Thứ Tư, 29 tháng 5, 2013
Tư liệu về tâm linh 6
(Đại Chúng sưu tầm trên NET)
Vụ giết người đốt xác ở Hậu Giang:
Vụ giết người đốt xác ở Hậu Giang:
Chuyện "khó tin" về gương mặt hung thủ in trên cánh cửa nhà nạn nhân
(Dân trí)- Một chi tiết "khó tin" được người nhà nạn nhân tiết lộ, sau
khi công an lấy dấu vết tại hiện trường, người nhà đã chụp vài tấm ảnh
và bất ngờ phát hiện có gương mặt người mà họ cho là hung thủ in trên
cánh cửa nhà nạn nhân.
Liên
quan đến vụ án giết người đốt xác kinh hoàng xảy ra tại ấp Xẻo Vông C,
xã Hiệp Lợi, TX Ngã Bảy (tỉnh Hậu Giang) vào ngày 6/3, cơ quan điều tra
(CQĐT) Công an tỉnh Hậu Giang đã bắt giam Nguyễn Vũ Tiến (27 tuổi, ngụ
địa chỉ trên), hung thủ đã sát hại bà Nguyễn Thị Lý (58 tuổi, ngụ cùng
địa phương) .
Trò chuyện với PV Dân trí,
người nhà nạn nhân cho rằng, họ không quá bất ngờ khi công an xác định
hung thủ là Nguyễn Vũ Tiến. Theo ông Nguyễn Thế Dũng (em ruột nạn nhân)
cho biết, khi phát hiện ngôi nhà và chị của ông bị đốt thành tro, cơ
quan công an đã vào cuộc và xác định đây là một vụ án giết người. Do đó, công an đã thực hiện nhiều biện pháp nghiệp vụ để điều tra. Trong đó, việc lấy những dấu vết tại hiện trường như dấu vân tay cũng được thực hiện triệt để.
Ông
Dũng cho hay, sau khi công an làm các nghiệp vụ để lấy dấu vân tay trên
cánh cửa giữa (đóng mở nhà trước và nhà sau của nạn nhân) thì người nhà
của ông có chụp lại vài tấm ảnh bằng điện thoại di động. “Mấy đứa cháu
của tôi khi xem lại ảnh trong điện thoại thì thấy có bóng mặt người trên
đó nhưng không rõ lắm nên kêu tôi mở trên máy tính để xem cho rõ hơn.
Tôi đã chép vào máy tính mở to lên và bất ngờ thấy đúng là có gương mặt
người in trên nền mấy tấm ảnh này”, ông Dũng kể lại.
Dấu vân tay (vòng đỏ trái) và gương mặt người xuất hiện trên cánh cửa (vòng đỏ phải) mà người nhà nạn nhân chụp lại...
...và hung thủ Nguyễn Vũ Tiến.
Khi
tiếp xúc với PV, người nhà của nạn nhân cho hay, khi nhìn thấy gương
mặt người trên các tấm ảnh thì họ càng bất ngờ hơn bởi trông rất giống
một người quen. “Vừa nhìn thấy gương mặt trên ảnh, tôi kêu lên đây là
thằng Tiến ở gần nhà mẹ chứ ai”, chị Trần Thùy Linh (con gái đầu của nạn
nhân) cho biết. Ông Nguyễn Thế Dũng cùng những người thân khác của nạn
nhân cũng xác nhận có chuyện này nên đã lưu lại các tấm ảnh.
Huỳnh Hải
Thực hư chuyện cậu bé 'đầu thai' ở Vụ Bản
Cậu bé Nguyễn Phú Quyết Tiến. |
Chúng tôi tìm đến thị trấn Vụ Bản lúc trời đã gần chính
ngọ. Không khó để hỏi thăm nhà anh Tân, chị Thuận, bởi dường như câu
chuyện “hồi sinh” của cháu Tiến ở cái thị trấn nhỏ này ngay cả cháu bé
lên 10 cũng kể rành mạch được.
Cậu bé Nguyễn Phú Quyết Tiến.
|
Cổng
nhà anh Tân có 3 cháu nhỏ khoảng 9-10 tuổi đang nô đùa. Thấy tôi cất
lời hỏi thăm, một cháu bé nhìn trắng trẻo, ngôi ngô nhất trong đám trẻ
nhanh nhảu: “Cô hỏi bố cháu à! Bố cháu đang ở trong nhà. Cô vào uống
nước để cháu gọi bố”. Trong lúc chúng tôi đang ngờ ngợ đoán chừng cậu bé
lúc nãy chính là bé Tiến “nổi tiếng” tiêu tốn không ít giấy mực của báo
chí, thì anh Tân bước ra.
Bên ấm trà nóng, lim dim nhả làn khói thuốc xám, anh Tân gật gù khi nghe chúng tôi dè dặt nói lý do đến thăm nhà.
Ngẫm
nghĩ một lúc, anh Tân dụi tắt điếu thuốc đang cháy dở, thẳng thắn nói:
“Nói thật với cô, tôi đã không có ý định tiếp phóng viên nữa. Một phần
tôi cũng không muốn mọi người nhắc quá nhiều về chuyện của cháu, tôi
muốn mọi người coi cháu như những đứa trẻ bình thường khác. Nhưng vì cô
đã lặn lội đường xa đến đây tôi sẽ kể rành mạch không giấu giếm, cũng là
để đính chính vài thông tin mà một số báo đã không nói chính xác hoàn
toàn khiến tôi rất bức xúc”.
Câu chuyện “tái sinh” kỳ lạ
Anh
Tân và chị Thuận cưới nhau được 6 năm mới sinh được cháu Nguyễn Phú
Quyết Tiến (28/2/1992). Cháu Tiến lớn lên bụ bẫm, xinh xắn, trong sự yêu
chiều hết mực của cả gia đình. Thế nhưng, đến năm cháu 5 tuổi, tai họa
bất ngờ ập xuống.
Hôm đó vào buổi chiều tháng Giêng,
anh Tiến đang nằm đọc báo bỗng giật nảy mình chồm dậy, ruột gan như lửa
đốt. Anh gọi chị Tân bảo: “Thằng Tiến đâu, tìm nó về đi”. Chị Tân tìm
gọi mãi nhưng không thấy Tiến đáp lại, ra phía bờ sông gần nhà chị chỉ
nhìn thấy đôi dép cháu để trên bờ. Dưới dòng nước xanh ngắt nhìn thấu
tận đáy, không thấy điều gì bất thường. Chị chạy về báo anh Tân. Bỏ tờ
báo, anh hớt hải ra phía bờ sông thì nhìn thấy xác cháu Tiến nổi cách bờ
3m.
“Tôi lao xuống dòng nước, ôm chặt lấy con nhấc
lên bờ. Nhưng tất cả đã quá muộn!”, giọng anh lạc đi, không giấu vẻ kinh
hoàng khi nhớ về cái ngày đau thương ấy.
Con sông nơi cháu Tiến chết đuối cách đây 10 năm.
|
Cháu
Tiến mất đi khiến cả anh Tân, chị Thuận đều như kẻ mất hồn. Nỗi đau
càng nhân lên gấp bội khi chị Thuận do vấn đề sức khỏe đã “không còn khả
năng làm mẹ” nữa. Trong cơn vật vã, bà cụ hàng xóm mà sau này anh Tân
mới biết là “bà mế” có sang vỗ vai anh và bảo: “Con yên tâm, sớm muộn gì
nó cũng tìm về với con thôi!”. Khi ấy vì quá đau buồn anh cũng coi lời
bà như lời an ủi của những người hàng xóm tốt bụng khác.
Vắng
tiếng cười trẻ thơ, căn nhà chỉ còn hai người lớn trở nên hoang lạnh
hơn bao giờ hết. Là con một, phải chịu áp lực từ phía gia đình, anh Tân
buồn bã chả thiết làm gì, suốt ngày ngơ ngẩn gần như người hóa dại.
Năm
2006, cả hai vợ chồng vẫn chưa nguôi nỗi đau mất con thì nghe có người
rỉ tai ở Xóm Cọi, xã Yên Phú, Lạc Sơn, cách nhà anh chị chừng 3km có
cháu bé nghi là “con lộn” của Tiến. Cháu tên Bùi Lạc Bình (sinh ngày
6/10/2002) là con một gia đình người Mường nhưng ngay từ khi biết nói đã
khăng khăng bảo mình là con người Kinh, nhà trên thị trấn Vụ Bản.
Vốn
chưa bao giờ tin có chuyện “đầu thai” như kiếp luân hồi của nhà Phật,
nhưng hai anh chị vẫn đánh bạo tìm đến nhà cháu bé nọ. Thật bất ngờ khi
anh chị đến nơi cháu không hề thấy lạ mà gọi bố mẹ xưng con và quấn quít
không rời. Anh chị ngỏ lời mời chị Dự, người sinh cháu Bình, tên bố mẹ
“mới” đặt, đến nhà chơi. Nghe thấy thế, Bình vui lắm, trèo phắt lên xe
hào hứng như đứa trẻ lâu ngày được về nhà.
Vừa vào
nhà, Bình đã chạy quanh nhà tìm đồ chơi mà Tiến trước kia thích. Cháu
còn tự nhiên vào giường anh Tân, chị Thuận nằm lên đó rồi bi bô: “Ngày
xưa con thường ngủ chỗ này nhỉ bố nhỉ?”. “Ngay khi nhìn thấy cháu, nghe
cháu nói, và thấy những hàng động của cháu vợ chồng tôi như chết đứng.
Tất cả đều giống hệt như cháu Tiến thủa trước, có khác chỉ là khác về
hình hài mà thôi”, anh Tân kể.
Cháu Tiến vui đùa bên những đứa trẻ hàng xóm.
|
Kể
từ ngày gặp cháu Bình thì ăn ngủ chẳng yên bởi giữa hai người với đứa
trẻ xa lạ dường như có mối thâm tình gì đó day dứt lắm. Nhớ cháu, thương
cháu nhưng lại sợ người ngoài bảo muốn cướp con. Vợ chồng anh hiếm
muộn, nhưng vợ chồng chị Dự-anh Hoan cũng chỉ có duy nhất cháu Bình là
con.
Về phần chị Dự, sau lần đến chơi nhà ấy, cháu
Bình cứ nằng nặc đòi về “nhà bố mẹ”. Thấy con nhèo nhẹo khóc, chị Dự
cũng không biết phải làm sao. Đưa cháu về nhà anh Tân, chị Thuận chơi
thì sợ người ta dị nghị là “thấy người sang bắt quàng làm họ”. Nhưng sau
một lần Bình bị ốm nặng, sốt cao, cháu cứ luôn miệng “dọa”: “Mẹ không
cho con về, con lại chết lần nữa!”. Hoảng quá, lần này chị đánh liều gọi
cho anh Tân đưa cháu về nhà chơi. Cháu Bình về nhà anh thì khỏe khoắn,
vui vẻ, không còn đau ốm nữa.
“Thấy cháu tha thiết
quá, sau bao đắn đo chúng tôi dè dặt đề nghị gia đình anh Hoan, chị Dự
cho cháu về ở với chúng tôi. Thật bất ngờ là cả vợ chồng anh chị và bà
nội cháu đều gật đầu đồng ý. Chính bà nội cháu cũng bảo rằng: Ngay từ
lúc thằng bé biết nói tôi đã biết nó không phải người Mường rồi”, anh
Tân nói.
Theo lời anh Tân, kể từ ngày cháu về với
anh chị, hết lần này đến lần khác hai người “thử” cháu. Thậm chí, nhiều
người hàng xóm cũng sang nhà để “hỏi chuyện ngày xưa”. Tất cả cháu đều
trả lời vanh vách. Từ tên bác hàng xóm, đến cô giáo mẫu giáo rồi bạn bè
thân của cháu, cháu đều nhớ tên. Đường về nhà, hay những câu chuyện nhỏ
nhặt như ngày xưa bà nội cho cháu uống bia ở đầu làng cháu cũng nhắc
lại, ngay cả việc, “cháu đã từng chết như thế nào, bị ngã xuống nước ra
sao”…
“Dù trước đó, chưa một lần tin có chuyện
“hoang đường” như thế, nhưng đến lúc ấy cả vợ chồng tôi đều hoàn toàn
tin rằng Bình chính là cháu Tiến, con chúng tôi 10 năm về trước”, anh
Tân kể.
Từ ngày về ở với anh chị Tân, Thuận, Bình nằng nặc đòi gọi tên là Tiến, ngay cả tên đệm cháu cũng đòi giữ.
“Hãy coi con cháu những đứa trẻ bình thường”
Bé
Tiến bây giờ đã bước sang tuổi thứ 9. Cháu trắng trẻo, khôi ngô, ngoan
và lễ phép nhưng cũng hiếu động hệt như những đứa trẻ cùng trang lứa
khác. Khi chúng tôi ngồi nghe anh Tân kể chuyện thì Tiến không ngừng nô
đùa trước sân, chọc tổ ong khiến anh Tân mấy bận phải đứng dậy nạt cháu.
Câu
chuyện dang dở thì chị Thuận mẹ cháu về, thoáng qua những dè dặt ban
đầu, nhắc đến con chị cười nói xởi lởi lắm. Lần dở từng trang sách của
cháu, đôi mắt chị vẫn ánh lên niềm hạnh phúc vô hạn: “Cháu đi học mấy
năm liền đều đạt học sinh giỏi…”. Rồi chuyện trường, chuyện lớp, chuyện
nghịch ngợm của trẻ nhỏ làm bầu không khí rộn ràng hẳn lên.
Mải
chuyện đã quá trưa tự lúc nào, chị Thuận giữ chúng tôi ở lại ăn cơm,
chúng tôi cũng vui vẻ đồng ý. Khi mâm cơm đã dọn tinh tươm, Tiến vẫn
đứng ngoài sân mê mải đọc cuốn Hương Hiếu Hạnh của nhà sư Thích
Tâm Hiệp viết về trường hợp “đầu thai” của Tiến. Nghe anh Tân bảo, nhà
sư sau khi nghe câu chuyện của Tiến đã viết một bài in trong tập sách Hương Hiếu Hạnh và
tặng anh chị một cuốn. Từ lúc rõ mặt chữ, Tiến lúc nào cũng cầm cuốn
sách và đọc đi đọc lại câu chuyện kể về mình. Những câu chuyện ngày xưa
cháu cũng dần quên.
Tiến bên bố mẹ "nuôi".
|
Tôi
đứng dậy gọi Tiến vào ăn cơm thì bất chợt cậu bé nắm tay tôi lắc lắc,
chỉ ra phía con sông sau nhà: “Cô ơi, ngày xưa cháu chết ở kia kìa”. Dù
đã nghe câu chuyện của cháu nhưng câu nói bất chợt của Tiến vẫn khiến
tôi lạnh sống lưng.
Sau bữa cơm đầm ấm, chúng tôi
xin phép hai anh chị tiếp tục lên đường. Trước khi đi, anh Tân trầm
ngâm: “Nhà nghiên cứu Nguyễn Phúc Giác Hải, Trung tâm tiềm năng con
người đã nhiều lần điện thoại gặp nhưng tôi đều từ chối. Hiện giờ, tôi
chỉ muốn mọi người hãy coi cháu như những đứa trẻ bình thường khác. Cháu
Tiến giờ ở nhà tôi với tư cách là "con nuôi". Cháu vẫn thường xuyên qua
lại nhà mẹ đẻ...".
TS Vũ Thế Khanh, Tổng giám đốc Liên hiệp Khoa học Công nghệ - Tin học Ứng dụng (UIA):
Nếu giải thích theo luật nhân quả, kiếp luân hồi và lý thuyết nhân duyên trong phật giáo thì câu chuyện không có gì lạ cả.
Cá
nhân tôi đã tham gia chương trình: “Giao lưu ngoại cảm” để tìm mộ liệt
sĩ và các khả năng đặc biệt khác do 3 cơ quan hợp tác nghiên cứu (Liên
hiệp Khoa học UIA; Viện Khoa học Hình Sự Bộ Công An, Trung tâm bảo trợ
Văn hóa Kỹ thuật truyền thống, Hội Khoa học Lịch sử) nghiên cứu nhiều sự
vật, hiện tượng lạ, khả năng đặc biệt của con người trong cuộc sống.
Gần
15 năm qua, tôi cùng nhiều giáo sư đầu ngành đã nghiên cứu và ghi nhận
nhiều trường hợp tương tự như câu chuyện trên. Thậm chí, trên thế giới
cũng có những hiện tượng như thế. Tuy nhiên, cũng như nhiều hiện tượng
khoa học chưa thể lý giải trong cuộc sống khác, chúng tôi mới dừng ở
bước ghi nhận và đang tiếp tục nghiên cứu phân tích. Trong thời gian
tới, chúng tôi sẽ tổ chức hội nghị Khoa học để lý giải làm rõ một số
hiện tượng theo các góc cạnh khác nhau.
|
Lê Trang
Theo Bưu Điện Việt Nam
Một sợi dây tâm linh giữa người bố và đứa con gái
( 2:24 PM | 16/04/2011 )
Người đàn ông đề cập tới ở
đây là ông K đã từng mắc bệnh đau dạ dày kinh niên. Mặc dù thuốc thang
triền miên đã làm giảm bớt những triệu chứng, nhưng không lâu sau chứng
dạ dày của ông lại bộc phát ra. Đây là một câu chuyên kỳ lạ của ông K và
gốc rễ của căn bệnh đau dạ dày của ông.
Công ty của ông K quản lý kinh doanh tại Trung Quốc. Một ngày, một người bạn kinh doanh người Trung Quốc gửi ông một tấm hình của một cô bé người Trung Quốc, hỏi ông K liệu ông có thích nhận đứa bé này làm con nuôi không. Đó là khởi đầu của câu chuyện kỳ lạ này.
Kể từ khoảnh khắc đầu tiên ông K trông thấy tấm hình này, ông đã phát sinh một sự gắn bó mạnh mẽ không thể tin nổi với cô bé, như thể cô bé đã mê hoặc ông. Nước mắt lưng tròng, ông K đã cầu xin sự chấp thuận của vợ ông để nhận đứa bé này làm con nuôi. Ông tốn nhiều giờ tại các cửa hàng đồ chơi trong khu vực, tìm hiểu những đồ chơi cho bé gái, và mang về nhà một đống đồ chơi. Sau đó, ông trải qua đủ mọi khó khăn để nộp hồ sơ xin con nuôi và làm theo những thủ tục hợp pháp của chính phủ Trung Quốc để mang đứa bé trở về Mỹ.
Thoạt đầu, nhà chức trách Trung Quốc thông báo với ông K rằng họ không thể xác định được cô bé này. Sau đó họ bảo ông K rằng một gia đình khác đã nhận nuôi đưa bé trước khi ông nộp giấy tờ xin con nuôi. Sau đó họ lại bảo ông K rằng gia đình này đã trả lại đứa trẻ cho trại mồ côi. Tiếp nữa, họ bảo ông K rằng đứa bé đó bị ốm và đã bị đưa tới bệnh viện. Cuối cùng họ bảo ông K rằng đứa bé đã chết ở bệnh viện.
Khi ông K nhận được tin xấu ông đã suy sụp. Ông đã không tin vào tin đó và đã nói rằng, “Ồ không, điều này là không thể! không thể nào! Không, cô bé là của tôi. Tôi cầu xin các ông! Các ông phải tìm cô bé! Cô bé phải còn sống đâu đó! Xin hãy tìm nó!” Ông K đã quỳ xuống khi ông thực hiện những cuộc gọi quốc tế tới Trung Quốc, như thể ông đang đích thân ở đó và cầu xin họ giúp đỡ, nhưng viên chức người Trung Quốc phụ trách vụ xin con nuôi của ông K đã ngăn ông bằng một lời kết luận sỗ sàng, “Xin lỗi” và gác máy.
Nhưng ông K không từ bỏ. Ông tới gặp đại biểu quốc hội và thượng nghị sỹ, yêu cầu sự giúp đỡ của họ. Cuối cùng, ông K đã đặt vé máy bay tới Trung Quốc và bay sang đó một mình, không có gì ngoài một bức hình của cô bé. Ông đã quyết tâm tìm được đứa bé hoặc ông sẽ không bao giờ trở về.
Ông K đã vượt qua đủ loại khó khăn và cuối cùng tìm thấy đứa nhỏ tại một trại trẻ mồ côi ở tỉnh Tứ Xuyên. Khi ông K tìm thấy cô bé, đứa trẻ tội nghiệp đã cận kề cái chết, bị bỏ lại một mình trong một góc của trại trẻ mồ côi, và chịu đựng chứng bệnh đau dạ dày. Ông K đã vượt qua rất nhiều khó khăn như ông quyết tâm hoàn tất các thủ tục xin con nuôi và đã mang được đứa trẻ trở lại Mỹ. Điều mà ông K đã chịu đựng và trải qua ở Trung Quốc là không thể diễn tả nổi.
Tôi đã trông thấy cô bé lần đầu tại phòng khám của tôi, khi ông K mang cô tới điều trị chứng đau dạ dày. Tôi đã hỏi, “Tại sao cháu bị bố mẹ cháu bỏ rơi?” “Bởi vì cô bé dị ứng với sữa mẹ. Cháu chỉ có thể cho bú sữa bò. Sữa mẹ làm bé đau dạ dày, làm cô bé nôn mửa và mắc bệnh ỉa chảy. Một gia đình nông dân Tứ Xuyên khó có thể lo nổi sữa. Để giải quyết ổn thoả, bố mẹ cô đã quyết định mang cô tới trại trẻ mồ côi,” ông K giải thích.
Câu chuyện đáng kinh ngạc
Hai năm sau lần gặp gỡ đầu tiên này, ông K lại mang đứa trẻ tới phòng khám của tôi vì bệnh dạ dày của cháu. Lần này ông K kể với tôi một câu chuyện đáng kinh ngạc.
“Sau khi con gái tôi và tôi tìm thấy nhau, chúng tôi không bao giờ xa nhau nữa. Bởi vì công việc của tôi yêu cầu tôi phải đi ra nước ngoài suốt, tôi đã bỏ việc để được cận kề bên cô bé của tôi. Một ngày khi tôi mang cháu theo trong một chuyến đi bằng tàu hoả tôi đã nhận ra mối liên hệ của chúng tôi trong kiếp trước.
Khi con gái tôi đang đọc một tạp chí du lịch trên tàu, miêu tả những điểm du lịch tại các nước châu Á, khuôn mặt cô bé bỗng nhiên lặng đi khi cô bé lướt qua một bức hình của Việt Nam. Cô bé nhìn lên với một cái nhìn trang nghiêm, sau đó chỉ vào một cái nhà lợp mái tranh và nói, “Bố, bố luôn là bố của con. Bố, mẹ và con đã từng sống trong một cái nhà giống như thế này. Một ngày bố đang chạy và mang con trên lưng còn mẹ thì chạy theo phía sau. Bố bị một quả bom đánh trúng và gục xuống. Bố không nói nữa. Mẹ và con đã khóc như mưa. Khóc cho bố. Con đã tìm bố kể từ đó.”
Ông K nước mắt rưng rưng khi ông kể với tôi câu chuyện. Ông ấy kể tiếp, “Ông có biết bao nhiêu lần tôi thức dậy sau những cơn ác mộng mà tôi bị truy tầm bởi những máy bay ném bom, những khẩu đại bác, chiến tranh, những quả bom, và những người thoát ra từ những đợt bom oanh tạc. Trong những giấc mơ tôi luôn nghe thấy, ‘Bố ơi! Bố ơi!’ Tôi có thể nghe nó là tiếng khóc của một đứa trẻ. Không có một lần nào mà tôi không thức dậy đẫm nước mắt sau những cơn ác mộng.”
Khi tôi nghe câu chuyện tôi nhận ra rằng tại sao ông K và đứa con nuôi đều chịu đựng cùng bệnh đau dạ dày. Sau khi tôi biết về mối liên hệ tiền định của họ, tôi buộc một cổ tay của ông K với một cổ tay của cô bé bằng một sợi dây trước khi tôi điều trị thuốc. Khi tôi thực hiện việc tiêm thuốc cho ông K, đứa bé đã cảm thấy rất lo lắng cho bố của cô và nói, “Bố à, bố có sao không? Bố sẽ không chết vì đau chứ? Hãy nói gì đi.” Ông K trả lời bằng một nụ cười, “Bố không sao. Bố cảm thấy tuyệt vời.” Nghe thấy những từ đó, cô bé thốt ra một tiếng thở phào giống như một người lớn. Bệnh dạ dày của họ được chữa lành một cách mầu nhiệm với một sợi dây buộc họ với nhau.
Kỳ thật sợi dây chỉ là một mối liên kết trong tình huống này, một dấu hiệu bên ngoài của sự hàn gắn tâm linh. Tôi tin rằng bệnh đau dạ dày của họ là cùng một nguyên nhân trong một không gian khác.
Công ty của ông K quản lý kinh doanh tại Trung Quốc. Một ngày, một người bạn kinh doanh người Trung Quốc gửi ông một tấm hình của một cô bé người Trung Quốc, hỏi ông K liệu ông có thích nhận đứa bé này làm con nuôi không. Đó là khởi đầu của câu chuyện kỳ lạ này.
Kể từ khoảnh khắc đầu tiên ông K trông thấy tấm hình này, ông đã phát sinh một sự gắn bó mạnh mẽ không thể tin nổi với cô bé, như thể cô bé đã mê hoặc ông. Nước mắt lưng tròng, ông K đã cầu xin sự chấp thuận của vợ ông để nhận đứa bé này làm con nuôi. Ông tốn nhiều giờ tại các cửa hàng đồ chơi trong khu vực, tìm hiểu những đồ chơi cho bé gái, và mang về nhà một đống đồ chơi. Sau đó, ông trải qua đủ mọi khó khăn để nộp hồ sơ xin con nuôi và làm theo những thủ tục hợp pháp của chính phủ Trung Quốc để mang đứa bé trở về Mỹ.
Thoạt đầu, nhà chức trách Trung Quốc thông báo với ông K rằng họ không thể xác định được cô bé này. Sau đó họ bảo ông K rằng một gia đình khác đã nhận nuôi đưa bé trước khi ông nộp giấy tờ xin con nuôi. Sau đó họ lại bảo ông K rằng gia đình này đã trả lại đứa trẻ cho trại mồ côi. Tiếp nữa, họ bảo ông K rằng đứa bé đó bị ốm và đã bị đưa tới bệnh viện. Cuối cùng họ bảo ông K rằng đứa bé đã chết ở bệnh viện.
Khi ông K nhận được tin xấu ông đã suy sụp. Ông đã không tin vào tin đó và đã nói rằng, “Ồ không, điều này là không thể! không thể nào! Không, cô bé là của tôi. Tôi cầu xin các ông! Các ông phải tìm cô bé! Cô bé phải còn sống đâu đó! Xin hãy tìm nó!” Ông K đã quỳ xuống khi ông thực hiện những cuộc gọi quốc tế tới Trung Quốc, như thể ông đang đích thân ở đó và cầu xin họ giúp đỡ, nhưng viên chức người Trung Quốc phụ trách vụ xin con nuôi của ông K đã ngăn ông bằng một lời kết luận sỗ sàng, “Xin lỗi” và gác máy.
Nhưng ông K không từ bỏ. Ông tới gặp đại biểu quốc hội và thượng nghị sỹ, yêu cầu sự giúp đỡ của họ. Cuối cùng, ông K đã đặt vé máy bay tới Trung Quốc và bay sang đó một mình, không có gì ngoài một bức hình của cô bé. Ông đã quyết tâm tìm được đứa bé hoặc ông sẽ không bao giờ trở về.
Ông K đã vượt qua đủ loại khó khăn và cuối cùng tìm thấy đứa nhỏ tại một trại trẻ mồ côi ở tỉnh Tứ Xuyên. Khi ông K tìm thấy cô bé, đứa trẻ tội nghiệp đã cận kề cái chết, bị bỏ lại một mình trong một góc của trại trẻ mồ côi, và chịu đựng chứng bệnh đau dạ dày. Ông K đã vượt qua rất nhiều khó khăn như ông quyết tâm hoàn tất các thủ tục xin con nuôi và đã mang được đứa trẻ trở lại Mỹ. Điều mà ông K đã chịu đựng và trải qua ở Trung Quốc là không thể diễn tả nổi.
Tôi đã trông thấy cô bé lần đầu tại phòng khám của tôi, khi ông K mang cô tới điều trị chứng đau dạ dày. Tôi đã hỏi, “Tại sao cháu bị bố mẹ cháu bỏ rơi?” “Bởi vì cô bé dị ứng với sữa mẹ. Cháu chỉ có thể cho bú sữa bò. Sữa mẹ làm bé đau dạ dày, làm cô bé nôn mửa và mắc bệnh ỉa chảy. Một gia đình nông dân Tứ Xuyên khó có thể lo nổi sữa. Để giải quyết ổn thoả, bố mẹ cô đã quyết định mang cô tới trại trẻ mồ côi,” ông K giải thích.
Câu chuyện đáng kinh ngạc
Hai năm sau lần gặp gỡ đầu tiên này, ông K lại mang đứa trẻ tới phòng khám của tôi vì bệnh dạ dày của cháu. Lần này ông K kể với tôi một câu chuyện đáng kinh ngạc.
“Sau khi con gái tôi và tôi tìm thấy nhau, chúng tôi không bao giờ xa nhau nữa. Bởi vì công việc của tôi yêu cầu tôi phải đi ra nước ngoài suốt, tôi đã bỏ việc để được cận kề bên cô bé của tôi. Một ngày khi tôi mang cháu theo trong một chuyến đi bằng tàu hoả tôi đã nhận ra mối liên hệ của chúng tôi trong kiếp trước.
Khi con gái tôi đang đọc một tạp chí du lịch trên tàu, miêu tả những điểm du lịch tại các nước châu Á, khuôn mặt cô bé bỗng nhiên lặng đi khi cô bé lướt qua một bức hình của Việt Nam. Cô bé nhìn lên với một cái nhìn trang nghiêm, sau đó chỉ vào một cái nhà lợp mái tranh và nói, “Bố, bố luôn là bố của con. Bố, mẹ và con đã từng sống trong một cái nhà giống như thế này. Một ngày bố đang chạy và mang con trên lưng còn mẹ thì chạy theo phía sau. Bố bị một quả bom đánh trúng và gục xuống. Bố không nói nữa. Mẹ và con đã khóc như mưa. Khóc cho bố. Con đã tìm bố kể từ đó.”
Ông K nước mắt rưng rưng khi ông kể với tôi câu chuyện. Ông ấy kể tiếp, “Ông có biết bao nhiêu lần tôi thức dậy sau những cơn ác mộng mà tôi bị truy tầm bởi những máy bay ném bom, những khẩu đại bác, chiến tranh, những quả bom, và những người thoát ra từ những đợt bom oanh tạc. Trong những giấc mơ tôi luôn nghe thấy, ‘Bố ơi! Bố ơi!’ Tôi có thể nghe nó là tiếng khóc của một đứa trẻ. Không có một lần nào mà tôi không thức dậy đẫm nước mắt sau những cơn ác mộng.”
Khi tôi nghe câu chuyện tôi nhận ra rằng tại sao ông K và đứa con nuôi đều chịu đựng cùng bệnh đau dạ dày. Sau khi tôi biết về mối liên hệ tiền định của họ, tôi buộc một cổ tay của ông K với một cổ tay của cô bé bằng một sợi dây trước khi tôi điều trị thuốc. Khi tôi thực hiện việc tiêm thuốc cho ông K, đứa bé đã cảm thấy rất lo lắng cho bố của cô và nói, “Bố à, bố có sao không? Bố sẽ không chết vì đau chứ? Hãy nói gì đi.” Ông K trả lời bằng một nụ cười, “Bố không sao. Bố cảm thấy tuyệt vời.” Nghe thấy những từ đó, cô bé thốt ra một tiếng thở phào giống như một người lớn. Bệnh dạ dày của họ được chữa lành một cách mầu nhiệm với một sợi dây buộc họ với nhau.
Kỳ thật sợi dây chỉ là một mối liên kết trong tình huống này, một dấu hiệu bên ngoài của sự hàn gắn tâm linh. Tôi tin rằng bệnh đau dạ dày của họ là cùng một nguyên nhân trong một không gian khác.
Tác giả: Tiến sĩ Yu Lin
(Theo Secret China)
(Theo Secret China)
Tư liệu thiên nhiên kỳ bí 5
(Đại Chúng sưu tầm trên NET)“Thủ cấp” khổng lồ trôi dạt dưới đáy biển Việt Nam |
Cập nhật lúc
07h51' ngày 26/03/2013
|
Nhìn từ xa, sinh vật này trông giống như một cái đầu khổng lồ đang di chuyển vật vờ trong đại dương.
Với nhiều đặc điểm độc nhất vô nhị, cá mặt trăng (Mola mola) được coi là một trong những loài cá lạ lùng nhất trên thế giới. Ấn tượng đầu tiên về loài cá này là hình thù “khó hiểu” của chúng. Cá mặt trăng có thân hình tròn, dẹp và ngắn ngủn, hầu như không có sự phân biệt giữa khúc đầu, thân và đuôi. Vây lưng và vây bụng của chúng ngắn và cao, vây đuôi chỉ là một dải hẹp, hầu như không có tác dụng bơi lội. Cùng với hình thù lạ, cá mặt trăng sở hữu một kích thước siêu “khủng”. Cá trưởng thành có thể dài tới 5,5m, nặng 1400kg. Dù có thân hình bồ tượng nhưng miệng cá mặt trăng rất nhỏ. Thức ăn chủ yếu của chúng là các loại cây thủy sinh, động vật giáp xác, phù du, cá bột. Do cấu trúc cơ thể cụt ngủn nên dù to lớn nhưng cá mặt trăng bơi rất yếu ớt. Hầu hết thời gian, chúng chỉ để cho cả khối thân mình đồ sộ trôi tự do theo các dòng nước. Dù vậy, khi đuổi mồi, chúng có thể lật ngang thân trong nước và dùng vây lưng và vây hậu môn để bơi khá nhanh. Một điểm đặc biệt khác của cá mặt trăng là cá cái chỉ có một buồng trứng, nhưng chứa một lượng trứng lên đến 300 triệu, gấp 3 lần dân số Việt Nam. Địa bàn sinh sống chủ yếu của cá mặt trăng là các vùng biển nhiệt đới, trong đó có Biển Đông của Việt Nam. Theo ghi nhận, ngư dân Nghệ An đã nhiều lần bắt được loài cá ký lạ này. Kích thước những con cá đánh bắt được dao động từ hàng chục kg cho đến nửa tấn. Trong Sách Đỏ Việt Nam, cá mặt trăng được coi là một loài cá quý hiếm, cần phải được bảo vệ đặc biệt. |
Theo Kien Thuc |
Thứ Hai, 27 tháng 5, 2013
TT&HĐ-2
THỰC TẠI VÀ HOANG ĐƯỜNG
ĐẠI CHÚNG
__________________
MỤC LỤC PHẦN I
Chương III: Tự nhiên và phi tự nhiên
PHẦN I :
Trí tưởng tượng quan trọng hơn sự hiểu
biết, nhưng điều
Cây có gốc mới nở cành xanh lá
Nước có nguồn mới bể cả sông sâu
Người ta nguồn gốc ở đâu
Có tổ tiên trước rồi sau có mình.
(Ca dao)
Mỗi tia nắng rọi cũng là tình chung?”
Tố Hữu
ĐẠI CHÚNG
__________________
MỤC LỤC PHẦN I
PHẦN I: CÓ MỘT CÁI GÌ ĐÓ
Chương I: Tồn
tại và hư vô
Chương II: Bất
biến và thường biến
Chương III: Tự nhiên và phi tự nhiên
Chương IV: Đồng
hóa và dị hóa
Chương V: Không
gian và thời gian
Chương VI: Đóng và mở
Chương VII: Vô
tự đại thư
Chương VIII: Hoàng Lão
Chương IX: Nhìn
lại
__________________
PHẦN I :
Có một cái gì đó
“Tại sao có một cái gì đó chứ không phải
là không có gì?”
Lepnit.
CHƯƠNG I: TỒN TẠI VÀ HƯ
VÔ
quan trọng hơn cả là đừng bao giờ ngưng đặt ra
những câu hỏi.”
A. Einstein.
Nước có nguồn mới bể cả sông sâu
Người ta nguồn gốc ở đâu
Có tổ tiên trước rồi sau có mình.
(Ca dao)
Khi mới được
sinh ra, tất cả chúng ta, nào ai có biết gì đâu. Chúng ta được nuôi nấng, lớn
dần lên: biết lật, biết bò, biết ngồi, rồi đứng dậy, rồi chập chững đi những
bước đầu tiên trong sự mừng vui động viên của mẹ, của cha, của anh chị em ruột
thịt. Từ lòng mẹ, chúng ta đã bước ra và bắt đầu bập bẹ, nhìn nhận. Chúng ta thấy căn
phòng với những đồ vật, chúng ta thấy khoảng sân, thấy ngôi nhà mà chúng ta và
mọi người xum họp. Chúng ta, với những ý nghĩ cảm tính đã chớm nở, bắt đầu nhận biết dần những sự vật, hiện
tượng xảy ra xung quanh; bắt đầu tìm hiểu, bi bô đặt ra biết bao câu hỏi ngây thơ, ngộ nghĩnh về chúng.
Tầm nhìn của chúng ta dần rộng hơn: đường xá, cỏ cây, sông núi, đất trời hiện
ra. Ta lớn khôn hơn và hiểu rằng đó là thế giới, cái mà ta đang sống trong đó.
Chúng ta đã bước ra từ vô tri vô giác để có mặt, để dự phần trong cái thế giới dung túng tất cả, cưu mang tất cả và được gọi là Thiên Nhiên
ấy .
Lớn hơn chút
nữa, chúng ta bắt đầu cắp sách tới trường. Chúng ta học hành và theo năm tháng,
nhận thức của chúng ta về thế giới ngày càng mở rộng và sâu sắc. Chúng ta được
học về lịch sử và hiểu rằng trước chúng ta đã có biết bao cuộc đời từng sống ở
đây và đã xa khuất, rằng chúng ta là những kẻ đến sau; rằng cái thế giới này
với cỏ cây đất trời sông núi, với cuộc xoay vần như bất tận của ngày và đêm,
của bốn mùa thay đổi xuân hạ thu đông, đã hiện diện từ trước, có sẵn từ lâu lắm
rồi, nghĩa là chúng ta nhận thức được một cách khái quát rằng chúng ta đang sống trong hiện thực bao la Không Gian và trên dòng trôi không ngừng Thời Gian.
Chúng ta càng học
lên cao chúng ta càng thấy rằng thế giới đâu chỉ có vậy. Khi chúng ta biết những
ngôi sao trên bầu trời kia nằm ở rất xa xôi thì cũng có nghĩa rằng thế giới là
vô cùng rộng lớn. Cái thế giới rộng lớn đến choáng ngợp ấy được tổ tiên chúng
ta đặt tên là Vũ Trụ.
Cuối cùng, chúng ta đã biết
rằng chúng ta từ vô tri vô giác bước ra, nhìn ngắm, cảm nhận một đời rồi lại như
ông bà tổ tiên trở về với vô tri vô giác, và dù có tiếc nuối cuộc sống đến mấy thì đó chính là Định Mệnh của muôn đời, không ai cưỡng lại được.
Và tự nhiên bật
ra câu hỏi: Vũ Trụ có đến và đi như chúng ta không hay Vũ Trụ còn mãi?
Đặt câu hỏi đó,
vô tình hay hữu ý, chúng ta đã chạm đến nỗi trăn trở hàng ngàn đời nay của suy tư triết học: tồn tại hay
không tồn tại, và thực chất của tồn tại là gì?
***
“Vì sao mỗi hạt mưa sa Mỗi tia nắng rọi cũng là tình chung?”
Tố Hữu
Nhưng tồn tại có
nghĩa là gì?
Thật khó mà trả
lời ngay được. Bởi vì một trong những khái niệm đầu tiên, cơ bản nhất, đơn giản nhất mà rồi cũng mơ
hồ nhất của suy tư triết học là khái niệm tồn tại. Mọi quyển sách triết học, hay nói đúng hơn là mọi học thuyết triết
học đều nói đến tồn tại, và ngày nay đã coi tồn tại như một khái niệm dễ hiểu để luận giải những
vấn đề khác, nhưng chưa thấy ai định nghĩa tồn tại một cách rõ ràng, dứt khoát. Có lẽ, nếu có một
trăm triết gia thì cũng có một trăm cách nhận định về khái niệm tồn tại.
Như trên đã nói,
chúng ta sinh ra, lớn lên và cảm nhận được thế giới xung quanh. Quá trình cảm
nhận là quá trình thế giới xung quanh tác động lên các giác quan của chúng ta và
các giác quan ấy phản ứng truyền lên não theo hệ thần kinh tạo nên cảm giác, rồi
tri giác để hình thành nên ấn tượng, biểu tượng – hình ảnh chủ quan của con người về thế giới khách
quan sinh động. Từ đó chúng ta chủ động nhận thức thế giới qua các hình thức như ý niệm,
khái niệm, phán đoán và suy tưởng. Ở đây, chúng ta hiểu ấn tượng là hình thức sơ khai, đóng vai trò tiền đề làm xuất hiện biểu tượng, tương tự, ý niệm là kết quả của nhận thức cảm tính, đồng thời vừa là hình thức sơ khai của khái niệm vừa đóng vai trò làm hình thành nên khái niệm (nên nhớ, sự phân biệt này chỉ là tương đối!). Có thể nói sự hình thành khái niệm và hệ thống khái niệm là bước đầu tiên của suy tư logic (hay nôm na là suy tư "có lý"),còn bản thân khái niệm và hệ thống khái niệm được cho là tư tưởng phản ánh thuộc tính
chung và bản chất của (các) sự vật và hiện tượng, là hình thức cơ bản của tư
duy trừu tượng. Tóm lại, không có ý niệm thì tư duy không thể triển khai được, không có khái niệm thì tư duy logic không khởi phát được, và hệ thống khái niệm đóng vai trò là "bảng chữ cái" của mọi quá trình suy tư lý luận. Suy tư lý luận là hình thức vận động lý trí ở trình độ cao nhất của bộ não người. Đó cũng là "vũ khí" quan trọng bậc nhất của con người trên bước đường đi tìm hiểu thế giới, đồng thời là phương thức cơ bản nhất, thiết yếu nhất, có tính quyết định trong việc giúp cho con người có khả năng nhận thức và nhận thức ngày càng xác đáng thực tại khách quan. Triết học chính là kết quả của suy tư lý luận trên cơ sở những nhận biết đã được thừa nhận trước đó (dù có thể thực ra vẫn chưa đích đáng) nhằm trình bày một giải thích có tính tổng thể ở mức độ sâu rộng nào đó
về thế giới - cái Vũ Trụ mà con người đang "ở trong" nó và đang quan chiêm nó. Nhưng giải thích cái gì về Vũ Trụ? Hiển nhiên là giải thích cái nguyên nhân làm xuất hiện Vũ Trụ và Vũ Trụ tồn tại như thế nào. Tuy nhiên, như đã nói, điểm xuất phát của mọi suy lý cơ bản là khái niệm, cho nên, muốn giải thích sự tồn tại của Vũ Trụ thì trước hết phải xây dựng hoàn chỉnh khái niệm tồn tại. Ấy vậy mà cho đến tận ngày nay, khái niệm tồn tại vẫn chưa được hiểu một cách đồng thuận, nhất quán, hơn nữa, vẫn còn nét mơ hồ, trong khi đó, triết học về tự nhiên lại đã phát triển đến mức quá ư đồ sộ (phần nhiều là về thể xác chứ không phải tâm hồn!!!), thế mới lạ lùng!!!
Một cách mộc mạc,
khái niệm là định nghĩa đi liền sau hoặc cùng lúc với sự đặt tên, sự gán nhãn mác qui ước của con người lên sự vật,
hiện tượng nhằm mục đích đầu tiên là truyền đạt, trao đổi và lưu giữ thông tin giữa các cá
thể với nhau trước đòi hỏi về nhận thức trong công cuộc mưu sinh ở loài người. Khi
chúng ta nói “tôi ăn cơm” thì đó chính là sự kết hợp của ba khái niệm (hay ba
nhãn mác chỉ sự vật và hiện tượng) “tôi”, “ăn”, “cơm”; và mọi người đều hiểu chúng
ta đang nói về cái gì. Phải nói rằng không có ý niệm, khái niệm thì cũng không có ngôn
ngữ và chữ viết. Không có ngôn ngữ và chữ viết thì cũng không thể có sự hiểu biết.
Vì vậy mà ngôn ngữ và chữ viết là biểu hiện rõ ràng nhất, đầy đủ nhất giữa động
vật mông muội và con người khôn lanh, có lý trí. Lịch sử loài người đã cho thấy
quá trình từ động vật hoang dã vươn lên thành con người biết suy nghĩ là hết sức
dài lâu. Điều đó cũng có nghĩa là từ những hú, hét, ám hiệu, ký hiệu vạch vẽ thô
sơ và rời rạc đến giai đoạn xuất hiện những khái niệm cũng ngần ấy “thiên thu”.
Lúc đầu có thể chỉ là những khái niệm hết sức cụ thể, giản đơn (ý niệm?), về sau, cùng với
sự phát triển của tư duy mà có khái niệm chung và cuối cùng là những khái niệm
mang tính trừu tượng cao độ. Chẳng hạn chúng ta vô tình phát hiện ra một quả gì
đó ăn được và chúng ta đặt tên là táo. Sau đó, trong khi “lang thang” chúng ta
bắt gặp những thứ khác ăn được, rất giống vị quả táo nhưng có thể khác về hình
thức một chút, nên chúng ta đặt tên là táo ở đó, táo ở đây hay đại loại táo tàu, táo tây, táo ta để phân biệt. Lúc này, táo không còn là khái niệm riêng nữa mà được "nâng lên",
trở thành tên chung của các loại táo. Cũng như vậy, từ quả là một khái niệm
chung chỉ các loại ăn được và không ăn được ở trên cây có hình thù giống táo. Và
ở mối tương quan này quả táo lại là một khái niệm riêng để chỉ một loại quả. Tóm
lại sự mở rộng ý nghĩa một khái niệm và sự xuất hiện những khái niệm mới cùng với
sự phát triển nhận thức con người về thế giới là một tất yếu. Khái niệm “triết
học” thuở ban đầu chỉ có nghĩa đơn giản là “yêu mến sự thông thái” nhưng đến ngày
nay, để trả lời câu hỏi “triết học là gì?” thôi, cũng phải tốn rất nhiều giấy,
mực mà đã dễ gì thỏa mãn được. Nhưng tại sao người ta cứ tranh luận mãi về ý
nghĩa của hai từ “triết học” ấy và tranh luận để làm gì, thì chúng ta, những đứa
trẻ thơ, chẳng bao giờ hiểu được. Có lẽ là do tính tương đối của khái niệm
chăng?!
Lịch sử nhận thức của loài người là quá trình phát triển trình độ từ thấp đến cao, dẫn đến khái niệm và hệ thống khái niệm cũng phải chuyển hóa theo chiều hướng như thế. Số phận của khái
niệm “tồn tại” chắc rằng không ngoài xu thế đó. Khởi nguyên của nó chắc cũng chỉ mang một ý
nghĩa đơn giản, trực giác nào đó, giả dụ như: sự hiện diện của sự vật, hiện tượng
xung quanh ta. Nhưng rồi con người lại phát hiện ra rằng không phải sự vật và
hiện tượng nào cũng hiện diện trước họ, có thể là do ở quá xa, có thể là bị che
khuất, hoặc cũng có thể là do ngũ quan của họ không cảm nhận được. Ví dụ như không
khí, như gió: chúng ta biết rằng có một cái gì đó xảy ra nhưng không thấy cái gì
cả. Như vậy thì những sự vật hiện tượng đó có được gọi là tồn tại không? Nếu chúng
ta cho rằng chúng có hiện diện, chỉ có điều chúng ta không cảm nhận được sự hiện
diện ấy thôi, thì chúng cũng phải được cho là tồn tại. Như vậy đến đây việc mở
rộng khái niệm tồn tại là cần thiết? Chúng ta cho rằng tất cả các sự vật và hiện
tượng xảy ra, đều hiện diện, đều có thực, đều là sự thực và vì sự hiện diện ấy
không cần sự nhận biết của chúng ta nên chúng ta nói chúng không phụ thuộc vào
chúng ta; chúng là khách quan. Lúc này, một cách ngắn gọn, tồn tại có nghĩa là
sự có thực khách quan. Sẽ có người hỏi rằng: thế thì chúng ta, những con người cùng
với những suy tư, những mộng mị, những hệ tư tưởng có được gọi là tồn tại không,
có phải là một sự thực khách quan không? Nếu chúng ta phải trả lời câu hỏi này,
thì quan niệm của chúng ta là: bước ra từ thế giới này, tham dự vào thế giới này
và trở về với thế giới này nên chúng ta chẳng là cái gì cao siêu cả mà cũng chỉ
là những sự vật và hiện tượng, cũng hiện diện và như vậy chúng ta cũng tồn tại,
là một bộ phận của sự có thực khách quan.
Như vậy khái niệm
tồn tại hiểu theo cách nguyên sơ, “bình dân” có nghĩa là cái gì đó hiện diện, có
thực như mặt trăng là tồn tại, con người là tồn tại, rừng núi là tồn tại; hiểu
theo cách mở rộng nâng cao, “triết học” thì đó là hiện thực, thực tại khách
quan, là toàn bộ Vũ Trụ này. Nếu ta hỏi một anh nông dân: “Mặt Trời có tồn tại
không?”, có lẽ anh ta sẽ cự chúng ta ngay lập tức: “Điên à? Mặt trời sờ sờ ra đấy
mà còn hỏi!”. Nhưng nếu chúng ta hỏi ngược lại: “Tồn tại có phải là Mặt Trời không?”
thì chính anh ta sẽ là người phát điên vì không hiểu chúng ta định nói gì. Cũng
với câu hỏi này, chúng ta mang ra đố một triết gia, chúng ta sẽ nhận được câu
trả lời phủ định: “Không! Mặt trời là một sự vật - hiện tượng nên nó là một tồn tại.
Nó tồn tại nhưng tồn tại không phải là nó!”. Nghe xong đến lượt chúng ta điên!
Rốt cuộc câu hỏi
“Tồn tại là gì?” vẫn còn đó!
Tại sao lại có
tình trạng lúng túng ấy? Có lẽ là nó có nguyên nhân từ lịch sử hình thành và phát
triển của những khái niệm. Mỗi khái niệm đều có một số phận, đều buồn vui theo
những chặng đường buồn vui của nhận thức loài người và có thể là hầu hết trong
số chúng đều được mở rộng hoặc khác xa về mặt ý nghĩa so với nghĩa gốc, nghĩa
ban đầu. Có nhiều khái niệm đến ngày nay vừa được hiểu theo nghĩa hẹp nhất, trực
giác nhất, vừa được hiểu theo nghĩa bao hàm nhất, rộng lớn nhất, đến tận biên
giới, thậm chí là vượt quá cả khả năng tưởng tượng của não người; làm cho chúng
vừa được sử dụng “thoải mái, hồn nhiên”, ai cũng hiểu, vừa rất khó sử dụng một
cách xác đáng và hết sức mơ hồ. (Đến độ làm cho chúng ta có cảm giác rằng tất cả
mọi sự vật hiện tượng đều hàm chứa những mâu thuẫn, và ngôn ngữ không phải là ngoại
lệ!). Trong triết học, những khái niệm thuộc loại này lại chính là những khái niệm
cơ bản nhất, nền tảng nhất và cũng khó định nghĩa nhất. Có thể nói nếu không có
chúng thì công trình triết học sẽ sụp đổ; nhưng chúng cũng chính là đầu mối của mọi rắm rối nảy sinh trong triết học. Chỉ khi nào những khái niệm cơ bản mà triết học dựa vào để suy lý được định nghĩa xác đáng, tường tận thì triết học mới trở nên sáng sủa và đồng thời được coi là hoàn thành nhiệm vụ cốt yếu của mình. Nói một cách
khác, triết học muốn giải thích đúng đắn được một cách tổng quan về thực tại khách quan thì trước hết phải thấu tỏ được bản chất đích thực của những thứ "nấp" dưới dạng những khái niệm mà nó dựa vào để suy lý. Một
số những khái niệm ấy là: tồn tại, không gian, thời gian, vật chất … Và câu hỏi
cơ bản dành cho triết học: chúng là gì? Chính sự "đeo đẳng" tâm trí loài người ngay từ buổi bình minh suy tư triết học đến nay của câu hỏi này đã làm xuất hiện trong quá trình nhận thức từ thấp đến cao một hiện tượng có tính lặp đi lặp lại, tưởng dị thường nhưng thật ra lại là tất yếu, đó là : nhận thức lại cái đã được nhận thức, định nghĩa lại cái đã được định nghĩa!
Chúng ta nói
nhiều về khái niệm để thấy rõ được tính không ổn định của nó, để sau này trong
khi sử dụng các khái niệm để mô tả, giải thích điều gì đó sẽ khỏi phải lại kể lể
dài dòng, coi những khái niệm được sử dụng là đã được hiểu. Chúng ta không nên,
và, (may quá!) không có khả năng đóng vai trò các triết gia. Chúng ta chỉ là những
người lớn hoang tưởng đi tìm cái gì đó cho thỏa chí tò mò của riêng mình và
ngay lúc này phải làm sao xây dựng được quan niệm về tồn tại, cũng là cho riêng
mình nốt!
***
Để trả lời câu
hỏi “Tồn tại là gì?”, chúng ta dù chưa thực sự thỏa mãn nhưng để khỏi nhọc lòng
nữa, vẫn cứ đồng ý rằng: tồn tại, theo nghĩa rộng nhất là sự thực khách quan, là
toàn bộ thế giới này, là Vũ Trụ. Vũ Trụ không cần chúng ta gắn nhãn mác, là một
cái gì đó có sẵn, còn đó, còn mãi; cái mà con người đầy lòng kiêu hãnh, sinh ra
từ nó, cố nhận thức nó và đồng thời như thế cũng là cố nhận thức chính mình. Như
thế thì mọi sự vật - hiện tượng hiện diện, mặc kệ chúng ta có cảm nhận được hay
không cảm nhận được đều là sự thể hiện của tồn tại, đều có cùng một đặc tính là
tồn tại, và chính là bộ phận tồn tại.
Tồn tại, theo
quan niệm nêu trên, sẽ trở thành một khái niệm cùng tột, bao hàm toàn bộ khái
niệm mà con người có thể nghĩ ra được, bao hàm cả không gian, thời gian, vật chất
…
Cần nhấn mạnh
thêm rằng, theo sự mách bảo của kinh nghiệm, nếu không là tất cả thì phần lớn các
sự vật hiện tượng sớm muộn gì cũng chấm dứt hiện diện, nghĩa là một lúc nào đó
chúng phải bị tiêu vong. Nhưng cũng theo mách bảo của kinh nghiệm thì đồng thời
với quá trình tiêu vong là quá trình xuất hiện, hiện diện các sự vật - hiện tượng
mới. Và nếu mọi nhãn mác gắn theo tất cả các sự vật hiện tượng được vứt bỏ đi thì
cái gì đó còn lại chính là tồn tại, cái mà không người lớn nào có thể thấy; như
một chỉnh thể thống nhất và duy nhất. Một cái cây, nếu bỏ đi mọi nhãn mác, nghĩa
là chúng ta không có bất kì một khái niệm nào về nó, nghĩa là ta "nhìn thấy" nó ở
tầng vô niệm; sẽ không thấy được sự sống chết của nó nữa, vì nó đã không còn phân
biệt được, là sự hòa điệu của chỉnh thể tồn tại.
Tồn tại theo
quan niệm vừa nêu của chúng ta là tồn tại có tính tuyệt đối. Chính vì thế mà câu hỏi “Tồn tại
hay không tồn tại?” trở nên vô nghĩa. Nhưng mặt khác, trong quá trình xây dựng
nên quan niệm tồn tại cho mình, vô tình hay hữu ý chúng ta đã phải nói đến cái
không tồn tại. Nếu không có không tồn tại thì làm sao mà hình dung được tồn tại?
Do đó để cho hoàn thiện, không ai “kiện” chúng ta được, chúng ta “đành” công nhận
sự không tồn tại. Nhưng nếu tồn tại (ở đây!!!) là tuyệt đối thì không tồn tại là tương đối.
Sự "hiện diện" của không tồn tại chính là sự khẳng định của tồn tại. Khi Đềcác nói:
“Tôi tư duy nghĩa là tôi tồn tại” thì không những cái tôi tồn tại mà cả tư duy của cái
tôi và đối tượng của sự tư duy ấy cũng tồn tại (khái niệm tồn tại ở đây phải được
hiểu theo nghĩa hẹp, tương đối như: có, hiện diện, còn …) Nhưng nếu không còn tôi
nữa, nghĩa là tôi không tồn tại nữa (lúc này, tồn tại lại chỉ mang tính tương đối!!!) thì sự tư duy của tôi và đối tượng của sự tư
duy ấy cũng chấm dứt tồn tại. Tuy vậy cái còn lại vẫn tồn tại! Và ở đây phải hiểu
tồn tại theo nghĩa bao hàm của nó !
Đồng nghĩa với
không tồn tại là hư vô. Hư vô được coi như là sự trống rỗng, không có gì (một cách có thể là tuyệt đối hay tương đối, tương tự như tồn tại!!!). Bây giờ,
chúng ta cho rằng Vũ Trụ chưa chắc đã tồn tại mà chỉ là hư vô. Nếu thế, vì là bộ
phận của Vũ Trụ, nên chúng ta cũng là hư vô. Như thế, làm sao chúng ta còn "có mặt" để mà
nhận thức thế giới? Mặt khác, một khi chúng ta dù bị cho là đang hư vô, nhưng vẫn còn nhận thức được, thì hư vô cũng phải được nhận thức và do đó, hư
vô lại phải mang ý nghĩa tồn tại. Chỉ khi nào chúng ta không còn nhận thức nữa (khi ngủ say như chết hoặc chết thật!),
thì đối với một hư vô nhận thức (và chỉ đối với nó thôi), Vũ trụ sẽ trở nên hư
vô! (Cần thấy rằng khái niệm hư vô ở đây phải mang ý nghĩa tuyệt đối!!!)
Hãy đồng ý rằng
Vũ Trụ là một tổng thể tồn tại mà trong đó cũng có những vùng, những khoảng trống rỗng, không có gì, và được gọi (qui ước) là hư vô. Rõ ràng, vì những vùng, khoảng hư vô đó là phân biệt được với sự tồn tại xung quanh chúng nên chúng cũng hiện diện, cũng "có mặt" như một "thực thể", một sự kiện, một
sự thực khách quan. Như vậy hư vô cũng hoàn toàn có khả năng và thực sự "có quyền" mang danh nghĩa tồn tại như
một cái gì đó. "Cái gì đó", cái không có gì mà vẫn được cho là hiển hiện ấy, được chúng ta quen gọi là (vùng, khoảng) không gian. Câu hỏi đặt ra: có vùng hay khoảng nào trong Vũ Trụ trống rỗng đến độ kể cả không gian cũng không có nốt không, tức là có hư vô tuyệt đối (một cách...đúng là tuyệt đối!) không? Có lẽ có, nhưng... chỉ là trong ảo mộng!!! Chúng ta không thể hình dung nổi một cái gì đó tuyệt đối trống rỗng
lại hiện ra được như một tồn tại trong thực tại khách quan! Phải chăng, Vũ Trụ, hay gọi theo cách khác là Thực Tại Khách Quan, là một tồn tại tuyệt đối, và tồn tại tuyệt đối là duy nhất, thống nhất, liên tục vì không thể có hư vô tuyệt đối? Dù chưa biết sự thể thế nào thì xét về mặt logic, luận điểm dưới đây là một chí lý:
- Khi nói rằng
có hư vô thì có nghĩa là hư vô hiện diện, do đó là tồn tại.
- Hay: tồn tại
không tồn tại là tồn tại.
không tồn tại tồn tại là tồn tại.
- Hư vô không tồn tại là tồn tại.
- Hư vô không hư vô là tồn tại.
(Đàng nào thì cuối cùng vẫn cứ là tồn tại!)
- Hư vô không hư vô là tồn tại.
(Đàng nào thì cuối cùng vẫn cứ là tồn tại!)
Rốt cuộc, xét về mặt khái niệm và hiểu
theo nghĩa rộng nhất, thì tồn tại là khái niệm cao nhất, là khái niệm bao hàm mọi khái niệm; mọi khái niệm đều có thể qui về nó. Đối với tất cả mọi sự vật
biết tư duy trừu tượng, dù ở bất cứ đâu trong Vũ Trụ, dù sử dụng bất cứ kiểu ngôn
ngữ nào, muốn nhận thức được sự thực khách quan thì trước hết phải có ý niệm về tồn tại, phải xây dựng
khái niệm tồn tại để làm tiền đề và phải mở rộng ý nghĩa của nó đến tột cùng của
khả năng suy tưởng.
Mặt khác, tồn tại, theo nghĩa "cùng cực" nhất,
là một sự thực khách quan tuyệt đối, là một tổng thể hoàn chỉnh tối hậu, bao hàm
toàn bộ mọi sự thật khách quan tương đối khác, kể cả không gian và thời gian, kể
cả hư vô. Xét ở góc độ này thì tồn tại vượt lên trên mọi quan niệm của tư duy
logic trong thời đại ngày nay. Nó vừa thống nhất lại vừa mâu thuẫn! Nó là cả hai, tồn tại và không tồn
tại, và đồng thời cũng...không phải như thế!
Con người rồi đây
sẽ nhận thức được sự thực ấy. Nhưng đối với câu hỏi cuối cùng của mọi câu hỏi:
“Cái đó, cái làm nên tồn tại, là cái gì?” thì có lẽ sẽ vĩnh viễn không thể nhận dạng trực quan được!.
***
Vấn đề tồn tại
và hư vô làm đau đầu biết bao nhiêu bậc hiền triết, biết bao nhiêu thế hệ các
triết gia; làm hình thành nên biết bao nhiêu trường phái triết học tranh luận,
phản bác nhau, đến tận bây giờ cũng còn chưa ngã ngủ. Điều đó cho thấy khái niệm
tồn tại mơ hồ tới cỡ nào và nhận thức tồn tại khó khăn đến mức nào!
Nhìn vào lịch sử
nhận thức của loài người, chúng ta thấy đã có biết bao nhiêu luận thuyết về tồn
tại, biết bao nhiêu mô hình về tồn tại (Vũ trụ luận) ra đời, từ vũ trụ thần thọai,
vũ trụ tín ngưỡng đủ loại đến vũ trụ địa tâm, vũ trụ nhật tâm, rồi vũ trụ trực
giác cơ học, đến vũ trụ dừng và đến ngày nay là Vũ trụ giãn nở. Chúng ta có quyền
phê phán đúng- sai để tiếp tục nhận thức chứ không nên chê bai một cách khắc kỷ vì đó chính là quá
trình tất yếu của nhận thức. Nêu vấn đề này ra, chúng ta chỉ muốn nói đến sự choáng
ngợp của trí não con người trước tự nhiên tồn tại, nói đến lòng ngưỡng mộ biết bao nhiêu đối với tổ
tiên và những bậc tiền bối; thấy rằng sự khao khát tìm hiểu Vũ Trụ của họ là vô
bờ bến, là vô cùng mãnh liệt, truyền lửa nhiệt huyết đến tận thế hệ chúng ta hôm
nay.
***
Hỡi anh em bằng
hữu, noi gương những người đi trước, chúng ta đã hun đúc lòng say mê đến mãnh
liệt để làm một cuộc hành trình hoang tưởng đi tìm chân lý. Ngay khởi đầu, chúng
ta đã gặp phải một ngọn thái sơn có tên là “quan niệm về tồn tại và hư vô” mà
giờ đây chúng ta đã chinh phục được(?!) Như thế có đáng tự hào không? Vừa xứng đáng
vừa không! Chúng ta tự hào vì đã xây dựng được cho riêng mình một quan niệm về
tồn tại (ai mà không làm được nhỉ?!), và không tự hào vì đó chẳng qua là một khối
chắp vá từ những thứ có sẵn mà chúng ta đã nhặt nhạnh, tích cóp được của quá khứ.
Những khối chắp
vá đó có đúng không? Không biết! Chỉ biết rằng nó thuộc quyền sỡ hữu của chúng
ta; ai mua, chúng ta bán, ai xin, chúng ta cho! Và cũng biết rằng: Vật lý
hiện đại đã xác nhận là không có hư vô, không có cái gọi là chân không trống rỗng
mà chỉ có cái gọi là chân không năng lượng được hình dung như một biển thăng
giáng lượng tử.
Và hỡi anh em bằng
hữu! Để cho mọi người thấy rằng chúng ta có nên tự hào không và chúng ta nhặt
nhạnh được gì trong quá khứ để làm nên thành quả vừa rồi, tôi xin thay mặt các
bạn kể lể đôi chút về thời xa xưa, thời mà giờ đây đã thành ba ngôi đền được người ta (chứ không phải chúng ta) cho là thiêng
liêng nhất của triết học: triết học Hi Lạp cổ đại, triết học Ấn Độ cổ đại và
triết học Trung Hoa cổ đại.
Hôm nay, còn ối
người cho rằng Phương Đông không có triết học. Họ cho rằng nguồn gốc triết học (và cả khoa học
nữa mới ghê chứ!) là ở Hy Lạp, nơi lần đầu tiên xuất hiện từ “triết học” với ý nghĩa nguyên
sơ của nó là “yêu mến sự thông thái”.
Nếu như thế thì
đành phải cho rằng chỉ có một ngôi đền thôi. Và chúng ta, những kẻ từ Phương Đông
tới, cảm thấy vô cùng buồn bã. Nhưng làm sao mà trách họ được?
Trong cuốn “Đại
cương lịch sử Triết học Phương Tây” (NXB Tổng hợp TP.HCM, năm 2006) chúng ta đọc
được thế này:
“Mọi người đều
thừa nhận rằng triết học đã xuất hiện vào thế kỷ VI - V TCN, ở Hi Lạp cổ đại …
Luận điểm về sự
xuất hiện của triết học ở Hy Lạp cổ đại còn có nghĩa là cần phải khước từ tính
triết học của các học thuyết ở các khu vực khác trên thế giới cùng thời hay thậm
chí còn sớm hơn các tác phẩm triết học Hy Lạp cổ đại. Đó trước hết là Ai Cập cổ,
Babilon cổ đại, Trung Quốc và Ấn Độ cổ đại …
(……)
(……). Triết học Hy
Lạp cổ đã xuất hiện như là một trong những phát kiến vĩ đại của “thời gian trục”
(khỏang 500 năm, từ năm 800 TCN (trước công nguyên)đến năm 200 TCN). Đồng thời, ngay từ đầu, nó đã có
những đặc điểm phân biệt một cách căn bản nó với những hiện tượng khác của thời
đại. Người Hy Lạp cổ tất nhiên đã tiếp cận nhiều thứ từ Phương Đông, đặc biệt là
từ Babilon và Ai Cập cổ đại. Song những gì mà họ sáng tạo ra, là không giống với
những gì đã được biết trước đó. Triết học đã trở thành sản phẩm độc đáo, thiên
tài của người Hy Lạp …”
Chúng ta cũng đồng
ý nhận định trên với điều kiện khái niệm “triết học” phải được hiểu chính xác là
“yêu mến sự thông thái”, và chỉ như thế thôi. Nhưng chúng ta lại đọc được một đọan
nữa:
“Sự thiếu vắng
triết học ở đâu đó không hề chứng tỏ trình độ văn hóa ở đó còn thấp. Trong một
số điều kiện cụ thể, cả xã hội, cả con người riêng biệt đều không cần đến triết
học khi đã có những thành tựu văn hóa bằng con đường khác …”
Nói như vậy thì
triết học chỉ là một thứ tiêu khiển của một số người “yêu mến sự thông thái” thôi
sao? Chúng ta thực sự không hiểu!
Không biết đúng
sai thế nào, nhưng vì lòng tự trọng (hay tự ái?) chúng ta “nhiệt liệt hoan hô"
nhận định sau đây của quyển “Giáo trình triết học Mác-Lênin” (NXB chính trị quốc
gia, năm 2004):
“Triết học ra đời
ở cả Phương Đông và Phương Tây, gần như cùng một thời gian (khoảng từ thế kỷ thứ
VIII TCN đến thế kỷ VI TCN) tại một số trung tâm văn minh cổ đại của nhân loại như
Trung Quốc, Ấn Độ, Hy Lạp …
(……)
Như vậy, cho dù
ở phương Đông hay phương Tây, ngay từ đầu, triết học đã là hoạt động tinh thần
biểu hiện khả năng nhận thức, đánh giá của con người, nó tồn tại với tư cách là
một hình thái ý thức xã hội.
(……)
Khái quát lại,
có thể hiểu: Triết học là hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con người về
thế giới; về vị trí, vai trò của con người trong thế giới ấy.
(……)
Ngay từ buổi bình
minh của nhân loại, con người đã phải tiến hành hoạt động lao động sản xuất và
những hoạt động khác. Điều này đã đem lại cho con người những tri thức nhất định
về thế giới xung quanh và về bản thân mình, nhưng đây mới chỉ là những tri thức
lý luận chung nhất chỉ có thể xuất hiện trong những điều kiện nhất định sau đây:
Con người đã phải
có một vốn hiểu biết nhất định và đạt đến khả năng rút ra được cái chung trong
muôn vàn những sự kiện, hiện tượng riêng lẻ.
Xã hội đã phát
triển đến thời kỳ hình thành tầng lớp lao động trí óc. Họ đã nghiên cứu, hệ thống
hóa các quan điểm, quan niệm rời rạc lại thành học thuyết, thành lý luận và triết
học ra đời.
Tất cả những điều
trên cho thấy: “Triết học ra đời từ thực tiễn, do nhu cầu của thực tiễn, nó có
nguồn gốc nhận thức và nguồn gốc xã hội”".
Như thế, cần phải
đánh giá triết học Hy Lạp cổ đại thế nào? Nhà triết học Nietzsche nói thế này:
“Không gì phi lý
cho bằng gán ghép cho dân tộc Hy Lạp một nền văn hóa bản thổ. Trái lại, họ đã
thâu tóm nền văn hóa sống động của các dân tộc khác và nếu dân tộc Hy Lạp đã đi
xa được như thế, chính là vì họ đã biết nhặt lấy ngọn thương mà vài dân tộc khác
đã đặt nằm yên bất động để phóng đi xa hơn. Dân tộc Hy Lạp thật tuyệt vời trong
nghệ thuật học hỏi có kết quả … Quả vậy, họ đã sáng tạo nên những kiến thức chính
yếu của tinh thần triết học mà toàn thể hậu thế đã chẳng thêm thắt được vào đó điều
gì thiết yếu”. Và Ănghen cũng đã nói: “Không có cơ sở văn minh Hy Lạp và Đế quốc
La Mã, thì cũng không có châu Âu hiện đại được”
Không kế thừa thì làm sao sáng tạo được? Nhận thức xuất phát từ đâu nếu không từ những tiền đề có được trên cơ sở kinh nghiệm đã được tích lũy?
Không kế thừa thì làm sao sáng tạo được? Nhận thức xuất phát từ đâu nếu không từ những tiền đề có được trên cơ sở kinh nghiệm đã được tích lũy?
Thôi, chúng ta
nói chuyện khác!
Các hiền triết
Hy Lạp cổ đại nói gì về tồn tại?
Dưới đây là những
rút tỉa từ hai cuốn “Tập bài giảng lịch sử triết học tập II”, NXB chính trị quốc
gia , năm 2005 và “Triết học cổ đại Hy Lạp La Mã”, tác giả Hà Hữu Minh, NXB Mũi
Cà Mau, 1996.
- Thalès
(629-547 TCN) cho rằng nước là yếu tố đầu tiên. Mọi sinh vật sinh ra từ nước,
khi bị phân hủy lại trở về thành nước. Mọi vật đều sinh ra rồi mất đi, chỉ có nước
là tồn tại mãi mãi.
- Anaximandre
(610-546 TCN) cho rằng cơ sở của mọi vật là một dạng vật chất đơn nhất, vô định,
vô hạn và tồn tại vĩnh viễn.
- Anaximine
(585-546 TCN) lại chọn không khí là căn nguyên của mọi vật.
- Héraclíte
(530-470 TCN) cho rằng lửa mới là căn nguyên của mọi vật; thế giới như ngọn lửa
bập bùng vĩnh viễn, cháy tắt theo logos (qui luật).
- Pythagore
(571-497 TCN) cho rằng con số là khởi nguyên và là bản chất của thế giới. Theo ông
nếu không thể đo và đếm được thì làm sao gọi là tồn tại.
- Xénophan
(565-473 TCN) cho rằng thế giới này không sinh ra nên cũng không diệt vong. Ông
là người đầu tiên nêu ra rằng có sinh thì có diệt. Ngoài ra, theo Simplicius:
“…Ông giả định cơ sở duy nhất, ban đầu của toàn bộ tồn tại không phải là vô hạn,
cũng không phải là hữu hạn, cũng không phải vận động, cũng không phải đứng im”.
- Parménide
(VI-V TCN) cho rằng tồn tại là bản chất chung của thế giới, là duy nhất và có mặt
ở khắp nơi, trong mọi sự vật. Bản chất của tồn tại là bất biến, vĩnh viễn và là
đồng nhất với bản thân nó, tức là nó không thể mất đi, không có cái gì khác ngoài
nó. Chân lý, theo ông, là sự nhận thức đối với khái niệm tồn tại trừu tượng, bất
biến. Còn nhận thức về thế giới muôn màu, muôn vẻ chỉ là giả tưởng.
Hêghen cho rằng
“khái niệm tồn tại của Parménide là điểm mở đầu thực sự của triết học, …”
Parménide đã viết:
“cho nên chỉ còn lại một con đường để nói, đó là: tồn tại là tồn tại. Trên con đường
này có nhiều dấu hiệu chứng tỏ rằng: bởi vì nó không sinh ra cho nên nó cũng không
mất đi, nó hoàn chỉnh, duy nhất, bất động và vô hạn. Nó không có quá khứ và tương
lai bởi vì toàn bộ của nó là hiện tại …”
- Zénon
(490-430 tr CN) cho rằng “có rất nhiều thế giới và hư không là không tồn tại”
(lời của Diogène Laëree)
- Anaxagore
(500-428 tr CN) cho rằng thế giới này là do vô số những hạt vật chất nhỏ bé đủ
các loại hình thức, màu sắc, mùi vị gọi là “chủng tử” tạo nên; những sự vật giống
nhau thì có những “chủng tử” giống nhau; không có sự sinh ra và mất đi mà chỉ có
sự hỗn hợp và phân chia.
- Empédocle
(490-430 tr CN) cho rằng thế giới do bốn nguyên tố nước, lửa, không khí, đất hợp
thành. Bốn nguyên tố đó tồn tại vĩnh viễn, không bị sinh ra hay bị mất đi.
- Lencippe
(500-440 tr CN) là người đầu tiên đề ra thuyết nguyên tử. Theo ông, nguyên tử là
những hạt nhỏ bé không thể phân chia được, vô hạn về số lượng, không có chất lượng,
khác nhau về kích thước và hình thức. Nhờ vậy mà tạo nên sự đa dạng và khác
nhau của sự vật. Ngoài ra ông còn cho rằng có hư không (không gian trống rỗng),
trong đó các nguyên tử và vật thể có thể di chuyển, kết hợp và phân tán. Ông
coi nguyên tử là tồn tại và hư không là không tồn tại (?)
-
Démocrite 9460-370 tr CN) là người kế thừa và phát triển thuyết nguyên tử của
Lencippe, được C.Maxx đánh giá là “bộ óc bách khoa đầu tiên trong những người
Hy Lạp”.
- Protagoras
(485-410 tr CN) được đánh giá là người tiêu biểu cho phái ngụy biện thời kỳ đầu.
Ông đã để lại cho người đời sau một câu hết sức thâm thúy: “Con người là thước đo
của mọi vật, là thước đo của những vật tồn tại và cũng là thước đo của những vật
không tồn tại”.
- Gorgiac
(480-399 trCN) quan niệm: không có gì tồn tại cả vì tồn tại không thể ở đâu mà
ra được. Nếu có tồn tại thì con người cũng không nhận thức được vì cái tư tưởng
và cái tồn tại không phải là một. Nếu có nhận thức đi nữa thì không thể biểu hiện
cái được nhận thức cho người khác bởi vì theo ông nói “khi ta nói với người khác
thì cái mà ta sử dụng là ngôn ngữ, mà ngôn ngữ lại là không phải tồn tại”. Cuối
cùng thì tồn tại cũng là không tồn tại.
- Socrate (470-399
tr CN) quan tâm rằng đối tượng nhận thức không phải là thế giới khách quan mà là
con người. Ông là một vài hiện tượng hiếm hoi hướng về bên trong, trong khi đại
bộ phận triết học Châu Âu là hướng ra bên ngòai. Ở Socrate phảng phất bóng dáng
của các nhà hiền triết Phương Đông. Ông từng nói: “Con người hãy nhận thức chính
mình” và “Tôi chỉ biết một điều là tôi không biết gì cả”.
Will Durant (nhà sử triết gia người Mỹ lừng danh thế giới, 1885-1981) nói
về ông như sau: “Trước Socrate cũng đã có nhiều triết gia, những người với lý
luận đanh thép như Thadès và Héraclite, tế nhị như Parménide và Zénon, sâu sắc
như Pythagore và Empédocle. Nhưng phần nhiều những người ấy hướng về vật lý, họ
tìm bản thể của sự vật định lý và yếu tố bên ngoài. Những nỗ lực ấy rất đáng
khen, nhưng như Socrate nói, có một điều quí giá hơn cỏ cây sông núi, trăng
sao, đó là con người. Con người là gì và con người sẽ đi về đâu?”.
- Platon (427 –
347 trCN) xây dựng thuyết ý niệm dựa trên ba tiền đề lý luận: lý luận về cái “tồn
tại” duy nhất, bất biến của Parménide, lý luận về “con số” như là bản chất, khởi
nguyên thế giới của Pythagore, lý luận về “cái thiện” phổ biến của Socrate.
Thuyết này cho rằng thế giới là do thần sáng tạo ra theo ý niệm của thần; thừa
nhận thế giới hiện thực nhưng chỉ là bản sao là biểu hiện của thế giới ý niệm;
thế giới ý niệm (không thể cảm tính, không trông thấy, không nghe thấy …; là những
qui luật, định luật, ý niệm chân thực và vĩnh viễn trong không gian và thời
gian) là cái có trước, còn hiện thực là cái có sau, không chân thực, không vĩnh
viễn.
Platon viết: “Toàn
bộ thế giới cuối cùng là tồn tại vĩnh viễn không có bắt đầu, hay là được sáng tạo
ra và có bắt đầu? Tôi cho rằng nó được sáng tạo ra. Bởi vì người ta có thể trông
thấy nó, sờ được nó, vả lại nó cũng có hình thể. Tất cả những cái đó đều có thể
cảm giác được, đều là đối tượng của ý kiến và cảm giác. Do đó nó phải ở trong một
quá trình sáng tạo mà nó được sáng tạo ra. Chúng ta đã nói ở trên rằng phàm cái
gì được sáng tạo ra đều phải có nguyên nhân. Vì vậy nhiệm vụ của chúng ta bây
giờ là cần phải phát hiện ai là người sáng tạo, là cha đẻ của nó”.
- Aristote (384
– 322 trCN): là nhà bách khoa và nhà triết học vĩ đại nhất của Hy lạp cổ đại. Ông
quan niệm giới tự nhiên là khách quan, tồn tại ở bên ngoài, không phụ thuộc vào
ý chí con người, là nguồn gốc của nhận thức.
***
Vì đang quan tâm
đến khái niệm tồn tại nên chúng ta chỉ liệt kê (một cách sơ sài) ý kiến của các
nhà hiền triết Hy lạp cổ đại về “tồn tại” thôi. Thực ra nếu muốn viết về sự
nghiệp và công lao của họ đóng góp cho tri thức nhân loại thì không biết phải tốn
bao nhiêu bút mực cho xiết. Thời đó hầu hết các nhà triết học lại cũng chính là
các nhà khoa học cụ thể. Nhiều người trong số họ như Thalès, Pythagore, Democrite,
Aristote… đã từng đến Ai cập, Babilon, Ấn độ… để nghiên cứu, học tập. Họ đã tiếp
thu được những kiến thức về khoa học tự nhiên và những tư tưởng triết học của
người phương Đông cổ đại, vận dụng nó trong suy tư triết học, trong nghiên cứu
khoa học cúa mình, tạo nên sự phát triển rực rỡ của nền văn minh Hy lạp cổ đại
trên tất cả các lĩnh vực triết học, thiên văn, địa lý, toán học, vật lý, sinh vật,
y học …
Có thể nói lịch sử nhận thức của nhân loại đã chỉ ra rằng, Hy Lạp
là quê hương của nền triết học – khoa học Phương Tây mà Phương Đông cổ đại đã có
công lớn tạo ra những mầm mống, những khai mở trác tuyệt đầu tiên.
***
Lịch sử phát
triển khoa học nói chung của Phương Tây (cụ thể là Châu Âu) là một câu chuyện dài.
Trong đó vật lý học nói riêng nổi lên như một hiện tượng xuyên suốt trong quá
trình khám phá và thực chứng những qui luật vận động của các sự vật - hiện tượng;
và ngày nay nó trở thành ngành khoa học chủ chốt có trách nhiệm trả lời trước
nhân loại những hành vi bí hiểm nhất, có thể là cuối cùng, của sự thực khách
quan. Cuối thế kỷ XIX, sau khi thuyết điện từ của Macxoen hoàn thành, vật lý học
tưởng chừng như đã hoàn thành sứ mạng của mình thì đùng một cái, “tai biến tử
ngoại” và “cuộc thí nghiệm oái oăm” của Maikenson – Mookly (sau này chúng ta còn
nói nhiều về chúng) đã làm cho số phận của nó thay đổi. Hóa ra, nó còn phải đi
một chặng đường dài gian lao nữa, đi đến bây giờ, và không biết phải đi đến bao
giờ. Sự ra đời thuyết tương đối rộng của Anhstanh và cơ học lượng tử đã mở ra
trước vật lý học cổ điển một bức tranh hoàn toàn mới mẻ, kỳ lạ và hết sức bất
thường về sự thực khách quan: một Vũ Trụ sinh ra từ điểm kỳ dị, dãn nở ngày một
nhanh (không biết về đâu?) và một thế giới lúc nhúc lượng tử nhưng nhòe nhoẹt bất
định không thể nắm bắt được. Ngay cả các tác giả của bức tranh, khi nhìn ngắm nó,
cũng lúng túng hoang mang, cố giải nghĩa mà không biết giải nghĩa cái gì. Nền
triết học hiện đại (mà thực chất là triết học Phương Tây, thoát thai từ nền triết
học Hy Lạp cổ đại, đã bị ràng buộc chặt vào những khái niệm "khô cứng" tính thực chứng)
cũng bất lực trước những thể hiện kỳ quặc, vô lý của đối tượng đối với hình dung của con người hiện nay, và buộc phải chấp nhận một cách khiên cưỡng những điều không muốn chấp nhận tí nào.
Chính lúc này,
người ta mới sực nhớ đến những suy lý siêu nghiệm mang màu sắc huyền bí của triết
học cổ đại Phương Đông, nền triết học đã hầu như bị lãng quên suốt ngót nghét
hai ngàn năm (có thể còn hơn nữa!). Người ta đã vô cùng ngạc nhiên và khâm phục
những hình dung tiên tri có từ cách nay mấy ngàn năm về một sự thực khách quan
mà về cơ bản đã tương đồng rất nhiều với bức tranh được vật lý học hiện đại vừa
vẽ nên. Có lần Anhstanh nói: “Nếu như tồn tại một tôn giáo có thể đồng thuận với
những đòi hỏi cấp bách của khoa học hiện đại, thì đó chính là Phật Giáo”
Vậy thì triết học
cổ đại Phương Đông nói gì về sự thực khách quan, về tồn tại?
Chúng ta sẽ xem
triết học Ấn Độ cổ đại nói gì (còn triết học Trung Hoa cổ đại sẽ được nói tới vào dịp
khác, muộn hơn).
***
Ấn Độ là một bán
đảo hình tam giác, rộng trên năm triệu cây số vuông, nằm ở phía nam Châu Á nhưng
hầu như bị ngăn cách với châu lục này bởi dãy núi cao nhất thế giới là Himalaya.
Giữa những năm
30 (thuộc thế kỷ XX sau CN), người ta tiến hành khai quật di chỉ hóa thạch ở đồi
Sixallik nằm trên biên giới phía Bắc Ấn Độ và Pakistan. Ở đây, họ đã tìm thấy một
số răng và mảnh hàm trên của một loài vượn người, đặt tên là Ramapithécus, có
niên đại khỏang hơn 10 triệu năm, là tiền thân của người vượn Australopithecus và Homo
Erectus. Vì thế, dù chưa phát hiện được những dấu tích tiếp nối, những hóa thạch
xương, nhưng người ta phỏng đoán rằng đây cũng có thể là nơi đã chứng kiến quá
trình chuyển biến từ vượn thành người.
Tại Ấn Độ, người
ta cũng phát hiện được dấu tích hai nền văn hóa đồ đá cũ hậu kỳ niên đại khoảng
20.000 năm đến 40.000 năm. Đó là văn hóa Soan ở tây bắc, trên hạ lưu sông Indus
(sông Ấn) và văn hóa Madras ở miền Nam. Đồ
đá mới đã được phát hiện một cách rộng rãi trên hầu hết Ấn độ: từ vùng cực bắc
Kasamia đến miền Nam Đêcan, ở Bellery, từ triền sông Indus ở Tây bắc, Axam và Orixa
ở Đông bắc.
Trước đây các
nhà sử học Phương Tây với niềm tin Hy lạp đã mở màn cho nền văn minh nhân loại, thì Châu Âu ngây thơ cho rằng Ấn độ sống trong cảnh dã man cho tới khi các dân tộc Châu Âu - anh em trong dòng Aryen với họ - rời bờ biển Caspienne, tiến xuống phương
Nam, truyền bá khoa học và nghệ thuật vào bán đảo đó. Nhờ thế mà dân chúng ở đó mới được thoát
ly khỏi cảnh tăm tối, ngu muội. Ảo tưởng đó đã bị phá tan bởi những phát kiến. Đáng
chú ý nhất là vào năm 1924, nhiều tin tức ở Ấn độ đã kích thích các nhà khảo cổ
khắp thế giới. Ông John Marshall loan báo rằng đã tìm thấy ở Mohenjo Daro, trên
bờ tây sông Indus - hạ, nhiều di tích của một
nền văn minh có vẻ cổ hơn hết các nền văn minh đã từng biết. Ở đó và ở Harappa,
cách vài trăm cây số về phía Bắc, thượng lưu Indus, họ đã đào thấy bốn năm thành
phố chồng chất lên nhau, có mấy trăm ngôi nhà và cửa tiệm xây bằng gạch, rất chắc
chắn, có ngôi nhà gồm mấy tầng lầu, hết thảy đều sắp hàng hai bên những con đường rộng
hoặc ngõ hẹp (điều lạ lùng là những vật ở lớp dưới có nghệ thuật lại tiến bộ hơn
lớp trên!). John Marshall đã nói về thời đại của những ngôi nhà đó như sau:
“Những phát kiến
chứng tỏ rằng ba bốn ngàn năm trước công nguyên, ở miền Sindh (cực bắc tỉnh
Bombay) và ở miền Pendjab nữa, đã có một đời sống thành thị rất hoạt động, nhiều
nhà có giếng, phòng tắm, lại có một hệ thống dẫn nước phức tạp, như vậy là người
dân thời đó đã có một lối sống mà địa vị xã hội ít nhất cũng bằng dân Sumérte
thời cổ, và cao hơn dân Babylonie và Ai cập đồng thời với họ. Ngay ở Ur, nhà cửa xây cất cũng
thô sơ hơn ở Mohenjo – Daro.
Việc phát hiện
dấu tích các thành phố cổ nói trên có thể đã đưa Ấn độ trở thành cái nôi của một
nền văn minh vào hàng cổ nhất thế giới. (Tuy nhiên văn minh sông Indus có dấu
hiệu suy sụp nhanh chóng, đột ngột và được tiếp nối bởi nền văn minh sông Hằng
(Ganga), bắt đầu từ cuộc xâm nhập của người Aryen vào Ấn độ khoảng nửa sau thiên
niên kỷ II trCN. Vì sao có sự tàn lụi của văn minh sông Ấn? Có nhiều suy đoán
nhưng chưa thuyết phục!).
***
Lịch sử cổ đại
của vùng đất Ấn Độ làm chúng ta có cảm tưởng rằng mầm mống của nền triết học Ấn
Độ đã có từ rất lâu , từ 1500 năm trước công nguyên, thậm chí là hơn thế, từ nền
văn minh sông Ấn (Indus) hay còn gọi là thời kỳ tiền Vê-đa.
Có thể cho rằng
lịch sử triết học Ấn Độ bắt đầu từ 1500 năm trước Công nguyên và chia làm ba thời
kỳ:
- Giai đoạn
1500-600 năm TCN gọi là thời kỳ Vê-đa.
- Giai đoạn 600
năm TCN-200 năm sau CN: gọi là thời kỳ Upanishad.
- Giai đoạn 500
năm TCN-thế kỷ IX SCN: gọi là thời kỳ Phật Giáo.
Triết học Ấn Độ
cổ đại là một nền triết học siêu nghiệm, tâm linh, đầy huyền hoặc, như một cánh
rừng già mông lung thần thoại thời kỳ đầu và đậm màu tôn giáo thời kỳ sau; Nhiều
người (chúng ta trước đây cũng vậy) vì đã quá quen với lối triết lý khúc chiết, lôgic,
nặng về thực chứng của Phương Tây (cũng là một thành quả vĩ đại của nhân loại vì
có nó chúng ta mới có được tri thức cũng như cuộc sống hiện đại và tiện nghi hôm nay!) nên đã chỉ thấy
trong đó sự ngây ngô, phi thực và "nặng nề" tín ngưỡng.
Vượt qua "đêm trường
trung cổ", châu Âu khoa học phục hưng (giữa thế kỷ XV) và phát triển như vũ bão.
Cùng với ngành khảo cổ đã có những tiến bộ vượt bậc và nhờ bản tính thực chứng của mình, chính Châu Âu khoa học chứ không ai khác đã tìm lại được cội nguồn đích thực của mình: những
miền đất đã từng chứng kiến nền văn minh cổ đại Phương Đông, trong đó có Ấn Độ.
Nhà bác học Laplace đã viết:
“Chính nhờ Ấn độ
mà chúng ta học được cái cách tài tình chỉ dùng có mười chữ mà viết được đủ các
số, mỗi chữ vừa có một trị số tuyệt đối, vừa có một trị số tùy theo vị trí của
nó; ý đó tế nhị mà quan trọng, ngày nay chúng ta cho là giản dị quá nên không cảm
được công lao của người Ấn. Nhưng chính nhờ nó đơn giản mà làm toán mới hóa ra
cực kỳ dễ dàng, và hệ thống số học đáng được kể là sáng kiến ích lợi nhất. Có nghĩ
rằng hai bậc thiên tài bậc nhất thời Thượng Cổ, Archimède và Apollonius mà cũng
không tìm ra được hệ thống đó thì mới nhận định nổi sáng kiến của người Ấn tài
tình ra sao”.
Vật lý học là một
trường hợp đặc sắc. Như chúng ta đã nói, nhiều nhà vật lý đại tài ngày nay,
trong cơn khủng hoảng nhận thức lại sự thực khách quan, đã nhìn thấy ở triết học Phương Đông nói chung và triết học Ấn Độ nói riêng những lý giải tương đồng đáng
ngạc nhiên.
Chúng ta thấy
(bây giờ mới thấy!) những triết thuyết, triết lý của triết học cổ đại Ấn Độ thường
mang âm hưởng thơ ca, nhẹ nhàng uyển chuyển, mơ mộng và dung dị, lạ thường, không
ồn ào sôi nổi hùng biện, không bày vẽ rối rắm uyên bác, thản như không mà vương
vấn sâu xa. Cảm ơn Hoàng Tử Bé! Nhờ cậu mà chúng tôi đã thấy được nhiều điều
tuyệt diệu!
Nếu ví triết học
Hy Lạp cổ đại như ngọn núi Ôlempơ hùng vĩ, nơi quần tụ những vị thần như
Pythagore, Platon, Arixtote … thì triết học Ấn Độ cổ đại lại như dòng sông Ấn,
sông Hằng, bắt nguồn từ vùng sơn cước hoang vắng ở đâu đó xa vời chảy hiền hòa
qua những miền dân dã, và dọc hai bên bờ là lác đác các tu sĩ, trơ trọi ngồi trầm
tư mặc tưởng hay những nhà sư áo vàng chân đất ẩn hiện trong ngàn xanh.
Điều gây kinh
ngạc nhất của triết học Ấn Độ mà có lẽ các nền triết học khác không có được là
tính nhất quán, kế thừa và liên tục. Có thể coi thời Vê-đa là thời mở ra một
quan niệm về thực tại thì thời Upanishad là thời tiếp nhận, phát triển mở rộng
và luận giải quan niệm ấy. Dù các thánh ca (thời)Vê-đa (hay còn gọi là kinh Vêda) có vẻ mang nặng hình thức tôn giáo thì vẫn được coi là khởi nguyên mà các kinh
Upanishad (các triết thuyết?) là nền tảng cho tất cả các hệ thống tư tưởng và
giáo lý chính thống Ấn Độ (kể cả Phật Giáo?).
Vì sao có hiện
tượng đó?
Có thể có nhiều
nguyên nhân nhưng theo ý chúng ta thì nguyên nhân mang tính cốt lõi chính là
ngay từ buổi đầu tiên, người Ấn Độ ở thời Vê-đa đã quan niệm chân xác (dù thô sơ) tồn tại! Có
được quan niệm đó là do một nền văn minh nào đó còn sâu hơn nữa trong quá khứ
truyền lại hay là nhờ may mắn, hay là từ linh nghiệm linh tri? Chúng ta không
thể nào trả lời một cách thuyết phục được câu hỏi đó!
Cũng có thể sự
thật lại rất giản đơn: chỉ có quan niệm như thế thì mới có khả năng giải thích được
đồng thời những hiện tượng trực giác và những hiện tượng tâm linh.
Quan niệm về tồn
tại đó như một chân lý sáng ngời. Các bậc minh triết đời sau, tiếp nhận nó như
một lẽ đương nhiên và đã cố gắng diễn giải, phát triển cả bề rộng lẫn bề sâu để
thỏa mãn những vấn đề mới nảy sinh ở thời đại họ.
Ở Ấn Độ về sau
xuất hiện nhiều trường phái triết học, nhiều hệ tư tưởng khác nhau, nhưng nhìn
chung thì vẫn giữ nguyên quan niệm về thực tại thời Vêđa – Upanishad.
***
Vêđa có nghĩa là
tri, là biết, rộng hơn: là nhận thức. Theo sư Auropinđo: “Vêđa là một pho kinh
gồm những công thức bí truyền gần như là công thức tâm linh giả dạng thành những
bài thơ uyên áo tối nghĩa, nặng về nghi lễ”. Còn theo cổ thư thì Vêđa khởi nguyên
chỉ là những bài thánh ca, vũ điệu cầu nguyện các thần linh khi tế sự, tống tiễn
người chết của các vị chủ tế theo dạng truyền khẩu.
Các học giả ngày
nay cho rằng Vêđa xuất hiện vào khỏang 1500-1200 TCN. Nhưng nếu theo truyền
thuyết Ấn Độ thì nó xuất hiện vào đầu mạt vận Vũ Trụ Kali Yuga, nghĩa là vào khỏang
3.000 năm trước Công nguyên.
(Vêđa được người
Ấn Độ tin tưởng là những chân lý do Thượng Đế mặc khải cho loài người ở đầu mỗi
chu kỳ Vũ Trụ (Kalpa). Thời gian một chu kỳ Vũ Trụ (Kalpa) bằng một ngày của Thần Sáng Tạo (Prahmâ), tức là 4.320.000.000 năm. Mỗi Kalpa gồm có 100 kỷ nguyên
(Chatur-Yuga) hay đại kỷ nguyên (Mahâ-Yuga). Mỗi đại kỷ nguyên gồm có bốn thời đại
kế tiếp nhau:
1. Thời đại hoàng
kim (Kritayuga) bằng 1.728.000 năm. Trong thời đại này, nhân loại sống hạnh phúc
tuyệt đối, mầm ác chưa xuất hiện.
2. Bạch ngân thời
đại (Tredâyuga) bằng 1.296.000 năm. Trong đó mầm ác bắt đầu xuất hiện, gây nên
những chuyện bất hòa trong nhân loại.
3. Lưỡng tính
thời đại (Dvâpara – yuga) bằng 864.000 năm, tính thiện xuất hiện trong khi tính
ác đã phát triển tạo nên sự mâu thuẫn và xung đột ngày một nhiều.
4. Mạt vận thời
đại (Kali – yuga) bằng 432.000 năm: tính ác tràn ngập, tính thiện mất dần, nhân
loại sống trong hỗn loạn và đau khổ. Kali – yuga chính là thời hiện đại của nhân
loại. Chúng ta đang sống trong khoảng 6.000 năm của thời đại này, còn cách ngày
tận thế 426.000 năm nữa!
Dựa vào đâu mà
các bậc thánh nhân thời cổ đại lại khẳng định được số phận Vũ Trụ một cách cụ
thể như thế với những con số khổng lồ như thế và con số 4.320.000.000 giống với
thời điểm ứng thành sự sống trên Trái đất như thế? Thật quá kinh ngạc trong những
điều kinh ngạc!!! Vì tò mò mà chúng ta nêu ra đây cho vui, "giải lao" một chút cho đỡ mệt, chứ khó lòng mà tin được!).
Theo cổ thư thì
kinh Vêđa khởi nguyên chỉ là những bài thánh ca, vũ điệu cầu nguyện các thần
linh khi tế tự, tống tiễn người chết của các vị chủ tế theo dạng truyền khẩu. Về
sau mới được viết thành sách.
Có lẽ khi chưa
có chữ viết (hoàn thiện về mặt cú pháp để có thể hành văn được?), muốn lưu truyền
được kinh Vêđa phải được thể hiện dưới dạng thơ ca giàu vần điệu âm thanh dễ nhớ.
Cũng vì thế mà nó vừa mang tính giản dị dân gian phục vụ theo nhu cầu đời sống,
vừa là nơi gửi gắm những suy tư, linh nghiệm của những bậc minh triết.
Kinh Vêda mang
nặng yếu tố thần linh và tôn giáo. Người ta tranh luận về thuyết đa thần và nhất
thần xuất hiện trong Vêda. Nhiều người còn suy luận rằng do khiếp sợ thiên nhiên
mà thần linh hóa các hiện tượng. Điều đó cần suy nghĩ kỹ. Nếu chúng ta được về
sống lại thời kỳ đó thì có thể sẽ thấy người Ấn Độ cổ suy nghĩ giản dị hơn chúng
ta tưởng nhiều. Họ không đến nỗi nhát gan, trước những biểu hiện của tự nhiên
như chúng ta nhận định. Khi đã quan niệm sống chết là chuyện an nhiên, chuyện đi
về thì lý gì họ lại khiếp sợ thần linh? Đối với họ, thần linh là thiêng liêng vì
thần linh có thể bao bọc che chở họ nhưng cũng thân thuộc như tổ tiên cha ông họ.
Hay nói như ngày nay, họ sùng kính môi trường mà họ đang sống vì họ hiểu rõ hơn
chúng ta một điều: con người không phải là chúa tể!
Nếu bỏ qua những
rườm rà nghi thức cần cho các tế lễ thì Vêđa phải được coi như một trường ca bất
hủ ca ngợi thiên nhiên và nếu thay luôn cả những tên gọi thần linh bằng chữ “sự
vật - hiện tượng” thì bằng “cách nhìn triết học” sẽ thấy kinh Veda thực chất là
nói về, suy tư, tìm hiểu về tất cả các sự vật - hiện tượng chủ yếu, quan trọng,
có liên quan ảnh hưởng mạnh mẽ, trực tiếp đến cuộc sống con người, trong đó có
một sự vật - hiện tượng, tối thượng, bao trùm lên tất cả các sự vật - hiện tượng
khác mà họ gọi là Đấng Tối Cao hay Tinh Thần Tối Cao mà chúng ta gọi theo tên
khác: Tạo Hóa.
Chúng ta đều biết
lửa có tầm quyết định như thế nào đối với loài người thuở sơ khai. Dưới đây là
những đoạn ca tụng Thần Lửa (Agni) của thánh kinh Veđa:
“Ngày đen và ngày
trắng xoay quanh mình chúng, theo phương cách riêng tạo thành khoảng sáng và khoảng
tối.
Agni Vaishvânara,
một khi ra đời, dùng ánh sáng đẩy lui bóng tối như một vị đế vương.
Đây là vị chủ tế
đầu tiên, hãy nhìn Ngài!
Giữa loài người,
Ngài là ánh sáng bất diệt.
Ngài đã ra đời,
lớn mạnh, vững vàng và bất tử
Ngài là ánh sáng
hằng cửu trong không gian khiến cho muôn loài đều thấy rõ, Ngài là tư tưởng mau
lẹ nhất so với những vật biết bay.”
(Rig
– Veda VI-9)
Ở đoạn khác:
“Agni đã thông
suốt trên trời dưới đất
Hai thế giới muôn
hình
Ngài là thấu thị
rất được kính mến
Người ta chào đón
trong tất cả các biểu hiện của Ngài
Hỡi vị thần của
tất cả nhân loại
Của chung của tất
cả bộ lạc
Chúng tôi khao
khát những biểu hiện của Ngài
Những biểu hiện
nhờ đấy mà Ngài đã khám phá ra ánh sáng
Ngài
nhìn tới xa
Ngay khi sinh
ra Ngài đã tràn ngập những vang động trên trời dưới đất
Tất cả hiện hữu
Thần Lửa Agni
Ngài bao bọc lấy
bằng chính bản thân Ngài”
(Rig
– Veda III – 3)
Hay:
“Nhờ tay cầm cọ
sát thanh gỗ, loài người phát sinh ra lửa Agni đáng tôn trọng
Cái không chết đã
do tay người có chết tạo ra.
Thần Agni duy
nhất
Ngài cháy ở hàng
ngàn nơi”
(Rig – Veda
III-VII-VIII)
Đây là ca tụng
Thần Đất khi tống táng người chết:
“Hỡi Đất, hãy lập
khung vòm, chớ đè lên người chết! Hãy cho y tiến vào bình yên và trú ngụ bình yên.
Hỡi Đất! Hãy lấy vạt áo che chở cho y như một người mẹ đối xử với con trai.
Cầu cho đất lập
khung vòm vững chắc vì hàng ngàn cột cần dựng nên. Cầu cho ngôi nhà (mồ) này được
chất mỡ thiêng và mãi mãi là nơi yên nghỉ của người quá cố!
- Ta đắp đất phủ
lên người. Mong rằng ta không xúc phạm đến người khi đắp mô đất này! Cầu xin tổ
tiên chống đỡ những cây cột này. Cầu xin Tử Thần (Yama) lập cho người ở đây một
tòa trú sở.
- Đời ta cũng vậy,
sẽ có một ngày kia ta được đưa vào lòng đất, như người ta lắp mũi tên vào cánh
cung. Ta thôi không nói nữa, chẳng khác gì một người kỵ mã cầm cương”.
(Rig
– Veda X-18)
Và ca tụng Thần
Nhật - Nguyệt (Mitra – Vatuna):
“Hỡi Mitra! Hỡi
Vatuna!
Ngài là các vì
chúa quyền thế, và Ngài làm tăng quyền thế cho tín đồ Ngài
Ngài hộ vệ ba cõi
thiên đường
Ba cõi xán lạn.
Ba cõi trần thế
Hỡi Mitra! Hỡi
Vatuna!
Vì tuân theo mệnh
lệnh của Ngài mà “bò cái” cho sữa
Và sông cho nước
Ấy là để chuyển
vận mây và làm cho đổ mưa
Mà có ba vị thần
chói lọi: Lửa, Gió, Mặt trời”
(Rig
– Veda, VII)
Kinh Vêđa còn
ca ngợi Thần Sông, Thần Núi, Thần Gió … Nói chung tất cả các hiện tượng tự nhiên
đều được nó thần hóa. Hơn thế nữa và vô cùng sâu sắc, ngoài những vị thần được
xây dựng nên từ trực giác thông thường, Kinh Vêđa còn xây dựng nên những vị thần
chỉ thấy được nhờ linh cảm, trực giác linh tri. Đó là những vị thần như
Vicvakarman - Thần Kiến Thiết; Paramatman – Tinh Thần Tối Cao; Purusa - Thần Ngã;
Prajapati - Thần Sáng Tạo …
Dưới đây là bài
thánh ca ca tụng Thần Ngã (Purusa):
“Thần Ngã có ngàn
đầu
Ngài có ngàn mắt,
ngàn chân
Ngài thấm nhuần
hiện hữu của Ngài trong tất cả các mặt, trên mặt đất và Ngài còn vượt ra ngoài
khắp phía
Ngài
vừa là tất cả quá khứ, hiện tại và tương lai
Ngài là chúa của
trường sinh bất tử vì Ngài không chịu kết quả của hành động
Tất
cả biểu hiện là biểu thị cho thế lực Ngài
Nhưng Thần Ngã ở
phương diện siêu phàm còn cao hơn là hiện tượng
Toàn thể Vũ Trụ
chỉ là một phần tư của bản thể Ngài.
Ba phần tư ở lại
miền thiên đình trong cõi bất tử”.
(Rig
– Veda X90-93)
Thật kỳ lạ, mô
tả Thần Ngã mà chúng ta có cảm giác như đang nói về không gian!
Kinh Vêđa ca ngợi
Tinh Thần Tối Cao (Paramatman):
“Chính
Ngài ngự tại bầu trời tinh tú ở trạng thái ánh sáng
Trong không
trung và ở trạng thái không khí
Trên bàn thờ ở
trạng thái lửa thờ
Tại gia đình là
vị thượng khách
Tại người ta là
nguyên lý của sự sống
Ngài ngự ở mọi
chúng sinh và mọi vật
Ngài duy trì tất
cả hiện hữu.
Ngài là đấng tối
cao.
Chính ngài, và
luôn luôn Ngài giáng linh trong cuộc lễ
Ở trên trời, ở
trong nước, trong ánh sáng, tại núi cao và tại chân lý”.
(Rig – Veda IV.40-45)
(Rig – Veda IV.40-45)
Ca tụng Thần Kiến Thiết (Vicvakarman):
“Lúc khai thiên
lập địa, Ngài ở đâu?
Ngài
Vicvakarman vĩ đại!
Người chứng kiến
bất tử của muôn vật,
Đã thúc đẩy cuộc
sáng tạo như thế nào, với cái gì?
Làm thế nào mà
Ngài đã phô diễn vòm trời kia,
Và mặt đất ở dưới
này?
Tai và mắt Ngài
đâu đâu cũng có!
Diện mục Ngài ở
khắp cả mọi nơi!
Ngài ở trong tất
cả bàn tay, tất cả bàn chân
Thượng đế duy
nhất vận động cánh và tay
Và đây Ngài tạo
ra đất và trời!
Với rừng nào, với
gỗ nào,
Ngài đã dùng làm
chất liệu để tạo thành trời đất?
Hỡi đại hiền
triết,
Hãy tìm vào bên
trong
Và thực hiện ở
tại chính tâm mình
Cơ sở của Vũ Trụ,
Mà Ngài đã kiến
thiết!”
(Rig
– Veda)
Và đây là sự ca
tụng thần của mọi thần, cái tột đỉnh, cái toàn nhất, không thể nhận biết mà chỉ
có thể cầu nguyện: Thần Prajapati (Thần Sáng Tạo, hay chúng ta cũng thường gọi là Tạo Hóa):
“Thuở ấy, hoàn
toàn chẳng có gì cả mà cũng không phải trống không, Mặt Trời rực rỡ kia không có
Mà
vòm trời như cái khăn phủ mênh mông kia, cũng không có
Vậy thì cái gì
trùm lên, che phủ, chứa chất vạn vật?
Phải chăng là vực
nước sâu thẳm?
Thời đó không có
chết mà cũng không có bất tử
Không phân biệt
ngày và đêm.
Cái Một, cái Độc Nhất không có hơi mà tự thở lấy được
Ngoài
Cái Đó ra không có cái gì khác nữa
Thuở ấy, chỉ có
bóng tối mịt mùng trong bóng tối mịt mùng, tất cả là nước mênh mông. Cái mầm
khuất trong cái vỏ.
Bỗng nảy ra sức
nóng nung nấu (Tapas).
Thế là ý muốn đầu
tiên (dục tính) xuất hiện. Nó là dòng suối mới của tinh thần, các thi sĩ suy tư
và thấy được trong lòng mình mối liên lạc giữa cái không được tạo ra với cái được
tạo ra (Vô thể - Hữu thể?).
Tia sáng đó chiếu
ra, xâm chiếm hết, nó xuất phát từ trời hay từ đất?
Các đạo sĩ phân
ngang một đường phân ranh. Có gì ở dưới? Có gì ở trên? Giống đã gieo và người
ta thấy các năng lực cao cả xuất hiện.
Ở
dưới thấp là thiên nhiên, ở trên cao là quyền năng và ý lực
Ai là người vén
được màn bí mật? Ai là người cho ta biết
Sự sáng tạo muôn
vật đó từ đâu mà có?
Chư vị thần linh
không thể nói được, vì các Ngài cũng chỉ xuất hiện sau này. Vậy ai là người biết
được sự sáng tạo mầu nhiệm đó từ đâu mà có?
Đấng nào đó đã
gây ra sự sáng tạo đẹp đẽ đó? Vô tình hay hữu ý?
Thế giới này là
sáng tạo hay không phải sáng tạo? Chỉ có Đấng Tối Cao trên tầng trời cao nhất
kia là biết được, nhưng có thể Ngài cũng không biết được”.
(Rig
– Veda X-129)
***
Đến thời
Upanishad, quan niệm về tồn tại đã trở nên rõ nét hơn, sâu sắc hơn, và có thể nói
là hoàn thiện hơn. Upanishad đã nhìn ra được hai mặt phân định tương đối của tồn
tại là khách thể và chủ thể. Khách thể là đại tồn tại, là tồn tại tối cao
(Brahman - đại ngã). Nó bao trùm và thấu suốt tất cả. Mọi sự vật - hiện tượng đều
xuất phát từ nó và trở về nó. Chủ thể là tiểu tồn tại, là tinh thần cá nhân
(Atman - tiểu ngã). Tiểu ngã xét cho cùng thì cũng thuộc về đại ngã, là bộ phận
của đại ngã.
Phần lớn
Upanishad bắt đầu từ những đoạn cuối của kinh Vêda. Theo nguyên ngữ thì
Upanishad có nghĩa là “ngồi gần một cách cung kính”, rồi dần dần có thêm nghĩa
như là những bài học giáo lý tâm truyền. Các môn đồ ngồi quanh sư phụ để nghe
thuyết giảng một cách cung kính về những điều huyền diệu bí truyền.
Giống như Vêđa,
Upanishad là gồm nhiều bộ kinh hợp lại gọi chung là kinh Upanishad. Nó là thành
quả của công trình sáng tác, được đúc kết, ghi chép lại từ những tu tập và đạt đạo
của nhiều nhà minh triết, trong hàng mấy trăm năm; để rồi trở thành nguồn gốc của
các hệ tư tưởng triết học sau này. Bloomfield
nhận xét: “Không có một hình thức tư tưởng quan trọng nào ở Ấn Độ, kể cả triết
học Phật giáo, mà chẳng bắt nguồn từ Upanishad”.
Phần đông các học
giả ngày nay cho rằng những bộ kinh Upanishad xưa nhất đã được ghi chép vào thời
kỳ tiền Phật Giáo, khoảng thế kỷ VIII trước công nguyên. Những kinh ấy có thể được
coi là thuộc hàng những tác phẩm triết học đầu tiên của nhân loại.
Trong Upanishad
có hai từ được nói tới rất nhiều là Brahman và Atman. Hai từ ấy đóng vai trò như
hai khái niệm cơ bản nhất cùng với mối quan hệ giữa chúng là đề tài xuyên suốt
cần phải luận giải và là nội dung chính gốc làm nên Upanishad.
Brahman (Đại Ngã)
được hiểu như “toàn thể Vũ Trụ”, một “khối mơ mơ hồ hồ”, vĩ đại thống nhất (Cái
Một), lại vừa được hiểu như là “tinh thần tối cao” trí tuệ thiêng liêng, nguyên
lý sáng tạo của toàn thể các sự vật - hiện tượng. Trong Kena Upanishad có viết
về Brahman như sau:
“Đấng mà người
ta không thể diễn tả được bằng lời, nhưng nhờ Ngài mà có ngôn ngữ, chính đấng ấy
mới là Brahman chứ không phải là đấng mà con người thờ phụng ở cõi đời này. Đấng
mà người ta không thể tư duy được bằng trí tuệ, nhưng nhờ Ngài mà trí tuệ tư
duy, chính đấng ấy mới là Brahman chứ không phải đấng mà con người thờ phụng ở
cõi đời này. Đấng mà mắt không thể thấy được, tai không nghe được, không thể thở
bởi đời sống được nhưng nhờ Ngài mà mắt trông thấy mọi vật, tai nghe được mọi vật,
thở được trong đời sống, chính đấng ấy mới là Brahman chứ không phải là đấng mà
người ta thờ phụng ở cõi đời này”.
Nhà triết học nổi
tiếng Radhakrichman giải thích rằng:
“Brahman chỉ
cho ta thấy mội mối liên hệ căn bản giữa tinh thần hướng thượng của con người với
tinh thần Vũ Trụ … Trong những giây phút xuất thần, chúng ta có cảm tưởng rằng
có thực tại cao cả, lớn lao ở trong ta, mặc dầu ta không thể mô tả được … Nếu
ta nhận thức được Brahman thì chính là nhờ ở sự hoạt động của Brahman ở trong
ta”.
Trong
Taittiriya Upanishad có câu chuyện thế này, Bhrigu đến hỏi cha là đạo sĩ
Vasuna: “Thưa cha, xin cha dạy con về Brahman”. Vasuna đáp: “Cái do đấy mọi vật
sinh ra, cái nhờ đó mọi vật sống được và cái trong đó mọi vật trở về sau khi chết.
Con hãy tự tìm hiểu lấy, cái đó là Brahman”
Atman (Tiểu Ngã,
tự ngã) được hình dung như một linh khí, thực thể đơn nhất, không phải thể chất
cũng không phải tinh thần. cái phi tôi mà cũng không phải phi tôi, cái gì đó sâu
thẳm, vô hình danh sắc tướng trong nội tâm, nó bàng bạc hiển hiện khi ta quên mình
đi, như linh hồn của linh hồn, cái đó là Atman.
Bài học đầu tiên
các hiền triết dạy môn đồ trong Upanishad là sự bất túc của trí tuệ. “Không phải
nhờ học mà hiểu được Atman, có thiên tài không đủ, học trong sách cũng không đủ
… Một tu sĩ Bà La Môn phải từ bỏ sự học đi mà trở lại như một em bé … đừng chạy
theo từ ngữ nữa, chỉ mỏi miệng vô ích thôi”.
Lời nói đó có vẻ
mâu thuẫn, thậm chí là nực cười đối với một trí thức hiện đại có lối tư duy lôgic
“chắc như bắp”. Nhưng Hoàng Tử Bé lại nhìn thấy trong đó một ý nghĩa lớn lao. Đặc
tính cơ bản của Tồn Tại (tồn tại tuyệt đối) là trình hiện ra như một tổng thể các sự vật - hiện tượng,
một tổng thể tồn tại tương đối, có điều kiện. Nhờ có đặc tính này mà có sự khác
biệt giữa sự vật - hiện tượng này với sự vật - hiện tượng khác, có sự phân định
giữa khách quan và chủ quan, khách thể và chủ thể để sự nhận biết trở thành khả
năng. Như chúng ta đã nói, sự nhận biết sẽ không phát triển sâu rộng và toàn diện
được nếu không dựa trên những khái niệm (cái tất yếu phát sinh trong quá trình
phát triển của tư duy). Ý nghĩa tuyệt vời của câu nói đó là ở chỗ này: dù sao đi
nữa thì Tồn Tại vẫn là một chỉnh thể thống nhất, không thể phân chia (môt cách thực sự được), do đó
để đến được “cái biết toàn bích”, để nhận diện được chân lý tuyệt đối cuối cùng
thì đến một lúc (tạm gọi là chín muồi nào đó) phải biết vượt qua mọi suy lý, tạm quên đi khách thể và chủ thể,
khách quan và chủ quan; tạm bỏ cái áo “khái niệm” đã trở nên chật chội (cái mà
không có nó, chúng ta không suy nghĩ được !!).
Radhakrishman từng
viết: “Chúng ta là phần tử hữu hạn, chúng ta không có thể xác định tính chất của
thực tại lý tưởng, tuy rằng Upanishad nhấn mạnh rằng cái thực tại ấy không phải
là trống rỗng. Tuy vậy, để phản đối những lý tưởng sai lầm về cái tối cao và để
vạch rõ sự thật là Cái Ấy không phải sự trừu tượng, Kinh Upanishad đã ngã vào
những khái niệm không chính đáng. Nói gọn lại thì chúng ta không thể nói gì về
thực tại ấy được. Nhưng vì mục đích bàn luận, chúng ta bắt buộc phải dùng đến
những khái niệm tri thức với giá trị hữu hạn của chúng”.
Sau này
Spinoza, nhà triết học phương Tây có nói đại ý: sự tri giác tuyệt cao là sự tri
giác trực tiếp, sự đốn ngộ! Có lẽ các tu sĩ Upanishad, ở cái thời xa xưa ấy, thời
mà khoa học chưa có gì, không có phương tiện hiện đại nào để soi rọi các sự vật
- hiện tượng, đã có được một cách thức tư duy trác tuyệt, tối ưu, đó là sự tu tập,
suy tưởng ở trạng thái quên mình để đạt đến giác ngộ, trực giác linh nghiệm: Brahman
là Cái Ấy, Cái Ấy là mày, Atman cũng chính là (thuộc về) Brahman.
Trong Upanishad
có một câu bao hàm cả cái triết lý của nó:
“Tattvamasi, cái
ấy là mày!
Kẻ nào tự thấy
mình ở tại tất cả mọi vật và thấy tất cả mọi vật ở tại mình, kẻ ấy như thế là một
với Brahman tối cao, linh hồn của tất cả. Nguyên lý của Vũ Trụ thì tế nhị hơn cả
các vật tế nhị, thực thể bất diệt trường tồn ấy ở tại mày, mày là Cái Ấy. Cái
Ấy là mày, Tattvamasi!”
Trong Chandogya
Upanishad có kể câu chuyện:
“Có một lần Cvetaketu
aruneya được cha nó gọi đến bảo rằng:
- Con hãy đi sống
một đời học sinh Bà La Môn. Thật đấy con ạ, một người trong dòng họ chúng ta không
nên thiếu học tập kinh sách Vêđa để thành một người Bà La Môn chân chính.
Nó bèn đi theo
học một sư phụ năm còn mười hai tuổi. Đến năm hai mươi bốn tuổi, sau khi đã học
hết tất cả Vêđa, nó trở về tự mãn, kiêu ngạo với cái học thức của nó.
Cha nó bảo nó:
- Cvetaketu con
ơi, con đã tự mãn với cái biết của con, kiêu ngạo như thế chẳng hay có bao giờ
con tìm hỏi cái biết nhờ đó mà người ta biết được cái gì người ta chưa học cũng
như người ta đã học, cái gì người ta chưa nghĩ đến cũng như người ta đã từng
nghĩ rồi, cái gì người ta chưa hiểu cũng như người ta đã hiểu rồi không?
- Thế nào vậy
thưa cha, cái học thức ấy như thế nào?
- Con ơi! Thì cũng
ví như chỉ nhờ biết một hòn đất sét mà người ta biết tất cả cái gì bằng đất sét
(tất cả sự đổi thay chỉ là ngôn ngữ danh từ, thực thể vẫn là đất sét), cũng như
thế con ạ, đấy là cái học thức ấy vậy.
- Chắc chắn những
bậc sư phụ tôn kính của con không biết cái học thức ấy. Vì nếu các ngài biết thì
các ngài có giấu giếm con làm chi? Nhưng cha, xin cha hãy dạy cho con.
- Được con ạ,
con đi kiếm cho cha quả vả ở đằng kia
- Thưa cha, đây.
- Bửa nó ra!
- Thưa cha, nó đã
bị bửa rồi.
- Con thấy gì
không?
- Thưa cha rất
nhiều hạt nhỏ.
- Thì con hãy
phân một hạt ra
- Thưa cha, một
hạt đã phân rồi.
- Con thấy gì
không?
- Thưa cha, không
thấy gì hết.
Người cha bèn
giải thích:
- Sự thực con ơi,
cái thực thể tế vi (đạo tâm duy vi) mà con không tri giác được, chính nhờ cái
thực thể tế vi ấy mà cây vả lớn này đã mọc lên được. Con ơi, con hãy tin rằng cái
thực thể tế vi ấy đã tạo ra cả thế giới, toàn thể Vũ trụ. Đấy là thực tại, đấy
là Atman, Tự ngã. Chính con là cái ấy (tat tvam asi) hỡi Cvetaketu.
- Thưa cha, cha
hãy giảng nữa cho con.
- Được rồi, con hãy bỏ nắm muối này vào nước
và đến mai con trở lại đây.
Người con làm theo thế và hôm sau người
cha bảo nó rằng:
- Muối mà con đã
bỏ vào nước bữa qua thì con hãy mang nó lại đây.
Người con cố tìm
vớt lấy muối mà không thấy, muối đã tiêu tan hết.
- Con hãy nếm nước
ấy ở trên mặt … Thế nào?
- Thưa mặn ạ.
- Hãy nếm nước ở
tận đáy. Thế nào?
- Thưa mặn ạ.
- Nếm nữa đi
cho kỹ rồi lại đây.
Người con lại nếm
rồi nói:
- Vẫn thế ạ.
Người cha bấy
giờ mới bảo:
- Ấy đấy, con ạ,
con không thể tri giác được thực thể. Vậy mà thực thể vẫn còn đấy. cái thực thể
tế vi đã tạo thành toàn thể Vũ Trụ, đấy là Thực Tại, đấy là Atman, Tự Ngã. Chính
con là Cái Ấy, hỡi Cvetaketu!”
Cũng trong
Chandogya Upanishad, có câu nói (của thần Prajapati với con mình là Indra) rằng:
“Thân thể vật
chất thì tiêu diệt. Trong cái ấy có ngự Tuyệt Đối với Brahman là phi chất và bất
diệt. Ở tạm trong thân thể như linh hồn cá nhân. Ngài vui và buồn bởi vì Ngài đồng
nhất bằng ý nghĩ với cái thân thể nó vui buồn. Chừng nào Ngài giải thoát khỏi
thân thể này, trở nên linh hồn Vũ Trụ, Ngài không còn vui buồn nữa; nhưng không
bị diệt vong vì vui buồn. Trái lại, bình thản và yên định, Ngài là Tự Ngã Tuyệt
Đối”.
***
Thôi, chúng ta
nên dừng sự kể lể dông dài ở đây vì có lẽ như thế cũng đủ rồi. Kể thêm nữa sẽ
trở thành nhàm chán và những câu chuyện hay ho mà chúng ta vừa kể thực ra chỉ là
sự rút tỉa, sao chép lại từ những quyển sách dễ kiếm trên thị trường, ai cũng có
thể tìm đọc được. Vả lại không thể bỏ dở cuộc hành trình mà chúng ta mới bắt đầu
và có vẻ như sẽ dài lâu.
Khái niệm tồn tại
chỉ có thế, tùy cách nhìn, cách nghĩ mà chúng ta thấy nó đơn giản hay phức tạp.
Sau này, nếu ai
hỏi chúng ta: Tồn Tại là gì? thì chúng ta cứ tự tin trả lời: Tồn Tại là Cái Ấy,
Tat tvam asi! Và giải thích thêm: “ Cái Ấy đầy, Cái Này cũng đầy. Từ cái đầy Ấy
rút ra cái đầy Này, lấy đi cái đầy Này trong cái đầy Ấy, cái còn lại vẫn đầy”.
(Atharva
– Veda X8-29).
______________________________
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)