Thứ Sáu, 27 tháng 2, 2015

ĐỒNG BÀO NƠI SỨ NGƯỜI 21

(ĐC sưu tầm trên NET)


Tết cổ truyền ấm áp trong lòng người Việt tại Pháp

Tết cổ truyền ấm áp trong lòng người Việt tại Pháp

(Dân trí) - Hàng năm, mỗi độ xuân về, hòa chung với không khí tưng bừng đón Tết cổ truyền đang diễn ra trên mọi miền Tổ quốc Việt Nam thân yêu, kiều bào người Việt tại 2 thành phố giá lạnh Nancy-Metz, Pháp cũng không kém phần nô nức đón chào không khí đó.
Xem tiếp
Tết cộng đồng tại Hy Lạp

Tết cộng đồng tại Hy Lạp

Mới đây Đại sứ quán Việt Nam tại Hy Lạp (ĐSQ) phối hợp với Phân hội người Việt Nam tại Hy Lạp tổ chức Chương trình đón Tết cổ truyền Ất Mùi 2015 tại Trụ sở Đại sứ quán, với sự tham dự của hơn 100 bà con người Việt thiện đang sinh sống, lao động và học tập tại đây.
 >> Đại sứ quán Việt Nam tại Mozambique tổ chức Tết cổ truyền dân tộc cho cộng đồng
 >> Đặc sắc Gala "Tết Việt" của sinh viên Việt Nam ở Canada
Xem tiếp
Gặp mặt đầu Xuân của Cộng đồng người Việt tại Italy

Gặp mặt đầu Xuân của Cộng đồng người Việt tại Italy

Điểm nhấn ấn tượng nhất trong buổi họp mặt chính là màn trình diễn múa Lân, quyền thuật, võ đối kháng của võ đường Việt Võ đạo Vittoria Cera tại Milan.
 >> Tết cổ truyền ấm áp trong lòng người Việt tại Pháp
 >> Hội người Việt tại Ludwigsfelde tưng bừng đón Tết Ất Mùi
Xem tiếp
Đặc sắc Gala Tết Việt của sinh viên Việt Nam ở Canada

Đặc sắc Gala "Tết Việt" của sinh viên Việt Nam ở Canada

Đón chào năm mới Ất Mùi 2015, các bạn trẻ Việt Nam đang học tập ở thành phố Ottawa, Canada thuộc Hội sinh viên quốc tế Việt Nam đã tổ chức rất thành công buổi biểu diễn văn nghệ - gala “Tết Việt” vào tối ngày 22/2 (mùng 3 Tết).
 >>  Hội người Việt tại Ludwigsfelde tưng bừng đón Tết Ất Mùi
 >>  Người Việt tại Hàn Quốc tổ chức lễ hội “Xuân quê hương”
Xem tiếp
Đón Tết Việt tại Nga: Tràn đầy hy vọng

Đón Tết Việt tại Nga: Tràn đầy hy vọng

Theo tập quán từ ngàn đời nay, những con dân đất Việt dù đang làm gì và ở đâu thì cũng đều chung một ý nghĩ và hành động – tổ chức đón Tết cổ truyền của dân tộc. Cộng đồng người Việt ở Nga những ngày này cũng đang cuốn theo dòng chảy tâm linh ấy.
 >> Xuân về với những người con xa xứ
 >> [Photos] Cộng đồng người Việt ở Ukraine đón Tết Ất Mùi 2015
Xem tiếp
Hội người Việt tại Ludwigsfelde tưng bừng đón Tết Ất Mùi

Hội người Việt tại Ludwigsfelde tưng bừng đón Tết Ất Mùi

Tối mồng 3 Tết, từ nội đô Berlin xuôi khoảng 40km về phía Nam, chúng tôi tới Ludwigsfelde, thành phố thuộc vùng (huyện) Teltow-Fläming của bang Brandenburg.
 >> Người Việt tại Hàn Quốc tổ chức lễ hội “Xuân quê hương”
 >> Ấm áp không khí đón Xuân Ất Mùi của bà con Việt kiều tại Đức
Xem tiếp
Người Việt tại Hàn Quốc tổ chức lễ hội “Xuân quê hương”

Người Việt tại Hàn Quốc tổ chức lễ hội “Xuân quê hương”

(Dân trí) - Tết đến, xuân sang là thời khắc thiêng liêng và đầy ý nghĩa, chuyển giao từ năm cũ sang năm mới. Hòa chung không khí đón tết cổ truyền tại quê hương, Hội cộng đồng người Việt tại Gwangju-Chonnam, Hàn Quốc đã tổ chức lễ hội “Xuân quê hương” cho đồng bào ta tại nơi xứ người.
Xem tiếp
Hẹn xuân tới, gia đình trọn niềm vui

Hẹn xuân tới, gia đình trọn niềm vui

(Dân trí) - Mẹ ơi, đã mấy cái Tết rồi con vắng nhà… Nhớ 29 Tết năm nào con cùng mẹ đi chợ Tết thật vui, chuẩn bị gạo nếp, lá dong gói bánh chưng. Ngày 30 Tết, con cùng bố đi chọn đào chọn quất, sắm những bộ đèn lấp lánh để về trang trí, đón xuân sang.
Xem tiếp
Ấm áp không khí đón Xuân Ất Mùi của bà con Việt kiều tại Đức

Ấm áp không khí đón Xuân Ất Mùi của bà con Việt kiều tại Đức

Trong không khí Xuân mới ấm áp, Hội Hữu nghị Đức-Việt ngày 21/2 (mùng 3 Tết) đã tổ chức đón Tết Ất Mùi cho các hội viên, tổ chức đối tác, bạn bè quốc tế yêu mến Việt Nam tại Đức và cho bà con người Việt hiện đang sinh sống, lao động, học tập tại Đức.
 >> Người Việt thế hệ thứ 2 ở Đức vui đón Tết Ất Mùi
 >> Cộng đồng người Việt tại Mỹ, Đức mừng Xuân Ất Mùi
Xem tiếp
Lao động Việt Nam tại Ma Cao hân hoan đón Tết cổ truyền

Lao động Việt Nam tại Ma Cao hân hoan đón Tết cổ truyền

Liên tục trong hai ngày 20 và 21/2, hàng trăm lao động Việt Nam làm việc tại Ma Cao và một số bạn bè quốc tế đã có buổi gặp mặt đầm ấm, chung vui Tết cổ truyền của người Việt Nam.
 >> Đón Tết cổ truyền tại Đại sứ quán Việt Nam ở London
 >> Xuân về với những người con xa xứ
Xem tiếp
Đón Tết cổ truyền tại Đại sứ quán Việt Nam ở London

Đón Tết cổ truyền tại Đại sứ quán Việt Nam ở London  

(Dân trí) - Nhân dịp Tết Ất Mùi, Đại sứ quán Việt Nam tại London, Anh đã tổ chức các hoạt động đón Tết Nguyên đán dành cho kiều bào xa quê.
Xem tiếp
Tết Việt được giới thiệu trên đài truyền hình Hungary

Tết Việt được giới thiệu trên đài truyền hình Hungary

Ý nghĩa của ngày Tết, các phong tục tập quán trong ngày Tết Việt Nam đã được giới thiệu trên kênh truyền hình lớn TV2 vào đúng ngày mùng 1 Tết.
 >> Người Việt tại Hungary ấm lòng với “Tết Cộng đồng”
Xem tiếp
Xem tiếp...

CHUYỆN LẠ THẾ GIỚI 8/a

(ĐC sưu tầm tên NET)

Xem tiếp...

CÂU CHUYỆN TÂM LINH 70

(ĐC sưu tầm trên NET)

Hành trình tìm mộ chị gái của thiếu tướng Trần Độ

Câu chuyện về hành trình tìm mộ nữ liệt sĩ Tạ Thị Câu được bắt đầu bằng những dòng hồi ức buồn, đầy tâm trạng của ông Trần Toàn Thắng, con trai cả của tướng Trần Độ…

Ký ức tuổi thơ

“Bác Câu tôi hy sinh được 13 năm, tôi mới cất tiếng khóc chào đời. Nhưng hình ảnh của bác, cuộc đời hoạt động cách mạng đầy chông gai và cả cái chết đầy thương cảm của bác vẫn mãi sống trong tâm trí tôi qua lời kể của bà, của cha. Tôi vẫn nhớ như in hồi còn nhỏ ở với bà, vào những đêm trăng sáng, bà thường kể cho tôi nghe về bác Câu. Có những chuện bà kể đi kể lại nhiều lần như một niềm thôi thúc. Lần nào cũng thế, câu chuyện đều bị bỏ giữa chừng vì tiếng khóc tắc nghẹn của bà.
ngoaicam20
Bà vừa nghẹn ngào khóc vừa xót xa kể lể: bác Câu tôi từ lúc còn sống cho đến lúc chết, chưa một ngày được an nhàn, sung sướng: Một tẹo tuổi đầu đã phải lam phải làm suốt ngày để giúp mẹ nuôi các em, lớn lên đi theo cách mạng rồi biền biệt không về. Rồi tù đày, bị đánh đập tra tấn dã man, đến lúc chết bác cũng cô độc một mình trong tù. Mồ mả mất tích nơi nào chẳng ai rõ. Khổ thân bác, không chồng con, chẳng ai hương khói.

Tiếng khóc tắc nghẹn của bà khiến tôi cũng sụt sùi khóc theo. Nghĩ mà thương bà, xót thương cho bác Câu quá. Tôi an ủi bà: “Bà ơi! Bà đừng khóc nữa. Sau này lớn lên, cháu sẽ đi tìm mộ bác Câu về cho bà”. Thế mà cũng phải ngót 50 năm sau, lời hứa ấy, tôi mới thực hiện được”.

Bà nội tôi sinh hạ được 4 người con. Bác cả Tạ Thị Chí. Chị thứ hai giáp cha tôi là bác Tạ Thị Câu. Cha tôi, tướng Trần Độ (tên thật là Tạ Ngọc Pháp) thứ ba. Cô Tạ Thị Xuyên là út. Ông nội mất sớm, bà ở vậy, một nách nuôi 4 con. Bác Câu hơn cha tôi 4 tuổi, thường đi buôn bán ở chợ xa. Bác Câu yêu quý cha tôi lắm, thường mua quà và kèm cặp cha học hành. Bác hay khoe với bạn bè về cha tôi với một niềm tự hào rất lớn.

Ngay từ năm 17 tuổi, khi phong trào dân chủ vừa nổ ra, bác đã tham gia hoạt động cách mạng. Cho đến năm 1939, bác đã là Tỉnh uỷ viên Tỉnh uỷ Thái Bình. Chính bác là người đã dìu dắt cha tôi đến với cách mạng, trực tiếp thử thách, khuyến khích rồi giới thiệu cha tôi vào Đảng. Năm 1940, ở làng tôi (thôn Thư Điền, xã Tây Giang, hiuyện Tiền Hải, Thái Bình) nổ ra cuộc mít tinh ở cánh đồng Đông Lang. Bị lính phủ và tuần phiên khủng bố đẫm máu, bác Câu và cha tôi vượt cánh đồng đi làm cách mạng. Nghe đâu, bác làm việc cho Xứ uỷ Bắc Kỳ, nhưng cụ thể làm gì thì tôi không được rõ.

Năm 1941, cha tôi bị địch bắt, chịu án 15 năm tù, rồi bị đày lên Sơn La. Cũng thời gian đó, bác Câu bị bắt. Giặc giam bác ở nhà tù Hoả Lò cùng với nhiều chiến sĩ kiên trung, trong đó có bác Nguyễn Thị Minh Thái (vợ trước của Đại tướng Võ Nguyên Giáp), bác Trương Thị Mỹ (sau là Chủ tịch Liên đoàn Lao động Việt Nam) và bà Nguyễn Thị Hằng (sau này lấy cha tôi). Trong suốt mấy năm trời, hai chị em vẫn thường xuyên liên lạc thư từ. Và bác Câu vẫn là người chị thảo hiền, yêu em hết mực, thỉnh thoảng vẫn gửi quà và xẻ áo của mình khâu những chiếc khăn gửi lên cho em để chống chọi với cái giá lạnh miền sơn cước.

Thế rồi, năm 1944, trên đường bị giặc giải từ Sơn La về Hoả Lò (Hà Nội) để đày đi Côn Đảo, cha tôi được chi bộ nhà tù tổ chức cho trốn thoát. Từ đấy, hai chị em bặt tin nhau. Sau này, cha tôi nghe mọi người kể lại, bác Câu bị ốm chết trong nhà tù Hoả Lò. Giấy báo tử của chính quyền Pháp gửi cho bà nội tôi ghi: mất ngày 29/9/1944. Cái chết của bác khiến cả nhà khóc thương, nhất là cha tôi. Ông xót xa bảo: Nếu bác Câu sống thêm mấy tháng nữa, bác sẽ được chứng kiến ngày cách mạng thành công. Bác chết trẻ quá, 25 tuổi đời, hình như trong đời chưa một lần được yêu. Càng xót xa hơn khi không biết giặc chôn hài cốt bác nơi nào?

Thực hiện lời hứa

Chưa kịp đi tìm mộ bác thì cả nước lại bước vào cuộc trường kỳ kháng chiến chống Pháp, bụi trường chinh cuốn cha đi. Thỉnh thoảng, cha về, cả nhà lại sụt sùi khóc nhớ thương bác. Cha bảo: “Bác Câu bị ốm đau chết trong tù, chắc là Pháp chôn qua quýt ở đâu đó. Rất có thể là ở khu vực trường bắn của Pháp ở Hoàng Mai, nơi bác Hoàng Văn Thụ bị bắn”.

Sau này, vào đầu những năm 1990, khi những thông tin về việc tìm kiếm hài cốt liệt sĩ của các nhà ngoại cảm Việt Nam đăng trên các báo đài, nhất là khi được nghe GS Trần Phương kể lại tường tận hành trình đi tìm mộ người em gái vốn là đội trưởng Đội nữ du kích Hoàng Ngân, cha tôi và cả gia đình mới loé lên hy vọng tìm thấy mộ bác Câu.

Tôi nhớ, khoảng năm 1997, qua một người quen giới thiệu, cha tôi đã liên lạc được với nhà ngoại cảm Nguyễn Văn Liên, người đang nổi tiếng với việc chỉ dẫn tìm kiếm hàng ngàn hài cốt liệt sĩ. Qua điện thoại, cha tôi nói: “Tôi có một người chị gái bị tù ở Hoả Lò rồi ốm chết trước cách mạng tháng Tám. Không biết bây giờ mộ ở đâu?” Anh Liên bảo: “Còn mộ đấy, có thể tìm được. Ông đứng trước cửa Hoả Lò, chiếu thẳng về hướng Nam, cách khoảng 2 km, mộ sẽ nằm ở đó. Nhưng tôi sợ bây giờ nhà cửa của người dân xây san sát như thế, mộ nằm phía dưới sẽ rất khó tìm đấy”. Cha tôi đối chiếu bản đồ, thấy rõ khu vực ông Liên chỉ là vùng Bạch Mai, Hoàng Mai bây giờ. Cha tôi sực nhớ đến Thiếu tướng Chu Phác, đồng đội cũ, hiện là Chủ nhiệm bộ môn Cận Tâm lý (Trung tâm Nghiên cứu tiềm năng con người).

Ông quen biết khá nhiều nhà ngoại cảm nổi tiếng như Nguyễn Văn Liên, Phan Thị Bích Hằng, Nguyễn Khắc Bảy, Thẩm Thuý Hoàn, Dương Mạnh Hùng, Nguyễn Văn Nhã, Nguyễn Thị Phương… Cha tôi liền tìm đến Thiếu tướng nhờ giúp đỡ. Ông vui vẻ nhận lời và lên kế hoạch tìm mộ gồm hai bước. Bước một, nhờ một số nhà ngoại cảm hoạt động độc lập bằng khả năng đặc biệt, rất riêng của mình, thu nhận thông tin về bác Câu. Sau đó, sẽ đối chiếu các thông tin ấy với nhau, tìm ra một đáp số chung nhất. Bước hai, từ đáp số chung ấy, sẽ tiến hành làm các thủ tục khai quật. Khi khai quật, vẫn phải có sự tham gia của các nhà ngoại cảm trực tiếp hoặc gián tiếp (qua điện thoại), theo dõi, hướng dẫn, điều chỉnh cho đến khi tìm được hài cốt.

Ngày 4/8/2000, Thiếu tướng Chu Phác cùng nhà ngoại cảm Nguyễn Khắc Bảy đến nhà tôi ở đường Trần Hưng Đạo (Hà Nội). Anh Bảy ngồi đối diện với cha tôi, chăm chú nhìn vào trán ông, miệng hỏi, tay vẽ sơ đồ. Anh Bảy cho biết: Mộ bác Câu tôi hiện vẫn còn, nằm gần mộ ông Hoàng Văn Thụ, trong vùng bãi bắn Hoàng Mai. Mộ bác ở cạnh một vũng nước, trong khu vực có nhiều mộ. Có những bộ hài cốt đã chuyển đi. Khu vực này có những công trình kiến trúc lớn như đình, chùa, trường học, xưởng máy, đường xá vào đó khá ngoằn ngèo.

Ngày 25/11/2000, Thiếu tướng Chu Phác lại dẫn một nhà ngoại cảm khác là Dương Mạnh Hùng đến gặp cha tôi. Anh Hùng sinh ngày 15/6/1959 trong một gia đình làm nghề Đông y lâu đời ở 35 Lãn Ông, quận Hoàn Kiếm (Hà Nội). Anh tốt nghiệp Trường Trung cấp Y học Tuệ Tĩnh, có tay nghề bốc thuốc, được ông cha truyền thủ thuật bắt mạch bệnh nhân, đặc biệt là bắt mạch thái tố. Bắt mạch thái tố cho cha tôi, anh hỏi: “Trong nhà bác có người phụ nữ nào chết từ lúc còn rất trẻ không?”

Cha tôi trả lời: “Có anh ạ! Đó là chị tôi. Hiện tôi đang muốn tìm mộ chị ấy”. Cha tôi vừa nói dứt lời, anh Hùng đã nhìn xoáy vào góc phòng, miệng lẩm bẩm: “Đã xuất hiện rồi”. Cha tôi sốt sắng hỏi: “Anh nói cái gì? Ai xuất hiện cơ ạ?”. Anh Hùng vẫn khẽ khàng: “Chị gái bác”. Nói đoạn, anh bảo cha tôi đưa cho một tờ giấy trắng và cây bút rồi phác thảo ngay một khuôn mặt phụ nữ. Cha tôi nhìn, giật mình thấy khuôn mặt trong giấy giống chị Câu như đúc. Từ đấy, anh Hùng cứ nắm chặt cổ tay cha tôi, mắt nhìn chăm chú vào góc phòng và bắt đầu trò chuyện. Tóm tắt những thông tin thu được là: Bác câu là một người con gái trẻ đẹp, to cao, bị ốm phù nề rồi chết. Mộ bây giờ ở nơi giống bãi tha ma, muốn đi tới đó phải qua những con đường ngoằn ngèo có tên là Bạch Mai, Trương Định, Hoàng Mai. Mộ ở gần một ngôi chùa và đình, gần một hàng nước mà ông chủ hàng là một ông già độ 60 tuổi tên Trúc, có bà vợ tên Thu. Bác Câu hay về nhà ông Trúc. Dân quanh vùng làm nghề đậu phụ, gần một cái chợ. Gần mộ bác Câu có một cây hoa râm bụt đỏ, một hoa trinh nữ cây trắng, cạnh một bãi phẳng như sân bóng… Bác Câu chết vào năm Giáp Thân (1944), vào mùa thu, tháng 8, đêm 26 rạng ngày 27 âm lịch.

Cứ như trí nhớ của mẹ tôi (bà Nguyễn Thị Hằng), người đã ở tù cùng bác Câu thì một buổi sáng, mẹ đến làm vệ sinh cho bác đã thấy bác nằm chết cứng. Có thể, bác chết lúc gần sáng. Bác chết năm trước thì năm sau Nhật đảo chính Pháp. Vì thế, mẹ cứ tiếc bác Câu tôi không sống thêm mấy tháng để trốn khỏi nhà tù. Năm sau là năm 1945, vậy năm trước đúng là năm 1944 (Giáp Thân). Anh Hùng cho biết thêm: Hài cốt bác Câu còn một chứng tích, đó là hàm răng đen của bác bị gãy một cái.

Thực địa đã được xác tin

Trong suốt hai ngày 26 và 27/11/2000, Thiếu tướng Chu Phác đã đưa ba nhà ngoại cảm là Nguyễn Khắc Bảy, Dương Mạnh Hùng và Thẩm Thúy Hoàn đi thực địa. Họ đến làng Hoàng Mai, tìm đến chùa Nga My và ngôi đình làng thờ tướng quân Trần Khát Chân, ra khu vực nghi ngờ có mộ bác Câu tôi. Điều kỳ lạ là tất cả những gì hiện hữu trước mặt lúc ấy đềy trùng khớp với những thông tin mà các nhà ngoại cảm đã cung cấp từ trước. Đình, chùa, bãi đất phẳng như sân bóng, một khu đất trống rộng chừng mấy chục mét vuông có rất nhiều mộ.

Mộ bác Câu tôi nằm bên cạnh một vũng nước, cách cây hoa đại trắng chừng 3-4m. Cây đại cao hơn bức tường bao quanh, cạnh một bụi cỏ khô mọc trên một chiếc thùng phuy đã hoen rỉ. Mộ chỉ là một mô đất cao 10-20cm, bên cạnh con đường xi măng nhỏ, phía sau đình và gần chùa. Nhà ngoại cảm Thẩm Thúy Hoàn còn cung cấp thêm thông tin: Mộ bác Câu nằm chếch, đầu gối vào cột trụ, bị cột trụ đè lên một ít, chân hướng về phía đường đi.

Cũng trong ngày 26/11, nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng đã có cuộc “trò chuyện” với bác Câu tôi tại Văn phòng của Bộ môn Cận Tâm lý ở số 46 Nguyễn Văn Ngọc (Hà Nội). Thông tin Bích Hằng nhận được là: đến làng Hoàng Mai, hỏi chùa Nga My, cách một khu vườn vài chục mét. Mộ nằm ở nơi đất bằng phẳng, cạnh gốc cây chuối gần chùa Nga My và đền thờ Trần Khát Chân. Có cây hoa đại. Mộ nhìn lên hàng rào dây thép gai ở đầu nhà dân. Bác Câu mặt bị sưng to và nằm nghiêng, sâu độ 70-90cm. Mộ không có tiểu, khi đào phải cẩn thận.

Như vậy, các thông tin mà các nhà ngoại cảm thu nhận được về phần mộ bác Câu tôi khá đầy đủ, chi tiết. Điều đặc biệt là tuy các nhà ngoại cảm làm việc độc lập với nhau song các tín hiệu đưa ra có nhiều điểm trùng hợp. Điều đó khiến cả nhà tôi vui mừng và tràn đầy hy vọng, nhất là cha tôi. Ngày 13/12/2000, cha tôi điện thoại vào TP Hồ Chí Minh, yêu cầu tôi thu xếp công việc ra Hà Nội để thay cha tìm mộ bác. Cha tôi lúc này đã 78 tuổi, lại đang ở vào giai đoạn cuối của bệnh tiểu đường nên sức khoẻ sa sút trầm trọng. Trước khi lên máy bay, Thiếu tướng Chu Phác có điện thoại cho tôi, yêu cầu tôi liên lạc với nhà ngoại cảm Nguyễn Văn Nhã ở TP Hồ Chí Minh. Qua điện thoại, anh Nhã cung cấp thông tin:

- Vị trí mộ đúng như các nhà ngoại cảm ở Hà Nội đã xác định,
- Cách mộ hơn 3m về phía Tây có một cây hoa đại trắng cao hơn 3m,
- Cách mộ chừng 1,5m có bụi cỏ khô cao hơn 1m,
- Trên mộ có ba mảnh thủy tinh hoặc sành lấp lánh,
- Mộ gần vũng nước,
- Năm ngày nữa anh đến, cách mộ mấy mét có con gà trống kiếm ăn ở đó.

Nguồn chiase.wordpress.com

Nhà ngoại cảm được linh hồn bác sĩ Đặng Thùy Trâm chữa bệnh

Một ngày đầu tháng 01/2010, nhà ngoại cảm Vũ Thị Minh Nghĩa (cô Năm Nghĩa) ngã từ trên võng chống tay xuống đất và bị gãy tay. Kết quả chụp phim X quang cho thấy bị nứt xương, phải bó bột, và được bệnh viện chỉ định sau một tháng sẽ cưa bột.

Ngày thứ ba sau khi bị gãy tay, tay sưng đau, cô Năm Nghĩa nhìn thấy linh hồn Bác sĩ Đặng Thùy Trâm đến nhà chơi và chữa tay đau cho cô Năm Nghĩa. Linh hồn bác sĩ Đặng Thùy Trâm biểu hiện bằng một con bướm to màu đen.

Sau khi con bướm đậu lên cánh tay bị đau, toàn bàn tay cô Năm Nghĩa đỏ rực như lửa, cảm giác như điện chạy bên trong, đã được ghi hình. Và sang ngày hôm sau, cánh tay hoàn toàn cảm thấy bình thường, cô Năm Nghĩa đến bệnh viện kiểm tra X quang và không còn vết gãy, và được bệnh viện tháo bỏ bột chỉ sau 4 ngày.

nhangoaicam10

Chúng ta đã biết các nhà thực hành tâm linh thường chữa bệnh không dùng thuốc, bằng phù, khoán, đồ hình, hoặc chữa bệnh chỉ bằng cách vuốt bên ngoài, để tác động năng lượng vô hình lên người bệnh.

Khi chữa bệnh như vậy, nhà thực hành tâm linh thường nhờ đến năng lượng vô hình. Riêng trong trường hợp nhà ngoại cảm mời linh hồn Bác sĩ chữa bệnh cho mình là một thực nghiệm rất mới lạ. Bởi vì nhà ngoại cảm có khả năng giao tiếp với linh hồn, nên việc tiếp năng lượng chữa bệnh được thực hiện hiệu quả, thậm chí sau khi chữa bệnh còn xin chụp được hình ảnh của Bác sĩ Đặng Thùy Trâm.

Nguồn chiase.wordpress.com

Những linh hồn dưới hồ sâu Đắk Lốp

Theo “chỉ dẫn” của liệt sĩ Đãi, Bích Hằng đã xác định được một vị trí bên dòng suối, trong lùm cây rậm, có gò mối lớn. Tại đây, tìm được 22 bộ hài cốt liệt sĩ. Tại một vị trí khác, bên dãy cây bạch đàn, tìm thêm được 12 bộ hài cốt nữa.Sau gần 30 năm một mình đi tìm mộ anh trai mà không thấy, anh Phạm Văn Mẫn đã làm đơn gửi bộ môn Cận tâm lý. Xét thấy việc đi tìm mộ của anh Mẫn có thể mở ra một cuộc tìm kiếm liệt sĩ quy mô lớn, Bộ môn đã thành lập đoàn tìm mộ gồm 3 nhà ngoại cảm là Phan Thị Bích Hằng, Thẩm Thúy Hoàn, Nguyễn Khắc Bảy, do Đại tá Hàn Thụy Vũ phụ trách. Thượng tướng Nguyễn Nam Khánh làm trưởng đoàn và có rất nhiều nhân chứng cùng tham gia.
XHBichhang13
Trước khi lên đường vào Tây Nguyên, Thiếu tướng Chu Phác, Đại tá Hàn Thụy Vũ và anh Mẫn đã đến nhà Bích Hằng để “mời” vong linh liệt sĩ Ngô Trọng Đãi và Phạm Văn Thành về xin ý kiến. Trong bảng lảng hương khói thành kính, Bích Hằng chắp tay trước ngực, mắt đăm chiêu nhìn vào di ảnh đã ố vàng của hai liệt sĩ.

Anh Mẫn cũng chắp tay vái lạy và nói trong nước mắt: “Thưa bác Ngô Trọng Đãi và anh Thành! Nhiều năm qua cháu không lúc nào nguôi nhớ về anh Thành và các bác. Cháu đã đi tìm nhiều lần nhưng vẫn chưa tìm được mặc dù đã có rất nhiều nhân chứng chỉ chỗ chôn cất.

Cháu cắn răng, cắn cỏ vái lạy bác linh thiêng giúp đỡ tìm được mộ anh cháu và các bác. Dù vất vả, gian khổ thế nào cháu cũng sẽ quyết tâm hoàn thành. Nếu không tìm được sớm thì rồi cha mẹ già cháu không biết có chờ được nữa không, các cụ đều đã 85 – 90 tuổi rồi…”.

Sau nửa phút im lặng chờ đợi tưởng như nghẹt thở, khuôn mặt Bích Hằng đột nhiên hớn hở: “Cháu chào bác Đãi!”. Sau đó Hằng liên tục “dạ, vâng”. Qua Bích Hằng, Thiếu tướng Chu Phác và anh Mẫn thay nhau “hỏi” chuyện liệt sĩ Đãi. Cuộc “chuyện trò” đã diễn ra suốt 2 tiếng đồng hồ với rất nhiều nước mắt lăn tràn trên đôi má xạm đen của anh Mẫn, người đã dành cả cuộc đời trai trẻ đi tìm anh.
Trong những thông tin mà liệt sĩ Ngô Trọng Đãi “cung cấp” có một số thông tin đáng chú ý mà mọi người ghi chép lại rất cẩn thận: “Tọa độ các đồng chí xác định là đúng, nơi trạm Trung phẫu an táng 8 người, nhưng địa điểm cụ thể thì chưa đúng, phải lùi về phía suối nữa, nơi có nhiều cây le gần sát nước.

Trước đây mai táng cách suối khoảng 25m, nhưng đấy là lúc suối cạn, bây giờ suối ngập nhiều. Lần nào cậu vào K’Nak tìm kiếm anh em liệt sĩ cũng biết. Sự hiện diện của cậu bao nhiêu năm nay ở núi rừng K’Bang là nguồn động viên rất lớn đối với anh em liệt sĩ vì anh em tin rằng nhờ cậu mà có thể có cơ hội được về quê. Nhưng cậu chỉ tìm anh cậu còn bỏ mặc những người khác thì làm sao tìm được”.

Khi những hạt mưa xuân lắc rắc trên đường phố Hà Nội thì đoàn tìm kiếm hài cốt liệt sĩ bắt đầu lên đường. Trong số nhân chứng đi cùng hôm đó có cựu chiến binh Nguyễn Văn Cán, hiện đã 75 tuổi. Khi vào đến K’Nak, ông như đang sống lại với trận đánh đầy bi tráng của 40 năm trước, với máu đồng đội nhuộm đỏ chiến hào.
Đào tìm hài cốt liệt sĩ ở hồ Đăk Lốp.

Trong nước mắt chứa chan, ông kể: “Lúc đó, hỏa lực địch trùm lên trận địa, pháo, rốckét cày xới từng miếng đất khiến quân ta thương vong quá nhiều. Tôi phải điện báo cáo với cấp trên nhưng chưa kịp nói thì Tiểu đoàn trưởng Ngô Trọng Đãi giật lấy bộ đàm từ tay tôi để xin ý kiến chỉ đạo. Anh nói chưa dứt câu thì một quả đạn cối của địch nổ ngay trước mặt.

Tôi vẫn còn nhớ như in hình ảnh bụng anh Đãi bị phá một mảng lớn, máu chảy xối xả, ruột lòi cả ra ngoài. Tôi phải xếp ruột anh lại, xé áo buộc chặt bụng anh. Vết thương quá nặng, anh nhìn tôi, nắm chặt tay tôi, môi mấp máy như muốn dặn dò điều gì, nhưng không thốt ra được lời nào. Sau đó dân quân hỏa tuyến chuyển anh ra trạm Trung phẫu cấp cứu, nhưng đi đến nửa đường thì anh tắt thở…”.
Ngay khi lội rừng vào đến K’Nak, đoàn tìm kiếm hài cốt tiến hành công việc ngay. Tuy nhiên, mọi người đào bới loanh quanh suốt cả ngày mà không thấy dấu hiệu gì. Điều kỳ lạ là các nhà ngoại cảm cũng mất hết thông tin, có chăng thì rất mờ nhạt.

Bích Hằng và Thẩm Thúy Hoàn cũng chỉ một số địa điểm theo cảm tính, nhưng đào lên chỉ thấy đất đá mà thôi. Cả ba nhà ngoại cảm làm lễ bên suối gọi “vong” lên hỏi thông tin, nhưng gọi mãi không được. Trời tối, công việc tìm kiếm phải tạm dừng.

Cũng trong đêm ấy, tại nhà nghỉ, Thẩm Thúy Hoàn mới gặp được “vong” liệt sĩ Ngô Trọng Đãi. Liệt sĩ Đãi “dặn” rằng: “Triển khai đào xuống phía dưới, không đào ở trên cao. Nhưng phải tiến hành tìm các liệt sĩ khác rồi mới tìm được tôi và anh Thành. Nếu không sẽ không có ai tìm những anh em còn lại nữa”. Cùng thời gian đó, liệt sĩ Đãi “gặp” Bích Hằng “dặn” thêm: “Cháu yên tâm, không đi nhầm đâu. Sát mép bờ suối còn nhiều anh em lắm, cố tìm hết nhé”.

Ngày hôm sau, các nhà ngoại cảm chia làm hai nhóm nhằm mở rộng phạm vi tìm kiếm hàng trăm liệt sĩ còn nằm quanh vị trí K’Nak. Thẩm Thúy Hoàn, Nguyễn Khắc Bảy theo dõi việc khai quật ở khu vực trạm Trung phẫu. Nhóm Phan Thị Bích Hằng cùng một số nhân chứng khảo sát ở khu vực quanh K’Nak.

Theo “chỉ dẫn” của liệt sĩ Đãi, Bích Hằng đã xác định được một vị trí bên dòng suối, trong lùm cây rậm, có gò mối lớn. Tại đây, tìm được 22 bộ hài cốt liệt sĩ. Tại một vị trí khác, bên dãy cây bạch đàn, tìm thêm được 12 bộ hài cốt nữa.

Cũng trong ngày hôm đó, Thẩm Thúy Hoàn tìm được hài cốt 5 liệt sĩ. Đặc biệt, chị đã xác định được một địa điểm giữa ruộng ngô nhà dân, bên bờ suối, phía ngoài là rừng cây báng súng. Khi đào địa điểm này lên, tìm được 37 hài cốt liệt sĩ.

Ngày hôm sau, Thúy Hoàn và Bích Hằng lại tìm được thêm 6 liệt sĩ bên lề đường dẫn vào một lâm trường… Tổng cộng, trong vài ngày ngắn ngủi của đợt đầu tiên đoàn tìm mộ ở K’Bang đã tìm được gần 100 hài cốt liệt sĩ trong các hố chôn tập thể. Điều khó tin nhất là các nhà ngoại cảm xắp xếp xương cốt của từng người rất chính xác, mặc dù các liệt sĩ được chôn tập thể, xương cốt lẫn lộn.
Cũng trong ngày cuối của đợt tìm mộ đầu tiên, liệt sĩ Đãi đã “hướng dẫn” Bích Hằng xác định tọa độ nơi 8 liệt sĩ nằm. Anh Mẫn kiếm chiếc ghe chở Bích Hằng ra giữa hồ và chị đã cắm 8 chiếc cọc xuống đáy hồ nước mênh mông.

Tuy nhiên, khi đó nước hồ quá lớn, không thể lặn xuống hồ đào được, mà xả nước hồ thì ảnh hưởng đến đời sống của người dân ở thị trấn K’Nak, do vậy, đoàn phải rút về Hà Nội.

Vài tháng sau, nhân dịp vào Đà Nẵng công tác, anh Mẫn đã ghé qua K’Bang. Phát hiện ra suối Đắk Lốp cạn trơ đáy, hồ nước cũng khá cạn nên anh đã báo cho bộ môn Cận tâm lý. Khi đó, nhà ngoại cảm Bích Hằng đi nước ngoài, nên Thẩm Thúy Hoàn lên đường vào ngay K’Nak.

Nói là hồ cạn, nhưng từ mặt nước đến đáy vẫn sâu 5 – 6 m. Anh Mẫn và một người bạn là cảnh sát đặc nhiệm cùng buộc dây thừng, ôm đá lặn xuống đáy hồ móc gỗ, đá, lá cây chèn kín miệng đập. Cứ lặn ngụp như vậy suốt 2 ngày, moi lên vài tấn rác mới mở được cửa xả nước.

Khi lòng hồ trơ đáy thì mọi người tiến hành đào bới quanh chỗ Bích Hằng cắm cọc mấy tháng trước. Tuy nhiên, đào bới suốt 4 ngày trời, hố đào đã rộng đến gần trăm mét vuông mà vẫn không thấy bộ hài cốt nào. Đúng lúc mọi người tỏ ra chán nản thì mây đen ùn ùn kéo đến.

Nếu mưa lớn thì hồ nước lại ngập mênh mông, không biết khi nào mới có cơ hội tiếp tục khai quật. Anh Mẫn nước mắt ròng ròng quỳ xuống trách các vong linh liệt sĩ: “Cháu vào đây làm những việc chưa ai từng làm để tìm anh cháu và các chú, các bác. Vậy mà các bác không thương cháu. Lần này lại phải về không rồi”.

Anh vừa dứt câu khấn thì một chiến sĩ reo lên: “Thấy rồi anh Mẫn ơi!”. Không ngờ, cậu chiến sĩ trẻ chỉ đào loanh quanh chỗ mọi người đã đào mà lại phát hiện ra một mẩu xương trắng lốp, rồi sau đó, 8 bộ hài cốt lần lượt hiện ra dù chẳng còn được là bao, sau 40 năm nằm dưới lòng đất và lòng hồ.

Sau lần tìm được 8 liệt sĩ dưới đáy hồ, đoàn tìm mộ cùng các nhà ngoại cảm còn có 4 lần nữa vào K’Bang và tổng số liệt sĩ đã tìm được là 300.

Những lý giải bước đầu của các nhà khoa học

Theo Thiếu tướng Chu Phác, Chủ nhiệm bộ môn Cận tâm lý Trung tâm Nghiên cứu tiềm năng con người thì: “Việc “thấy” của các nhà ngoại cảm xét dưới góc độ khoa học hiện đại thực ra là hiện tượng “Thiên nhãn thông”, một trong 10 lợi ích của thiền định”.

GS-TS Nguyễn Ngọc Kha có quan điểm: “Cơ sở của hiện tượng này là “tổ chức lưới” đặc biệt dưới vỏ não đã tạo ra “trực giác xuất thần”. Ở một số người mà hệ thần kinh đã chịu những sang chấn đặc biệt như: chết lâm sàng, điện giật hoặc bị chấn thương quá nặng… những sang chấn đó được hoạt hóa vùng dưới vỏ não, tương tác mạnh với vỏ não làm xuất hiện ra ngoài những khả năng đặc biệt”.
Trong số những lý giải của các nhà khoa học về hiện tượng đầy bí ẩn này, lý giải của GS Đào Vọng Đức, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu tiềm năng con người, nguyên Viện trưởng Viện Vật lý, được nhiều nhà khoa học đánh giá cao.

Bản thân ông cũng đã kiên trì tập luyện để không những tìm ra lời giải mà còn mong biến mình thành một người cũng có… khả năng đặc biệt. Mỗi ngày ông thường ngồi thiền định hàng giờ đồng hồ và đôi lúc đã “nhìn thấy, nghe thấy…”. Một số cán bộ ở Trung tâm bật mí với tôi rằng, GS Đức có thể nhập định ở cấp 13 và năng lượng của ông khiến một số cây cỏ héo rũ sống lại được.
Theo GS Đào Vọng Đức, vũ trụ có 4 loại tương tác, gồm: tương tác mạnh, tương tác yếu, tương tác điện tử và tương tác hấp dẫn. Trong đó, tương tác hấp dẫn là gần gũi nhất. Thống nhất được các loại tương tác này là một sự thăng hoa của vũ trụ.

Thuyết Đại thống nhất sẽ là học thuyết của mọi thứ. Một phương hướng hiện nay được xem là có nhiều triển vọng để xây dựng thuyết Đại thống nhất là lý thuyết Dây, mà nền tảng là lý thuyết Trường lượng tử (vấn đề này tác giả sẽ phân tích kỹ vào dịp khác). Trong lý thuyết Dây, nhất thiết phải có các trường “Vong” (ghost) giữ vai trò chủ chốt trong các cấu trúc, chỉ đạo chi phối tương tác nhưng lại không xuất hiện một cách tường minh.

Lý thuyết Đại thống nhất lượng tử trong không – thời gian 11 chiều sẽ bao gồm cả 4 loại tương tác trong vũ trụ. Vậy thì ngoài không gian 4 chiều như chúng ta vẫn hiểu thì còn không gian nào nữa? Về lý thuyết, vật thể vi mô có kích cỡ 0,000000000001cm, chuyển động không theo bất cứ một quỹ đạo xác định nào, có nghĩa là chúng có thể chuyển từ vị trí này sang vị trí khác theo vô số con đường cùng một lúc.
XHBichhang14
Cũng như vậy, vật thể vi mô có thể cùng một lúc có mặt tại vô số vị trí khác nhau, cùng một lúc ở vô số trạng thái khác nhau. Thế giới huyền bí mà các nhà ngoại cảm tiếp cận được chính là thế giới vi mô này. Thế giới này không phải là năng lượng, tốc độ, tự nhiên nữa mà là siêu năng lượng, siêu tốc độ, siêu tự nhiên.

Như vậy, đối với thế giới huyền bí, mà các nhà ngoại cảm, bằng khả năng đặc biệt có thể tiếp cận được, sẽ không còn khái niệm thời gian, không gian nữa.

Một nhà bác học người Nga, đồng Chủ tịch Hội nghị Quốc tế về thông tin lượng tử có nói: “Biết đâu trong quá trình tạo ra loài người, tạo hóa đã từng gắn một máy tính lượng tử vào não con người?”.
Ông Đức cho rằng, nếu trong não người có một tri thức mà các nhà khoa học quốc tế gọi là máy tính lượng tử thì hiện tại, với con người bình thường hiện nay, máy tính lượng tử đang nằm ở phần vô thức trong não bộ.

Nếu làm sống dậy được máy tính lượng tử này thì tia sáng không chỉ lóe lên phía cuối địa đạo huyền bí mà cả vũ trụ sẽ là một vầng hào quang rực rỡ. Như vậy, phải chăng, một phần khả năng rất nhỏ của cái gọi là máy tính lượng tử đang hoạt động trong não bộ của những nhà ngoại cảm?

Tuy nhiên, đây cũng mới chỉ là lý giải bước đầu của một số nhà khoa học về ngoại cảm. Việc nghiên cứu đi tới “tiếng nói” đồng thuận có sức thuyết phục cao vẫn còn là quá trình lâu dài.

Nguồn baomoi.com.vn

Những linh hồn ở K’nak và nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng

Anh Mẫn (bên phải) và Bích Hằng tại nghĩa trang liệt sĩ K’Bang.Trong trận đánh K’nak tại Tây Nguyên, 400 chiến sĩ Quân giải phóng cùng với hàng trăm du kích, dân công đã hy sinh. Sự thật bi tráng này sẽ bị chôn vùi vĩnh viễn dưới dòng Đắk Lốp nếu không có hành trình tìm anh trai đầy nước mắt của anh Phạm Văn Mẫn.Trong kỳ trước của phóng sự, tôi có nhắc đến công lao của nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng với việc dựng lại sự thật lịch sử của trận đánh K’Nak ở Tây Nguyên đầy bi tráng. Trong trận đánh này, 400 chiến sĩ Quân giải phóng cùng với hàng trăm du kích, dân công đã hy sinh dưới mưa bom bão đạn của địch.
XHBichhang11
Sự thật bi tráng này sẽ bị chôn vùi vĩnh viễn dưới dòng Đắk Lốp nếu như không có sự phát hiện của các nhà ngoại cảm và hành trình tìm anh trai đầy nước mắt của anh Phạm Văn Mẫn, Giám đốc Công ty S-fone. Sau khi bài báo phát hành, anh Mẫn và nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng gọi tôi đến để cung cấp thêm những sự thật lịch sử và câu chuyện hết sức kỳ lạ này.

Tại ngôi nhà 34 Hòa Mã, Hà Nội, vào ngày 7/3/2007, trong khói hương nghi ngút, trầm mặc, nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng chắp tay trước bàn thờ, nói giọng nghèn nghẹn: “Kính mong anh Thành và vong linh các liệt sĩ phù hộ để các nhà ngoại cảm tìm được nốt những liệt sĩ còn nằm dưới dòng Đắk Lốp và trong rừng rậm K’Nak ở Tây Nguyên…”.

Anh Phạm Văn Mẫn cũng chắp tay, nói với giọng thành kính: “Dù tìm thấy anh rồi nhưng em sẽ vẫn tiếp tục đi tìm những liệt sĩ còn nằm lại ở K’Nak. Hàng năm, em vẫn thực hiện lời anh dặn là vào K’Bang trong những ngày lễ, ngày thương binh – liệt sĩ để thắp hương cho các liệt sĩ còn chưa tìm thấy hài cốt để các liệt sĩ đỡ cô quạnh.

Cả nước sẽ chung tay đóng góp xây dựng đài tưởng niệm và nghĩa trang liệt sĩ K’Bang để người đời sau không quên các anh, các bác, các chú đã phải đổ xương máu như thế nào để đất nước có được như ngày hôm nay…”.

Trở lại hành trình đi tìm mộ liệt sĩ đầy nước mắt của anh Phạm Văn Mẫn. Anh Mẫn sinh ra trong một gia đình nông dân nghèo ở Xuân Trung, Xuân Trường, Nam Định. Năm 1964, khi Mẫn mới 10 tuổi, người anh Phạm Văn Thành lên đường nhập ngũ.

Anh đi giữa lúc chiến trường vô cùng ác liệt. Gia đình chưa nhận được một lá thư, một dòng nhắn gửi thì đã nhận được giấy báo tử. Sét đánh ngang tai, người mẹ già im lặng, chiều chiều ra gốc đa đầu làng ngồi khóc, vái lạy về phương Nam.

Cậu bé Mẫn thương anh mắt nhòe lệ. Cậu vẫn nhớ cái ngày anh Thành lên đường nhập ngũ. Lúc lên xe, anh đã dúi vào tay Mẫn nắm cơm, khẩu phần ăn mà đơn vị đã phát cho anh trước lúc lên đường.

Ngay khi đất nước thống nhất, dù mới 21 tuổi, Mẫn vẫn quyết chí ngang dọc Nam – Bắc đi tìm anh, cho dù trên tay chỉ có vẻn vẹn một thông tin: “Hy sinh ở mặt trận phía Nam”. Ngày đó, có một nhân chứng, hiện đã 80 tuổi nói mơ hồ rằng: “Có thể liệt sĩ Phạm Văn Thành đã được an táng vào nghĩa trang nào đó rồi”.

Lúc bắt xe khách, khi đi xe máy, lúc thì cuốc bộ dọc đường Trường Sơn, hễ gặp nghĩa trang nào là anh Mẫn cũng rẽ vào và lần từng ngôi mộ để tìm tên Phạm Văn Thành. Suốt bao nhiêu năm trời, cứ kiếm được đủ tiền tàu xe, anh lại lên đường.

Nhiều khi cũng nản, nhưng mỗi lần về thăm quê, lại gặp người mẹ già ngồi ở gốc đa đầu làng, đón anh hỏi về thông tin phần mộ anh Thành, anh lại quyết tâm hơn. Những tháng năm vất vả tìm anh trai, thương mẹ già ngóng đợi khiến mái tóc anh Mẫn bạc sớm. Giờ đây, ở cái tuổi ngoài 50, những sợi tóc trắng đã trùm kín mái đầu.

Năm 1990, khi vào nghĩa trang Vĩnh Thạnh (Bình Định), anh thấy một ngôi mộ đề: Liệt sĩ Phạm Văn Thành, không quê quán, không ngày mất. Không hiểu vì sao, khi tìm thấy ngôi mộ này, lòng anh trào dâng xúc động và rất tin tưởng đây là người anh trai của mình.

Tuy nhiên, khi trình bày nguyện vọng được đưa hài cốt “anh trai” về thì người quản trang từ chối kịch liệt, bởi anh không đưa ra được bằng chứng nào khẳng định đây là ngôi mộ của anh trai anh. Còn liệt sĩ có tên Phạm Văn Thành thì ở nước ta có đến cả trăm.

Không có cách nào thuyết phục được người quản trang, anh Mẫn tiến hành… đào trộm. Đêm ấy, nai nịt gọn gàng, cuốc xẻng sắc lẹm, đợi khi người quản trang ngủ say, anh lẻn vào nghĩa trang.

Khi vừa chuẩn bị đào mộ thì mây mù ùn ùn kéo đến che lấp ánh trăng, giông gió nổi lên, sấm chớp đùng đùng rồi mưa như trút nước khiến anh không thể tiến hành đào mộ. Đêm hôm sau, anh thuê thêm vài người nữa, cũng lẻn vào nghĩa trang lúc ban đêm để đào trộm.

Đêm hôm đó giông gió cũng lại nổi lên, sấm chớp đùng đùng, một tia sét đánh thẳng xuống khu nghĩa trang khiến mọi người chạy tán loạn. Không nhụt chí, anh lại tiếp tục tiến hành đào trộm khi đã có sự chuẩn bị chu đáo.
XHBichhang12
Lần này, dù trời có mưa cũng quyết chí phải bốc được hài cốt anh lên đưa về quê hương. Thế nhưng, đang đào dở thì bị người quản trang vác gậy đuổi. Ngẫm lại mọi sự kiện xảy ra, anh Mẫn nghĩ rằng: phải chăng người nằm dưới mộ không phải anh mình nên đã ngăn không cho mình mang về?

Thất vọng với suy nghĩ ấy, vả lại người quản trang đã tỉnh táo hơn, nên không còn cách nào đào trộm được, anh đành phải ra Bắc.

Một thời gian sau, lại có một nhân chứng khẳng định: Anh Thành phải được an táng ở Tây Nguyên chứ không phải ở Bình Định. Thế rồi, anh Mẫn lại tìm được ngôi mộ trong một nghĩa trang ở Tây Nguyên, ghi: Trần Văn Thành, quê miền Bắc, hy sinh năm 1965.

Quê miền Bắc và năm hy sinh đã đúng, nhưng liệt sĩ này lại là họ Trần chứ không phải họ Phạm. Với suy nghĩ, giấy báo tử có khi còn nhầm tên họ, huống chi là tấm bia mộ, nhầm lẫn là chuyện thường, nên anh rất tin người nằm dưới nấm mồ này là anh trai mình.

Cũng lại như lần trước, người quản trang nhất định không cho anh mang hài cốt về. Lúc này, anh đã có nhiều “kinh nghiệm” đào trộm mộ nên anh tin chắc sẽ thành công.

Sau khi báo cáo với gia đình, chính quyền xã Xuân Trung về việc… tìm thấy mộ liệt sĩ Phạm Văn Thành, anh Mẫn tiếp tục lên đường vào Tây Nguyên. UBND xã đã chuẩn bị mọi thủ tục để tổ chức thật long trọng lễ đón hài cốt liệt sĩ trở về quê hương.

Trong chuyến đi ấy, chiếc xe khách anh Mẫn ngồi không hiểu sao đang chạy tự dưng quay ngang ra giữa đường rồi chết máy. Mấy lần đào mộ cũng vậy, đều gặp mưa gió, sấm chớp khiến anh không thể đào được.

Sau một lần bị người quản trang tóm được dọa báo với công an thì cũng hết hy vọng đào trộm luôn. Anh Mẫn nghĩ rằng, những lực cản vô hình đó đã nhắc nhở anh rằng đó không phải là ngôi mộ của anh trai mình.

Đến năm 2000, sau khi việc tìm kiếm ở các nghĩa trang bế tắc, anh Mẫn quyết định đi tìm gặp toàn bộ nhân chứng ở Quân khu V, từng biết đến trận đánh ở K’Nak để nắm thông tin chính xác hơn.

Anh đã gặp được rất nhiều người ở mọi miền Tổ quốc, trong đó, lưu tâm nhất là cựu chiến binh Nguyễn Trọng Ẩm, nguyên Tiểu đoàn phó, phụ trách hậu cứ. Ông Ẩm khẳng định chính tay ông đã đào hố an táng anh Thành cùng 7 liệt sĩ khác. Một vài nhân chứng nữa cũng khẳng định giống nhau là đã kéo được thi thể anh Thành và 7 liệt sĩ nữa ra khỏi trận đánh và chôn cách mép suối Đắk Lốp 25 m, gần trạm Trung phẫu.

Thế là hành trình đào đất tìm mộ vô cùng gian khổ đã diễn ra. Cứ mỗi năm 5-6 lần, anh Mẫn lại “trốn” cơ quan vào biệt Tây Nguyên, lội bộ trong rừng mấy tiếng đồng hồ tìm đến dòng Đắk Lốp. Mỗi lần vào Tây Nguyên, anh lại tổ chức đón các cựu chiến binh cùng đi, những người từng tham gia trận đánh và biết về nơi chôn cất anh Thành.

Các nhân chứng đều đã già yếu, trí nhớ giảm sút nên không nhớ chính xác địa điểm chôn vì sau 40 năm địa hình, địa vật đã thay đổi quá nhiều. Dòng Đắk Lốp khi xưa giờ đã bị chặn lại làm đập thủy điện và dự trữ nước. Thậm chí, cả trạm Trung phẫu giữa rừng khi xưa họ cũng không nhớ chính xác chỗ nào nữa.

Tát biển mò kim, anh Mẫn cứ căng dây từ mép suối lên bìa rừng 25 m rồi đào sâu xuống lòng đất 2 m. Sau nhiều lần đào bới, một con hào có chỗ rộng đến gần 1 mét, dài hơn 500m hình thành bên dòng Đắk Lốp, anh Mẫn tốn kém không biết bao nhiêu công sức, tiền của, nhưng tuyệt nhiên không thấy bộ hài cốt nào.

Cũng từ những năm tháng bỏ công sức đi tìm anh trai, gặp gỡ các nhân chứng lịch sử mà anh Mẫn mới biết đến một trận đánh khốc liệt năm xưa. Và cũng chính từ cuộc đi tìm mộ đầy gian khổ của anh Mẫn mà bức màn bí mật về trận đánh khốc liệt ở K’Nak đã được vén lên.

Cụm cứ điểm K’Nak nằm trên một mỏm núi, thuộc huyện K’Bang (Gia Lai), cách phía bắc thị trấn An Khê khoảng 25 km đường ôtô, 10 km đường rừng và vài giờ đi bộ. Mỏm núi này được bao bọc bởi các thung lũng, khe suối, sình lầy, có tác dụng cản đường tiến quân, tập kích của đối phương.

Từ căn cứ này, qua đường không, địch có thể nhanh chóng kiểm soát các hướng di chuyển của ta từ Bắc vào Nam và từ miền Trung lên Tây Nguyên. Bằng đường bộ, địch có thể tập kích vào các hướng di chuyển của quân ta từ Bình Định lên Pleiku.

Tại đây, quân địch đã xây dựng một cụm cứ điểm bao gồm đồn lũy, trận địa pháo và nhiều hàng rào thép gai, bãi mìn dày đặc để bảo vệ. Cách mỏm núi 2 km có mỏm núi cao hơn, được chúng san bằng làm bãi đáp máy bay trực thăng và một trận địa pháo binh chi viện cho K’Nak, cũng cách cứ điểm hơn 2 km.

Tại cứ điểm K’Nak luôn có một tiểu đoàn, khoảng 450 đến 500 tên chiếm đóng, canh giữ nghiêm ngặt. Quân ta đã nhiều lần tấn công cụm cứ điểm này nhưng toàn bị địch đánh bật trở ra.

Đầu năm 1965, Bộ tư lệnh Quân khu V và Bộ tư lệnh mặt trận Tây Nguyên quyết định tập trung lực lượng với quy mô lớn nhằm tấn công san phẳng cứ địa này.

15h ngày 7/3/1965, quân ta xuất phát từ căn cứ Kong Hà Nừng (Vĩnh Thạnh) tiến về địa điểm tập kết đông K’Nak. 18h, quân ta tiến đến sát suối Đắk Lốp và 19h thì tiếp cận mục tiêu. Tất cả các vị trí đều đã triển khai theo kế hoạch, chỉ còn chờ hiệu lệnh là tấn công, chiếm lĩnh các điểm trọng yếu rồi đánh xốc vào trung tâm căn cứ, khiến địch không kịp triển khai không lực.

Tuy nhiên, vào lúc 23h30’, bộ đội ta vấp phải mìn nổ, mìn sáng. Địch lập tức nhả đạn pháo trùm lên toàn bộ đội hình D904, E10. Tiến thoái lưỡng nan, các đơn vị của ta chấp nhận hy sinh, dốc toàn lực vượt qua bão đạn, tấn công vào các vị trí của địch.

Sau nhiều giờ chiến đấu dũng cảm, quân ta đã đánh chiếm được điểm cao phía bắc và phía nam, nhưng hướng chủ yếu ở giữa chỉ chiếm được một nửa và đã bị quân địch nhả đạn như mưa rào từ các hầm cố thủ, khiến thương vong rất nặng.

Tham mưu trưởng Lê Sơn Hổ cùng trợ lý tác chiến Bình lao lên tổ chức số cán bộ, chiến sĩ còn lại ở điểm cao phía bắc để đánh sang khu trung tâm, nơi có hệ thống hầm hào cố thủ. Tuy nhiên, mới bắt đầu tấn công, hai đồng chí Hổ và Bình đã bị trúng đạn.

Sau đó các chiến sĩ quyết tử xông lên cũng đều ngã xuống bởi hỏa lực dữ dội của địch. Đến 0h30’ ngày 8/3/1965, quân ta thương vong nhiều. Địch tổ chức lực lượng phản kích khiến lực lượng còn lại của ta tiếp tục hy sinh…

Trước khi quân ta tổ chức tấn công, đồng chí Nguyễn Trọng Ẩm đã chỉ đạo đào sẵn 50 huyệt bên suối Đắk Lốp, cạnh trạm Trung phẫu, cách vị trí địch 8 km để mai táng liệt sĩ sau trận đánh.

Chỉ có 8 thi thể liệt sĩ là được mai táng, trong đó có liệt sĩ Phạm Văn Thành và Tiểu đoàn trưởng Ngô Trọng Đãi. 8 đồng chí bị hy sinh ngay từ đầu trận đánh nên mới đưa ra được phía sau để chôn cất. Về sau, địch phản kích anh em hy sinh gần hết, lực lượng cứu thương cùng dân công hỏa tuyến cũng hy sinh nên không còn người cấp cứu và tải thương ra.

Theo tổng kết từ các đề tài nghiên cứu khả năng tìm mộ thành công của các nhà ngoại cảm chỉ đạt 60%. Tuy nhiên, 40% còn lại không phải hoàn toàn do lỗi của các nhà ngoại cảm mà có nhiều nguyên nhân như: Địa điểm có hài cốt (nơi có nhiều loại sóng, tia đất làm nhiễu xạ thông tin thì khó tìm – PV); sự kiên nhẫn của người đi tìm (nếu người đi tìm mộ không kiên trì, thành tâm hướng đến người chết, tin tưởng vào nhà ngoại cảm thì nhà ngoại cảm rất khó thu nhận thông tin, hoặc thu nhận không chính xác); đặc biệt, những người hay nản chí, phát biểu thiếu xây dựng… không khác gì “khủng bố” (từ của Bích Hằng) các nhà ngoại cảm, khiến họ mất hết khả năng.
Các nhà khoa học ở Trung tâm Nghiên cứu tiềm năng con người, các nhà ngoại cảm, thân nhân liệt sĩ trong trận đánh K’Nak và Chuyên đề ANTG kêu gọi bạn đọc cả nước chung tay đóng góp xây dựng đài tưởng niệm tại K’Nak và tân trang, mở rộng nghĩa trang liệt sĩ K’Bang.
Hiện tại nghĩa trang liệt sĩ K’Bang quá nhỏ, trong khi đó, các nhà ngoại cảm vẫn đang tiếp tục tìm kiếm và sẽ còn tìm thấy hàng trăm liệt sĩ nữa trong rừng sâu K’Nak.

Nguồn dantri.com.vn

Chuyện chưa kể về nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng

Bích Hằng đang đi tìm mộ.Sau khi Bích Hằng chôn cất thắp nhang, người lính Sài Gòn này đã “dắt” Hằng đến bên bụi cây rất lớn và chỉ chính xác chỗ anh bộ đội nằm và khi đào thì thấy ngay hài cốt.
Hằng bảo với dân làng: “Vậy là anh ta đã lấy công chuộc tội rồi, mọi người không nên căm thù nữa nhé!”.Những ngày đầu tiên đi tìm mộ đối với Phan Thị Bích Hằng hết sức khó khăn. Khi đó, chị chưa biết “nói chuyện” với người đã chết, mà chỉ “nhìn” thấy hình dáng họ như thế nào mà thôi, họ già hay trẻ, da trắng hay đen, béo hay gầy và trên cơ thể có những đặc điểm gì đặc trưng. Chính vì thế, có những trường hợp trông hình thức thấy nhang nhác nhau dẫn đến nhầm lẫn đáng tiếc.
XHBichhang10
Đó là một kỷ niệm đi tìm liệt sĩ chống Pháp hy sinh ở trận Chùa Cao (Ninh Bình). Chị tìm thấy hài cốt liệt sĩ này ở dưới ruộng, gần bốt Chùa Cao. Chị “trông” thấy ông mặt vuông chữ điền, râu quai nón, rất giống con trai ông, nhờ Hằng tìm mộ. Bích Hằng khẳng định đúng là ngôi mộ của liệt sĩ và đề nghị gia đình đắp đất lên để hôm sau tiến hành đào hài cốt.

Tuy nhiên, đêm đó, khi đang ngủ, tự nhiên có một bác bộ đội đi cùng một người nữa giật giật chân kéo chị dậy và bảo: “Này này, cậu dậy đi tớ bảo cái này. Hôm nay cậu làm thế là không được nhé. Cậu nhầm rồi. Cậu lại chỉ mộ cậu liên lạc của tớ. May mà vợ con tớ chưa đem về đấy nhé. Nếu mà đem về nghĩa trang rồi thì hóa ra tớ vẫn phải nằm lại ngoài ruộng mà cậu liên lạc lại được cả nhà tớ kêu bằng bố.

Nhìn đây này, cậu liên lạc mới chỉ 23 tuổi, còn tớ đã ba mấy tuổi rồi. Tớ có cái mụn ruồi ở mũi, cậu nhìn thấy chưa, rất to. Ngày xưa bố vợ suýt không đồng ý gả con gái cho tớ vì bảo cái mụn ruồi ấy là chết yểu, con gái ông lấy tớ sẽ góa chồng sớm. Dù có cái mụn ruồi quái quỷ ấy nhưng tớ vẫn đẹp giai nên cô ấy vẫn mê và quyết lấy tớ. Đây này, nhìn nhé, ở cái chỗ đất này, tớ ném cành hoa vạn thọ ở chỗ này nhé. Mai cậu nhớ phải lên sớm không trẻ con nó nghịch lại lấy đi mất”.

Đúng như dặn dò, hôm sau Hằng dậy thật sớm, một mình đi xe xuống chỗ mô đất đắp hôm qua. Hằng chợt rùng mình vã mồ hôi giữa mùa đông giá rét khi thấy cách chỗ nấm đất khoảng 5m, trên nền cỏ ướt đẫm sương đêm có một cành cúc vạn thọ. Phía dưới cành cúc vạn thọ chị “nhìn thấy” hài cốt của người liệt sĩ chống Pháp mà đêm trước đã dựng chị dậy chỉ dẫn.

Ngay lập tức, chị đến gia đình xin lỗi và thuật lại chuyện liệt sĩ về báo cho chị tối hôm trước. Khi nghe Hằng kể đến đoạn nhìn thấy bác liệt sĩ có cái mụn ruồi to tướng trên cánh mũi thì bà cụ, là vợ của liệt sĩ òa lên khóc và khẳng định: “Đúng là mộ chồng tôi rồi”.

Ngay hôm ấy, cả gia đình nhà nọ cùng đi đào chỗ Hằng chỉ và thấy ngay hài cốt. Hài cốt người chiến sĩ này nằm dưới mảnh ruộng mà từ nhiều năm nay người ta vẫn cày bừa, trồng cấy. Sau đó, hài cốt đó được đưa về quê nhà, còn hài cốt người liên lạc được đưa vào nghĩa trang Chùa Cao.

Trường hợp đầu tiên mà chị Bích Hằng phát hiện ra khả năng “giao tiếp” của mình với các “vong” là khi “gặp” mẹ của GS Mai Hữu Khuê, giảng viên Trường đại học Kinh tế Quốc dân. Khi chị đi tìm, liền “thấy” một bà cụ. Đứng trước cụ, chị cảm thấy như có tiếng nói, “thấy” cái miệng lắp bắp mà không hiểu cụ nói gì.

Chỗ bà cụ nằm là một cái vũng nước rất bẩn. Hằng liền cất giọng: “Cụ ơi, cụ nói cái gì đấy?”. Hằng đột nhiên “nghe thấy” cụ gọi: “Cháu ơi!”. Tim chị như muốn vỡ ra vì sung sướng, bởi chị đã nghe được âm thanh phát ra từ phía người chết.

Bà bảo: “Bà tên Kình, nhắn hộ cho bà là mộ bà ở đây mà các con tìm mãi không thấy. Con bà là Khuê”. Nghe được thông tin đó, Hằng kể lại cho dân làng. Dân làng bảo con bà ấy làm to lắm, rồi họ nhắn cho ông Khuê về nhận mộ mẹ.

Từ khi “trò chuyện” được với người chết, chị Hằng cứ lang thang đến khắp các ngôi mộ để “nghe” người chết “nói”, rồi tìm cách chỉ dẫn cho thân nhân họ. Chính vì có khả năng đặc biệt này mà Bộ môn Cận tâm lý, Trung tâm Nghiên cứu tiềm năng con người đã nghiên cứu đề tài TK06, có nghĩa là “tìm ngược”, tức người chết tìm người sống.

Đề tài này đã thành công ngoài sức tưởng tượng. Đã có rất nhiều liệt sĩ vô danh thông báo cho người nhà biết được mình đang nằm ở đâu, đến để đào hài cốt đưa về quê thông qua các nhà ngoại cảm.
Sự kiện gây xúc động lớn mới diễn ra gần đây là hành trình xác định tên cho các liệt sĩ nằm dưới những ngôi mộ vô danh ở nghĩa trang Điện Biên Phủ và cuộc “đi tìm” người thân, đồng đội còn sống của các liệt sĩ thông qua các nhà ngoại cảm.

Hầu hết những cuộc nhắn đi đến địa chỉ này, địa chỉ kia, tìm người này người kia… của người chết đều chính xác đến kinh ngạc.

Cũng chính vì cách tìm ngược đó mà Bích Hằng làm được những việc đáng trân trọng. Trong những chuyến đi tìm mộ thất lạc cho gia đình nào đó, đều có rất nhiều người chết “đi theo” nhờ cậy. Trên đường đi tìm mộ, cứ “thấy” chỗ nào có hài cốt, chị thắp nén hương, “họ” liền túm ngay lấy, nói: “Tôi tên là thế này, người nhà tôi là người này, ở nơi này…”.

Thế là cuối cùng gia đình nhờ mình đi tìm mộ vẫn chưa tìm thấy thì đã lại tìm được cho nhiều người khác. Để đi được đến nơi có ngôi mộ cần tìm thì phải trò chuyện, giúp đỡ không biết bao nhiêu người.

Trong chuyến đi tìm mộ ở xã Vô Tranh (Phú Lương, Thái Nguyên), chính qua những lời “nhắn nhủ” của người âm dọc đường đi tìm mộ mà chị đã tìm thấy mộ cụ Lương Ngọc Quyến, lãnh tụ cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên đầy bi tráng diễn ra năm 1917.

Những người nằm dưới đất, nơi chị Hằng đi qua “nhắn” rằng: “Ở phía đồi bên kia có một lão thành, là người có công với nước rất nhiều, nếu cháu có thể quá bộ qua đó thăm ông ấy thì tốt”. Tuy nhiên, khi đó đường đi quá xa, nên chị xin lỗi, từ chối, chỉ ghi lại thông tin mà “họ” cung cấp. Chị còn phải đi tìm cho gia chủ, cho người nhờ mình xong đã.

Khi về Hà Nội, từ những thông tin mà những người đã chết cung cấp, Hằng nhắn cho anh Lương Quân, là cháu nội cụ Quyến. Một thời gian sau, Hằng tiếp tục lên Thái Nguyên tìm mộ. Trong quá trình đi tìm lại gặp một “linh hồn” và người này giới thiệu với chị là nhà báo Thôi Hữu, rồi ông lại nhắn rằng: “Bên kia đồi có người đức cao vọng trọng, là cụ Lương Ngọc Quyến”.

Vậy là hành trình tìm mộ cụ Lương Ngọc Quyến, người đã yên nghỉ gần thế kỷ giữa cánh rừng đại ngàn đã diễn ra hết sức kỳ lạ, xúc động.

Hồi đi tìm mộ cụ sư tổ chùa Vua, phố Thịnh Yên (Hà Nội) để lại cho chị nhiều kỷ niệm nhất về lòng vị tha cũng như nghĩa tình của… người chết. Trước đây chùa Cua rộng lắm, sau khi mất, cụ sư tổ được an táng trong khuôn viên nhà chùa. Tuy nhiên, khi đất cát lên giá, người dân lấn chiếm đất chùa, dựng nhà dựng cửa làm mất mộ cụ.

Bích Hằng lội xuống hồ nước tìm nhưng không thấy. Đêm đó, nhà chùa thắp nến sáng rực cả khu vực quanh chùa, thế rồi sư tổ lên gặp chị. Sư tổ “kể” tỉ mỉ đã chết như thế nào. Cụ tên thật là Hoàng Đình Điều, người Lạng Sơn, từng là một tướng quân, dưới quyền “Hùm xám Yên Thế” Hoàng Hoa Thám.

Sau khi giặc Pháp bắt được cụ Đề Thám thì cũng bắt được cụ. Tuy nhiên, cụ trốn được và tìm về chùa này tu. Dù tu thiền, song cụ vẫn hoạt động cách mạng bằng cách nuôi giấu cán bộ. Trong số những cán bộ cách mạng được cụ nuôi giấu ngày đó có cụ Nguyễn Phong Sắc, Bí thư Xứ ủy Trung Kỳ, Chủ tịch Phong trào Xôviết – Nghệ Tĩnh.

Cũng là cơ duyên, vì cụ Nguyễn Phong Sắc đã được Bích Hằng tìm thấy năm 2002 và Tỉnh ủy Nghệ An đã xây tượng đài cụ Nguyễn Phong Sắc ở xã Phúc Lộc, huyện Nghi Lộc. Cụ “bảo”, mộ cụ hiện nằm dưới hai ngôi nhà, chứ chỗ mọi người đắp đất, thắp hương không phải.

Khi đó, chị Hằng còn “nhìn thấy” hàng ngàn môn sinh, những người tự vệ đỏ đứng xếp hàng lối nghiêm trang sau cụ sư tổ. Những người đi theo cụ đều “tỏ ra” bất bình, vì cụ là người đức cao vọng trọng, có công với cách mạng, vậy mà không những người đời không biết đến mà lại bị người ta lấn chiếm đất xây đè lên.

Cụ “than” với chị Hằng rằng, hai gia đình xây đè lên mộ cụ đều gặp những chuyện tai ương, rồi làm ăn thất bát. Cụ thương họ lắm. Cụ là người xuất gia, không muốn làm người đời phải khổ, việc hai gia đình nọ gặp nhiều chuyện bất hạnh là do những nghĩa quân đi theo cụ bất bình nên mới gây ra như vậy.

Cụ còn nói với chị Hằng: “Làm được cho đời mới tốt, chứ cái thân xá lợi thì nghĩa lý gì”. Sư cụ không đồng ý cho mọi người đào bới hài cốt cụ. Lúc đó, cụ Nguyễn Phong Sắc cũng về nói với Bích Hằng: “Cụ nằm thế này không được, người ăn mày cũng còn được chôn cất tử tế, đằng này là cụ…” .

Cụ sư tổ “kể” tiếp: khi an táng cụ chẳng có cái gì, chỉ có mỗi nậm rượu chôn theo. Ngày đó, khi luyện võ xong, cụ thường cùng cụ Đề Thám chén tạc chén thù. Khi chết, cái nậm rượu đó vẫn đeo bên mình. Có thể xương cốt không còn, nhưng cái nậm rượu đó thì vẫn còn nguyên vẹn.

Như vậy, theo Bích Hằng, dưới cõi âm, người chết vẫn nhớ người sống. Tuy nhiên, dù theo đạo nào, “người âm” cũng mong người đời không quên lãng họ. Họ sẽ còn sống đến khi ta còn nghĩ đến họ. Họ là những người rất tình nghĩa.

Cụ sư tổ chết bao nhiêu năm rồi mà vẫn “dặn dò” chị Hằng kỹ lưỡng, khi nào đi chùa, thì nhớ thắp hương cho cả cụ Đề Thám, cho cả những nghĩa quân, chiến sĩ tự vệ đỏ, tự vệ thành. Cụ cũng “kể” thêm rằng, cụ đã truyền hết võ nghệ cho Hoàng Hoa Phồn, chỉ tiếc rằng anh ta không nối tiếp được sự nghiệp lừng lẫy mà lại chết sớm… Khi nghe chị kể lại như vậy, những người được chứng kiến, có rất nhiều cán bộ, các nhà sử học đều xúc động rơi nước mắt.

Hồi đi tìm một chiến sĩ cách mạng ở công viên Lê Thị Riêng thì lại “thấy” một lính Sài Gòn. Người lính ngụy ấy cứ níu chân chị để “nhờ” chị nhắn nhủ mấy câu. Khi tìm thấy hài cốt của người lính ấy thì thấy chiếc dây chuyền platin sáng lấp lánh.

Anh ta muốn “nhờ” chị nhắn vài lời với gia đình nhưng lại sợ những liệt sĩ ở cạnh biết, tức là những chiến sĩ cách mạng chôn gần đó. Nhưng cụ Phan Sào Nam hiện lên “nói”: “Khi về cõi âm rồi thì không nên phân biệt bên này hay bên kia nữa. Chúng ta đều là những linh hồn cần được giúp đỡ. Cậu cứ việc nhắn nhủ cho gia đình đi”.

Bích Hằng kể rằng, chị “nhìn thấy” người lính Sài Gòn đó cứ run rẩy, lóng ngóng, sợ sệt. Khi đó, cậu ta có “nói” với chị: “Nếu ai thích chiếc dây chuyền thì có thể cho”. Trên chiếc dây chuyền đó có gắn một miếng vàng rất đẹp, tuy nhiên, chẳng ai dám lấy cả. Thế là lại vùi xuống chỗ cũ rồi ghi lại thông tin để báo cho gia đình người lính này biết, vào mang hài cốt về.

Cuộc đi tìm kiếm mộ ở Vĩnh Thạnh, Bình Định cũng là một kỷ niệm hết sức đáng nhớ của Bích Hằng. Khi đào mộ anh bộ đội thì thấy cái biển tên ở trước ngực ghi là Trung tá Nguyễn Hữu Túy tức là lính Sài Gòn. Mọi người đều giật mình, nhưng lại nghĩ, hay là anh bộ đội lấy áo lính Sài Gòn mặc cải trang, rồi bị bắn chết.

Thế nhưng, lúc đó chị nghe thấy “tiếng gọi” phát ra từ bụi cây: “Không phải, tôi nằm bên này cơ!”. Lúc đó có một anh cùng trong đoàn đi đào mộ, là xã đội trưởng ào đến căm phẫn hét lên: “Cái thằng này ác ôn lắm, chính nó đã giết bố tôi đây”.

Anh kể rằng, hồi gần 10 tuổi, anh tận mắt chứng kiến bọn lính Sài Gòn đóng đinh bố anh vào cây dừa và chính tên Túy đã dùng lưỡi lê rạch từ ngực bố anh xuống rồi moi gan bố anh ra ngoài. Khi đó, bố anh là cán bộ của ban tuyên huấn xã, tích cực tuyên truyền cách mạng.

Anh căm phẫn, định lấy hòn đá ghè vào đống xương cốt. Chị Hằng hết mực ngăn can: “Người ta bây giờ cũng chỉ còn là nắm xương tàn. Anh có làm vậy bố anh cũng không sống lại được. Tốt nhất là cứ bốc hài cốt người ta lên, chôn cất cẩn thận, rồi người ta phù hộ cho, sau đó đi tìm tiếp mộ anh bộ đội giải phóng”.

Thế nhưng, anh ta kiên quyết: “Ai làm việc đó thì làm, tôi nhất định không làm”. Người dân ở đó cũng đều chứng kiến cảnh bọn lính Sài Gòn giết hại, moi gan bố anh xã đội cùng 6 người khác nên rất căm phẫn, nhất định không chôn hài cốt người lính này, mặc cho Hằng khuyên nhủ thế nào.

Cuối cùng chị phải bỏ tiền, ra Quy Nhơn mua chiếc tiểu, bỏ hài cốt vào rồi mai táng. Tuy nhiên, khi Hằng đặt bát hương, thắp hương thì mọi người trong làng lại xô ra không cho chị thắp. Gia đình người lính kia đều ở bên Mỹ cả nên không biết nhắn nhủ ra sao.

Khi đó, anh bộ đội hiện lên “dặn” Hằng nói với mọi người thế này: “Nếu mọi người không thắp hương cho anh ta thì anh bộ đội sẽ không cho tìm hài cốt của anh đâu. Thắp cho anh ấy nén nhang thì anh ấy sẽ chỉ chính xác chỗ anh bộ đội nằm”.

Nghe Bích Hằng nói vậy, người dân trong vùng mới cho cô thắp nhang. Người lính Sài Gòn này đã “dắt” Hằng đến bên bụi cây rất lớn và chỉ chính xác chỗ anh bộ đội nằm và khi đào thì thấy ngay hài cốt. Hằng bảo với dân làng: “Vậy là anh ta đã lấy công chuộc tội rồi, mọi người không nên căm thù nữa nhé!”.

Anh bộ đội “kể” với Bích Hằng, hồi đó, anh là lính đặc công, bị Túy bắt được, nhưng khi hắn đang áp giải thì anh đã sử dụng võ thuật đá văng khẩu súng, rồi cướp lưỡi lê của nó giết nó luôn. Tuy nhiên, vừa giết được nó thì anh lại bị trúng đạn bởi một tên đi phía sau.

Bích Hằng kể rằng: Quá trình đi tìm mộ cực kỳ vất vả, nhiều khi phải đi bộ cả ngày trong rừng thẳm mới đến nơi có hài cốt. Hầu hết các chiến sĩ chỉ được quấn tấm vải khi chôn, nên lúc tìm thấy, tấm vải dù vẫn còn nguyên vẹn, nhưng hài cốt đã mủn, hoặc thành đất cả rồi.

Chứng kiến những cảnh ấy thương lắm. Đó cũng chính là động lực để chị quyết tâm hơn trên hành trình đi tìm mộ đầy vất vả, gian nan. Đã có cả ngàn ngôi mộ được chị tìm thấy, và mỗi cuộc tìm kiếm là một câu chuyện đầy xúc động.

Bích Hằng tâm sự: Trong các cuộc tìm kiếm hài cốt cũng có nhiều chuyện buồn vì không phải cuộc tìm kiếm nào cũng thành công. Nếu không tìm được mộ thì quả thực rất khó nói với gia đình người quá cố, vì họ đặt niềm tin vào mình quá lớn.

Chị cũng mong những gia đình mà chị không giúp được hãy thông cảm cho những nhà ngoại cảm bởi không phải lúc nào cũng thành công.

Nguồn baomoi
Xem tiếp...

Thứ Năm, 26 tháng 2, 2015

CÂU CHUYỆN KHẢO CỔ 17

(ĐC sưu tầm trên NET)

Những lăng mộ mang nhiều bí ẩn nhất thế giới – Kỳ quan


Không chỉ là nơi an nghỉ của các Hoàng đế vĩ đại trên thế giới, những lăng mộ dưới đây còn là điểm đến du lịch hấp dẫn bởi lối kiến trúc lạ mắt cùng bề dày lịch sử của chúng.


1. Taj Mahal ở Agra, Ấn Độ: Đây là một lăng mộ vĩ đại được lát bằng đá cẩm thạch trắng, được xây dựng từ 1632-1653 theo lệnh của Hoàng đế triều Mughal, Shah Jahan, để tưởng nhớ người vợ ông yêu mến. Taj Mahal là một trong những ngôi đền được bảo quản tốt nhất và có kiến trúc đẹp nhất thế giới, một trong những kiệt tác của kiến trúc Mughal và là một kỳ quan tuyệt vời của Ấn Độ. Ngoài lăng mộ bằng đá cẩm thạch trắng với mái vòm tuyệt đẹp, nơi đây còn nổi tiếng với nhiều khu vườn, tòa nhà đẹp mắt với hồ nước lấp lánh.

2. Đội quân đất nung: Đây là lăng mộ của Tần Thủy Hoàng, Hoàng đế đầu tiên của triều đại nhà Tần, người đã đánh bại tất cả các nước khác và thống nhất Trung Quốc. Ngôi mộ của Hoàng đế không được khai quật nhưng khu vực quân đội đất nung được chôn gần đó đã trở thành điểm đến hàng đầu tại Trung Quốc. Người ta ước tính trong ba hố chứa có hơn 8.000 binh sĩ, 130 xe ngựa vơi 520 con ngựa và 150 kỵ binh ngựa, phần lớn trong số đó vẫn đang bị chôn vùi. Mỗi chiến binh mang một khuôn mặt và người ta suy đoán đó là dựa vào những khuôn mặt của người còn sống.

3. Shah-i-Zinda ở Uzberkistan: Đây là công trình có lối kiến trúc phức tạp kết nối bằng các mái vòm. Công trình được bắt đầu xây dựng vào thế kỷ 11-12 và hầu hết hoàn thành vào thế kỷ 14-15. Shah-i-Zinda có nghĩa là “vị vua sống” dựa theo truyền thuyết về Kusam ibn Abbas, người anh em họ của nhà tiên tri Muhammad. Theo truyền thuyết, ông bị chặt đầu nhưng lại đứng lên cầm đầu và đi xuống giếng sâu (Garden of Paradise), nơi người ta tin ông vẫn còn sống cho đến nay.

4. Lăng mộ Shirvanshahs: Lăng mộ này là một phần của cung điện Shirvanshahs, tượng đài lớn nhất được xây dựng theo lối kiến trúc Azerbaijan, nằm ở nội thành Baku. Bên cạnh lăng Shirvanshahs, cung điện còn bao gồm các tòa nhà chính, một sảnh nhỏ bằng đá, hầm chôn cất, nhà thờ Hồi giáo và một phòng tắm. Lăng mộ có hình chữ nhật với mái vòm lục giác bên trên trần, được trang trí bên ngoài bằng các ngôi sao đối xứng. Sultan Khalilullah cho xây dựng lăng mộ này làm nơi an táng cho mẹ và con trai mình trong thế kỷ 15.

5. Imam Husayn Shrine ở Karbala, Iraq: Lăng mộ này nằm bên trên ngôi mộ của Husayn ibn’ Ali, cháu trai thứ hai của Mahammad, gần nơi ông tử trận trong trận chiến Karbala. Đây là một trong những nơi linh thiêng nhất của đạo Shi’as và hàng năm có rất nhiều người hành hương về đây. Các bức tường bao quanh lăng được làm bằng gỗ và phủ rất nhiều thủy tinh. Sân đền được chia thành 65 phòng nhỏ hơn, cũng được trang trí đẹp mắt cả trong và ngoài. Mộ của Husayn đặt trong một cấu trúc có mái vòm bằng vàng.

6. Lăng mộ của Jahangir ở Lahore, Pakistan: Đây là lăng mộ được con trai Hoàng đế Jahangir, cai trị vương triều Mughal từ 1605-1627 xây dựng 10 năm sau khi Jahangir mất. Lăng mộ tọa lạc trong một khu vườn có tường cao bao quanh và có bốn ngọn tháp cao 30m. Phía trong lăng là một quan tài bằng đá cẩm thạch trắng, xung quanh được trang trí bằng những bức họa khảm hoa.

7. Lăng Castel Sant’Angelo ở Rome, Ý: Lăng mộ của Hadrian, thường được biết đến với tên gọi là Castel Sant’Angelo, là một tòa nhà hình trụ cao chót vót, ban đầu được xây dựng là nơi an nghỉ của hoàng đế La Mã Hadrian và gia đình của ông. Một năm sau khi mất vào năm 138, tro cốt của hoàng đế Hadrian và hoàng hậu Sabina cùng người con trai nuôi được đặt tại đây. Sau này, những vị hoàng đế vĩ đại khác cũng được an táng tại lăng mộ này và vị hoàng đế cuối cùng là Caracalla mất năm 217. Sau đó, lăng đã được sử dụng như một pháo đài và lâu đài, hiện tại nó nổi tiếng là một viện bảo tàng mở cửa cho du khách tham quan.

8. Lăng mộ Humayun ở Delhi, Ấn Độ: Lăng mộ của Hoàng đế Humayun của vương triều Mughal được xây dựng bởi người vợ của ngài vào năm 1562 sau Công nguyên. Đây là lăng mộ đầu tiên ở Ấn Độ và là tiền đề cho các kiến trúc Mughal tiếp sau. Tọa lạc tại Delhi, công trình cao 47m này lấy cảm hứng từ kiến trúc Ba Tư. Mái vòm phía ngoài lát bằng đá cẩm thạch trắng trong khi phần còn lại của lăng mộ được xây bằng đá sa thạch đỏ. Lăng mộ này phải mất hơn 8 năm để hoàn thành và nó được bao quanh bởi một khu vườn 30 mẫu theo phong cách Ba Tư.

9. Lăng mộ của Cyrus Đại đế ở Iran: Cyrus Đại đế là người đã sáng lập và cai trị Đế quốc Ba Tư rộng lớn trong thế kỷ thứ 6 trước Công nguyên. Lăng mộ của ông là tượng đài quan trọng nhất ở Pasargadae, kinh đô xưa của Ba Tư, hiện tại là Iran. Khi Alexander cướp bóc và tàn phá Persepolis, ông đã tới lăng mộ của Cyrus và vào bên trong. Onong tìm thấy một chiếc giường, một bộ bàn với đồ đựng nước, một chiếc quan tài bằng vàng cùng với một số đồ trang sức gắn đá quý. Trên lăng mộ còn có một dòng chữ: “Hỡi người viếng thăm, ta là Cyrus, người trị vì đế chế Ba Tư và là Đức vua của châu Á”. Thật không may là hiện tại không còn chút dấu vết nào của dòng chữ này ở lăng mộ.
Trích nguồn: http://www.khoahoc.com.vn/sukien/cong-trinh/56667_nhung-lang-mo-mang-nhieu-bi-an-nhat-the-gioi.aspx
Xem tiếp...

Pete Townshend

(ĐC sưu tầm trên NET)

Pete Townshend

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Pete Townshend (2012).jpg
Townshend năm 2012
Thông tin nghệ sĩ
Tên khai sinh Peter Dennis Blandford Townshend
Nghệ danh Bijou Drains
Sinh 19 tháng 5, 1945 (69 tuổi)
Chiswick, London, Anh
Nghề nghiệp Nhạc sĩ, nhạc công, hòa âm phối khí, nhà văn
Thể loại Rock, art rock, hard rock, power pop, progressive rock, beat, jazz
Nhạc cụ Hát, guitar, harmonica, keyboard, banjo, Tin whistle, mandolin, ukulele, violin, acccordion, trống
Năm 1962–nay
Hãng đĩa Track, Polydor, Atlantic, Atco, Decca, Rykodisc, Warner Bros.
Hợp tác The Who, Deep End, Ronnie Lane, Thunderclap Newman
Nhạc cụ nổi bật
Rickenbacker 330
Fender Stratocaster
Fender Telecaster
Gibson SG Special
Gibson Les Paul
Gretsch 6120
Gibson J-200
Peter Dennis Blandford "Pete" Townshend (sinh ngày 19 tháng 5 năm 1945) là nhạc công, ca sĩ, nhạc sĩ người Anh, được biết tới khi là người sáng tác và tay guitar chính của ban nhạc rock The Who. Sự nghiệp của ông cùng ban nhạc kéo dài suốt 40 năm, theo đó ban nhạc được coi là một trong những nghệ sĩ có ảnh hưởng nhất thập niên 1960 và 1970.
Townshend là người viết nhạc chính cho The Who khi sáng tác hơn 100 ca khúc trải dài suốt 11 album phòng thu của nhóm, trong đó có nhiều album chủ đề và cả album rock opera như Tommy, album rock 'n' roll như Who's Next, cùng với đó là nhiều đĩa đơn, bonus track trong các bản tái bản và cả các ca khúc trong các phụ bản hiếm như Odds & Sods. Ông cũng từng sáng tác 100 ca khúc cho sự nghiệp solo của mình, trong đó có các sáng tác phát thanh và phục vụ chương trình truyền hình. Cho dù là một tay guitar nổi tiếng, Townshend còn chơi được rất nhiều nhạc cụ khác như keyboard, banjo, accordion, harmonica, ukulele, mandolin, violin, synthesiser, bass và trống trong các album của The Who và album solo, ngoài ra còn là khách mời cho rất nhiều dự án thu âm của các nghệ sĩ khác. Ông tự học tất cả các nhạc cụ và chưa từng qua bất kể trường lớp nào.
Townshend cũng là cộng tác viên cho nhiều tờ báo và tạp chí, sách, giáo trình và cả kịch bản phim, thậm chí tham gia viết lời và sáng tác cho các nghệ sĩ khác. Ông được cây viết Dave Marsh xếp hạng 3 trong số những tay guitar vĩ đại nhất trong cuốn The New Book of Rock Lists, số 10 trong danh sách "50 tay guitar vĩ đai nhất" trên trang web Gibson.com và số 10 trong danh sách "100 tay guitar vĩ đại nhất" của tạp chí Rolling Stone vào năm 2011. Ông được vinh danh tại Đại sảnh Danh vọng Rock and Roll cùng The Who vào năm 1990.
Xem tiếp...