu: đó là sự ghi nhận
của nhân dân, đất nước, của lịch sử cho những đóng góp của ông cho Tổ
quốc của mình!