THƠ TRẦN DẠ TỪ

THƠ TRẦN DẠ TỪ

1/  THỦA LÀM THƠ YÊU EM

 Thủa làm thơ yêu em
Trời mưa chưa ướt áo
Hoa cúc vàng chân thềm
Gió mây lưng bờ dậu

Chiều sương đầy bốn phía
Lòng anh mấy cách xa
Tiếng đời đi rất nhẹ
Nhịp sầu lên thiết tha

Thủa làm thơ yêu em
Cả dòng sông thương nhớ
Cả vai cầu tay nghiêng
Tương tư trời thành phố

Anh đi rồi lại đến
Bài thơ không hết lời
Bao nhiêu lần hò hẹn
Sớm chiều sao xa xôi

Mười bảy năm chợt thức
Bây giờ là bao giờ
Bàn tay trên mái tóc
Nghìn sau còn bâng quơ

2/ THƠ CŨ CỦA NÀNG

 Người đi qua đời tôi
Trong những chiều đông sầu
Mưa mù lên mấy vai
Gió mù lên mấy trời
Mây mù lên mấy biển
Người đi qua đời tôi
Hồn lưng mùa rét mướt
Đường bay đầy lá mùa
Vàng xưa đầy dấu chân
Lòng vắng như ngày tháng
Đen tối vùng lãng quên

Người đi qua đời tôi
Chiều ầm vang tiếng sóng
Bàn tay mềm khói sương
Tiếng hát nào hơ nóng

Người đi qua đời tôi
Nghe những lời linh hồn
Phi lao dài tiếng ru
Êm ái lòng hối tiếc
Trên lối về nghĩa trang
Trong mộ phần tối đen

Người đi qua đời tôi
Không nhớ gì sao người
Em đi qua đời anh
Không nhớ gì sao em

3/ NỤ HÔN ĐẦU

Lần đầu ta ghé môi hôn
Những con ve nhỏ hết hồn kêu vang
Vườn xanh, cỏ biếc, trưa vàng
Nghìn cây phượng vỹ huy hoàng trổ bông.
Trên môi ta, vạn đoá hồng
Hôn em trời đất một lòng chứa chan
Tiếng cười đâu đó ròn tan
Nụ hôn ngày ấy miên man một đời
Hôm nay chợt nhớ thương người
Tiếng ve mùa cũ rụng rời vai anh
Trưa vàng, cỏ biếc, vườn xanh
Môi ai chín đỏ đầu cành phượng xưa.

4/ KHI EM MƯỜI SÁU

Cho tôi xin nửa bóng trăng ngoài
Với nửa mùa thu trong mắt ai
Lá rụng bao nhiêu hè phố cũ
Sao nghe lòng rưng rưng nhớ người

Đêm biếc cành soan, thơm giấc mơ
Đầu hiên hoa trắng nở bao giờ
Em mười sáu tuổi trăng mười sáu
Áo lụa phơi buồn sân gió xưa

Tôi dối lòng tôi đêm sắp tàn
Đêm tàn để lạnh giấc mơ em
Để bàn tay gối sầu trên ngực
Và gió thu đầy trong mắt trăng

Tôi dối lòng tôi trăng sắp mờ
Trăng mờ em sẽ thấy bơ vơ
Sẽ thương cho những con đường cũ
Và nhớ bao nhiêu lối hẹn hò

Nhưng hẳn là em không nhớ đâu
Giấc mơ còn mát ánh trăng sầu
Hoa còn thơm tuổi đời trên má
Mùi áo còn say muôn kiếp sau

Lòng nhớ lòng thương lòng ngại ngùng
Bây giờ tôi cách núi xa sông
Bài thơ từ thủa trăng mười sáu
Mười sáu trăng chờ em biết không

Tôi dối lòng tôi bao nhiêu lần
Bao nhiêu lần trăng vẫn là trăng
Lòng nhớ lòng thương lòng sắp khóc
Đêm chưa tàn đâu đừng nói năng.

5/ MỘNG ĐỜI

 Hoa và trái một đêm nào thức dậy,
Nghe mộng đời xao xuyến giấc xuân xanh.
Con đường đó một đêm nào trở lại
Cùng gío mưa phùn trên cánh tay anh.

Hoa bỗng nở và trái sầu bỗng chín
Tim xa xưa còn đó chút trông chờ
Màu thơ dại vẫn tươi màu kỷ niệm,
Bóng cây nào ôm mãi mắt hư vô.

Tháng giêng đó, anh mỉm cười bước tới,
Khi yêu em tay cũng mở như lòng.
Môi thần thánh biết gì đâu tội lỗi,
Lối đi nào ngây ngất bước song song?

Anh sẽ nhắc trong những tàn phai ấy,
Đêm hoàng lan thơm đến ngọt vai mình,
Ai sẽ biểu trong một lần trở lại,
Hoàng lan xưa còn nức nở hồn anh.

Tháng giêng hết thôi giận hờn đã muộn,
Khi xa em, vai mới biết đau buồn,
Tơ gấm biếc nào nâng từng bước chậm
Trả giùm tôi về những dấu chân chim.

Hoa và trái đêm nay đây thức dậy
Ôi mộng đời em hiểu chữ xuân xanh
Con đường đó đêm này đây trở lại;
Cùng gío mưa phùn buốt cánh tay anh...

6/ TẶNG VẬT TỎ TÌNH 

Tặng cho em cuộn dây thép gai
Thứ dây leo của thời đại mới
Đang leo kín tâm hồn ta hôm nay
Đó là tình yêu ta, em nhận đi, đừng hỏi

Tặng cho em một xe plat tích
Xe plat tích nổ giữa phố đông
Giữa phố đông nổ tung xương thịt
Đó là hội hè của ta, em hiểu gì không

Tặng cho em cuộc chiến hung tàn
Trên quê hương của bao nhiêu bà mẹ
Nơi đồng bào ta ăn bom đạn thay cơm
Nơi lá chuối khô được nối làm khăn tang
Vẫn không đủ để chít đầu con trẻ

Tặng cho em ròng rã hai mươi năm
Hai mươi năm bảy ngàn đêm đại bác
Bảy ngàn đêm tiếng đại bác ru em
Em đã ngủ chưa hay em còn thức

Trên chiếc võng đung đưa giữa hai đầu tan nát
Râu tóc trắng phơ trùm kín tuổi mười lăm
Con sông máu tanh dìm chết trăng rằm
Những mặt trời không bao giờ biết mọc

Ta còn đó em ơi biết bao tặng vật
Còng sắt đeo tay, bao cát gối đầu
Hầm chông nhọn gãi lưng, xe vòi rồng rửa mặt
Biết chọn cái nào để gửi cho nhau
Mà gửi mãi tới bao giờ cho xuể

Thôi. Chỉ xin tặng em thêm trái lựu đạn cay
Hạch nước mắt của thời đại mới
Thứ nước mắt không buồn không vui
Đang ràn rụa trên mặt tôi chờ đợi.

7/ DẠ KHÚC MỘT HAI BA

 I.
Khi buổi chiều rụng xuống, lũ cột đèn đứng lên
Con phố này nỗi đau buồn bật sáng
Làm sao anh không thể nhớ em ngày tóc chẻ đôi
Mùa đông dài, tiếng guốc nhỏ,
Khua mãi vào vô thức

Làm sao anh không thể nhớ em
Dù chỉ một lần
Đã đi qua đây không nhìn ai
Và gọi tên anh

Đêm rũ rượi bài hát buồn, cánh tay
Rồi nước mắt

II.
Một vòng hoa trôi tới chân anh
Với con mắt trên lầu cao lén ngó
Khi hạnh phúc vỡ tan như bóng đèn
Dơ tay lên, che mắt nhìn
Quá khứ

Một vòng hoa trùm lấy thân anh
Bàn ghế thoi thóp thở
Hai người bên cạnh, những người xung quanh
Thoi thóp nhớ.

Một vòng hoa đặt xuống đời anh
Rồi cỏ mọc lên không nói gì
Không nói gì, không, không còn thiết nói gì
Cả bài thơ, cả tuổi thơ này nữa

Người ca sĩ già ôm chiếc máy phóng thanh
(vòng hoa trôi tới vòng hoa trùm lấy
và vòng hoa đặt xuống)
Ôi tiếng nào ru anh vào giấc ngủ em
Bài ca ấy hay vòng hoa phúng viếng.

III.
Anh đi qua đó lần thứ hai
Giấc mơ quen tựa bàn tay bỏ thõng
Hai dãy lầu cao chiếc bóng lẻ loi
Dấu vết em không còn lại chút gì
Như đời sống
Đi qua đó lần thứ hai
Này
Người đàn bà đứng trên bao lơn nhìn xuống kia
Nhớ tôi không
Một cái đầu to hai cánh tay dài
Và những cơn bão vọng

8/ BÀI RU

Mi sầu thôi khép đi em
Hồn anh rộng đã trăm miền không gian
Ngày vơi, cửa trống, thu tàn
Lá thưa cành nặng cây dàn quạnh hiu

Lối đi vừa chớm tiêu điều
Mùa nghiêng bóng nhỏ ngày xiêu cột dài
Phố chiều gió vọng bàn tay
Ru anh về với đôi ngày lãng quên.

_______________________________________

Trần Dạ Từ sinh năm 1940, tên thật là Lê Hạ Vĩnh, sinh ra tại Hải Dương, miền Bắc Việt Nam. Ông là chồng của nhà văn, nhà thơ Nhã Ca (Trần Thị Thu Vân). Ông di cư vào Nam năm 1954 khi đất nước bắt đầu chia cắt, định cư tại Sài Gòn, nơi ông bắt đầu làm thơ và viết báo, trở thành một thi sĩ được yêu thích trong giới văn nghệ miền Nam. Đầu thập niên 1960 ông cộng tác với Nguyên Sa làm tờ Gió mới. Năm 1963 ông từng bị chính quyền Ngô Đình Diệm bắt giam vì bất đồng chính kiến.

Sau ngày 30/4/1975 vợ chồng Trần Dạ Từ bị chính quyền bắt giữ vì bị xem là “biệt kích văn hoá”. Ông bị giam cầm từ năm 1976 đến 1988. Thời gian này ông cho ra đời hàng loạt bài thơ, nổi tiếng nhất là Hòn đá làm ra lửa. Năm 1989, dưới sự bảo trợ đặc biệt của chính phủ Thuỵ Ðiển, gia đình ông được sang Thuỵ Điển sinh sống, đến năm 1992 sang quận Cam, miền Nam bang California, Hoa Kỳ. Tại đây cùng với Nhã Ca, ông xuất bản tờ Việt báo.

Tác phẩm:
- Thuở làm thơ yêu em (Sài Gòn, 1960)
- Tỏ tình trong đêm (Sài Gòn, 1965)
- Nụ cười trăm năm (chưa xuất bản)

___________________________________________

Trần Dạ Từ – Thi Sĩ Bị Giam 12 Năm Vì Một Bài Thơ Và Cú Hồi Sinh Làm Rúng Động Quận Cam


 

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

BÍ ẨN ĐƯỜNG ĐỜI 156

MUÔN MẶT ĐỜI THƯỜNG I/30

KIẾP GIANG HỒ 4