Thứ Sáu, 11 tháng 2, 2022
TT & HĐ V - 50/e
(Tiếp theo)
***
Trong Wikipedia có viết:
"Chiến tranh là hiện tượng chính trị –
xã hội có tính chất lịch sử, sự tiếp tục của chính trị bằng bạo lực
giữa các tập đoàn xã hội trong một nước hoặc giữa các nước hay liên minh
các nước với nhau. Đặc trưng của chiến tranh là đấu tranh vũ trang có
tổ chức, theo những quy tắc nhất định và thường kết hợp với các hình
thức đấu tranh khác (chính trị, kinh tế, ngoại giao,...).
(...) .
Nói tóm lại, chiến tranh là sự xung đột
do từ mâu thuẫn ý thức giữa các tư tưởng khác nhau. Nguyên nhân của
những mâu thuẫn này xuất phát từ tham vọng riêng của từng thực thể con
người. Khi những tham vọng này đối chọi nhau đến mức độ căng thẳng cao
độ thì chiến tranh xảy ra. Chỉ khi nào tồn tại hai bên đối nghịch nhau
thì chiến tranh mới bùng nổ. Những hình thức chiến tranh đi từ hình thức
thô thiển như chiến tranh vũ trang đến thể loại chiến tranh vi tế như
sử dụng văn hóa để công kích.
(...) .
Hậu quả của chiến tranh không chỉ có sự hoang tàn mà còn có cả sự tiến
bộ. Chiến tranh là thành phần không thể thiếu trong quá trình tiến hóa
của tất cả các sinh vật, đoàn thể, tổ chức hầu đạt được mục tiêu sống
còn và phát triển.
(...).
Những người theo thuyết lịch sử chú ý đến khía cạnh bất khả kháng của
chiến tranh, họ cho rằng nó ngẫu nhiên như là một tai nạn giao thông.
Có thể có các điều kiện, tình huống giống như là sắp xảy ra chiến tranh
nhưng người ta không thể tiên đoán được thời gian và địa điểm xảy ra
chiến tranh. Các nhà xã hội học
phê phán cách tiếp cận này, họ cho rằng sự bắt đầu của các cuộc chiến
tranh là do một số nhà lãnh đạo đưa ra, đó không phải là tai nạn thuần
túy. Vẫn còn có những bất đồng nhưng thực sự rất khó khăn trong việc xây
dựng một hệ thống tiên đoán về chiến tranh.
Theo các học thuyết tâm lý chiến tranh (...), (...), cho rằng đó
là "bản năng xâm lược" của con người, là "hành vi" của con người. Các
đại diện của thuyết này như E.F.M. Durban và John Bowlby cho rằng loài
người đặc biệt là đàn ông sinh ra đã có thói quen xung đột. Thông thường
những loại xung đột này bị kìm nén bởi xã hội, nó cần một cơ hội để
giải thoát các xung đột bằng chiến tranh.
Học thuyết nhân khẩu có 2 nhóm: những người theo thuyết Malthus và những người theo thuyết bùng nổ dân số trẻ.
Học giả người Anh Thomas Robert Malthus (1766 - 1834)
cho rằng dân số luôn tăng dù chúng bị hạn chế bởi chiến tranh, bệnh tật
và đói kém. Đây là lý thuyết được tính toán với xã hội trước đây khi mà
nền sản xuất chưa phát triển và tỷ lệ tăng dân số không điều khiển
được. Theo thuyết Malthus thì sự mất cân bằng giữa việc tăng dân số và
tăng thức ăn là nguồn gốc của xung đột. Nghĩa là trong khi dân số tăng
theo cấp số nhân thì nguồn tài nguyên, của cãi lại tăng theo cấp số cộng
tạo ra sự mất cân đối dẫn đến chiến tranh. Lý thuyết bùng nổ dân số trẻ
lại quan niệm do sự mất cân đối giữa những lực lượng trẻ được đào tạo,
đến tuổi trưởng thành, cần có việc làm và số lượng những vị trí có thể
cho họ trong xã hội là nguyên nhân cơ bản dẫn đến sự nổi loạn trong xã
hội (bao gồm cả chiến tranh). Theo các học thuyết này "con người cần
thức ăn, cần vị trí nên họ bắn nhau".
Theo học thuyết của chủ nghĩa Márx: chiến
tranh là hiện tượng chính trị – xã hội mang tính lịch sử, là hoạt động
đấu tranh giữa các giai cấp, các nhà nước, các lực lượng chính trị có
địa vị, lợi ích đối lập nhau trong một nước hoặc giữa các nước nhằm đạt
được mục đích chính trị nhất định.
(...) .
Chiến
tranh có nguồn gốc từ chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và
đối kháng giai cấp không thể điều hòa. Trong đó, chế độ chiếm hữu tư
nhân là nguồn gốc kinh tế – nguồn gốc sâu xa; đối kháng giai cấp là
nguồn gốc xã hội – nguồn gốc trực tiếp của chiến tranh.
Nguyên nhân:
Nguyên
nhân chung: Là sự tác động giữa phương thức sản xuất bóc lột và những
hiện tượng chính trị xã hội do phương thức sản xuất đó sinh ra dưới hình
thức bạo lực vũ trang của giai cấp này đối với giai cấp khác.
Nguyên nhân đặc thù: Là sự tác động của những chính sách hiếu chiến,
phản động của giai cấp thống trị, những kẻ cầm đầu nhà nước, tổ chức
hoặc nhóm cực đoan.
Nguyên nhân đơn nhất: Là sự tác động có tính đột biến, tức thì từ
những nhân tố cá biệt như cá tính bất thường của cá nhân cầm đầu tổ chức
hoặc diễn biến không chuẩn xác của các thông tin, của phương tiện tiến
hành chiến tranh,...trong những tình huống nhất định.
Trong các nguyên nhân trên, nguyên nhân chung là cơ bản, xuyên suốt của mọi cuộc chiến tranh trong lịch sử loài người.
(...). Bản
chất của chiến tranh thể hiện trên hai mặt cơ bản luôn có sự thống nhất
với nhau: Mặt chính trị và mặt bạo lực vũ trang. Chính trị là mục đích,
bạo lực vũ trang là phương thức, biện pháp để thực hiện mục đích chính
trị. Mặt chính trị và mặt phương thức bạo lực vũ trang không tách rời
nhau".
Triết học duy tồn cho rằng các trường phái triết học, kể cả
triết học Mác - Lênin, khi nói về chiến tranh đều có phần đúng và phần
sai, phần sai là chủ yếu.
Theo quan niệm của triết học duy tồn, suy
cho cùng thì xã hội là một hiện tượng của thế giới tự nhiên, cho nên sự
hình thành , tồn tại và phát triển của nó phải tuân theo các qui luật
cơ bản của tự nhiên, phải nhận thức nó như nhận thức các hiện tượng tự
nhiên khác. Nhưng đồng thời, xã hội cũng là kết quả có được từ sự chi
phối của quá trình tiến hóa - thích nghi, là sản phẩm có được từ tư duy
trừu tượng, từ đòi hỏi của lao động sáng tạo, cho nên sự hình thành, tồn
tại và phát triển của nó cũng có những nét đặc thù của thế giới sinh
vật, thuộc về thế giới sinh vật. Nguyên nhân nguồn cội làm nên mọi
nguyên nhân gây ra các hiện tượng trong thế giới tự nhiên, của Tự Nhiên
Tồn Tại là nguyên lý tự nhiên, thì nguyên nhân sâu xa gây ra các hiện
tượng trong vận động xã hội cũng suy ra được từ nguyên lý số một ấy.
Chẳng hạn. hiện tượng biến đổi nhưng bảo toàn khối lượng của vật chất có
thể được giải thích trên cơ sở cố gắng duy trì tồn tại vốn có của chúng, thì
sự biến đổi hình thái xã hội qua các thời kỳ cũng có thể giải thích
được, dựa vào sự cố gắng duy trì tồn tại ấy, nhưng để giải thích rõ ràng
hơn, có thể dựa vào sự thể hiện đặc thù của nguyên lý tự nhiên trong
thế giới sinh vật: cố gắng sinh tồn (sự phát triển tư liệu và lực lượng
sản xuất, gọi chung là trình độ sản xuất).
Phải cho rằng, lối sống
lập thành xã hội không phải chỉ ở loài người mới có, mà ở các loài sinh
vật đã thấy những hình thức sống quần cư khác nhau, các cá thể có liên
quan với nhau mặt này hay mặt khác, lỏng lẻo hay chặt chẽ, có huyết
thống hay không có huyết thống, nhằm tạo điều kiện hơn trong mưu sinh,
trong việc tăng cường bảo vệ sự sống giống loài trước những tại họa đến
từ môi trường. Lối sống hợp thành quần cư ở loài ong, loài kiến ...,
nhất là lối sống hợp thành bầy đàn ở một số loài động vật hoang dã có
thể coi là những hình thức manh nha, sơ khai của hình thức sống theo
cộng đồng xã hội, một lối sống chủ yếu và cơ bản ở loài người biết tư
duy trừu tượng. Sự thể đó bày ra một cảm tưởng rằng, lối sống theo cộng
đồng xã hội là một sự lựa chọn tất yếu của loài có tư duy trừu tượng
trong quá trình đấu tranh, vật lộn với môi trường thiên nhiên hữu hạn để sinh
tồn. Không tìm ra cây lương thực này thì loài người cũng sẽ tìm được cây
lương thực khác để chuyển phương thức sống cơ bản từ săn bắt - hái lượm
sang trồng trọt - chăn nuôi, từ du cư, di cư sang định cư lâu dài, tạo
điều kiện sống quây quần xã hội, hợp tác sản xuất nông nghiệp, vì đây
chính là sự lựa chọn có tính chất tất yếu, có tính chất tối ưu, lựa chọn
mà như không lựa chọn trên bước đường kiếm kế mưu sinh của mình.
Tóm
lại, phương thức sống theo hợp quần xã hội là tất yếu đối với mọi loài
được trang bị tư duy trừu tượng do có sự chi phối bởi qui luật phát
triển lạm phát về số lượng cá thể sinh vật trong một môi trường thiên
nhiên hữu hạn. Nhờ cuộc đấu tranh sinh tồn lâu dài để tiến hóa - thích
nghi thông qua biến dị - di truyền trong một môi trường sống đặc thù và
thường xuyên biến đổi, loài người đã hun đúc được một thứ vũ khí vô cùng
lợi hại trong việc mưu sinh, cố gắng sống còn mà không loài sinh vật
nào khác có được, đó là tư duy trừu tượng. Nhờ sự hối thúc thường xuyên
của tư duy trừu tượng trong sự tích cực tìm cách mưu sinh tốt hơn, loài
người, từ kiếp sống lang thang bầy đàn, đã đến được với lao động sáng
tạo rồi từ đó mà có trồng trọt - chăn nuôi, tự cung tự cấp, sống ổn định
lâu dài, liên kết thành xã hội tạo điều kiện hợp tác sản xuất, bắt
chước thiên nhiên tạo ra các thứ dưỡng sinh, theo phương châm:
Một cây làm chẳng nên non
Ba cây chụm lại thành hòn núi cao.
Không
phải xã hội đã hoàn thiện ngay từ buổi đầu xuất hiện. Xã hội hình
thành, tồn tại và phát triển cũng như một thực thể sống, có thể gọi là
thực thể sống ảo, tức là cũng sinh ra từ liên kết vật chất, từ cố gắng
tồn tại, cũng trong vòng ảnh hưởng của cuộc đấu tranh sinh tồn, làm
như cũng tiến hóa - thích nghi, cũng vận động và phát triển từ thấp đến
cao, từ đơn giản đến phức tạp, đạt đến hoàn thiện và suy tàn theo sự
phát triển và suy tàn của cuộc sống loài người. Tương tự như thế giới tự
nhiên mang tính đầy đủ, vận động tự do, chuyển hóa ra muôn vàn trạng
thái, miễn là không Hư Vô, vận động xã hội cũng vậy, miễn tồn tại xã hội
được bảo toàn. Chính vì vậy mà vận động nội tại xã hội thể hiện ra
thành các lực lượng tương phản, đối kháng nhau, đấu tranh với nhau theo nguyên tắc giải quyết mâu thuẫn mà triết học duy vật biện chứng đã mường tượng ra. Có
lẽ nhận thức về xã hội của triết học duy vật biện chứng còn nhiều sai
lầm dẫn đến một học thuyết cải tạo xã hội đậm màu lý tưởng, dẫn đến
triệt tiêu sự tồn tại xã hội. Song, không phải vì thế mà tất cả những
nhận thức về xã hội của nó đều sai lầm. Trong "Giáo trình triết học Mác -
Lênin" (NXB chính trị quốc gia - 2004) viết:
"(...). Quá trình
phát triển của tự nhiên đã sản sinh ra sự sống và theo qui luật tiến
hóa, trong những điều kiện nhất định, con người đã xuất hiện từ động
vật.
Sự ra đời của con người không chỉ là kết quả của các quá
trình sinh học mà quan trọng hơn là kết quả của quá trình lao động. Đây
là quá trình con người tác động vào giới tự nhiên, khai thác và cải biến
giới tự nhiên để đáp ứng nhu cầu tồn tại của mình. Chính trong quá
trình lao động, cấu tạo cơ thể của con người ngày càng hoàn thiện hơn và
cũng chính trong quá trình lao động, nhu cầu trao đổi, hợp tác đã làm
ngôn ngữ xuất hiện. Lao động và ngôn ngữ là hai sức kích thích chủ yếu
của sự chuyển biến bộ não của loài vật thành bộ não của loài người, tâm
lý loài vật thành ý thức.
Sự hình thành con người gắn liền với sự
hình thành các quan hệ giữa người với người, quá trình chuyển biến từ
động vật thành người cũng là quá trình chuyển biến từ cộng đồng mang
tính bầy đàn, hành động theo bản năng thành một công đồng mới khác hẳn
về chất, ta gọi là xã hội. Đây cũng là quá trình chuyển biến từ vận động
sinh học thành vận động xã hội.
(...).
Xã hội là hình thái
vận động cao nhất của thế giới vật chất. Hình thái vận động này lấy con
người và sự tác động lẫn nhau giữa người với người làm nền tảng. (...).
Như
vậy, xã hội là bộ phận đặc thù của tự nhiên. Tính đặc thù của bộ phận
này thể hiện: Phần còn lại của tự nhiên chỉ có những nhân tố vô ý thức
và mù quáng tác động lẫn nhau; còn trong xã hội, nhân tố hoạt động là
những con người có ý thức, hành động có suy nghĩ và theo đuổi những mục
đích nhất định. Hoạt dộng của con người không chỉ tái sản xuất ra chính
bản thân mình mà còn tái sản xuất ra giới tự nhiên.
(...) xã hội
vừa phải tuân theo những qui luật của tự nhiên, vừa phải tuân theo những
qui luật chỉ vốn có đối với xã hội. Cũng như các qui luật tự nhiên, các
qui luật xã hội mang tính khách quan.
(...).
Như vậy, qui
luật của tự nhiên được hình thành xuyên qua vô số những tác động tự
phát, mù quáng của các yếu tố tư nhiên, còn qui luật xã hội được hình
thành trên cơ sở hoạt động có ý thức của con người. (...). Cho nên, cũng
giống như các qui luật tự nhiên, qui luật xã hội là những mối liên hệ
khách quan, tất yếu và phổ biến giữa các hiện tượng và các quá trình xã
hội. Có nghĩa là, trước tiên, qui luật xã hội phải mang đầy đủ những đặc
trưng cơ bản của qui luật nói chung, đó là tính khách quan, tất yếu và
phổ biến.
Tính khách quan của qui luật xã hội thể hiện ở chỗ, tuy
qui luật xã hội được biểu hiện thông qua hoạt động của con người nhưng
nó không phụ thuộc vào ý thức, ý chí của bất kỳ một cá nhân, hay một lực
lượng xã hội nào..."
Có thể khẳng định, sự hình thành xã hội là
một quá trình tất yếu, do đòi hỏi của con người từ lao động sáng tạo,
tìm tòi vươn lên sản xuất, hình thức kiếm ăn hiệu quả nhất trong việc
cấp dưỡng, duy trì sống còn. Sản xuất là dạng lao động sáng tạo hiệu
quả cao có chủ đích và được công cụ hỗ trợ. Sản xuất xã hội là sản xuất
ra của cải vật chất cho cá nhân con người nói riêng, đồng thời cho tồn
tại và phát triển xã hội nói chung. Thông qua quá trình sản xuất mà tình
cảm con người ngày càng được củng cố và trở nên sâu sắc. Do đó, ngày
nay, sản xuất đã trở thành đặc trưng cơ bản, chính yếu cho xã hội loài
người. Sự phát triển của trình độ sản xuất qua các thời kỳ lịch sử đã
phản ánh lên cấu trúc xã hội, thể hiện ra thành các trạng thái xã hội có
thể phân biệt được tương đối với nhau. Triết học duy vật biện chứng
cũng nói: "Mỗi xã hội được đặc trưng bằng một phương thức sản xuất nhất
định. Phương thức sản xuất đóng vai trò quyết định đối với tất cả các
mặt của đời sống xã hội: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Sự thay
thế kế tiếp nhau của các phương thức sản xuất trong lịch sử quyết định
sự phát triển của xã hội loài người từ thấp đến cao".
Loài vượn
người - loài vượn cổ chưa chuyển hóa thành người hoặc mới chập chững
những bước đi đầu tiên của con người, như số đông các loài động vật
hoang dã khác, vẫn sống theo lối bầy đàn, kiếm ăn được chăng hay chớ, di
cư thường xuyên mưu sinh trong một phạm vi môi trường rộng lớn Với số
lượng cá thể ngày càng đông trong khi nguồn thức ăn bị giới hạn, sự cố
gắng sống còn đã hối thúc loài vượn người mở rộng nguồn thức ăn, tìm tòi
những thức ăn mới ngoài săn bắt - hái lượm. Bên cạnh đó, cuộc đấu tranh
sinh tồn trong điều kiện hoàn cảnh môi trường đặc thù nào đó bắt chúng
tiến hóa - thích nghi theo hướng nảy sinh ra tư duy trừu tượng, tạo nên
nhữnh yếu tố tiền đề cần và đủ cho lao động sáng tạo ra đời. Từ đó, loài
vượn người chuyển hóa thành người vượn, thế hệ loài người đầu tiên,
tăng tốc quá trình phát triển đi lên của giống loài.
Trong quá
trình phát triển ấy, tác dụng tổng hợp của tư duy trừu tượng và lao động
sáng tạo đã giúp loài người khám phá ra một phương thức mới hiệu quả
hơn hẳn phương thức săn bắt - hái lượm trong việc đảm bảo sống còn, đó
là trồng trọt - chăn nuôi. Nhưng có được trồng trọt - chăn nuôi rồi, con
người, về hình thức, vẫn chưa dứt khoát vượt thoát khỏi đời sống của
loài vật hoang dã, vẫn sống theo lối bầy đàn, hầu như vẫn chưa có các
khái niệm như tư hữu, để dành, tích lũy...Phát hiện ra cây lương thực
(lúa nước), trồng "đại trà", đảm bảo nguồn thức ăn ổn định, lâu dài,
giải phóng con người khỏi phần lớn những công việc kiếm ăn thuần túy
thường ngày đầy khó khăn, vất vả, tạo điều kiện cho con người có lối sống
định cư, có văn hóa, tiến thẳng lên văn minh, chính là cuộc cách mạng vĩ đại thứ hai
trời long đất lở (sau cuộc cách mạng tìm ra công dụng của lửa và ăn thức
ăn chín). Lần đầu tiên con người biết đến sản xuất, trình độ cao nhất
của lao động sáng tạo, lao động ra giá trị thặng dư. Cuộc cách mạng đó vĩ đại đến
nỗi cho đến ngày nay, nhiều người vẫn không biết rằng, loài người sinh
ra từ đâu, cứ đinh ninh loài người sinh ra từ Chúa hoặc Thánh. Nhờ cuộc
cách mạng vĩ đại đó, loài người bước vào đời sống hợp quần xã hội, tổ
chức sản xuất nông nghiệp, thoát ly kiếp sống theo bầy đàn của loài động
vật hoang dã, chính thức làm người.
Nhưng làm người là gì? Có lẽ
đó là một câu hỏi chưa ai trả lời đích xác được. Trước những câu hỏi đại
loại về con người như vậy, thường người ta vẫn trả lời theo hướng thiên
vị, tự cho loài người là giống loài đẹp đẽ tối cao, đã là người thì
phải đẹp đẽ, hoàn thiện. Thực ra đâu phải như vậy. Loài người đẹp đẽ
nhất và cũng xấu xí nhất trong thế giới sinh vật. Phải chăng nên trả lời
như thế!? Cũng chưa được vì chưa phân biệt dứt khoát được giữa con vật
với con người, Anh bạn Hoang Tưởng của chúng ta có lần nói: "Con người
là con vật ý thức được tương lai và hành động theo nhận thức quá khứ, có
sáng tạo và khống chế được những hối thúc bản năng". Chúng ta nhớ lại
và ngẫm nghĩ, hóa ra đó có thể là câu trả lời thỏa đáng nhất.
***
Loài người, sau khi tiếp cận được lối sống cộng đồng xã hội và sở hữu
được lối mưu sinh bằng lao động sản xuất ra giá trị thặng dư, tiến lên nền sản xuất hành hóa (mà trước
đó chưa hề có), thì đã có đủ "thời gian rảnh rỗi" để bắt đầu có đủ khả
năng xây dựng những công trình vĩ đại (như kim tự tháp, vạn lý trường
thành...), bắt đầu tiến lên văn minh như vũ bão, đã có vẻ như đã hóa thánh: không có mang nhưng bơi, lặn giỏi hơn cá,
không có cánh nhưng bay lượn thuần thục hơn chim. Nhưng không phải vì thế mà con
người giảm bớt được tính mù quáng trong hoạt động sống của nó, trái lại
tính mù quáng đó ngày càng trở nên tồi tệ hơn, phạm vi ngày càng sâu
rộng hơn, không còn là sự mù quáng đơn thuần của con vật nữa, mà là sự
mù quáng trong sáng suốt, minh tuệ của con người. Bằng chứng rõ ràng
nhất, không thể chối cãi được là sự gây hấn chiến tranh, phổ biến sự giết
chóc tàn sát dã man ngay chính đồng loại mình. Ở thế giới sinh vật hoang
dã, đâu có thấy phổ biến hiện tượng tìm kiếm sống còn bằng cách đi ngược lại với cố gắng bảo toàn
sống còn ấy!?
Nếu Trái Đất đã may mắn có được thiên nhiên - một
môi trường tự nhiên phù hợp để dung túng thế giới sự sống, thì sự tự
giác tích cực mưu sinh kết hợp với tư duy trừu tượng đã tạo ra được xã
hội - một môi trường sống nhân tạo không thể từ bỏ của lối sống đại đa
số con người. Chính lối sống hợp quần xã hội và sinh tồn bằng lao động
thặng dư trong qui mô sản xuất và ăn chia thành quả nhất định không
những đã dẫn đến đáp ứng cho sự sống còn sinh học, mà còn đáp ứng cho
một hình thái sống còn thứ hai, chỉ loài người tư duy trừu tượng mới có,
không thể thiếu được và làm nên văn hóa nhân loại, đó là sự sống còn
tinh thần. Nếu mục đích chủ yếu của đấu tranh sinh tồn cho sự sống còn
sinh học là cái ăn, thì mục đích của đấu tranh sinh tồn cho sự sống còn
tinh thần là danh lợi. Thực ra lợi là những thứ cần thiết cho sự sống
còn của con người (trong đó tất nhiên có cả đời sống tinh thần), gồm
thực phẩm và những thứ tiêu dùng thiết yếu phi thực phẩm, nảy sinh trong
quá trình tiến lên văn minh của loài người. Còn danh là thứ làm thỏa
mãn đời sống tinh thần (là lợi), đồng thời cũng gián tiếp sinh ra lợi
(quyền lực, lợi ích). Trong xã hội loài người, mọi hoạt động của con
người đều nhằm mục đích danh lợi. Cho nên, muốn giải thích được thỏa
đáng những hiện tượng xảy ra trong xã hội, tiên quyết phải dựa vào luận
điểm này.
Môi trường sống xã hội, dù nhân tạo, thì xét cho cùng,
cũng bị chi phối bởi các qui luật của môi trường thiên nhiên, chỉ có
điều dưới những dạng đặc thù (chẳng hạn qui luật đấu tranh sinh tồn, qui
luật cung cầu...). Tư duy trừu tượng, do bị áp lực thường xuyên bởi các
qui luật ấy trong suốt quá trình lao động sản xuất xã hội lúc gặp thuận
lợi cũng như lúc khó khăn, và nhất là qui luật phát triển lạm phát về
số lượng cá thể sinh vật khi gặp điều kiện thuận lợi, đã nhào nặn con
người thành những sinh linh có tâm hồn với đầy đủ các sắc thái tình cảm
"hỉ, nộ, ái, ố" sâu sắc, hình thành đủ mọi khái niệm như sướng - khổ,
giàu - nghèo, yêu - ghét, vị tha - hận thù...Tình hình đó nhất thiết dẫn
dắt con người tới sự tranh giành, cướp đoạt lẫn nhau gây nên sự chết
chóc đồng loại. Và chiến tranh là không tránh khỏi.
Theo triết học
duy tồn, chiến tranh là hình thái cực đoan của tranh giành danh lợi
(danh lợi và quyền lợi) của hai hay nhiều xã hội, của hai hay
nhiều tập đoàn người. Vì chiến tranh là tranh giành danh lợi cực đoan
nên sự giết chóc, tàn sát lẫn nhau, phá hoại thành quả của nhau giữa
người với người là đương nhiên khi con người vẫn còn chìm đắm trong mù
quáng nhận thức.
Xã hội hình thành là một đòi hỏi tự nhiên từ sự
tự giác sống còn và chủ động mưu sinh của con người. Xã hội tồn tại nhằm
tạo điều kiện làm ra của cải, vật chất (danh lợi) bằng cách thức sản
xuất. Xã hội tồn tại dần dần hun đúc nên cuộc sống tinh thần của con
người với đầy đủ những sắc thái chia ra làm hai mặt tốt - xấu của nó.
Nói chung mặt tốt là mặt có tác dụng gắn kết, duy trì sự tồn tại xã hội,
còn mặt xấu là mặt có tác dụng phá hoại, làm phân rã xã hội.
Khi
xét mức sống dân cư của một thời đoạn xã hội thì phải dựa trên trình độ
tiêu dùng của dân cư thời đoạn xã hội đó mà đánh giá. Mức sống ngày nay
chắc chắn là văn minh hơn, nhưng không thể gọi là cao hơn, sung túc hơn
mức sống thời nguyên thủy. Có lẽ hình thái đầu tiên của xã hội loài
người là hình thái Cộng sản nguyên thủy. đặc điểm của hình thái này là sở hữu chung về tư liệu sản xuất, lao động tập thể và hưởng chung
thành quả lao động; công cụ sản xuất thô sơ, lực lượng sản xuất phát
triển ở trình độ thấp. Dù "Cộng sản nguyên thủy" là một khái niệm
xuất phát từ Karl Marx và Friedrich Engels, nhưng quan niệm của chúng
ta có khác. Chúng ta cho rằng, vào thời Cộng sản nguyên thủy, chế độ
sống theo vợ chồng mẫu hệ đã manh nha hình thành, manh nha trở thành tế bào xã
hội, đời sống dân cư sung túc, của cải dồi dào, chưa có nhà nước, chưa
có khái niệm danh lợi, chưa phân định giàu - nghèo, chưa có khái niệm tư
hữu, chưa phân tầng giai cấp...Xã hội thời kỳ đó thực sự bình đẳng,
thực sự tự do, hồn nhiên hết mực.
Do những biến động thiên nhiên cũng như sự chuyển
hóa xã hội ảnh hưởng đến sản xuất, sản xuất không theo kịp mức sống
trung bình xã hội dẫn đến những giai đoạn thịnh - suy xã hội kế tiếp
nhau. Điều đó làm cho một loạt những khái niệm cũng như phong phú sắc
thái tình cảm liên quan đến đời sống con người như: của cải, vơ vét,
tích lũy, giàu - nghèo, sướng - khổ, lười nhác - siêng năng, thiếu thốn -
dư thừa, hạnh phúc - khổ đau, vui - buồn...được hình thành và ngày
càng trở nên sâu sắc. Xuất hiện những hiện tượng không làm cũng có ăn. Kiếm được cái ăn không phải nhờ tự bản thân lao động mà đôi khi chỉ nhờ vào có sức trấn áp, đe dọa đồng loại, tức nhờ vào bạo lực. Cũng từ đó, mặt xấu về cuộc sống tinh thần của con
người trong xã hội hình thành và ngày càng phát tác tiêu cực đến đoàn
kết xã hội, có nguy cơ làm phân rã xã hội. Tình hình đó đương nhiên đòi hỏi sự ra
đời của nhà nước để điều hành, trị an xã hội, tăng cường sự đoàn kết,
hoạt động đồng bộ xã hội, bảo toàn xã hội.
Như vậy, mục đích tự
nhiên đầu tiên, nguyên thủy, xuyên suốt và thiết yếu của nhà nước là trị an xã hội.
Chính vì thế mà bản chất tự nhiên đầu tiên, nguyên thủy của nhà nước
cũng là hoạt động vì đại đa số dân cư trong xã hội, nghĩa là "của dân,
do dân và vì dân".
Học thuyết Mác - Lênin đã quan niệm chưa thuyết
phục về sự ra đời của nhà nước khi cho rằng, lực lượng sản xuất phát
triển đã dẫn đến sự ra đời chế độ tư hữu và từ đó xã hội phân chia thành
các giai cấp đối kháng và cuộc đấu tranh giai cấp không thể đều hòa
được xuất hiện. Điều đó dẫn đến nguy cơ các giai cấp chẳng những tiêu
diệt lẫn nhau mà còn tiêu diệt luôn cả xã hội. Để thảm họa đó không
diễn ra, một cơ quan quyền lực đặc biệt đã ra đời. Đó là nhà nước.
Nhà
nước đầu tiên trong lịch sử là nhà nước chiếm hữu nô lệ, xuất hiện trong
cuộc đấu tranh không điều hòa giữa giai cấp chủ nô và giai cấp nô
lệ...Mác - Ăngghen đã viết: "nhà nước chẳng qua chỉ là một bộ máy của
một giai cấp này dùng để trấn áp một giai cấp khác". Rốt cục, theo họ,
bản chất của nhà nước, theo nguyên nghĩa, là nhà nước của giai cấp bóc
lột. Từ quan niệm sai lầm đó, các nhà cách mạng mácxít đã đi đến nhận
định, cho dù được che giấu dưới hình thức tinh vi như thế nào, cho dù có
bị khúc xạ qua những lăng kính phức tạp ra sao, nhà nước trong mọi xã
hội có giai cấp đối kháng cũng chỉ là công cụ bảo vệ lợi ích của giai
cấp thống trị. Vì thế mà các nhà cách mạng mácxít đi đến một chủ trương
đầy tính cực đoan: xóa bỏ chế độ tư bản, dùng chuyên chính vô sản tiêu
diệt giai cất tư sản, đập tan nhà nước tư sản, xây dựng nhà nước vô sản
của giai cấp công nhân, tiến lên xóa bỏ nhà nước.
Thực ra, do Tự Nhiên Tồn Tại khi vận động
và chuyển hóa xét cho cùng chỉ phải tuân theo một nguyên lý duy nhất là
nguyên lý tự nhiên nên nó tồn tại một cách vừa tự do tối đa lại vừa bị
ràng buộc tuyệt đối, tức là muốn chuyển hóa thành cái gì cũng được miễn
có khả năng, nhưng không được Hư Vô. Từ đó dẫn đến một đặc trưng quan
trọng của Tự Nhiên Tồn Tại là đầy đủ. Đầy đủ là thứ gì cũng có, chỉ
không có Hư Vô. Vì đầy đủ nên Tự Nhiên Tồn Tại vô cùng phong phú, đa
dạng, có thể phân thành vi mô - vĩ mô, có thể thấy vừa liên tục vừa gián
đoạn, và đặc biệt có thể phân thành tầng lớp, có thể được nhìn nhận như
một thế giới tương phản, gồm các lực lượng đối nghịch nhau. Và xã hội,
vì là bộ phận của Tự Nhiên Tồn Tại, của tự nhiên, của thiên nhiên, của
thế giới sinh vật, có thể coi là bức tranh thu nhỏ của Trái Đất nên cũng
có những đặc tính tương tự như của Tự Nhiên Tồn Tại, tương tự như của
thiên nhiên Trái Đất, cũng có những đặc trưng về tính đầy đủ nhưng thể
hiện ra dưới dạng đặc thù của riêng xã hội, mà triết học cổ đại Trung
Hoa từ lâu đã gọi là hai lực lượng Âm - Dương và có lẽ
được xây dựng nên từ ý niệm ban đầu là lưỡng phân lưỡng hợp được quan
sát và nhận biết tuyệt đích của người Việt cổ (!), coi như chỉ xã hội
loài người mới có. Một trong những biểu hiện nổi bật của tính đầy đủ
trong xã hội loài người là sự phân định dân cư xã hội thành hai lực
lượng tương phản giàu - nghèo. Lúc đầu, sự phân tầng giàu - nghèo chỉ có
tính ngẫu nhiên, hời hợt, nghĩa là sự phân tầng giàu - nghèo hình thành
từ những yếu tố tự nhiên (như gặp thời tiết thuận hòa,
thiên
nhiên ưu đãi...). Theo quan niệm của chúng ta, sự phân tầng giàu nghèo
do yếu tố tự nhiên (hoặc không do bóc lột thặng dư), không được coi là
phân tầng giai cấp. Nhưng do các yếu tố thuận lợi - bất lợi, nhất là các
quá trình thịnh - suy xã hội tác động đến tính chủ động tích cực đảm
bảo sự sống còn của con người, dần dần làm cả mặt tích cực cũng như mặt
tiêu cực của đời sống tinh thần của con người ngày càng phát triển,
nghĩa là các sắc thái tình cảm ngày càng trở nên sâu sắc. Đó là nguyên
nhân làm xuất hiện hàng loạt khái niệm mới, như của cải, tích cốc phòng
cơ, cướp bóc, tranh giành, căm thù, tư hữu, phè phỡn, đói khổ, tốt - xấu,
khinh - trọng, thừa - thiếu, đạo đức...
Cuối thời Cộng sản nguyên
thủy, mặt trái của đời sống tinh thần dân cư nổi trội tàn phá xã hội
mạnh mẽ. Nguy cơ phá vỡ sự đoàn kết tồn tại xã hội buộc đông đảo dân cư
(đại biểu là tầng lớp giàu có) phải tập hợp lại, tìm cách hoàn thiện
loại hình nhà nước - loại hình tổ chức đặc biệt, đã tồn tại tự nhiên từ
trước như một dạng nhà nước sơ khai, đóng vai trò duy nhất là điều hòa
hoạt động xã hội, đảm bảo sự ổn định xã hội. Mục đích hoàn thiện nhà
nước là để cho nó có đủ năng lực thực hiện trị an xã hội, duy trì đời
sống xã hội, giúp cho dân cư toàn xã hội được kiếm ăn, mưu sinh thuận
lợi, trôi chảy. Việc làm đó là cần thiết để bảo vệ sự sống còn xã hội,
nhưng đồng thời vô hình dung cũng bảo vệ như một lẽ đương nhiên công
cuộc làm ăn cho tầng lớp giàu có. Đi đôi với quá trình kiện toàn bộ máy
nhà nước là quá trình chuyển hóa xã hội: hình thái cộng sản nguyên thủy
tan rã, hình thành hình thái mới có tên tư bản nguyên thủy (tạm đặt tên
như thế vì trên thế giới chưa ai thừa nhận hình thái xã hội này trong
lịch sử xã hội loài người; chúng ta là những người đầu tiên nêu ra!),
trình độ sản xuất đã được nâng cao hơn, đã xuất hiện sơ khai hình thức
sản xuất hàng hóa, con người đã bắt đầu biết tích lũy của cải, sở hữu
công cụ lao động và tư liệu sản xuất, chế độ vợ chồng ra đời....
Trong thời tư bản nguyên
thủy, lòng tham (sự ham muốn) đã trở thành như bản chất con người, cuộc
sống gắn kết gia đình (vợ chồng và con cái) được củng cố, đóng vai trò
như tế bào làm nên xã hội (chúng ta tin hình thức hợp thành gia đình sẽ
trở nên nhạt nhòa khi hình thái cộng sản chủ nghĩa trở thành xã hội hiện
thực). Cũng trong thời tư bản nguyên thủy, nhà nước biến thái dần thành
nhà nước của tầng lớp giàu có, bênh vực tầng lớp giàu có. Dân cư trong
xã hội đã nhận thức rõ thế nào là danh lợi, quyền lực và tranh giành
quyền - lợi trong xã hội cũng chính là hoạt động nhằm cố gắng sống còn. Sự đấu tranh đã xảy ra một cách phổ biến. (Chiến tranh là cuộc gây chết chóc lẫn nhau vì danh lợi nói chung, còn đấu tranh là cuộc đi xóa bỏ bất công trong hưởng thụ danh lợi, tình trạng cực đoan của đấu tranh là chiến tranh!). Lúc này sự phân định giàu -
nghèo trong xã hội không còn mang yếu tố tự nhiên thuần túy nữa mà chủ
yếu là mang yếu tố nhân tạo: nghèo do nhà nước áp chế, chèn ép, bóc lột
mà nghèo đi, giàu do nhà nước ưu tiên, bênh vực dung túng, do cướp bóc
được mà giàu lên. Chính sự phân tầng giàu - nghèo bất chính ấy là
nguyên nhân xuất hiện giai cấp.
Như vậy, phải cho rằng sự hình
thành nhà nước là tiến đề xuất hiện giai cấp chứ không phải ngược lại
như quan niệm của Mác - Lênin. Hơn nữa, không phải lúc nào trong xã hội
cũng phân tầng giai cấp và sự tồn tại các giai cấp đạt mâu thuẫn đối
kháng; khi nhà nước còn mang chức năng ban đầu (bản chất nguyên thủy là
của dân, do dân và vì dân) thì không có phân tầng giai cấp và lịch sử xã
hội loài người đã chỉ ra, chưa từng có sự phân tầng giai cấp nào khác
ngoài sự phân tầng ra hai giai cấp thống trị - bị trị, nghĩa là tầng lớp
công nhân, nông dân, vô sản, tư sản chưa từng tồn tại như những giai
cấp có sức sống độc lập mà Mác - Lênin đã lầm tưởng để từ đó hô hào
cuộc cách mạng kinh thiên động địa, đầy ảo tưởng gọi là cách mạng vô
sản, đấu tranh giai cấp khốc liệt, phá - xây điên cuồng, hướng tới lý
tưởng xã hội tươi đẹp bằng cách bước đầu tiên là đạp đổ chế độ cũ, tiêu diệt giai cấp tư sản bóc lột, nhưng rốt cuộc... chẳng đến đâu cả, không những không xóa bỏ được giai cấp tư sản, mà còn làm xuất sinh từ bản thân mình một tầng lớp "ăn tàn phá hại", đục khoét mục ruỗng xã hội còn hơn cả giai cấp tư sản, đó là bè lũ "tư sản đỏ"!
Qua thời
tư bản nguyên thủy thì đến thời chiếm hữu nô lệ. Đặc trưng của thời kỳ
này là nhà nước chuyển hóa thành một thứ công cụ bạo lực đứng về phía
tầng lớp giàu có, sẵn sàng trấn áp xã hội và được gọi là nhà nước chủ
nô (chức năng nguyên thủy ban đầu đã thoái hóa xuống mức tối thiểu). Xã hội phân chia lực lượng dân cư thành hai tầng lớp mâu thuẫn đối
kháng nhau rõ ràng là tầng lớp thống trị và tầng lớp bị trị. Sự tư hữu
đã đạt đến mức độ tới hạn của nó: những gia đình có của không những chia
nhau chiếm hữu hầu hết tư liệu sản xuất, mà còn chiếm hữu cả lực lượng
lao động (chiếm hữu nô lệ), biến lực lượng lao động thành một dạng công
cụ sản xuất, một đồ chơi giải trí đặc biệt. Sự làm giàu bất chính nhờ
được nhà nước "cảnh sát" bảo hộ của tầng lớp thống trị và sự bị đày đọa
cùng cực, bị vô sản hóa của tầng lớp bị trị đã ngày càng khoét sâu mâu
thuẫn về quyền lợi giữa hai giai cấp, nung nấu sự bùng nổ cách mạng xã
hội, làm xuất hiện hình thái xã hội phong kiến thay thế hình thái chiếm
hữu nô lệ.
Cuối thời chiếm hữu nô lệ, những đòi hỏi phá bỏ những
ràng buộc, xiềng xích nô lệ, được tự do mưu cầu danh lợi đã làm cho
chiến tranh trở thành hiện tượng phổ biến. Sự mở rộng và phát triển của
sản xuất hàng hóa yêu cầu nâng cao hơn nữa việc chiếm hữu đất đai và trình độ sản xuất đã là
nguyên nhân chủ yếu dọn đường cho hình thái xã hội phong kiến ra đời
thay cho chế độ chiếm hữu nô lệ đã trở nên lạc hậu. Đây là thời kỳ tồn
tại tầng lớp điền chủ giàu có, sống xa hoa, phè phỡn, lãng phí nhờ thu
điền tô của tầng lớp nông dân, nông nô trong xã hội. Đặc trưng của thời
đại phong kiến là nhà nước khẳng định chế độ độc tài (chế độ quân chủ),
cha truyền con nối như một lẽ tự nhiên. Chiến tranh huynh đệ tương tàn,
giành giật danh lợi trong nội bộ tầng lớp thống trị và khởi nghĩa nông
dân xảy ra triền miên chống sự áp bức, bóc lột tàn nhẫn của tầng lớp
thống trị. Cứ ngỡ với tình trạng như thế, chế độ phong kiến rất nhanh
suy tàn, chịu sự thay thế của một hình thái kinh tế xã hội mới. Nhưng
không, thật lạ lùng, dù có lúc thịnh lúc suy, chế độ phong kiến vẫn tồi
tại dai dẳng hàng ngàn năm, "thọ" nhất trong số các hình thái kinh tế xã
hội đã từng tồn tại cho đến nay. Điều đó làm chúng ta suy nghĩ rất
nhiều để cố tìm ra lời giải thích thỏa đáng. Có lẽ do trình độ sản xuất hàng hóa đã chưa đủ để tiến lên sản xuất tập trung, qui mô lớn!
Như chúng ta đã khẳng
định, thế giới này chỉ có Tự Nhiên Tồn Tại chứ không thể có Hư Vô. Do
đó, đặc tính cơ bản nhất của Tự Nhiên Tồn Tại là tồn tại và chuyển hóa.
Khi tồn tại thì nó (Tự Nhiên Tồn Tại) phải cố gắng tồn tại (thể hiện ra
là quán tính), và khi chuyển hóa thì biến đổi từ dạng tồn tại này sang
dạng tồn tại khác. Sinh vật cũng tương tự, ra đời để sống cho dù đến mức
hạn định thì phải chết đi (chuyểng sang dạng tồn tại khác). Do đó,
trong một thiên nhiên chịu ảnh hưởng bởi qui luật tăng trưởng lạm phát
về số lượng cá thể và nguồn thức ăn có tính hạn định, thì qui luật đấu
tranh sinh tồn là qui luật cơ bản nhất trong thế giới sinh vật. Nhờ có
qui luật đấu tranh sinh tồn mà quá trình tiến hóa - thích nghi được
triển khai để thế giới sinh vật chuyển hóa thành đa dạng giống loài và
hoàn thiện các cấu trúc cơ thể, các chức năng tìm kiếm thức ăn như ngày
nay. Một trong những kết quả tưởng ngẫu nhiên nhưng thực ra là tất yếu
của quá trình tiến hóa - thích nghi là làm xuất hiện loài người - loài
có tư duy trừu tượng (ở bất cứ nơi nào có môi trường giống Trái Đất đều
phải sinh ra loài có tư duy trừu tượng!). Loài có tư duy trừu tượng là
loài tích cực nhất trong đấu tranh sinh tồn. Do đó, việc tìm ra lối sống
tối ưu để đảm bảo sống còn là hướng đi tất yếu của nó. Và lối sống tối
ưu ấy là định cư lâu dài cùng với sự đoàn kết, hợp quần thành cộng đồng
xã hội.
Cần phải cho rằng, hình thức sống theo lối cộng đồng xã
hội ở loài người có tư duy trừu tượng là tiếp nối hình thức sống theo
lối quần thể, bầy đàn theo bản năng ở các loài sinh vật. Nếu mục đích
của lối sống quần thể, bầy đàn là tăng cường hiệu quả trong hoạt động
sống còn, trong việc kiếm ăn, thì mục đích của lối sống cộng đồng xã hội
cũng tương tự, là nhằm tăng cường khả năng sống còn, tăng cường hiệu
quả trong lao động, sản xuất, và cuối cùng là tạo khả năng tìm kiếm danh
lợi ở mỗi cá thể. Trong thời đại phong kiến, tuy sự bóc lột của tầng
lớp thống trị đối với tầng lớp bị trị không ngừng tăng lên làm suy tàn
xã hội, song sự phát triển của trình độ sản xuất hàng hóa xã hội và hình
như cả sự xuất hiện chiến tranh liên miên cũng góp phần tích cực vào sự
duy trì chế độ phong kiến (?). Điều đặc biệt là hình thức nhà nước độc
tài (nhà nước quân chủ) đã như một hình thức nhà nước tối ưu, mặc định.
Mọi cuộc chiến tranh, sau khi lật đổ được chế độ quân chủ này, ông vua
này, thì rồi cũng dựng nên một chế độ quân chủ khác, ông vua khác. Phải
chăng chế độ độc tài mang những yếu tố tự nhiên cần có, nghĩa là hợp lý,
của mọi chế độ xã hội?
Tuy vậy, chế độ phong kiến rồi cũng đến
thời kỳ suy tàn. Nhờ vào sự phát triển vũ bão của khoa học - kỹ thuật,
và có lẽ do sự "đuối sức" của nền sản xuất hàng hóa thủ công, mang tính
tự cung tự cấp trước sự lớn lên không ngừng về số lượng hàng tiêu dùng
phi thực phẩm cộng với sự chi phí quá mức xa hoa, phung phí như tiệc
tùng thừa mứa, xây dựng những cung điện, đền đài nguy nga, đồ sộ, ...của
tầng lớp thống trị, làm phát sinh đòi hỏi mở rộng nền sản xuất hàng hóa
cũ để thiết lập một nền sản xuất có trình độ cao hơn, rộng lượng hơn,
tập trung hơn để đạt hiệu quả cao hơn, gọi là nền sản xuất công nghiệp.
Nhưng muốn có nền sản xuất công nghiệp thì chế độ quân chủ trở nên không
còn phù hợp nữa, phải xây dựng chế độ mới có khuynh hướng tự do hơn,
dân chủ hơn quen gọi là chế độ tư bản. Và thế là một hình thái kinh tế
xã hội mới ra đời, thay thế hình thái kinh tế xã hội phong kiến, được
gọi là hình thái kinh tế xã hội tư bản chủ nghĩa. Hiện nay chúng ta đang
sống trong hình thái xã hội này.
(Còn tiếp)
-------------------------------------------------------------------
TT & HĐ V - 50/f
(Tiếp theo)
***
Khi đã làm đáp ứng tương đối dư dả miếng ăn và đạt đến năng lực lao động thặng dư thì do sẵn tính chủ động - thích nghi nên con người, ngoài việc kiếm miếng ăn trực tiếp (lương thực, thực phẩm), còn phát triển lao động thủ công nhằm sáng tạo ra những thứ phi lương thực - thực phẩm để đáp ứng nhu cầu sử dụng phát sinh trong trong cuộc sống ngày càng văn minh của mình (như công cụ lao động, vât dụng sinh hoạt, quần áo...).
Nhờ lao động có tư duy sáng tạo mà loài người có được thặng dư. Nhờ có lao động thăng dư mà con người phát triển lên sản xuất. Sản xuất là lao động có hệ thống và cho ra thặng dư. Nền sản xuất đầu tiên mà loài người biết tới là nền sản xuất nông nghiệp có tính tự cung tự cấp. Khi nền sản xuất nông nghiệp đã đáp ứng đầy đủ mức độ tiêu dùng và tích lũy thì phần sản phẩm dôi ra hoặc chưa tối cần thiết cho nhu cấu tiếu dùng sẽ được đem đi quanh vùng để trao đổi những sản phẩm khác chủng loại hay còn thiếu. Khi sự trao đổi ấy đã thành tập quán thì người ta cũng sáng tạo ra những hình thức trao đổi mới tiện lợi hơn, vừa bảo toàn giá trị sản phẩm sau nhiều lần trao đổi, vừa tích lũy để dành làm của cải. Lượng sản phẩm trao đổi này càng tăng đã dần tạo nên một bộ phận con người độc lập đảm đương vai trò trao đổi, sống nhờ vào công việc trao đổi đó: lực lượng gọi là thương lái, con buôn. Đó là nguyên nhân ra đời của hình thức sản xuất có tên "sản xuất hàng hóa".
Xuyên suốt thời đại phong kiến là nền sản xuất hàng hóa nông nghiệp. Nền sản xuất này vẫn mang nặng tính tự cung tự cấp.
Thời đại phong kiến suy tàn không phải vì nền sản xuất của nó không phát triển mà có lẽ là do tác dụng tổng hợp của các yếu tố nguyên nhân sau:
-Sự tiêu dùng xa hoa, phung phí của tầng lớp thống trị
-Sự bị bóc lột thậm tệ của đông đảo tầng lớp bị trị
-Hình thức tư hữu của cải đã được công nhận từ thời tư bản nguyên thủy, càng được củng cố thành lẽ hiển nhiên trong thời phong kiến cộng với ước muốn được tự do làm giàu vô giới hạn của tầng lớp có của trên con đường tìm kiếm danh lợi.
-Chiến tranh dành giật danh lợi triền miên giữa các tập đoàn phong kiến, phe phái tôn giáo.
-Sự phát triển của khoa học kỹ thuật
-Sự khám phá ra các vùng đất mới giàu tài nguyên thiên nhiên và mở rộng thị trường.
-Sản xuất hành hóa đã phát triển đến trình độ đòi hỏi phải tách sản xuất hàng tiêu dùng phi thực phẩm ra khỏi sản xuất nông nghiệp, tồn tại độc lập thành những ngành sản xuất tập trung, có qui mô ngày một lớn, gọi chung là sản xuất công nghiệp.
Kế thừa hình thái kinh tế xã hội phong kiến là hình thái kinh tế xã hội tư bản chủ nghĩa. Theo Wikipedia thì:
"Chủ nghĩa tư bản là một hình thái kinh tế – xã hội của xã hội loài người, xuất hiện đầu tiên tại châu Âu, phôi thai và phát triển từ trong lòng xã hội phong kiến châu Âu và chính thức được xác lập như một hình thái xã hội tại Hà Lan và Anh ở thế kỷ XVII. Sau cách mạng Pháp cuối thế kỷ XVIII, hình thái chính trị của "nhà nước tư bản chủ nghĩa" dần dần chiếm ưu thế hoàn toàn tại châu Âu và loại bỏ dần hình thái nhà nước của chế độ phong kiến, quý tộc. Và sau này hình thái chính trị – kinh tế – xã hội tư bản chủ nghĩa lan ra khắp châu Âu và thế giới.
Một động cơ hơi nước Watt: động cơ hơi nước được sử dụng nhiên liệu bằng than thúc đẩy cuộc cách mạng công nghiệp ở Vương quốc Anh.
(...).
Đặc điểm đặc trưng nhất của chủ nghĩa tư bản là nhìn nhận quyền sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, quyền này được Nhà nước tư bản chủ nghĩa bảo vệ về mặt luật pháp. Trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa không loại trừ hình thức sở hữu nhà nước và sở hữu tập thể và đôi khi ở một số nước tư bản chủ nghĩa, tại một số thời điểm tỷ trọng của các hình thức sở hữu này chiếm không nhỏ (hay còn gọi là mô hình kinh tế hỗn hợp), nhưng điều cơ bản phân biệt xã hội của chủ nghĩa tư bản với xã hội đối lập với nó là xã hội cộng sản chủ nghĩa là trong xã hội tư bản chủ nghĩa quyền tư hữu đối với phương tiện sản xuất được xã hội và pháp luật bảo vệ, sự chuyển đổi quyền sở hữu phải thông qua giao dịch dân sự được pháp luật và xã hội quy định. Còn chủ nghĩa cộng sản và phần lớn trường phái chủ nghĩa xã hội công nhận quyền sở hữu toàn dân, tập thể và nhà nước đối với các tư liệu sản xuất (ví dụ như đất đai và tài nguyên khoáng sản).
(...).
Chủ nghĩa tư bản đã bắt đầu tồn tại trên quy mô nhỏ trong nhiều thế kỷ xuất hiện dưới dạng các hoạt động buôn bán, cho thuê và cho vay và đôi khi là ngành công nghiệp quy mô nhỏ với một số lao động làm công ăn lương. Đã có một lịch sử rất dài trong trao đổi hàng hóa đơn giản và sản xuất hàng hóa đơn giản, đó là nền tảng ban đầu cho sự phát triển của tư bản từ trao đổi thương mại. "Thời kỳ chủ nghĩa tư bản" theo Karl Marx có từ các thương gia thế kỷ 16 và các thành phố đô thị nhỏ. Marx biết rằng lao động tiền lương đã tồn tại trên một quy mô nhỏ trong nhiều thế kỷ trước khi ngành công nghiệp tư bản chủ nghĩa. Các nước Hồi đã giáo sớm ban hành chính sách kinh tế tư bản, di cư sang châu Âu thông qua các đối tác thương mại từ các thành phố như Venice. Chủ nghĩa tư bản trong hình thức hiện đại có thể được bắt nguồn từ sự xuất hiện của chủ nghĩa tư bản nông nghiệp và chủ nghĩa trọng thương trong thời kỳ Phục hưng.
Tiêu chuẩn vàng đã hình thành cơ sở tài chính của nền kinh tế quốc tế từ 1870 đến 1914.
Trong toán học và nghệ thuật, hai đại lượng được gọi là có tỷ số vàng hay tỷ lệ vàng nếu tỷ số giữa tổng của các đại lượng đó với đại lượng lớn hơn bằng tỷ số giữa đại lượng lớn hơn với đại lượng nhỏ hơn. Tỷ lệ vàng thường được ký hiệu bằng ký tự (phi) trong bảng chữ cái Hy Lạp nhằm tưởng nhớ đến Phidias, nhà điêu khắc đã xây dựng nên đền Parthenon.
Tỷ lệ vàng được biểu diễn như sau:
Các hình thức tư bản và trao đổi thương mại đã tồn tại nhiều năm trong phần lớn lịch sử, nhưng nó không dẫn đến sự công nghiệp hóa hay chi phối quá trình sản xuất của xã hội. Do nó đòi hỏi rất nhiều các điều kiện, bao gồm các công nghệ cụ thể về sản xuất hàng loạt, khả năng độc lập, tư nhân và buôn bán phương tiện sản xuất, một tầng lớp công nhân sẵn sàng bán sức lao động của mình để kiếm sống, khung pháp lý thúc đẩy thương mại, cơ sở vật chất cho phép lưu thông hàng hóa một quy mô lớn và an ninh cho sự tích lũy cá nhân. Nhiều điều kiện trong số này không tồn tại ở nhiều nước thế giới thứ ba, mặc dù có nhiều vốn và lao động. Những trở ngại cho sự phát triển của thị trường tư bản do đó ít kỹ thuật và xã hội, văn hóa và chính trị hơn..
(...).
Chủ nghĩa tư bản đã được mở rộng ra thế giới bởi các quá trình toàn cầu hóa và đến cuối thế kỷ 18 đã trở thành hệ thống kinh tế chiếm ưu thế. Sau đó trong thế kỷ 20, chủ nghĩa tư bản đã vượt qua thách thức của các nền kinh tế kế hoạch tập trung và hiện là hệ thống bao trùm toàn cầu,với nền kinh tế hỗn hợp là hình thức thống trị của nó trong thế giới công nghiệp hóa phương Tây.
Công nghiệp hóa cho phép sản xuất giá rẻ các mặt hàng gia dụng bằng cách sử dụng quy mô kinh tế trong khi tăng dân số nhanh tạo ra nhu cầu bền vững cho hàng hóa. Toàn cầu hoá trong giai đoạn này được định hình bởi chủ nghĩa đế quốc ở thế kỷ 18".
Khi cuộc sống loài người đã vượt thoát mông muội tiến lên văn minh và nhờ được tranh bị tư duy trừu tượng mà có được một cuộc sống tinh thần phong phú với một hệ thống tình cảm đa dạng sâu sắc thì ước mơ tột cùng của con người dần dần qui tụ lại thành một mục tiêu duy nhất là được sống một cuộc sống tự do, bình đẳng, bác ái, no đủ, hạnh phúc trong hòa bình. Mong ước ấy là chính đáng, hợp lý và không mâu thuẫn với tự nhiên. Chính vì thế mà hình thái kinh tế xã hội tư bản chủ nghĩa chưa phải là hình thái xã hội cuối cùng của xã hội loài người. Trong xã hội tư bản ngày nay vẫn còn những hiện tượng xảy ra trái với ước mong cuộc sống con người, trái với nhân tính thánh thiện của con người như chiến tranh, người bóc lột người, phân định giàu - nghèo thái quá, lao động kiếm ăn còn căng thẳng..., sự ham hố danh lợi và đam mê quyền lực vẫn còn ngự trị thường xuyên trong tâm hồn con người.
Ngay từ thời tư bản nguyên thủy, khi con người đã biết đến tư hữu của cải (trong đó bao gồm cả tư hữu về tư liệu sản xuất) và tranh đoạt danh lợi từ người khác, nghĩa là biết bóc lột thặng dư để làm giàu cho cá nhân mình, đã xuất hiện hiện tượng đấu tranh chống bóc lột, đòi công bằng. Cuộc đấu tranh ấy tùy vào mức độ của bóc lột, áp bức cường quyền mà có lúc đơn lẻ, lúc phong trào, lúc có thể hòa giải, lúc một mất một còn, và kéo dài đến ngày nay chưa dứt.
Cuộc đấu tranh ấy nổi lên đặc biệt mạnh mẽ vào nửa đầu thế kỷ XX khi có sự cạnh tranh tự do khốc liệt trong nội bộ tầng lớp tư sản nhằm tích lũy tư bản để mưu cầu phát triển, đảm bảo sống còn. Sự bóc lột thậm tệ, thu hoạch giá trị thăng dư đến tận cùng khả năng (lạm thu) của tầng lớp thống trị đối với tầng lớp bị trị đã thổi bùng ngọn lửa đấu tranh đòi chia lại giá trị thặng dư (đòi tăng lương, giảm giờ làm việc,...) của những người làm công ăn lương - đại diện cho tầng lớp bị trị lúc bấy giờ. Cuộc đấu tranh của thời kỳ đầu tư bản chủ nghĩa, khi mà sản xuất thặng dư được thu hoạch (quá mức) chủ yếu từ sức lao động, vì đều có tính sống còn đối với cả hai tầng lớp thống trị và bị trị, nên vô cùng nóng bỏng, đối kháng gay gắt và không thể dung hòa. Tình hình đó thúc đẩy các nhà hoạt động chính trị, các nhà triết học nỗ lực lý giải, phân tích, tìm lời giải thích cho hiện tượng đó và đề xướng ra các mô hình xã hội tương lai. Trong bối cảnh ấy, triết học Mác - Lênin và học thuyết về chủ nghĩa cộng sản ra đời. Phải thừa nhận rằng, dù vẫn phạm sai lầm trong những quan niệm cơ bản của nó về tự nhiên - xã hội, dù hô hào phải biện chứng nhưng thực ra vẫn cực đoan, cứng ngắc trong lập luận, nhận thức, thì triết học Mác - Lênin cũng đã có nhiều luận điểm đúng, nội dung của chủ nghĩa cộng sản đã rất gần với hiện thực khách quan, đã giải thích được có phần hợp lý mâu thuẫn thời đại và chỉ ra cách thức giải quyết mâu thuẫn ấy cho đông đảo tầng lớp bị trị cần lao, chỉ hướng cho loài người tiến đến một hình thái kinh tế xã hội mới vô cùng tươi đẹp, gọi là hình thái xã hội cộng sản chủ nghĩa - hình thái xã hội cuối cùng của xã hội loài người. Thế là nhờ vào sự tuyên truyền tập trung quần chúng của những người cấp tiến, số đông quần chúng cần lao đang lầm than đã tin vào luận thuyết của chủ nghĩa cộng sản, nâng cuộc đấu tranh dành quyền lợi với tầng lớp tư sản, mà thực chất là tầng lớp thống trị, thành cuộc đấu tranh cách mạng với tên gọi "cuộc cách mạng vô sản" với mục đích đầu tiên và sắt máu của nó: xóa bỏ chế độ tư bản, triệt tiêu bóc lột, thủ tiêu cái gọi là giai cấp tư sản, xây dựng chính quyền của giai cấp công - nông. Bắt đầu từ cuộc cách mạng Tháng Mười Nga và nhờ sự hậu thuẫn của cuộc cách mạng ấy, hàng loạt cuộc cách mạng vô sản đã thành công ở một số nước và làm hình thành nên một hệ thống các nước theo chủ nghĩa xã hội, lấy triết học Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng, lấy học thuyết cộng sản chủ nghĩa làm kim chỉ nam cho hành động, đối lập với hệ thống theo chủ nghĩa tư bản. Sau hơn nửa thế kỷ tồn tại một cách khiên cưỡng và thất bại trong việc xây dựng mô hình của hình thái kinh tế xã hội cộng sản, hệ thống ấy bị chính hậu duệ của những người xây dựng nó đạp đổ tan tành, đưa về, hòa nhập trở lại với hệ thống tư bản chủ nghĩa. Vài ba nước cộng sản còn lại, tuy vẫn bảo thủ theo chủ nghĩa cộng sản, nhưng đó chỉ là tuyên bố rỗng tuếch có tính hình thức, gắn nhãn mác. Để tránh sự sụp đổ, những nước đó dù hô hào trung thành với lý tưởng của chủ nghĩa cộng sản, thì vẫn phải hoạt động tuân theo những nguyên tắc cơ bản của kinh tế tư bản chủ nghĩa.
***
Từ buổi đầu nảy sinh khái niệm tư hữu, tranh dành danh lợi, xuất hiện bất công và quá trình đấu tranh đòi quyền sống cơ bản của đại đa số quần chúng cần lao của tầng lớp bị trị đối với tầng lớp thống trị cho tới nay, đã có không ít hình thái xã hội được cho là tốt đẹp mà con người hình dung ra, tưởng tượng ra và cố gắng đạt tới. Nhưng tất cả những hình thái xã hội ấy đều là những bức tranh đậm màu chủ quan của tư duy trừu tượng và ước vọng, do đó đều thiếu cơ sở khoa học, đều không phải là kết quả tất yếu cùa vận động tự nhiên, không hoang đường, không tưởng thì cũng lý tưởng, viễn tưởng, nghĩa là đều vô vọng. Con người, trong quá trình cố gắng mưu sinh, khi lâm vào cuộc sống khổ ải, thường khát khao, mơ tưởng đến cuộc sống an lành hơn, được sống trong một hình thái xã hội ấm no, hạnh phúc hơn, tươi đẹp hơn. Trong số những hình dung về hình thái xã hội tươi đẹp, đầy mộng mơ đó có ba kiểu in đậm trong tâm khảm, khó xóa nhòa trong tâm hồn nhiều người, đó là: Thiên Đàng, Niết Bàn và Chủ nghĩa Cộng Sản.
Nguồn gốc Phật giáo (và cả thiền nữa!), như chúng ta từng hoài nghi, bắt nguồn từ Đạo Giáo. Nhưng điều đó chỉ là suy đoán, không được xác minh với bất cứ bằng chứng cụ thể nào. Chỉ biết chắc rằng Đạo Giáo có xuất xứ từ Đạo Gia của Lão Tử. Theo chúng ta nhận định, Đạo Gia là trường phái triết học duy vật đầu tiên của nhân loại giải thích đúng đắn nhất về thế giới mà trước tác bất hủ của nó là "Đạo đức kinh". Dù luận giải triết học của trường phái còn chất phác, ngây thơ, đôi khi là hời hợt do nhận thức và cách diễn tả bằng văn tự của thời đại bấy giờ, nhưng những kết luận của nó lại vô cùng thâm thúy, sâu sắc. Những di ngôn của nó cho tới tận ngày nay còn hừng hực tính chân lý. Cũng do sự hồ nghi của chúng ta về nguồn gốc Đạo Phật còn thấm đẫm mơ hồ nên vẫn phải theo sự diễn giải truyền thống. Trong Wikipedia có viết thế này:
"Phật giáo được Thích Ca Mâu Ni (Shakyamuni) truyền giảng ở miền bắc Ấn Độ vào thế kỷ 6 TCN.Được truyền bá trong khoảng thời gian 49 năm khi Phật còn tại thế ra nhiều nơi đến nhiều chủng tộc nên lịch sử phát triển của đạo Phật khá đa dạng về các bộ phái cũng như các nghi thức hay phương pháp tu học. Ngay từ buổi đầu, Bổn Sư Thích Ca, người sáng lập đạo Phật, đã tổ chức được một giáo hội với các giới luật chặt chẽ. Nhờ vào sự uyển chuyển của giáo pháp, đạo Phật có thể thích nghi với nhiều hoàn cảnh xã hội, nhiều dạng người, nhiều tập tục ở các thời kỳ khác nhau, và do đó ngày nay Phật giáo vẫn tiếp tục tồn tại và ngày càng phát triển rộng rãi trên toàn thế giới ngay cả trong các nước có nền khoa học tiên tiến như Hoa Kỳ và Tây Âu.
(...)
Về địa lý, phía Bắc của Ấn Độ là dãy Himalaya cao lớn và dài tạo nên một hàng rào cô lập các vùng bình nguyên của xứ này với các vùng còn lại. Để liên lạc với bên ngoài thì chỉ có con đường núi xuyên qua Afghanistan. Nền văn hóa chính ngự trị thời bấy giờ là văn hóa Vệ Đà (Veda). Các bộ lạc du mục người Aryan đã mở mang và xâm chiếm các vùng lãnh thổ Tây Bắc Ấn và lan rộng ra hầu hết bán đảo Ấn Độ khoảng 1000 năm trước công nguyên
Văn hoá Vệ Đà nghiêng về thờ phụng nhiều thần thánh cũng như có các quan điểm thần bí về vũ trụ. Những sự phát triển về sau đã biến Vệ Đà thành một tôn giáo (đạo Bà La Môn) và phân hoá xã hội thành bốn giai cấp chính trong đó đẳng cấp Bà La Môn (tầng lớp tăng lữ) là giai cấp thống trị
Tư tưởng luân hồi cho rằng sinh vật có các vòng sinh tử thoát thai từ đạo Bà La Môn (hay sớm hơn từ tư tưởng Vệ Đà). Đạo Bà La Môn còn cho rằng tồn tại một bản chất của vạn vật, đó là Brahman (hay Phạm Thiên). Việc giai cấp tăng lữ được đề cao và được hưởng mọi ưu đãi bổng lộc trong xã hội đã tạo điều kiện cho việc phân hoá thành phần này ra rất nhiều hướng triết lý hay hành đạo khác nhau và đôi khi chống chọi phản bác nhau. (...)
Ngay sau khi thành đạo (vào khoảng giữa sau thế kỉ thứ 6 TCN - có tài liệu cho đó là vào năm 589 TCN theo Phật giáo Nam Tông hay năm 593 TCN theo Phật giáo Bắc Tông) thì Thích Ca đã quyết định thuyết giảng lại hiểu biết của mình. 60 đệ tử đầu tiên là những người có quan hệ gần với Thích Ca đã hình thành tăng đoàn (hay giáo hội) đầu tiên. Sau đó, những người này chia nhau đi khắp nơi và mang về thêm ngày càng nhiều người muốn theo tu học. Để làm việc được với một lượng người theo tu học ngày càng đông, Phật đã đưa ra một chuẩn mực cho các đệ tử có thể dựa vào đó mà thu nhận thêm người. Các chuẩn mực này phần chính là việc quy y tam bảo - tức là chấp nhận theo hướng dẫn của chính Phật, những lời chỉ dạy của Phật (Pháp), và cộng đồng tăng đoàn.
Trong thời đức Phật Thích Ca còn tại thế thì các tu sĩ Phật giáo được tập hợp trong tổ chức được gọi là Tăng đoàn, trực tiếp chịu sự hướng dẫn của Thích Ca về giáo lý và phương cách tu tập. Tăng đoàn là tổ chức thống nhất, bình đẳng giữa mọi thành viên không phân biệt giới tính, tuổi tác, địa vị xã hội và có mục tiêu tối cao là đem lại giác ngộ cho mọi thành viên. Nhờ vào tổ chức có tính bình đẳng và qui củ nên Tăng đoàn tránh được nhiều chia rẽ.
Kỷ luật của giáo hội dựa trên nguyên tắc tự giác. Trong các kì họp, giới luật được nêu lên, sau đó thành viên tự xét và nhận vi phạm nếu có. Những điều lệ chính được đề cập là nhẫn nhục, hành thiện tránh ác, tự chủ và kiềm chế trong ăn nói và tinh tấn.
Ngoài những người xuất gia, Phật còn có rất nhiều đệ tử tại gia hay cư sĩ.Giới cư sĩ cũng được Phật thuyết giảng và ngược lại tham gia ủng hộ tăng đoàn về nhiều mặt..
Sau khi Phật nhập niết bàn thì Tôn giả Ma-ha-ca-diếp (Maha Kassapa) thay phần lãnh đạo giáo hội.(...)
Asoka (A Dục) là hoàng đế của đế chế Mauryan, ra đời khoảng năm 273 TCN. Trước khi trở thành Phật tử, ông có tính khí rất hung bạo, đã giết nhiều anh em của mình để cướp ngôi vua cũng như đã xua quân chiếm lãnh thổ Kalinga (ngày nay thuộc bang Orissa) phía Đông Ấn Độ. Nhưng ngay sau đó nhờ gặp được Sa di Nigrodha, ông theo Phật giáo cải hối và làm rất nhiều điều thiện, chống lại bạo lực. Ông là người có công lớn khuyến khích Phật giáo, xây dựng hàng chục ngàn chùa chiền, bảo tháp Phật giáo.
Đây là giai đoạn đánh dấu sự phát triển của Phật giáo ra ngoài lãnh thổ Ấn Độ. Nhiều đoàn truyền giáo đạo Phật đã được cử đến khắp nơi từ Âu sang Á, đến tận Hy Lạp, các nước tại Trung Á, Trung Đông, cũng như Trung Quốc, Miến Điện và Sri Lanka. Hiện còn một vấn đề đang được tranh luận là liệu đoàn thuyết pháp của vua Asoka đã đến được Việt Nam hay không. Câu hỏi này còn trông chờ vào việc tìm ra thêm các bằng chứng về khảo cổ ở Việt Nam..."Do đòi hỏi bởi tình trạng ngột ngạt của sự áp bức của tầng lớp thống trị đối với tầng lớp bình dân bị trị Ấn Độ, Đạo Phật ra đời như một học thuyết triết học duy tâm chủ quan nhằm giải thích nguyên nhân gây ra nỗi khổ đau, bất hạnh của con người và đề ra cách sống, cách luyện tập để thoát khỏi những khổ đau và bất hạnh ấy. Từ đó mà có khái niệm "Niết Bàn". Wikipeđia đã viết về khái niệm này:
"Niết-bàn (zh. 涅槃, sa. nirvāṇa, pi. nibbāna, ja. nehan) là từ được dịch âm từ gốc tiếng Phạn nirvāṇa hoặc tiếng Pāli nibbāna. Nirvāṇa nguyên là phân từ thụ động quá khứ của động từ niḥ-√vā (2) nirvāti với nghĩa "thổi tắt", "dập tắt" (một ngọn lửa) và như thế thì nirvāṇa mang nghĩa đã bị dập tắt, thổi tắt. Qua đó mà thuật ngữ nirvāṇa cũng được dịch nghĩa là Khổ diệt, Diệt (zh. 滅), Diệt tận (zh. 滅盡), Diệt độ (zh. 滅度), Tịch diệt (zh. 寂滅), Bất sinh (zh. 不生), Viên tịch (zh. 圓寂), và vì khổ diệt được hiểu là mục đích tối cao trong đạo Phật nên nirvāṇa cũng được dịch ý là Giải thoát (zh. 解脫).
Tóm lược lại thì Niết-bàn có thể được hiểu là: Tình trạng ngọn lửa tham lam, sân hận, ngu si đã bị dập tắt.
Niết-bàn là mục đích tu hành cứu cánh của mọi trường phái Phật giáo. Trong đạo Phật nguyên thủy, Niết-bàn được xem là đoạn triệt Luân hồi (zh, 輪回, sa., pi. saṃsāra). Đó là sự tận diệt gốc rễ của ba nghiệp bất thiện (zh. 不善, sa. akuśala, pi. akusala) là tham, sân và si".
Trong bài "Niết Bàn là cõi như thế nào?" đăng trên mạng (https://chuahanson.com/phat-giao-va-doi-song/niet-ban-la-coi-nhu-the-nao-92.html) có viết thế này:
"Một cách đơn giản, mọi người Phật tử đều hiểu rằng đó là cảnh giới giải thoát của các bậc chứng ngộ, đắc đạo. Như vậy, Niết-bàn được hiểu theo nghĩa đối đãi với cảnh giới phàm tục, cảnh giới của những người chưa đạt được giải thoát.
(...)
Nhưng Niết-bàn an lạc, yên vui như thế nào, chỉ có khi chứng ngộ rồi người ta mới có thể tự cảm nhận lấy mà thôi.
(...)
Niết bàn là cảnh giới như thế nào, Niết bàn là gì… Những điều ấy hoàn toàn không cần thiết đối với chúng ta khi còn đang chìm đắm trong những đau khổ của cuộc đời. Điều tối thiểu chúng ta cần biết chỉ là: Niết bàn là cảnh giới an lạc của giải thoát, của các bậc chứng ngộ, và nếu chúng ta kiên trì tu tập, bản thân chúng ta cũng sẽ có thể tự mình chứng đắc vào cảnh giới ấy. Thay vì để tâm tìm hiểu Niết bàn là gì, chúng ta nên chuyên tâm vào việc học tập và hành trì lý Tứ đế, thực hành Bát chánh đạo… Một khi đã tự mình chứng ngộ, chúng ta sẽ tự mình hiểu rõ Niết-bàn là gì, không cần phải nhọc tâm tìm hiểu".
Như vậy, Đạo Phật chỉ ra rằng mọi đau khổ gặp phải trong cuộc đời của mỗi người đều có nguyên nhân từ tham, sân, si và chủ yếu do chính bản thân con người đó gây ra. Đức Phật Thích Ca dạy rằng, muốn diệt khổ, giải thoát được khổ đau, nghĩa là đạt đến cõi Niết Bàn, đạt đến an lạc, thì mỗi con người phải tự thân tu tập kinh Phật. Và cõi Niết Bàn là một thứ gì đó có thật, nhưng không biết là thứ gì, không thể hình dung mà cũng không cần phải hình dung, ai chứng ngộ người đó biết (!)
--------------------------------------------------------------