Thứ Ba, 2 tháng 9, 2014

CHUYỆN VỤ ÁN 4 (Ôn Như Hầu)

(ĐC sưu tầm trên NET)



Nguyễn Gia Thiều

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nguyễn Gia Thiều (阮嘉韶, 1741-1798), tức Ôn Như Hầu là một nhà thơ thời Lê Hiển Tông. Ông là tác giả Cung oán ngâm khúc, tác phẩm nổi tiếng của văn học Việt Nam.

Tiểu sử

Nguyễn Gia Thiều sinh ngày 5 tháng 2 năm Tân Dậu[1], tức ngày 22 tháng 3 năm 1741, cuối thời vua Lê chúa Trịnh, ở làng Liễu Ngạn, tổng Liễu Lâm, huyện Siêu Loại, phủ Thuận Thành, xứ Kinh Bắc, nay là làng Liễu Ngạn, xã Ngũ Thái, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Ông xuất thân trong một gia đình đại quý tộc, có nhiều người làm tướng, làm quan cho triều đình.
Ông nội Nguyễn Gia Thiều là Nguyễn Gia Châu, một võ quan nhưng thông kinh sử được phong tước công. Cha của Nguyễn Gia Thiều là Nguyễn Gia Cư, một võ quan cao cấp được phong tước hầu. Mẹ của ông là quận chúa Quỳnh Liên, con gái chúa Trịnh Cương. Nguyễn Gia Thiều gọi chúa Trịnh Doanh đang cầm quyền lúc bấy giờ là cậu ruột, và là anh em họ với chúa Trịnh Sâm. Vợ của Nguyễn Gia Thiều là con gái trưởng của quan Chưởng phủ sư Đại tư đồ Bùi Thế Đạt.
Vì gia đình bên ngoại thuộc họ nhà chúa, nên từ lúc lên năm, sáu tuổi Nguyễn Gia Thiều đã được vào học trong phủ chúa. Năm 1759 khi mới 18 tuổi, ông giữ chức Hiệu úy, quản Trung mã tả đội. Sau đó ông làm chỉ huy Thiêm sự, năm 1782 thăng Tổng binh coi giữ xứ Hưng Hóa. Nguyễn Gia Thiều là một người rất được chúa Trịnh tin dùng. Vì có công nên ông được phong tước hầu - Ôn Như Hầu. Các em của ông cũng lần lượt được phong tước hầu, tước bá, như Nguyễn Gia Thưởng là Thưởng Vũ Bá; Nguyễn Gia Xuyên là Du Lãnh Hầu.
Thời gian làm Tổng binh ở Hưng Hóa, mặc dù có công được khen thưởng, Nguyễn Gia Thiều vẫn thường hay bỏ về nhà riêng ở gần hồ Tây để vui chơi, làm thơ và cùng bạn bè bàn luận về triết học. Ông tự xưng là Hy Tôn tử và Như ý thiền, lấy biệt hiệu là Tân Thi viện tử và Sưu Nhân. Có người bảo giai đoạn này chúa Trịnh không còn tin ông như trước, mới đẩy ông đi trấn giữ Hưng Hóa, và Nguyễn Gia Thiều biết điều đó, nên ông chán nản bỏ về.
Năm 1786, khi Tây Sơn kéo quân ra Bắc diệt chúa Trịnh, Nguyễn Gia Thiều trốn lên miền núi xứ Hưng Hóa. Năm 1789, Nguyễn Huệ đánh thắng quân Thanh, lập ra triều Tây Sơn. Vua Quang Trung trọng người tài, thu dụng một số quan lại cũ của triều đình Lê - Trịnh, Nguyễn Gia Thiều được mời ra cộng tác, nhưng ông cáo bệnh từ chối. Nguyễn Gia Thiều về lại làng cũ, sống ở đấy cho tới khi mất vài ngày 9 tháng 5 Mậu Ngọ, tức ngày 22 tháng 6 năm 1798, thọ 57 tuổi.

Sự nghiệp văn học

Nguyễn Gia Thiều là người có sự hiểu biết sâu rộng về văn học, sử họctriết học. Ông còn tinh thông nhiều bộ môn nghệ thuật như âm nhạc, hội họa, kiến trúc, trang trí. Về âm nhạc, Nguyễn Gia Thiều sở trường các bài ca, bài tán, ông là tác giả các bản Sơn trung âmSở từ điệu. Về hội họa, ông có bức tranh lớn Tống sơn đồ, dâng vua xem được khen thưởng. Về kiến trúc, trang trí, ông là người được chúa Trịnh giao cho trông nom việc trang hoàn phủ chúa và điều khiển xây tháp chùa Thiên Tích. Các công trình nghệ thuật của Nguyễn Gia Thiều đến nay không còn được lưu lại.
Về sáng tác, Nguyễn Gia Thiều có hai tập thơ chữ HánÔn Như thi tập, khoảng một nghìn bài, nhưng đã thất truyền. Những tác phẩm chữ Nôm, ngoài Cung oán ngâm khúc, ông còn có Tây hồ thi tậpTứ trai thi tập, hiện cũng chỉ còn vài ba bài chép trong tập Tạp ký của Lý Văn Phức như Cảnh trong vườnMiếng tình.
Nguyễn Gia Thiều tuy thuộc tầng lớp quý tộc, nhưng sống trong một thời kỳ nhiều biến động, loạn lạc. Tác phẩm Cung oán ngâm khúc của ông nói lên tâm trạng ai oán của một cung phi sống trong hoàng cung. Nhiều nhà phê bình đánh giá Cung oán ngâm khúc chịu ảnh hưởng bởi Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn qua bản dịch của Đoàn Thị Điểm[2], từ thể loại ngâm khúc viết bằng song thất lục bát đến cách phát triển chủ đề cũng như bút pháp nghệ thuật.
Nguyễn Gia Thiều có nhiều con, trong số đó bốn người con đầu giỏi văn chương, có một tác phẩm chung là Tứ trai thi tập, gồm sáng tác của Tâm Trai - tức Nguyễn Gia Thiều, Kỷ Trai - Nguyễn Gia Cơ, Hoà Trai - Nguyễn Gia Diễm và Thanh Trai - Nguyễn Gia Chu.

Tưởng nhớ

Tên của ông được đặt cho một phố yên tĩnh, có nhiều biệt thự kiến trúc Pháp ở thủ đô Hà Nội, gần hồ Thiền Quang (trước kia phố này có tên Ôn Như Hầu, sau năm 1954 đổi lại là Nguyễn Gia Thiều) và ở nhiều thành phố khác của Việt Nam. Ở Hà Nội, có một ngôi trường trung học phổ thông khá nổi tiếng được vinh dự mang tên danh nhân Nguyễn Gia Thiều, nơi này Tổng bí thư đương nhiệm của Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng đã từng học tập. Ngoài ra, ở quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh cũng có một trường Trung học cơ sở mang tên Nguyễn Gia Thiều. Đây cũng là một trường khá nổi tiếng về học lực của học sinh.

Chú thích

  1. ^ Một số tài liệu ghi ngày sinh của ông không được biết chính xác
  2. ^ Vấn đề bản dịch Chinh phụ ngâm nào là của Đoàn Thị Điểm vẫn còn gây nhiều tranh cãi.
Trang này được sửa đổi lần cuối lúc 20:35, ngày 27 tháng 6 năm 2014.

Vụ án phố Ôn Như Hầu

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Vụ án phố Ôn Như Hầu là vụ án xảy ra tại Hà Nội năm 1946. Sở Công an Bắc Bộ điều tra và thu thập được nhiều chứng cứ chứng tỏ Việt Nam Quốc dân Đảng âm mưu đảo chính nhằm lật đổ chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa,[1][2] từ đó đã lập Chuyên án số 7 phố Ôn Như Hầu phá vỡ âm mưu này.[3] Tuy nhiên Việt Nam Quốc dân Đảng và một số sử gia phương Tây cho rằng đây là một vụ việc do Việt Minh dựng lên nhằm triệt hạ đối thủ chính trị của mình là Việt Nam Quốc dân Đảng.[4][5]

Lịch sử

Theo những kết quả điều tra và những kiến giải của Công an Nhân dân Việt Nam trong thời điểm đó, những tổ chức thực hiện kế hoạch đảo chính này do Việt Nam Quốc dân Đảng và Đại Việt Quốc dân Đảng thuộc Mặt trận Quốc dân Đảng Việt Nam phối hợp với thực dân Pháp, dự định tiến hành vào ngày 14/7/1946. Cụ thể hơn, kế hoạch của Việt Quốc và Việt Cách là dự định nhân ngày Quốc khánh nước Pháp (14/7), khi quân đội Pháp sẽ diễu binh trên một số đường phố lớn ở Hà Nội, người của Quốc dân Đảng sẽ ném lựu đạn vào quân Pháp, từ đó tạo cớ cho phía Pháp tấn công bao vây các cơ quan trung ương, bắt cán bộ lãnh đạo và nhân viên Chính phủ, lật đổ Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nhân dịp đó Quốc dân Đảng sẽ tuyên bố đảo chính, lập Chính phủ mới.[6].[7] Do lực lượng công an đã điều tra, thu thập thông tin nên sớm phát hiện âm mưu của Việt Quốc, Việt Cách. Ngày 12/7/1946 lực lượng công an nhân dân đã tiến hành khám xét trụ sở bí mật của Quốc dân Đảng ở số nhà 132 phố Duvigneau (nay là phố Bùi Thị Xuân). Cùng ngày, công an tấn công một loạt cơ sở khác của Quốc dân Đảng ở Hà Nội, trong đó có nhà số 7 phố Ôn Như Hầu (nay là phố Nguyễn Gia Thiều, Hà Nội). Tiếp sau Hà Nội, lực lượng công an nhân dân đã tiến hành khám xét các cơ sở của Việt Quốc, Việt Cách ở Hải Phòng và một số tỉnh khác ở miền Bắc. Trong quá trình khám xét trụ sở của Việt Quốc, Việt Cách, công an đã thu được nhiều vũ khí, truyền đơn, tài liệu, giấy bạc giả, dụng cụ tra tấn... Việc phá vụ án này có ý nghĩa to lớn góp phần củng cố chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mới còn non trẻ, để từ đó chuẩn bị bước vào cuộc chiến tranh chống lại sự tái xâm lược của thực dân Pháp trong giai đoạn 1946 - 1954.[7]
Còn theo quan điểm của phía Việt Nam Quốc dân Đảng[8] và các nhà sử học như Cecil B. Currey (Hoa Kỳ)[9], thì kế hoạch này không có thật và đây một vụ việc do phía Việt Minh, dưới sự chỉ huy của Võ Nguyên Giáp, dựng lên nhằm triệt hạ đối thủ chính trị của mình là Việt Nam Quốc dân Đảng. Một số học giả khác như Gisèle Luce Bousquet và Pierre Brocheux (Pháp)[10] thì cho rằng đến nay chưa ai biết sự thật vụ việc này như thế nào.

Bối cảnh

Tháng 8 năm 1945, ngay sau khi Nhật tuyên bố đầu hàng đồng minh, Việt Minh thực hiện cuộc tổng khởi nghĩa cách mạng tháng Tám giành chính quyền trên cả nước, buộc lực lượng quân quản Nhật và chính quyền các địa phương của Đế quốc Việt Nam bàn giao quyền lực. Các đảng phái khác theo chủ nghĩa quốc gia như Đại Việt, Việt Nam Quốc dân đảng... cũng nổi dậy ở một số nơi.[11][cần số trang] Đế quốc Việt Nam không chống lại các lực lượng này mà chấp nhận chuyển giao quyền lực trong hòa bình.[cần dẫn nguồn] Thời điểm này, Việt Minh có những xung đột quân sự với Đại Việt, Việt Nam Quốc dân đảng tại một số địa phương ở miền Bắc.[11] Sau khi Việt Minh giành chính quyền từ tay chính quyền Đế quốc Việt Nam thân Nhật tại nhiều địa phương, vua Bảo Đại cũng buộc phải thoái vị; ngày 2 tháng 9 năm 1945, chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập tuyên bố thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại quảng trường Ba Đình.
Khi 20 vạn quân Trung Hoa Quốc dân Đảng (quân Tưởng Giới Thạch) vào Việt Nam giải giáp vũ khí quân Nhật theo sự phân công của phe đồng minh, bộ phận hải ngoại ở Trung Quốc của Việt Nam Quốc dân đảng cũng theo quân Tưởng về Việt Nam.[12] Lực lượng quân đội Trung Hoa Dân Quốc mang theo kế hoạch "Diệt Cộng cầm Hồ" của Tưởng Giới Thạch, nhằm ủng hộ các đảng phái quốc gia thành lập một chính phủ thân Trung Hoa Quốc dân Đảng tại Việt Nam.[13] Để tránh xung đột với 20 vạn quân Tưởng, trong khi không đủ sức nắm toàn bộ chính quyền, Chính phủ Cách mạng Lâm thời đồng ý thiết lập một chính phủ liên hiệp lâm thời, trong đó có sự tham gia của Việt Nam Quốc dân Đảng được quân Tưởng hậu thuẫn.
Hai phe tự xưng là đối lập trong Chính phủ là Việt Nam Quốc dân Đảng (Việt Quốc) và Việt Nam Cách mệnh Đồng minh hội (Việt Cách) không tham gia bầu cử. Qua trung gian của tướng Trương Phát Khuê (tư lệnh quân đội Trung hoa Quốc dân đảng tại Việt Nam), Chính phủ Cách mạng Lâm thời tạm thời hòa giải với các lực lượng khác. Trong kỳ họp thứ nhất Quốc hội đã đồng ý nhượng thêm 70 ghế và 4 bộ (Ngoại giao, Kinh tế, Xã hội và Canh nông) mà không thông qua bầu cử cho các phái này theo thỏa thuận ngày 24 tháng 12 năm 1945 giữa Chính phủ Cách mạng Lâm thời và hai lực lượng này tại Đại sứ quán Trung Hoa. Nhận định về việc này, Võ Nguyên Giáp cho rằng Việt Quốc và Việt Cách hiểu rõ một cuộc tuyển cử công bằng sẽ không có lợi cho họ[14]
Trên thực tế khi cuộc bầu cử Quốc hội khóa I diễn ra, các đảng này còn phát động tẩy chay bầu cử với tuyên truyền rằng: trúng cử chỉ là Việt Minh cộng sản... chính quyền trong tay nên Việt Minh muốn ai trúng cũng được[15] đồng thời tổ chức các cuộc tuần hành, bắc loa hô hào kêu gọi tẩy chay bầu cử[15]. Theo báo Sự thật thì Việt Quốc, Việt Cách thậm chí bắt cóc, giết những ứng cử viên, đảng viên cộng sản, cán bộ Việt Minh (tiêu biểu là Trần Đình Long[16]) hay thủ tiêu những người cùng tổ chức có cảm tình với Chính phủ.[17] Ngay trong ngày bỏ phiếu vẫn có các sự việc chống đối xảy ra: Trong ngày tổng tuyển cử, Việt Nam Quốc dân Đảng mang tiểu liên đến Ngũ Xã ngăn không cho đặt hòm phiếu, cấm người dân treo cờ. Người dân Ngũ Xã kéo sang khu phố Nguyễn Thái Học gần đó để bỏ phiếu.[18]
Tháng 3 năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký kết hiệp định với Pháp, cho phép quân Pháp tiến ra miền Bắc Việt Nam, thay thế quân Trung Quốc Quốc dân Đảng, vốn là lực lượng ủng hộ Việt Nam quốc dân Đảng. Ngày 31 tháng 5 năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Phạm Văn Đồng rời Việt Nam đến Paris để thương lượng về tình hình Việt Nam, Võ Nguyên Giáp ở lại lãnh đạo lực lượng Việt Minh[19]. Ngày 29-5-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 82-SL về việc ủy nhiệm Huỳnh Thúc Kháng, Bộ trưởng Bộ Nội vụ thay Chủ tịch Chính phủ đi vắng, ký công văn hàng ngày và chủ toạ họp Hội đồng Chính phủ.[20] Theo Sắc lệnh số 23/SL của Chính phủ ngày 21 tháng 3 năm 1946, Việt Nam Công an vụ là cơ quan thuộc Bộ Nội vụ, như vậy theo quy định luật pháp thì thẩm quyền chỉ đạo lực lượng công an nằm trong tay của phó chủ tịch nước Huỳnh Thúc Kháng.
Sự hiện diện của quân Trung Quốc đã bảo đảm sự tồn tại của Việt Nam quốc dân Đảng và Đồng Minh hội, nhưng họ không thể cạnh tranh được với Việt Minh trên phương diện lãnh đạo, cảm tình của nhân dân và tuyên truyền tập hợp quần chúng. Ngày 19 tháng 6, báo Cứu Quốc của Việt Minh đăng một bài xã luận lên án mạnh mẽ "bọn phản động phá hoại" hiệp định ngày 6 tháng 3. Ngay sau khi quân đội Tưởng Giới Thạch rút về nước, Võ Nguyên Giáp hối hả hành động ngay. Mục tiêu rải khắp nơi: Việt Quốc, Việt Cách, Đồng minh hội (được Tưởng Giới Thạch ủng hộ), Đại Việt (thân Nhật bản), những người Trotskist, lực lượng chính trị mang tên "chiến sĩ Công giáo"... Võ Nguyên Giáp tiêu diệt tất cả các đảng phái này bằng lực lượng công an và quân đội do Việt Minh kiểm soát với sự giúp đỡ của nhà cầm quyền Pháp. Ông cũng sử dụng các sỹ quan Nhật Bản tình nguyện phục vụ Việt Minh do có chung mục tiêu "chống bọn da trắng" và một số vũ khí do Pháp cung cấp cho chiến dịch này.[4] Một trong những sự kiện nổi tiếng nhất trong chiến dịch tiêu diệt các đảng phái đối lập là vụ án phố Ôn Như Hầu.
Lực lượng trinh sát thuộc Nha Công an đã điều tra Việt Quốc, Việt Cách; phát hiện các tổ chức này câu kết với Pháp dự định lật đổ chính phủ, bắt cóc, tra tấn, giết người, tàng trữ vũ khí, in truyền đơn chống chính phủ... Sau khi báo cáo và được sự đồng ý của Trường Chinh, Hội trưởng Hội nghiên cứu Chủ nghĩa Mác ở Đông Dương, đã tiến hành bao vậy, khám xét tại các trụ sở của Việt Quốc, Việt Cách[1].
Việt Nam Quốc dân Đảng và sử gia người Mỹ Cecil B. Currey cho rằng: với sự trợ giúp của quân Pháp, chính Võ Nguyên Giáp là người đã chỉ huy lực lượng công an và quân đội khám xét và bắt giữ các thành phần chống đối.[4][5] Theo nhà sử học người Mỹ Cecil B. Currey, ngày 15 tháng 6, Võ Nguyên Giáp bắt đầu chỉ huy lực lượng an ninh khám xét các tổ chức có thể đe dọa đến Chính phủ[19]. Còn theo sử gia Trần Trọng Kim thì khi được hỏi về công việc, bộ trưởng Nội vụ Huỳnh Thúc Kháng đã nói với ông: "Bây giờ việc gì cũng do địa phương tự trị cả, thành ra không có việc gì mấy, và khi có việc gì, thì họ làm sẵn xong cả rồi, tôi chỉ có vài chữ ký mà thôi".[21] Theo Nguyễn Duy Thanh thì "Bộ trưởng Bộ Cứu tế Xã hội chẳng hạn chẳng có việc gì làm, đi xin việc ở một nhà máy của Nhà nước. Sắc lệnh đầu tiên và cuối cùng của Bộ trưởng Nội vụ buộc phải ký là quy định mọi công dân ra khỏi nhà phải mang theo giấy thông hành."[22].

Hoạt động của Việt Nam Quốc dân Đảng

Sau khi 20 vạn quân Tưởng Giới Thạch kéo vào Việt Nam, đội quân này đi tới đâu là giải tán chính quyền Việt Minh tới đó và trao lại quyền quản lý cho các thành viên Việt Nam Quốc dân đảng. Theo Võ Nguyên Giáp kể lại: "Bọn chúng (Việt Nam Quốc dân đảng) đã sống ở nước ngoài (Trung Quốc) quá lâu, vốn không còn liên hệ gì với trong nước. Chúng đội lốt chủ nghĩa quốc gia nhưng chính là một bọn phản động lệ thuộc vào Trung Hoa Quốc dân Đảng của Tưởng Giới Thạch và sức mạnh quân sự của chúng chỉ để nhặt nhạnh chút cơm thừa canh cặn". Thiếu tá Mỹ thuộc OSS, Al Patti cũng cùng quan điểm. Sau khi thảo luận, ông ta nhận thấy Việt Nam Quốc dân Đảng tuyệt nhiên không có ý tưởng nào về việc đáp ứng nhu cầu của nhân dân, không một ai có khái niệm về công việc sẽ làm mà chỉ chăm chăm mục tiêu "chia sẻ quyền lực với Việt Minh". Ông ta nhận xét: "Họ (Việt Nam Quốc dân Đảng) là những kẻ lạc hướng về chính trị, có lẽ vì sống quá lâu ở Trung Quốc".[23] Còn theo sử gia Trần Trọng Kim Việt Quốc, Việt Cách tuy có thế lực nhờ quân đội Trung Hoa Dân Quốc hỗ trợ, nhưng không thống nhất và không có kỷ luật chặt chẽ,[24] tuyên truyền nhiều mà không làm được việc gì đáng kể[25].
Trong khi giải giáp vũ khí của quân Nhật tại phía Bắc vĩ tuyến 16, quân Trung Hoa Dân Quốc đã chuyển giao cho Việt Nam Quốc dân đảng và các đảng phái đối lập với Việt Minh hàng tấn vũ khí thu gom được của Nhật. Với số vũ khí này và được Trung Hoa Dân Quốc "bật đèn xanh", Việt Nam Quốc dân Đảng và Đại Việt Quốc dân đảng đã tổ chức các đội vũ trang mang tên "Thần lôi đoàn", "Thiết huyết đoàn", "Hùm xám"... Các đội vũ trang này đã tổ chức nhiều vụ cướp có vũ trang, bắt cóc, tống tiền, tổ chức ám sát những người theo Việt Minh và cả những người trung lập như ông Ba Viên rồi tuyên truyền đổ lỗi cho Việt Minh đã không đảm bảo được an ninh trật tự ở Hà nội và một số đô thị ở Bắc Bộ.[3]
Điều tệ hại nhất theo quan điểm của Việt Minh là quân Trung Hoa Dân Quốc gây sức ép để thành viên Việt Nam Quốc dân Đảng được nắm những ghế quan trọng trong chính phủ[26]. Sau khi Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tuyên bố độc lập ngày 2 tháng 9 năm 1945 và cuộc bầu cử ngày 6 tháng 1 năm 1946, Việt Nam Quốc dân đảng được giữ hơn 40 ghế trong số 70 ghế đại biểu không phải qua bầu cử trong Quốc hội khóa I và có một số thành viên chủ chốt tham gia lãnh đạo Quốc hội và Chính phủ do Quốc hội khóa I bầu ra như Nguyễn Hải Thần (Phó chủ tịch Quốc hội), Trương Đình Tri (Bộ trưởng Y tế). Tuy nhiên chức trách các Bộ cũng thay đổi. Bộ trưởng Quốc phòng trở thành người lo về tài chính mà không được xem xét danh sách nhân sự, quân số, súng đạn còn các Bộ trưởng khác của các đảng phái Quốc gia chẳng có chức trách cụ thể gì, không bao giờ được tham dự bất cứ buổi họp nào của nội các.[22] Theo hồi ký Những năm tháng không thể nào quên của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, do không bằng lòng với vị trí có được, Việt nam Quốc dân Đảng tìm cách lật đổ Việt Minh để cùng với các đảng phái Việt Cách, Đại Việt... chiếm chính quyền.[27]
Đầu tháng 6 năm 1946, Việt Nam Quốc dân đảng tổ chức cho Nghiêm Xuân Chi (đảng viên Việt Quốc) ám sát một số lãnh đạo của Việt Minh như Võ Nguyên Giáp, Trường Chinh và ông Bồ Xuân Luật, một người cũ của Việt Cách nay đứng về phe Việt Minh. Vụ ám sát được bố trí tại Nhà Thủy tọa, cạnh Hồ Gươm, đối diện với nhà số 8 đường Vua Lê (nay là phố Lê Thái Tổ) một trong những nơi ăn nghỉ của Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, khi Nghiêm Xuân Chi chưa kịp ra tay thì đã bị tổ trinh sát của Sở Công an Bắc Bộ do Nguyễn Bá Hùng chỉ huy khống chế. Khám người Nghiêm Xuân Chi, Công an Bắc bộ thu được hai khẩu súng ngắn với 12 viên đạn trong ổ đạn. Mỗi khẩu đều có một viên đã lên nòng. Tại trụ sở Công an Bắc bộ (số 87 đường Gamberta, nay là phố Trần Hưng Đạo), Nghiêm Xuân Chi khai nhận đã được các lãnh tụ Việt Nam Quốc dân đảng giao nhiệm ám sát một số lãnh đạo Việt Minh[28]
Hồ Chí Minh giao cho Võ Nguyên GiápTrần Quốc Hoàn, sau này trở thành Bộ trưởng Công an, nhiệm vụ vô hiệu hóa các cuộc biểu tình do Việt Nam Quốc dân ĐảngViệt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội tổ chức nhằm chấm dứt hoạt động tuyên truyền của các đảng này trong dân chúng. Võ Nguyên Giáp kể lại: "Chúng tôi phải trừng trị bọn phá hoại... Nhưng bằng mọi giá phải tránh khiêu khích và đảm bảo không xảy ra xung đột lớn". Võ Nguyên Giáp dùng lực lượng tự vệ và các hội viên Hội Cứu Quốc phá các cuộc biểu tình này. Khi có lộn xộn, lính Trung Quốc bắn chỉ thiên, xông vào giải tán đám biểu tình để vãn hồi trị an. Việt Nam Quốc dân Đảng hoảng hốt khi người Trung Hoa không giúp được gì nhiều trong việc chống lại Việt Minh như họ mong đợi. Ông Nguyễn Duy Thanh, một người theo chủ nghĩa quốc gia buồn rầu nhớ lại: "Không có Trung Hoa ủng hộ, những đảng phái theo chủ nghĩa quốc gia chẳng thể đối phó được với những người Cộng sản"[29]
Trước những hoạt động gây mất trật tự an ninh tại Hà Nội và một số thành phố ở Bắc Bộ, Sở Công an Bắc Bộ đã lập chuyên án mà sau này được lấy tên công khai là Chuyên án số 7 phố Ôn Như Hầu.[3]

Diễn biến

Theo Công An nhân dân Việt Nam

Chỉ đạo phá án

Theo lời kể của Đại tá Trần Tấn Nghĩa (lúc đó là Đội trưởng Đội trinh sát đặc biệt của Sở Công an Bắc Bộ), cuối tháng 6/1946, Nha Công an Trung ương nhận được nguồn tin của cơ sở phát hiện được âm mưu của thực dân Pháp câu kết với Quốc dân Đảng đang chuẩn bị thực hiện âm mưu đảo chính chính phủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh.[1] Sau khi xin ý kiến trung ương về âm mưu của Quốc dân Đảng, Trường Chinh, Tổng Bí Thư Đảng Cộng sản Việt Nam (lúc bấy giờ lấy tên gọi mới là Hội nghiên cứu Chủ nghĩa Mác ở Đông Dương) đã cho ý kiến chỉ đạo phải tập trung trấn áp bọn phản cách mạng, nhưng phải có đủ chứng cứ. Nha Công an Trung ương cử trinh sát điều tra và thu thập được nhiều chứng cứ chứng minh các hành vi tội ác của Quốc dân Đảng. Cụ thể là Quốc dân Đảng đang ráo riết in tài liệu, truyền đơn phản động, bắt giết cán bộ... để thực hiện âm mưu đảo chính.[1] Một cuộc họp của Nha Công an kéo dài đến 12h đêm ngày 11/7/1946 đã đi đến quyết định phải bí mật, bất ngờ tập kích các trụ sở của chúng ở số 7 phố Ôn Như Hầu (nay là phố Nguyễn Gia Thiều), số 132 phố Duvigneau (nay là phố Bùi Thị Xuân và số 80 phố Quán Thánh.[1][30]
Chỉ đạo trực tiếp lực lượng công an phá vụ án này là các ông Lê Giản (Giám đốc Nha công an Trung ương[31]), Nguyễn Tuấn Thức (Giám đốc Sở Công an Bắc Bộ) và Nguyễn Tạo (Trưởng nha Điệp báo Công an Trung ương).[32] Lực lượng công an xung phong tổ chức khám xét căn nhà nhằm phá vỡ âm mưu câu kết của Đại Việt và Việt Nam Quốc dân Đảng với quân đội Pháp. Âm mưu của hai đảng này nhằm khi quân Pháp diễu binh mừng Quốc khánh Pháp ngày 14 tháng 7, sẽ ném lựu đạn vào đoàn lính da đen duyệt binh, sau đó Pháp sẽ vu cho chính quyền Việt Nam tấn công quân Pháp, tạo cớ cho Pháp bao vây các cơ quan trung ương, bắt cán bộ lãnh đạo và nhân viên chính phủ, lật đổ chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nhân dịp đó Đại Việt và Quốc dân Đảng sẽ tuyên bố đảo chính, lập chính phủ mới.[7][33]

Khám xét trụ sở Việt Nam Quốc dân Đảng tại số 7 Ôn Như Hầu

Ngày 12/7/1946, vào khoảng bảy giờ sáng, Đội trinh sát đặc biệt ngồi trên chiếc ôtô hòm từ Sở Công an Bắc Bộ (Công an Hà Nội bây giờ) theo đường Trần Bình Trọng đến Ôn Như Hầu. Theo kế hoạch, Trần Tấn Nghĩa mang theo mệnh lệnh sự vụ để thực hiện nhiệm vụ bắt, khám xét những người có mặt tại trụ sở số 7 phố Ôn Như Hầu can tội tống tiền, bắt cóc người đưa về Sở Công an Bắc Bộ. Khi Đội trinh sát đặc biệt đến thì lực lượng Công an xung phong và tự vệ chiến đấu đã bao vây trụ sở. Trần Tấn Nghĩa xuống xe và ra hiệu cho toàn đội trong tư thế sẵn sàng chiến đấu. Việc đầu tiên là cắt dây điện thoại để không lực lượng Quốc dân Đảng liên lạc với nhau. Trần Tấn Nghĩa tiến sát đến cổng (lúc đó có khoảng một tiểu đội lính gác vũ khí đầy đủ và trên hành lang cũng có nhiều lính có vũ khí) gọi người bên trong mở cổng, đón tiếp Sở Công an Bắc Bộ đến nói chuyện với chỉ huy.[1].
Phan Kích Nam tiếp Trần Tấn Nghĩa. Trần Tấn Nghĩa xưng tên, chức vụ, nói rõ đến bắt, khám xét đưa những người có mặt ở số 7 Ôn Như Hầu về Sở Công an Bắc bộ để xét hỏi, vì có nhiều đơn tố cáo hành động bắt cóc, tống tiền. Phan Kích Nam từ chối đi theo Trần Tấn Nghĩa với lý do là Đại biểu Quốc hội nên có quyền bất khả xâm phạm. Trong khi đó người ký lệnh bắt Phan Kích Nam là Phó chủ sự của Việt Minh[1]. Hơn nữa đây là trụ sở một Đảng nên không thể tùy tiện khám xét. Phải có ý kiến của Hồ Chí Minh thì mới có thể bắt ông được. Trần Tấn Nghĩa rút lui.
Lần thứ hai, Trần Tấn Nghĩa đến số 7 phố Ôn Như Hầu. Theo kế hoạch đã được cấp trên chấp thuận, Trần Tấn Nghĩa sẽ mời Phan Kích Nam về trụ sở công an trước, rồi sau đó thực hiện khám xét và bắt lực lượng Quốc đân đảng còn lại. Phan Kích Nam tiếp Trần Tấn Nghĩa và khuyên Trần Tấn Nghĩa quay về báo cáo với cấp trên rằng công an không có quyền bắt ông.[34] Sau đó Trần Tấn Nghĩa ra về.
Lần thứ ba Trần Tấn Nghĩa quay lại số 7 Ôn Như Hầu khoảng 10h30, một vệ sĩ chờ sẵn để đưa ông vào gặp Phan Kích Nam. Khi vào Trần Tấn Nghĩa chủ động tháo thắt lưng đeo súng đặt trên bàn. Phan Kích Nam rót nước mời ông. Một lát, Trần Tấn Nghĩa tỏ ra buồn bực và đứng dậy cáo biệt, rút lui, vờ quên súng ở bàn. Phan Kích Nam vội vàng cầm súng của ông theo và bảo: "Này chú em, chú quên súng này". Nhanh như cắt, Trần Tấn Nghĩa rút khẩu colt được giấu dưới áo khoác, chĩa thẳng nòng súng vào đầu Phan Kích Nam và dõng dạc quát: "Đứng im, động đậy tao bắn vỡ sọ" và bằng động tác nhanh gọn, lấy mu bàn tay trái chặt vào gáy Phan Kích Nam. Phan Kích Nam lảo đảo rồi khuỵ xuống. Trần Tấn Nghĩa bẻ quặt tay Phan Kích Nam ra đằng sau và ra lệnh tất cả phải bỏ súng, không được chống cự. Phan Kích Nam phải làm theo lệnh của Trần Tấn Nghĩa. Sau đó Trần Tấn Nghĩa lệnh cho đội trinh sát và các lực lượng khác theo đúng kế hoạch xông vào bắt xích tay tất cả người của Quốc dân Đảng về Sở Công an Bắc Bộ.[1]

Kết quả khám xét số 7 Ôn Như Hầu

Khi khám xét số 7 - Ôn Như Hầu ngày 12 tháng 7, Công an Bắc Bộ thu được 8 súng ngắn, 5 súng trường và 1 trung liên Nhật, dụng cụ tra tấn, thuốc mê và đào được 6 xác người chôn đứng trong vườn chuối sau nhà. Tuy nhiên, trụ sở hành chính của Việt Nam Quốc dân đảng tại số 7 phố Ôn Như Hầu (nay là phố Nguyễn Gia Thiều) chỉ là bình phong để che đậy hai căn cứ quan trọng hơn của Việt nam Quốc dân đảng trong nội thành Hà Nội khi đó là nhà số 132 phố Duvigneau (nay là phố Bùi Thị Xuân) và nhà số 80 phố Quán Thánh. Cuộc bắt, khám xét tại 132 - Duvigneau và 80 Quán Thánh diễn ra cùng thời điểm với vụ bắt, khám xét ở số 7 - Ôn Như Hầu. Tại nhà số 132 phố Duvigneau, Nha Công an Bắc Bộ thu giữ nhiều tang vật gồm 6 máy in tipo với các "bát chữ" còn nguyên vẹn nội dung; 11 mặt đá in lito đã khắc chữ; trên 3 tạ truyền đơn, khẩu hiệu; tài liệu chống Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vừa in xong còn chưa kịp chuyển đi; 18,6 kg tiền giả (gồm cả giấy bạc Quan Kim và giấy bạc Đông Dương); 12 khẩu súng ngắn, 8 khẩu tiểu liên, 17 súng trường, 3 trung liên FM và 13 quả lựu đạn Nhật. Khám xét tại nhà số 80 phố Quán Thánh, Công an Bắc Bộ thu được 9 súng ngắn, 21 súng trường, 2 trung liên Nhật, 11 quả lựu đạn các loại, hai thùng tài liệu, truyền đơn chống chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Quân Pháp tại Hà Nội đã điều xe tăng đến can thiệp vào vụ bắt, khám xét tại 80 phố Quán Thánh nhưng Việt Minh đã tiến hành đàm phán trên cơ sở Hiệp định sơ bộ ngày 6 tháng 3 năm 1945. Trưa ngày 12 tháng 7, xe tăng và quân Pháp rút khỏi phố Quán Thánh.[35]
Ngoài ra lực lượng công an đã tìm ra một máy làm tiền giả và một căn phòng với bức tường đẫm máu và nhiều dụng cụ tra tấn. Trong khu vườn sau nhà đã khai quật được bảy xác chết, một số đã bị chặt chân tay. Hai người bị bắt cóc tống tiền được cứu kịp thời trước khi bị giết. Trong lúc công an đang tiếp tục tìm kiếm, một người mang kiếm Nhật đi vào và la hét ông chính là lãnh đạo của Việt Nam Quốc dân Đảng và là một đại biểu Quốc hội và nói rằng không ai có quyền đụng chạm ông. Một trong những người bị bắt cóc trỏ ngón tay vào ông ta và cho rằng hắn chính là kẻ đã bắt cóc ông.[36] Ngay sau đó mấy ngày, lực lượng công an đã tổ chức triển lãm công khai các vật chứng tại căn nhà.

Khám xét trụ sở đảng Đại Việt tại số 132 Duvigneau

Cũng trong ngày 12/7/1946, một tiểu đội công an do Lê Hữu Qua chỉ huy[37] bao vây khám xét trụ sở của đảng Đại Việt tại số 132 Duvigneau, do phát hiện Đại Việt cấu kết với Pháp âm mưu tiến hành đảo chính chính quyền cách mạng đúng vào ngày quốc khánh Pháp 14/7/1946.[38] Khi thực hiện cuộc bao vây khám xét này, lực lượng công an chưa có chứng cứ cụ thể và chưa có lệnh của cấp trên. Nhưng vẫn thực hiện bao vây khám xét để các thành viên Đại Việt không có thời gian rút vào bí mật và tẩu tán truyền đơn, hiệu triệu lật đổ chính quyền. Lực lượng công an tiến hành đột kích bất ngờ vào lúc sáng sớm khiến lính canh và các đảng viên Đại Việt không kịp có hành động phản ứng.[37] Tại trụ sở của Đại Việt, lực lượng công an đã tìm thấy nhiều truyền đơn, hiệu triệu chưa kịp tẩu tán cùng nhiều súng ống, lựu đạn.[38]

Các sự kiện có liên quan

Ngày 13 tháng 7, tướng Morlière, tư lệnh các lực lượng Pháp tại Hà nội đã cử sĩ quan tùy tùng đến trụ sở chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Bắc Bộ Phủ thông báo việc người Pháp rút đề nghị tổ chức cuộc diễu binh của quân Pháp tại Hà Nội do nhận thấy không bảo đảm an toàn. Tại dây, viên tùy tùng của tướng Morlière được đại diện Chính phủ Việt Nam thông báo rằng Việt Minh sẽ tổ chức cuộc mít tinh lớn ở Quảng trường Nhà hát lớn Hà Nội và một số con phố quanh Hồ Gươm để chào mừng kỷ niệm ngày Cách mạng Pháp 14-7-1789. Tất cả những chứng cứ, tang vật, truyền đơn, khẩu hiệu, ảnh chụp những xác chết, những hố chôn người... mà Công an Bắc Bộ thu tập được trong Vụ án phố Ôn Như Hầu đều được trưng bày cho toàn thể nhân dân Hà Nội được biết trong cuộc mít tinh diễu hành này.[28]

Theo Việt Nam quốc dân Đảng và các học giả nước ngoài

Sau nhiều lần bị Việt Minh tấn công, Việt Nam Quốc dân Đảng đã rút lui về phía bắc, nhưng vẫn giữ một trụ sở bí mật ở Hà Nội tại số 7 (theo lãnh đạo Việt Nam Quốc dân Đảng Hoàng Văn Đào là số 9) phố Ôn Như Hầu (tên tiếng Pháprue Bonifacy,[39] nay số 7 phố Nguyễn Gia Thiều). Trước kia căn nhà này được quân đội Trung Quốc sử dụng, nhưng đã được trao cho Việt Nam Quốc dân Đảng.[40] Tầng một tòa nhà này là nơi huấn luyện chính trị cho những đảng viên nòng cốt của Việt Nam Quốc Dân Đảng. Tầng hai là Văn phòng Tiểu ban Tuyên truyền và Giáo dục Ðệ Thất Chiến Khu Việt Nam Quốc Dân Đảng được dời từ Quảng Ngãi về Hà Nội.[5] Số 7 Ôn Như Hầu chỉ là nơi làm việc bình thường của Việt Nam Quốc dân Đảng. Lực lượng công an dưới sự chỉ đạo của Võ Nguyên Giáp đã tấn công nơi này trong lúc Việt Nam Quốc dân Đảng không đề phòng sau đó dựng hiện trường giả để có cớ tiêu diệt Việt Nam Quốc dân Đảng.[4][5]
Theo Hoàng Văn Đào, Võ Nguyên Giáp được một nhân viên an ninh báo cáo rằng khi anh ta bị bắt tại trụ sở Việt Nam Quốc dân Đảng tại phố Ôn Như Hầu đã nghe được tin ngày 14/7/1946 Việt Nam Quốc dân Đảng sẽ ám sát những đại diện Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được Pháp mời tham dự lễ duyệt binh mừng Quốc khánh Pháp. Võ Nguyên Giáp đã đem chuyện này báo cho người Pháp biết sau đó tổ chức tấn công Việt Nam Quốc dân Đảng.[5] Khoảng 8 giờ tối ngày 12 tháng 7, lực lượng công an theo chỉ đạo của Trường Chinh, lúc này là Hội trưởng Hội nghiên cứu Chủ nghĩa Mác ở Đông Dương,[41] đã tổ chức khám xét căn nhà này và tìm thấy hố chôn tập thể và phòng tra tấn.[40]
Theo Hoàng Văn Đào, đây là những binh sĩ Trung Hoa Dân Quốc chết và được Trung Quốc chôn trong sân ngôi nhà trước khi được Việt Nam Quốc dân Đảng sử dụng làm văn phòng[5]. Còn theo nhà sử học quân sự người Mỹ Cecil B. Currey trong quyển tiểu sử Võ Nguyên Giáp Victory at any Cost cho rằng việc này là do chính Võ Nguyên Giáp dựng lên. Sau khi chiếm lấy căn nhà, Võ Nguyên Giáp đã cho người xây dựng căn phòng tra tấn, đào lên xác chết trong mộ và đặt vào trong căn nhà, rồi tuyên bố đã khám phá ra hố chôn tập thể của người bị Việt Nam Quốc dân Đảng dã man giết chết.[4] Cũng theo Currey, nhiều xác chết thực ra chính là thành viên Việt Nam Quốc dân Đảng bị lực lượng an ninh của Võ Nguyên Giáp giết chết.[4]
Hoàng Văn Đào thừa nhận Việt Nam Quốc Dân Đảng đã từng bắt cóc giết người, nhưng sẽ không bao giờ hành hình 7 người rồi chôn xác ngay tại trụ sở; họ có thể dễ dàng đeo các tảng đá lớn vào xác chết rồi ném xuống Hồ Thiền Quang ở gần đó.[42]

Đánh giá

Đối với lực lượng Công an nhân dân Việt Nam, đây là thắng lợi lớn trong công tác bảo vệ Đảng Cộng sản Việt Nam, bảo vệ chính quyền cách mạng non trẻ, bảo vệ nhân dân, góp phần quan trọng trong việc chuẩn bị bước vào cuộc Kháng chiến chống thực dân Pháp (1946 - 1954).
Ngoài các ý kiến, tư liệu chính thống, còn có các ý kiến, tài liệu trái chiều của Việt Quốc, Việt Cách và các nhà nghiên cứu nước ngoài.
Nhà báo Mỹ Arthur J. Dommen đã ví vụ án này với những sự kiện trong cuộc cách mạng Nga. Theo ông, vào mùa hè năm 1918, khi dân chúng đã bắt đầu hết ảo tưởng về sự lãnh đạo của khối Bolshevik, Ban chấp hành Trung ương Đảng Xã hội Cách mạng Cánh tả quyết định dùng khủng bố và nếu cần ám sát các quan chức cao cấp của Đức nhằm làm chấm dứt Hòa ước Brest-Litovsk, tương tự như kế hoạch của Việt Nam Quốc Dân đảng tấn công và ám sát quan chức Pháp nhằm làm chấm dứt Hiệp định sơ bộ. Lenin đã lợi dụng vụ đại sứ Đức Wilhelm von Mirbach bị ám sát để tiêu diệt đối thủ chính trị là Đảng Xã hội Cách mạng Cánh tả, giống như Việt Minh đã lợi dụng vụ này để trừ một đối thủ chính trị là Việt Nam Quốc Dân Đảng.[43] Nhà sử học Mỹ Cecil B. Currey thì đánh giá: Võ Nguyên Giáp nhấn mạnh tất cả các đảng phái phải đoàn kết trong mặt trận dân tộc Liên Việt, nhưng đa số các đảng phái đối lập từ chối vì cho rằng những vị trí then chốt đều thuộc về Việt Minh. là một người Marxist-Leninist trung thành, Võ Nguyên Giáp đã quyết định rằng Việt Minh phải hoàn toàn điều khiển bộ máy chính quyền, và "vụ án phố Ôn Như Hầu đã mở nhiều con mắt của những người không tin vào màu đỏ (biểu tượng của phong trào cộng sản) của Việt Minh."[9].

Ảnh hưởng

Vụ án phố Ôn Như Hầu đã thay đổi ý kiến của một số người về vai trò của Việt MinhViệt Nam Quốc Dân Đảng. Hoàng Xuân Hãn lúc đầu bào chữa cho Việt Nam Quốc Dân Đảng, cho rằng những người bị tra tấn là người giàu, và những người tra tấn là Trung Hoa Quốc Dân Đảng giả làm Việt Nam Quốc Dân Đảng, nhưng sau khi được đưa bằng chứng là trong các xác chết có cả Việt Minh, ông lại cho rằng họ là gián điệp [44]. Ông cũng buộc tội Việt Minh đã sát hại Việt Nam Quốc Dân Đảng.
Sau khi được công an Việt Minh báo cáo và dẫn tới hiện trường của vụ án, chủ tịch Huỳnh Thúc Kháng, vốn có cảm tình với Việt Nam Quốc Dân Đảng trước kia, cũng đã đập gậy mà nói:
Diệt, diệt, phải diệt hết bọn phản nước hại dân này mới được...diệt, diệt, phải diệt hết bọn này!
Tuy không có chứng cớ buộc tội Việt Nam Quốc Dân Đảng, Huỳnh Thúc Kháng đã thay đổi thái độ đối với Việt Nam Quốc Dân Đảng sau vụ này [40] Ông chẳng những cảm thấy ghê tởm đối với vụ án Ôn Như Hầu, mà còn đối với việc Việt Minh lợi dụng việc này để trả thù những người Quốc Dân Đảng sau này [44]. Ngày 16-7, trong một cuộc họp báo, chủ tịch Huỳnh Thúc Kháng phát biểu: "Đoàn kết là cần, nhưng không thể vin vào đoàn kết để làm điều phi pháp... Những kẻ bắt cóc, tống tiền, ám sát thì phải đưa ra trước pháp luật nghiêm trị... Đây không phải vấn đề đảng phái, việc khám xét vừa rồi là việc phải làm để bảo vệ trật tự trị an"[45]

Chú thích

  1. ^ a ă â b c d đ e Vụ án Ôn Như Hầu qua lời kể của Đại tá Trần Tấn Nghĩa, Công An Nhân dân 28/8/2005
  2. ^ Phạm Văn Quyền (chủ biên). 60 năm Công an nhân dân Việt Nam. NXB Công an nhân dân. Hà Nội. 2006. Trang 105-106.
  3. ^ a ă â Phạm Văn Quyền (chủ biên). 60 năm Công an nhân dân Việt Nam. NXB Công an nhân dân. 2006. trang 104.
  4. ^ a ă â b c d Cecil B. Currey, Victory at Any Cost: The Genius of Viet Nam's Gen. NXB thế giới. trang 196-197
  5. ^ a ă â b c d Viet Nam Quoc Dan Dang: A Contemporary History of a National Struggle: 1927-1954, Hoàng Văn Đào, trang 309, RoseDog Books
  6. ^ Những chặng đường lịch sử vẻ vang của lực lượng An ninh Nhân dân
  7. ^ a ă â Báo quân đội nhân dân điện tử - Tiếng vang vụ án Ôn Như Hầu
  8. ^ Hoàng Văn Đào, Viet Nam Quoc Dan Dang: A Contemporary History of a National Struggle: 1927-1954, Dorrance Publishing, 2008, tr. 309
  9. ^ a ă Currey, tr. 127
  10. ^ Gisèle Luce Bousquet, Pierre Brocheux, Viêt Nam Exposé: French Scholarship on Twentieth-century Vietnamese Society, University of Michigan Press, 2002; tr. 236
  11. ^ a ă Chiến khu Trần Hưng Đạo, Chương 3 - Chiến khu Trần Hưng Đạo trong tổng khởi nghĩa tháng 8 và những tháng đầu bảo vệ chính quyền cách mạng (8/1945-10/1945), Bộ tư lệnh quân khu 3, Nxb Quân đội nhân dân, 1993
  12. ^ Việt Nam Quốc dân đảng trong thời kỳ thoái trào và biến chất (1930-1954), Nguyễn Văn Khánh, Tạp chí nghiên cứu lịch sử số 6/410(2010), Viện sử học Việt Nam
  13. ^ Đại từ điển Bách Khoa
  14. ^ Võ Nguyên Giáp, Những năm tháng không thể nào quên", NXB Trẻ, lưu chiểu tháng 5 năm 2009, trang 99.
  15. ^ a ă Mãi mãi ghi nhớ Quốc hội khoá I (17/05/2011)
  16. ^ Theo báo Sự thật, số 14 (20-23/1/1946), thì những người bắt cóc Trần Đình Long mặc quần áo Tầu, nói tiếng Việt. Một ủy viên tuyên truyền UBND tỉnh Yên Bái tên Nguyễn Văn Phúc cũng đã bị bắt cóc, về sau người vợ của ông Phúc đến gặp Nguyễn Hải Thần, và được ông đưa đến gặp Vũ Hồng Khanh để xin thả chồng mình. Ông Vũ Hồng Khanh từ chối và nói buột miệng "Ngay đến ông Long gần đây tôi còn chưa cho thả nữa là".
  17. ^ Võ Nguyên Giáp, Những năm tháng không thể nào quên", NXB Trẻ, lưu chiểu tháng 5 năm 2009, trang 103.
  18. ^ Võ Nguyên Giáp, Những năm tháng không thể nào quên, NXB Trẻ, lưu chiểu tháng 5 năm 2009, trang 113.
  19. ^ a ă Cecil B. Currey, Victory at Any Cost: The Genius of Viet Nam's Gen. Vo Nguyen Giap, Potomac Books, tr. 125
  20. ^ III - TỔNG TUYỂN CỬ - THÀNH LẬP CHÍNH PHỦ LIÊN HIỆP KHÁNG CHIẾN
  21. ^ Một cơn gió bụi, Chương 6 Chính phủ Việt Nam và tình thế trong nước, Trần Trọng Kim
  22. ^ a ă Cecil B. Currey. Chiến thắng bằng mọi giá. trang 177, NXB Thế giới, 2013
  23. ^ Cecil B. Currey. CHiến thắng bằng mọi giá. NXB Thế giới. Trang 174
  24. ^ Một Cơn Gió Bụi, Chương 6: Chính phủ Việt Nam và tình thế trong nước, Trần Trọng Kim
  25. ^ Một Cơn Gió Bụi, Chương 9: Đi sang Tàu, Trần Trọng Kim
  26. ^ Cecil B. Currey. Chiến thắng bằng mọi giá. NXB Thế giới. Trang 175
  27. ^ Võ Nguyên Giáp, Những năm tháng không thể nào quên, NXB Trẻ, 2009. Trang 288-289
  28. ^ a ă Nguyễn Trọng Khuê (chủ biên). Những trang sử vẻ vang của Công an nhân dân Việt Nam (1945-2005). NXB Công an nhân dân. Hà Nội. 2005. trang 14-16
  29. ^ Cecil B. Currey. CHiến thắng bằng mọi giá. NXB Thế giới. Trang 177 -178
  30. ^ Phạm Văn Quyền (chủ biên). 60 năm Công an nhân dân Việt Nam. NXB Công an nhân dân. Hà Nội. 2006. trang 104-106
  31. ^ Quá trình trưởng thành của lực lượng CAND Việt Nam qua những dấu mốc lịch sử, TS. Bùi Văn Thịnh, Trưởng Bộ môn NVCS - Học viện CSND
  32. ^ Con trai "ông tiên thuốc nam" phá vụ án Ôn Như Hầu
  33. ^ Đại tướng Võ Nguyên Giáp - Tổng tập Hồi ký, Những năm tháng không thể nào quên, NXB Trẻ, 2009, trang 290
  34. ^ Vụ án Ôn Như Hầu qua lời kể của Đại tá Trần Tấn Nghĩa, Công An Nhân dân 28/8/2005, Trích: Hắn thấy tôi dễ bảo, tỏ vẻ ngoan ngoãn nên mang nước giải khát mời tôi uống và uống cùng. Khuyên tôi quay về báo cáo, hắn nói: "Không ổn đâu. Chú mày cứ nói lại với mấy ông như vậy. Rút lui thôi. Nếu manh động sẽ ăn đạn và sẽ lĩnh trách nhiệm với Quốc hội. Đừng có đến đây nữa".
  35. ^ Phạm Văn Quyền (chủ biên). 60 năm Công an nhân dân Việt Nam. NXB Công an nhân dân. Hà Nội. 2006. trang 105-107.
  36. ^ Giáp tr. 268
  37. ^ a ă Vụ án phố Ôn Như Hầu, thiếu tướng Lê Hữu Qua, Báo Nhân Dân, ngày 19/8/2005
  38. ^ a ă Con trai "ông tiên thuốc nam" phá vụ án Ôn Như Hầu, PHÁP LÝ Online
  39. ^ Boudarel, Georges. Hanoi: city of the rising dragon. Boston: Rowman & Littlefields Publishers, 2002. tr 95
  40. ^ a ă â Bousquet, tr. 236
  41. ^ Vụ án Ôn Như Hầu qua lời kể của Đại tá Trần Tấn Nghĩa, Báo Công an Nhân dân Điện tử, 8:40, 28/08/2005, Trích: "Theo ông kể, cuối tháng 6/1946, Nha Công an Trung ương nhận được nguồn tin của cơ sở phát hiện được âm mưu của thực dân Pháp câu kết với bọn phản động Quốc dân Đảng đang chuẩn bị thực hiện âm mưu đảo chính chính phủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Sau khi xin ý kiến trung ương về âm mưu thâm độc này, đồng chí Trường Chinh, Tổng Bí Thư đảng ta lúc bấy giờ đã cho ý kiến chỉ đạo phải tập trung trấn áp bọn phản cách mạng, nhưng phải có đủ chứng cứ."
  42. ^ Georges Boudarel, Nguyễn Văn Ký (2002). Hanoi: City of the Rising Dragon. Rowman & Littlefield. tr. 95.
  43. ^ Arthur J. Dommen (2001). The Indochinese Experience of the French and the Americans: Nationalism and Communism in Cambodia, Laos, and Vietnam. Indiana University Press. tr. 168–169.
  44. ^ a ă Bousquet, tr. 237
  45. ^ Võ Nguyên Giáp - Tổng tập hồi ký. NXB Quân đội nhân dân. Trang 292

Xem tiếp...

HIỆN THỰC KỲ ẢO 48

(ĐC chép từ giadinhonline.vn)

6 tục lệ kinh hoàng nhất trên thế giới

Xã hội ngày càng phát triển nhưng ở nhiều nơi trên thế giới, các tập tục đáng sợ vẫn được duy trì.
Tin liên quan
    Tục lệ cắt ngón tay của người Dani
    Cho tới nay, những tập tục hành xác cổ xưa như tục cắt ngón tay vẫn được người dân Dani ở vùng đảo New Guinea (Indonesia) gìn giữ và thực hiện.
    Khi một người trong bộ tộc qua đời, vợ hoặc chồng của người đó sẽ cắt cụt ngón tay và chôn chúng cùng với xác chết.
    Trước tiên, người Dani buộc chặt ngón tay bằng một sợi dây cao su trong khoảng 30 phút để phần đầu ngón tay mất cảm giác đau rồi mới tiến hành cắt.
    Ngoài việc cắt cụt ngón tay, họ còn bôi tro hoặc đất sét lên mặt để bày tỏ nỗi buồn trước sự ra đi vĩnh viễn của người thân yêu.
    Sống cùng người chết
    Một số bộ tộc ở huyện Toraja (Indonesia) có tục lệ sống chung với thi thể người thân trong nhiều tháng trước khi an táng.
    Xác chết sẽ được mặc những bộ trang phục đặc biệt và đặt trong một căn phòng riêng biệt.
    Thực chất, tập tục này bắt nguồn từ lý do tài chính. Việc tổ chức tang lễ và chôn cất rất tốn kém, nên gia đình của người quá cố có thể phải mất nhiều năm mới đủ tiền.
    Ném trẻ con từ độ cao trên 15m (Ấn Độ)
    Nghi lễ kỳ quặc này được tổ chức vào tuần đầu tiên của tháng 12 hàng năm tại Ấn Độ.
    Những em bé khoảng vài tháng tuổi sẽ bị ném từ độ cao 15m xuống một tấm chăn đặt bên dưới. Sau đó, các bé được truyền qua đám đông và đưa đến tay bố mẹ.
    Theo quan niệm của người dân, việc thực hiện nghi lễ ném trẻ con sẽ giúp các em bé khỏe mạnh, đồng thời mang lại may mắn cho cả gia đình.
    Ướp xác người bằng cách hun khói
    Đối với người Anga ở Morobe của Papua New Guinea, việc ướp xác bằng cách hun khói rồi dựng lên vách đá là hình thức cao nhất để thể hiện sự tôn trọng người quá cố.
    Đầu tiên, xác người quá cố sẽ được rút hết chất béo, còn mắt, miệng và hậu môn được khâu kín để ngăn không khí đi vào.
    Sau đó, lưỡi, lòng bàn tay và lòng bàn chân của xác chết được cắt ra để trao lại cho gia đình. Những phần còn lại sẽ được đưa vào bếp lửa để hun khói.
    Cuối cùng, người ta phủ đất sét và đất đỏ lên xác ướp hun khói và treo trên vách đá.
    Ngày Ashura của người Shiite
    Ashura là sự kiện lớn nhất trong năm của người Hồi giáo dòng Shiite, được tổ chức vào ngày thứ 10 của tháng Muharam theo lịch Hồi giáo.
    Đây là dịp để tưởng niệm cái chết của Imam Hussein, cháu trai nhà tiên tri vĩ đại Mohammed.
    Việc người Sunni chặt đầu Hussein sau trận đụng độ tại thành phố Karbala (Iraq) vào thế kỷ thứ 7 đã thổi bùng ý chí 'tử vì đạo' của người Shiite.
    Hàng năm, vào ngày mất của Hussein, họ thường than khóc và tự hành xác, thậm chí dùng dao cứa vào đầu nhằm thể hiện lòng tôn kính.
    Ăn tro cốt người chết
    Bộ tộc Yanomami (Brazil và Venezuela) luôn muốn đảm bảo rằng linh hồn người chết sẽ được thanh thản..
    Do đó, người quá cố sẽ không được chôn cất bởi họ cho rằng, làm vậy có nghĩa là bộ tộc đã từ bỏ một người con.
    Thay vào đó, họ trộn tro cốt người chết vào thức ăn để cả gia đình cùng ăn trong ngày giỗ.

    Rợn người tục đóng đinh vào chân, tay ở Philippines

    Nghi thức đóng đinh vào chân tay được diễn ra nhằm kỷ niệm ngày Chúa Giêsu qua đời. Mặc dù có niềm tin và lòng tôn kính tuyệt đối với Chúa nhưng những người tham gia nghi thức đóng đinh cũng không tránh khỏi sự đau đớn khi bị "hành hạ" về thể xác.
      Nghi thức được diễn ra vào ngày thứ 6 tuần thánh, tại ngôi làng nhỏ Cutud thuộc thành phố Fernando, Philippines. Một số người đàn ông sẽ quỳ xuống để chịu roi cho đến khi lưng chảy máu và được phép… đóng đinh chịu tội trước Đức chúa Giê-su.
      Những người đàn ông được thực hiện nghi thức trên đều là các tín đồ Công giáo. Họ được lựa chọn đóng vai Chúa và sẽ phải diễn những cảnh y như thật nhằm tái hiện lại hình ảnh của Chúa Giêsu khi bị chế giễu, đánh đập dã man, trói trên cây thập giá và bị đóng đinh vào chân tay trước lúc chết. Trong khi đó, những người khác vừa chứng kiến nghi thức, vừa sám hối tội lỗi và cầu nguyện cho một cuộc sống tốt đẹp hơn cũng như thể hiện lòng biết ơn đối với sự che chở, cứu rỗi của Chúa.
      Những người dân nơi đây coi việc đóng đinh vào chân tay là một hoạt động đền ơn chúa Giêsu.

      Những người dân nơi đây coi việc đóng đinh vào chân tay là một hoạt động đền ơn chúa Giêsu.
      Những người dân nơi đây coi việc đóng đinh vào chân tay là một hoạt động đền ơn chúa Giêsu.
      Các đinh sẽ được rửa sạch trước khi bị đóng vào người. Bốn giờ trước khi tiến hành lễ đóng đinh, đàn ông xếp thành hàng dài, chìa lưng cho roi tre và gậy bọc mảnh chai vỡ quần nát thịt da. Máu đỏ phun xuống mặt đường ướt đẫm. Người ta dùng những cây đinh dài chừng 12cm rồi đóng vào bàn tay những người tự nguyện, sau đó treo họ trên thánh giá chừng 10 phút.
      Tục lệ này xuất hiện ở làng Cutud từ năm 1955, nhưng bị gián đoạn mãi đến năm 1962. Từ đó đến nay người dân địa phương vẫn tổ chức nghi lễ này đều đặn vào mỗi năm.
      Khi đóng, đinh phải đảm bảo xuyên thẳng tận vào cây gỗ thánh giá.

      Khi đóng, đinh phải đảm bảo xuyên thẳng tận vào cây gỗ thánh giá.
      Đinh được đóng xuyên thẳng tận vào cây gỗ thánh giá.
      Người dân Cutud gọi tuần thánh là Maleldo - theo tiếng Tagalog, dần dần được hiểu rộng hơn, đó là mùa lễ hội. Nửa tháng trước tuần thánh, không khí lễ hội rộn ràng làm cho ngôi làng nhỏ bé này trở thành tâm điểm của giới truyền thông trên toàn thế giới.
      Đối với Cutud, tuần thánh được bắt đầu khi cuốn sổ ghi danh những người tự nguyện đóng đinh để ở nhà ông trưởng làng được khai bút, vì nếu không có người đăng ký tự nguyện hiến thân thì xem như nghi lễ không thể thực hiện được.
      Được biết không chỉ có làng Cutud mà gần như hầu hết các nơi trên đất nước Philippines đều tái hiện cảnh Chúa bị hành hình trong ngày thứ sáu tuần thánh. Nhưng chỉ có ba làng ở tỉnh Pampanga là đóng đinh thật để tái hiện cuộc khổ hạnh của Chúa Jesus, trong đó có làng Cutud.
      Với nhiều du khách, nghi thức này có một chút gì đó ghê rợn, nhưng với những người dân Cutud đó là mùa hạnh phúc. Từ trẻ em đến người già trong làng ai cũng náo nức chờ đón ngày lễ trọng đại này.
      Xem tiếp...

      ĐỊA LINH NHÂN KIỆT 17 (Lê Hoàn)

      (ĐC sưu tầm trên NET)

      Lê Đại Hành

      Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

      Ledaihanh.jpg
      Tượng vua Lê Đại Hành ở Hoa Lư
      Vua nhà Tiền Lê
      Trị vì 980 - 1005
      Kế nhiệm Lê Trung Tông
      Thông tin chung
      Hoàng hậu
      Hậu duệ
      Tên húy Lê Hoàn
      Niên hiệu
      Thụy hiệu Đại Hành hoàng đế
      Triều đại Nhà Tiền Lê
      Thân phụ Lê Mịch
      Thân mẫu Đặng Thị
      Sinh 10 tháng 8, 941
      Mất 1005
      Việt Nam
      An táng Trường Yên (Hoa Lư)
      Lê Đại Hành (chữ Hán: 黎大行; tên húy là Lê Hoàn (黎桓), 9411005) là vị vua đầu tiên của nhà Tiền Lê, trị vì từ 980 đến 1005. Ông là vị hoàng đế nằm trong danh sách 14 vị anh hùng dân tộc tiêu biểu nhất ở Việt Nam. Trong lịch sử Việt Nam, Lê Hoàn không chỉ là một vị hoàng đế có những đóng góp lớn trong chống quân Tống phương Bắc, quân Chiêm phương Nam, giữ gìn và củng cố nền độc lập dân tộc mà còn có nhiều công lao trong sự nghiệp ngoại giao, xây dựng và kiến tạo đất nước Đại Cồ Việt. Lê Hoàn cũng là người tạo tiền đề, điều kiện để thời gian sau đó Lý Công Uẩn có đủ khả năng dời đô từ Hoa Lư về Thăng Long năm 1010, mở ra một kỷ nguyên phát triển lâu dài của văn hóa Thăng Long - Hà Nội, thủ đô hiện tại của Việt Nam. Xung quanh vị Hoàng đế này còn nhiều điều chưa được sáng tỏ như vấn đề thân thế, sự nghiệp, và thụy hiệu.

      Thân thế

      Theo Đại Việt sử ký toàn thư thì Lê Hoàn sinh ngày 15 tháng Bảy năm Tân Sửu (tức 10 tháng 8 năm 941). Về quê hương Lê Hoàn, vấn đề mà Ngô Thì Sĩ đặt ra từ thế kỷ 18, được thảo luận nhiều lần dưới thời nhà Nguyễn cho đến nay các nhà sử học vẫn chưa đưa ra được kết luận nơi đâu trong ba nơi: Ninh Bình, Thanh Hoá hay Hà Nam là quê hương của ông. Năm 1981, tại hội thảo khoa học "Lê Hoàn và 1000 năm chiến thắng giặc Tống xâm lược", nhiều vấn đề chung về thế kỷ X, về quê hương, thân thế, sự nghiệp của ông bước đầu được giải quyết. Đến năm 2005, tại hội thảo "1000 năm Thăng Long và sự nghiệp của Lê Hoàn", trải qua một chặng đường đổi mới của sử học, nhiều vấn đề về quê hương của Lê Hoàn được đào sâu và nhìn nhận lại theo chiều hướng thoáng rộng hơn. Tựu chung có các ý kiến sau:
      Trường Châu (Ninh Bình)
      Việt sử lược viết từ thời Trần ghi là: "Đại Hành vương húy là Hoàn, họ Lê, người Trường Châu". Trường Châu là vùng đất kinh đô Hoa Lư, Ninh Bình. PGS, TS. Trần Bá Chí trước từng viết rất công phu về quê hương, dòng dõi Lê Đại Hành cho rằng ông người Ái Châu (Thanh Hoá), thì tại hội thảo 2005 cũng khẳng định rằng quê gốc vua là Trường Yên, Hoa Lư, Ninh Bình. Các nhà nghiên cứu Mai Khánh (Bảo tàng Hà Nam) và TS. Vũ Văn Quân đồng ý rằng Lê Hoàn là người Trường Châu nhưng cho rằng Trường Châu bao gồm cả Ninh BìnhHà Nam. Thần tích một số đền thờ ở Hà Nam và Ninh Bình cũng khẳng định Lê Hoàn quê gốc Ninh Bình.
      Ái Châu (Thanh Hóa)
      Đại Việt sử ký toàn thư, Lịch triều hiến chương loại chí  ghi: "Vua họ Lê, tên húy là Hoàn, người Ái Châu". Cùng quan điểm sách "Các triều đại Việt Nam" còn cho rằng mẹ Lê Hoàn là Đặng Thị Sen chứ không gọi là Đặng Thị. An Nam Chí Lược của Lê Tắc thời Trần, mục Lê nhị thế gia chép: "Lê Hoàn, người Ái Châu, có chí lược, được lòng quân sĩ". Website chính thức của tỉnh Thanh Hóa cũng khẳng định Lê Hoàn là người quê hương mình. Đại Nam nhất thống chí chép: "Miếu Lê Đại Hành hoàng đế ở xã Trung Lập, huyện Thuỵ Nguyên, chỗ này là nền nhà cũ của tiên tổ nhà vua" song mục tỉnh Hà Nội lại chép "mộ tổ Lê Đại Hành ở bên miếu xã Ninh Thái, huyện Thanh Liêm".
      Bảo Thái (Hà Nam)
      Đại Việt sử ký tiền biên  ghi: "Xét thấy Lê Đại Hành Hoàng đế người làng Bảo Thái, huyện Thanh Liêm chứ không phải Ái Châu, sử cũ chép nhầm". Cuốn Việt Nam sử lược, Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam, Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Việt sử tiêu án đều ghi: "Lê Hoàn quê ở làng Bảo Thái, huyện Thanh Liêm". Nhà sử học Trần Quốc Vượng cho rằng Lê Hoàn sinh ở Thanh Liêm, Hà Nam và theo ông, Thanh Hóa chỉ có thể là quê ngoại hay quê cha nuôi Lê Hoàn.. Lịch sử Hà Nam Ninh cũng đã nhận định: "Lê Hoàn quê nội ở Thanh Liêm (Hà Nam), quê ngoại ở Kẻ Sập (Thanh Hoá), Tuy sinh ở đất Ái Châu nhưng ông chỉ sống ở đấy hơn 10 năm, sau trở về Thanh Liêm". GS. Lê Văn Lan cũng cho rằng Lê Hoàn "là đứa trẻ mồ côi ở làng Kẻ Sập - quê ngoại, chàng trai nghèo ở miền Bảo Thái quê nội". Ứng Hoè Nguyễn Văn Tố, sau khi điểm lại một số nhận định của các cuốn sử cũ đã nêu quan điểm: Thanh Liêm là nguyên quán của cha mẹ. Ái Châu là chỗ ở của cha nuôi, mỗi quyển chép theo một nghĩa"  Đại Nam nhất thống chí của Quốc sử quán triều Nguyễn, phần ghi về lăng mộ ở huyện Thanh Liêm chép: "Mộ tổ Lê Đại Hành ở bên miếu xã Ninh Thái, huyện Thanh Liêm. Sử cũ cũng nhắc tới Trần Bình Trọng quê ở xã Thanh Liêm là hậu duệ của Lê Hoàn. Vị danh tướng thời Trần này được ban quốc tính vì có nhiều công trạng. Website chính thức của tỉnh Hà Nam cũng khẳng định Lê Hoàn là người quê hương mình.
      Ý kiến dung hòa
      Thần tích Lê Hoàn tại lăng vua Lê, làng Ứng Liêm (Hà Nam) giải thích có vẻ "hợp tình, hợp lý" tất cả những vấn đề khúc mắc về quê quán, xuất thân của Lê Hoàn. Thần tích cho biết ông sinh ra ở xã Trường Yên, Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình. Ông nội là Lê Lộc và bà nội là Cao Thị Phương; cha là Lê Hiền, mẹ là Đặng Thị Khiết. Nhà nghèo nên đã về xã Ninh Thái, Thanh Liêm, Hà Nam làm nghề chài lưới, đơm đó bắt cá. Ngày mùng 10 tháng Giêng năm Nhâm Dần (tức 29 tháng 1 năm 942) sinh ra ông. Năm lên 7 tuổi, ông mồ côi cả cha lẫn mẹ, phải làm con nuôi quan án châu Ái (Thanh Hoá).
      Các nhà sử học cho rằng vấn đề quê hương Lê Hoàn còn phải tiếp tục nghiên cứu. Điều dễ nhận thấy là cả Ninh Bình, Thanh HóaHà Nam đều gắn bó mật thiết với cuộc đời và sự nghiệp của vị vua này.

      Lên ngôi

      Cha mẹ qua đời sớm, Lê Hoàn được một vị quan là Lê Đột nhận về nuôi. Lớn lên ông đi theo Nam Việt Vương Đinh Liễn và đã lập được nhiều chiến công, Đinh Bộ Lĩnh giao cho ông chỉ huy 2.000 binh sĩ. Đến năm 968, Đinh Bộ Lĩnh đánh dẹp xong loạn 12 sứ quân, thống nhất đất nước, lập nên nhà Đinh. Lê Hoàn có công lao trong cuộc đánh dẹp và được giao chức vụ Thập đạo tướng quân (tướng chỉ huy mười đạo quân), Điện tiền đô chỉ huy sứ - tức chức vụ tổng chỉ huy quân đội cả nước Đại Cồ Việt, trực tiếp chỉ huy đội quân cấm vệ của triều đình Hoa Lư. Lúc đó ông mới 27 tuổi.
      Tháng 10 năm 979, cha con Đinh Tiên HoàngĐinh Liễn bị sát hại, Vệ vương Đinh Toàn mới 6 tuổi lên ngôi vua. Lê Hoàn trở thành Nhiếp chính, tự do ra vào cung cấm. Các đại thần thân cận của Đinh Tiên Hoàng là Đinh Điền, Nguyễn Bặc, Trịnh Tú, Lưu Cơ cùng tướng Phạm Hạp nổi dậy chống lại Lê Hoàn nhưng bị Lê Hoàn nhanh chóng đánh dẹp, ba người bị giết. Phò mã Ngô Nhật Khánh bỏ trốn vào nam, cùng vua Chiêm Thành với hơn nghìn chiến thuyền định đến đánh kinh đô Hoa Lư nhưng bị bão dìm chết.
      Thấy triều đình Hoa Lư rối ren, nhà Tống bên Trung Quốc có ý định cho quân tiến vào đánh chiếm Đại Cồ Việt. Vua Tống nhiều lần viết thư sang dụ và đe dọa triều Đinh bắt phải quy phụ đầu hàng: "...Nếu quy phục thì ta tha cho, bằng trái lệnh thì ta quyết đánh..." Trước tình hình đó, Thái hậu Dương Vân Nga cùng tướng Phạm Cự Lạng và các triều thần tôn Lê Hoàn lên làm vua. Lê Hoàn lên ngôi (sử cũ gọi là Lê Đại Hành), lấy tôn hiệu là Minh Càn Ứng Vận Thần Vũ Thăng Bình Chí Nhân Quảng Hiếu Hoàng đế, niên hiệu là Thiên Phúc, quốc hiệu vẫn là Đại Cồ Việt, đóng đô tại Hoa Lư. Lê Đại Hành cử Phạm Cự Lạng (Lượng), em của Phạm Hạp làm đại tướng quân.
      Về các biến cố chính trị liên quan đến cái chết của Đinh Tiên HoàngĐinh Liễn, có các nhà nghiên cứu, như Hoàng Đạo Thúy, đặt giả thiết không phải Đỗ Thích mà chính Lê Hoàn, cấu kết với Dương Vân Nga, đã ám sát Đinh Tiên Hoàng và con trưởng để chiếm ngôi (xem bài Đinh Tiên Hoàng). Việc Lê Đại Hành lấy Dương thái hậu nhà Đinh, các sử gia phong kiến rất nặng lời chê trách. Trong Đại Việt sử ký toàn thư, Ngô Sĩ Liên viết:
      "Đạo vợ chồng là đầu của nhân luân, dây mối của vương hóa. Hạ kinh của Kinh Dịch nêu quẻ Hàm và quẻ Hằng lên đầu, là để tỏ cái ý lấy đàn bà tất phải chính đáng. Đại Hành thông dâm với vợ vua, đến chỗ nghiễm nhiên lập làm hoàng hậu, mất cả lòng biết hổ thẹn. Đem cái thói ấy truyền cho đời sau, con mình bắt chước mà dâm dật đến nỗi mất nước, há chẳng phải là mở đầu mối họa đó sao?"
      Hoàng Xuân Hãn viết trong Hoàng Xuân Hãn tuyển tập: "...việc này trái với khuôn phép nhà nho. Các sử gia nho xưa đã trịnh trọng chỉ trích như Ngô Sĩ Liên, Ngô Thì Sĩ...
      Khi đưa ra nhận định trên, có thể các sử gia không chú ý vào thế kỷ 10 đời Đinh, Tiền Lê đạo Nho chưa có ảnh hưởng gì sâu vào dân Việt. Sau này, đến nửa đời Trần vẫn còn như vậy. Dân chúng đã lập đền thờ các vua Đinh Lê trên nền tảng cung điện Hoa Lư mà không quên bà Dương hậu, xưa còn tự hợp hai vua tô tượng hai vua ngồi chung một toà với Dương hậu ở giữa. Nhưng đến đầu đời Lê Thái Tổ cho là trái đạo mà bỏ đi! Tuy vậy các nho gia phê bình cũng không ai trách bà mà chỉ trách Lê Hoàn bởi cho rằng bậc quân tử "danh chính thì ngôn mới thuận". Còn như Dương hậu âu cũng chỉ là đàn bà, có trách cũng bất kể.

      Phá Tống - bình Chiêm

      Phá Tống

      Lê Hoàn đại phá quân Tống năm 981
      Đầu năm 981, vua nhà Tống phát quân sang đánh Đại Cồ Việt, cử các tướng Hầu Nhân Bảo, Trần Khâm Tộ, Tôn Toàn Hưng, Triệu Phụng Huân, Quách Quân Biện, Lưu Trừng, Giả Thực, Vương Soạn cầm quân chia hai đường thủy bộ. Cánh bộ đi theo ngả Lạng Sơn còn thủy thì tiến vào sông Bạch Đằng.
      Mùa xuân tháng Ba (4-981), quân của Hầu Nhân Bảo đến Ngân Sơn, Trần Khâm Tộ đến Tây Kết, Lưu Trừng đến sông Bạch Đằng. Tại sông Bạch Đằng, thủy quân Tống bị quân Đại Cồ Việt chặn đánh. Tôn Toàn Hưng dừng quân hơn 70 ngày, chần chừ không dám tiến. Hầu Nhân Bảo thì hiếu chiến hơn, tự đem quân tiến theo sông Cầu. Khi quân Hầu Nhân Bảo kéo đến cửa sông Cà Lồ, Lê Hoàn giả vờ xin hàng để đánh lừa Nhân Bảo rồi phục binh đổ ra đánh dữ dội. Số quân địch hơn phân nửa bị tiêu diệt.[23]
      Tại đây Lê Hoàn đã cho xây dựng một toà thành có tên là Bình Lỗ  để chống quân Tống. Tháng 6 năm 1300 Trần Quốc Tuấn có nhắc đến thành này trong lời dặn vua Trần lúc ông sắp mất: "Ngày xưa Triệu Vũ Đế (tức Triệu Đà) dựng nước, vua nhà Hán cho quân đánh, nhân dân làm kế thanh dã, đại quân ra Khâm Châu, Liêm Châu đánh vào Trường Sa, Hồ Nam, còn đoản binh thì đánh úp phía sau. Đó là một thời. Đời nhà Đinh, nhà Tiền Lê dùng người tài giỏi, đất phương nam mới mạnh mà phương bắc thì mệt mỏi suy yếu, trên dưới một dạ, lòng dân không lìa, xây thành Bình Lỗ mà phá được quân Tống...".
      Khi chú thích sách Dư địa chí của Nguyễn Trãi, giáo sư Hà Văn Tấn đã chứng minh sông Bình Lỗ là sông Cà Lồ. Sông Cà Lồ là một nhánh nguồn đổ vào sông Cầu ở Ngã Ba Xà. Theo "Truyện hai vị thần ở Long Nhãn, Như Nguyệt" thì vào "Năm Thiên Phúc nguyên niên đời Lê Đại Hành, Tống Thái Tổ sai bọn tướng quân Hầu Nhân Bảo, Tôn Toàn Hưng cất quân sang xâm lược nam phương. Lê Đại Hành và tướng quân Phạm Cự Lượng kéo quân tới sông Đồ Lỗ cự địch, hai bên đối địch. Đại Hành mộng thấy hai thần nhân ở trên sông..".  Sau này các nhà nghiên cứu xác định sông Đồ Lỗ chính là một tên cũ của sông Cà Lồ và thành Bình Lỗ nằm ở hữu ngạn con sông này, gần nơi sông Cà Lồ đổ vào sông Cầu. Thành Bình Lỗ là địa điểm quân Tống vào sâu đất Việt nhất.
      Sau hai trận thắng lớn Bạch Đằng, Bình Lỗ, quân Lê giết được Hầu Nhân Bảo, bắt sống Quách Quân Biện, Triệu Phụng Huân. Trần Khâm Tộ, Lưu Trừng, Giả Thực, Tôn Toàn Hưng, Vương Soạn cũng vội vàng rút chạy về nước. Lê Hoàn đã không thực hiện được trận mai phục bằng sự kết hợp giữa phục binh và trận địa cọc ngầm vì chiến sự lúc này diễn ra không được mau lẹ, thuận lợi như trận Bạch Đằng của Ngô Quyền đánh Nam Hán. Thực tế, chiến sự trên sông Bạch Đằng trong kháng chiến chống Tống lần thứ nhất diễn ra nhiều lần, nhiều đợt với những trận đánh khác nhau.

      Bình Chiêm

      Khi người Việt chìm dưới ách nô dịch của phong kiến phía Bắc thì ở phía Nam, người Chiêm Thành đã sớm xây dựng được quốc gia độc lập tự chủ từ năm 192. Sinh sống ở các thung lũng Nam Trung Bộ hẹp và nhỏ, vương quốc Chiêm Thành có thế mạnh về hàng hải và các ngành nghề thủ công, nhưng lại thiếu những miền châu thổ rộng lớn. Bởi vậy, từ khi lập nước, Chiêm Thành liên tục tiến hành các hoạt động quân sự với Đại Cồ Việt. Năm 803, vua Chiêm sai viên tướng Senapati Par đem quân xâm phạm An Nam, vây hãm phía nam quận Cửu Chân. Năm 979, quân Chiêm được Ngô Nhật Khánh dẫn đường, tổ chức lực lượng thuỷ quân hùng hậu tiến đánh Hoa Lư theo đường biển, nhưng bị tan vỡ vì gặp bão ở cửa Thần Phù.
      Năm 982, Lê Hoàn cử Ngô Tử Canh và Từ Mục đi sứ Chiêm Thành bị vua Chiêm bắt giữ. Lê Hoàn tức giận, "sai đóng chiến thuyền, sửa binh khí, tự làm tướng đi đánh, chém Bê Mi Thuế tại trận. Chiêm Thành thua to. Bắt sống được quân sĩ nhiều vô kể, cùng là kỹ nữ trong cung trăm người và một nhà sư người Thiên Trúc, lấy các đồ quý đem về, thu được vàng bạc của báu kể hàng vạn; san phẳng thành trì, phá hủy tông miếu, vừa một năm thì trở về kinh sư". Các nghiên cứu thống kê cho thấy, trong vòng 26 năm trị vì, Lê Hoàn là người đặc biệt quan tâm đến vùng đất phía nam, đã tiến hành 6 hoạt động quân sự lớn ở đây trong số 10 hoạt động quân sự lớn suốt thời gian trị vì của ông, vua đích thân cầm quân đánh dẹp sự nổi dậy của các thế lực cát cứ và xâm lấn, không chỉ bảo vệ vững chắc miền biên giới, mà còn trực tiếp chuẩn bị cho quá trình Nam tiến của người Việt, mở rộng thêm cương giới lãnh thổ của quốc gia Đại Việt.

      Sự nghiệp trị vì

      Phát triển kinh tế

      Lê Đại Hành khi làm vua cho xây dựng nhiều công trình, đẩy mạnh sản xuất nông nghiệpthủ công nghiệp để chấn hưng đất nước. Ông là vị vua mở đầu cho lễ tịch điền nhằm khuyến khích sản xuất nông nghiệp dưới chế độ phong kiến Việt Nam. Mở đầu cho một lễ nghi trọng đại mà các vương triều sau tiếp tục noi theo để khuyến khích phát triển sản xuất nông nghiệp.
      Lê Đại Hành cũng là vị vua đầu tiên tổ chức đào sông. Công trình đào sông Nhà Lê (hiện vẫn còn ở Thanh Hóa và là một di tích lịch sử) do Lê Hoàn khởi dựng là con đường giao thông thuỷ nội địa đầu tiên của Việt Nam. Sự nghiệp mở đầu vĩ đại đó đã trở thành phương châm hành động của các thời Lý, Trần, Lê, Nguyễn sau này. Từ con sông đào do Lê Hoàn khai phá trên đất Thanh Hoá, đến thời Lý, Trần sông đào đã xuất hiện ở đồng bằng Bắc Bộ đến Thanh-Nghệ-Tĩnh. Đến thời Lê đã rộng khắp dải miền Trung Bộ và đến thời Nguyễn thì sông đào có mặt ở khắp mọi miền Việt Nam.

      Ngoại giao

      Lê Hoàn là người mở đầu và xác lập những nguyên tắc cơ bản của nền ngoại giao Đại Việt. Nhà Tống là triều đại phong kiến hùng mạnh nhất châu Á đương thời mang nặng tư tưởng bành trướng đã phải từng bước thừa nhận sức mạnh, thế lực của quốc gia độc lập Đại Cồ Việt, đã phong cho Lê Hoàn các tước vị cao như Giao Chỉ quận vương, Nam Bình vương, sứ thần Tống còn làm thơ tôn Lê Hoàn tài ba không khác gì vua Tống. Phan Huy Chú đánh giá: "Nhà Tiền Lê tiếp đãi sứ nhà Tống, tình ý và văn thư rất là chu đáo. Khúc hát hay cũng đủ khoe có nhân tài mà quốc thể được thêm tôn trọng làm cho người Bắc phải khuất phục".
      Vua sử dụng chính sách ngoại giao mềm dẻo, khôn khéo nhưng cương quyết. Có lần sứ Tống sang đòi vua quỳ nhận sắc phong của vua Tống, Đại Hành lấy cớ bị đau chân nên không quỳ. Sứ Tống không làm gì được. Để tránh việc đón tiếp sứ giả phiền hà tốn kém, Lê Đại Hành còn đề nghị nước Tống từ lần sau hãy cử sứ giả đưa thư đến địa giới và báo tin, triều đình Hoa Lư sẽ sai người lên biên giới để nhận chiếu thư của vua Tống. Vua Tống cũng chấp thuận. Đại Việt sử ký toàn thư ghi nhà vua còn bố trí sư Pháp Thuận giả làm người chở đò ra đón sứ giả Lý Giác. Câu chuyện hai người đã mượn bài thư Vịnh ngỗng của Lạc Tân Vương đời Đường để nối vần đối đáp với nhau nhân có hai con ngỗng bơi trên mặt sông, đã khiến Lý Giác rất thích thú và bị chinh phục đã trở thành giai thoại thú vị trong bang giao và văn học. Sau đó, về sứ quán Lý Giác đã làm một bài thư gửi tặng ngỏ ý "tôn Lê Hoàn không khác gì vua Tống" như lời Khuông Việt đại sư nói.

      Hai áng văn dưới thời Lê Đại Hành

      PGS. Bùi Duy Tân phát hiện bài thơ Nam quốc sơn hà, một kiệt tác văn chương, cũng đồng thời là bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc Việt Nam xuất hiện đầu tiên trong cuộc kháng chiến chống Tống lần thứ nhất của Lê Hoàn và cũng được Lý Thường Kiệt vận dụng ở lần kháng chiến chống Tống thứ hai. PGS.TS Trần Bá Chí cũng khẳng định: Nam quốc sơn hà là bản tuyên ngôn độc lập, chỉ có thể ra đời sau hàng ngàn năm Bắc thuộc, nhưng không phải vào thời Ngô Quyền còn loạn lạc, chưa tức vị, trước khi chống Nam Hán, mà là ở thời Vua Lê Đại Hành chống Tống khi thể chế, ngôi vị đã vững vàng, an định.
      Kiệt tác thứ hai, ở triều đại hoàng đế Lê Hoàn là một bài ngũ ngôn tuyệt cú của nhà sư Pháp Thuận. Đây là bài thơ có tên tác giả xuất hiện sớm nhất, nên được đặt vào vị trí khai sáng cho văn học cổ dân tộc. Cũng như Nam quốc sơn hà, Quốc tộ là bài thơ giàu sắc thái chính luận, một bài thơ viết về những vấn đề chính trị xã hội hiện hành của đất nước. Để trả lời nhà vua "hỏi về vận nước ngắn dài", nhà thơ đã lấy ngôn từ giản dị mà thâm thúy, bày tỏ chính kiến của mình: "Vận mệnh nước nhà dài lâu, bền vững khi nhà vua dựng mở được nền thái bình bằng phương sách ". Nếu Nam quốc sơn hà có giá trị như một bản tuyên ngôn độc lập, thì các nhà nghiên cứu khẳng định Quốc tộ có giá trị như một bản tuyên ngôn hòa bình. Hai bài thơ là hai kiệt tác văn chương bổ sung cho nhau, hoàn thiện Tuyên ngôn độc lập, Tuyên ngôn hoà bình đầu tiên của dân tộc, chính là cột mốc khai sáng văn học Việt Nam.

      Niên hiệu

      Giữa năm 1005, vua băng. Ông ở ngôi tất cả 26 năm, thọ 65 tuổi. Trong 26 năm làm vua, ông đặt 3 niên hiệu:
      • Thiên Phúc (980 - 988)
      • Hưng Thống (989 - 993)
      • Ứng Thiên (994 - 1005)

      Vợ con

      Đình Hoa Xá - Minh Ngự Lâu xã Tả Thanh Oai (Thanh Trì- Hà Nội), nơi thờ Lê Hoàn và người con gái làng Tó
      Phủ Vườn ThiênCố đô Hoa Lư, nơi thờ hoàng tử Lê Long Thâu, con cả Lê Hoàn
      Lê Đại Hành có 5 hoàng hậu gồm Đại Thắng Minh Hoàng Hậu (Dương Vân Nga), Phụng Càn Chí Lý Hoàng hậu, Thuận Thánh Minh Đạo Hoàng hậu, Trịnh Quắc Hoàng hậu và Phạm Hoàng hậu.
      Sử cũng chép một người vợ khác của ông, sinh cho ông ít nhất 2 người con là Lê Long Việt và Lê Long Đĩnh. Sách Việt sử lược chép sơ hầu di nữ (初侯姨女), Đại Việt sử ký toàn thư chép chi hậu diệu nữ (祇候妙女). Sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục Chính biên chép bà là con gái quan Chi hậu tên là Diệu, không rõ họ là gì. Về sau bà được con trai Long Đĩnh truy tôn hiệu là Hưng Quốc quảng thánh Hoàng thái hậu.
      Lê Đại Hành có 11 người con trai, 1 người con nuôi, đều được phong vương:
      1. Lê Long Thâu làm Kình Thiên đại vương (phong năm 989), từng tham gia chiến tranh Việt - Tống 981, được Lê Đại Hành phong làm Thái tử. Tuy nhiên, đến năm 1000 thì mất.
      2. Lê Long Tích làm Đông Thành vương (phong năm 989), sau khi Lê Đại Hành mất, Lê Long Tích cùng các em tranh ngôi với Lê Long Việt. Song thua chạy đến Thạch Hà thì bị dân ở đây giết chết.
      3. Lê Long Việt làm Nam Phong vương (phong năm 989), sau là vua Lê Trung Tông. Sau 3 ngày ở ngôi vua, bị Lê Long Đĩnh ám hại năm 1005.
      4. Lê Long Đinh làm Ngự Man vương (phong năm 991), đóng ở Phong Châu (nay thuộc tỉnh Phú Thọ).
      5. Lê Long Đĩnh làm Khai Minh vương (phong năm 992), đóng ở Đằng Châu (nay thuộc Hưng Yên), sau là vua Đại Thắng Minh Quang Hiếu Hoàng đế.
      6. Lê Long Cân làm Ngự Bắc vương (phong năm 991), đóng ở Phù Lan, sau là Phù Vệ, huyện Đường Hào, tỉnh Hải Hưng. Hiện nay, thuộc huyện Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên.
      7. Lê Long Tung làm Định Phiên vương (phong năm 993), đóng ở Tư Doanh, Ngũ Huyện Giang (Cổ Loa, Hà Nội).
      8. Lê Long Tương làm Phó vương (phong năm 993), đóng ở Đỗ Động Giang (nay thuộc tây nam Hà Nội).
      9. Lê Long Kính làm Trung Quốc vương (phong năm 993), đóng ở Càn Đà, Mạt Liên (nay thuộc Hải Dương), sau bị giết năm 1005.
      10. Lê Long Mang làm Nam Quốc vương (phong năm 994), đóng ở Vũ Lung (nay thuộc Thanh Hóa).
      11. Lê Long Đề (Minh Đề) làm Hành Quân vương (phong năm 995), đóng ở Bắc Ngạn, Cổ Lãm (nay thuộc Bắc Ninh).
      12. Con nuôi Dương Hy Liễn làm Phù Đái vương (phong năm 995), đóng ở Phù Đái (nay thuộc Hải Phòng).
      13. Lê Thị Phất Ngân hoàng hậu của vua Lý Thái Tổ, mẹ của Lý Thái Tông, được Lý Thái Tông phong là Linh Hiển hoàng thái hậu
      Tất cả các con trai Lê Hoàn đều được phong vương, nhưng sau khi con trưởng là Thâu mất (1000), vua Lê không sớm lập người kế vị. Điều đó đã gây ra việc tranh giành quyền bính giữa các con của ông sau này, là một trong những nguyên nhân dẫn tới sự sụp đổ của nhà Tiền Lê.

      Nhận định

      Về vua Lê Đại Hành, Sử nhà Tống dẫn lời Tống Cảo, người đi sứ sang Đại Cồ Việt đã từng gặp Lê Hoàn mô tả ông là "con người mắt lé" nhưng "hung hãn" và "có chí vác cả núi ngăn cả bể". Ngô Sĩ Liên với tư tưởng Nho giáo nhận xét: "Vua nhân gian dâm trong cung mà lấy được nước, dẹp giặc bên ngoài để yên dân, trong nước lặng yên, Bắc Nam vô sự"

      Tài cầm quân

      Trong sử sách, các sử gia nhiều đời cùng có nhận định về Lê Đại Hành. Ca ngợi võ công của ông, Lê Văn Hưu viết:
      "Lê Đại Hành giết Đinh Điền, bắt Nguyễn Bặc, tóm Quân Biện, Phụng Huân dễ như lùa trẻ con, như sai nô lệ, chưa đầy vài năm mà bờ cõi định yên, công đánh dẹp chiến thắng dẫu là nhà Hán, nhà Đường cũng không hơn được."
      Trong thời dẹp loạn 12 sứ quân, Lê Hoàn đã sớm bộc lộ tài năng, tuy nhiên do còn trẻ tuổi nên chức vụ của ông vẫn ở dưới các bạn thân thiết của Tiên Hoàng. Chỉ từ khi làm nhiếp chính, trực tiếp nắm vận mệnh đất nước, tài năng của ông mới được thi triển hết. Chẳng những các công thần khai quốc kỳ cựu của nhà Đinh mà ngay cả các tướng phương Bắc đều không phải đối thủ của ông. Dù đời sau có thể nhận định việc đánh dẹp của ông là hợp lẽ hay trái lẽ nhưng tài cầm quân của ông thì không ai có thể phủ nhận.

      Vua trị nước

      Lê Đại Hành là một vị vua mà "Sứ thần Trung Quốc phải tôn sùng, tù trưởng sơn động hết chuyện làm phản. Thành Hoa Lư phồn vinh hơn cả nhà Đinh. Còn lưu ý đến sức dân, quan tâm đến chính sự của nước, chú trọng nghề làm ruộng, nghiêm ngặt việc biên phòng, quy định pháp lệnh. Tuyển lựa quân ngũ... có thể nói là hết sức siêng năng, hết lòng lo lắng". Ông là một vị vua có tài, dẹp nội loạn, khéo bang giao, giữ thể diện cho quốc gia không bị nước lớn chèn ép. Đó là điều không phải đời vua nào của Việt Nam cũng làm được.
      Đại Hành làm vua tỏ rõ là một người chí công vô tư, vì việc chung chứ không vì thù oán riêng. Ông giết Phạm Hạp vì tội làm loạn nhưng lại trọng dụng em Hạp là Phạm Cự Lạng, dùng làm tướng, thăng tới chức thái úy chỉ huy quân đội. Con của Nguyễn Bặc, một người cùng bị giết với Phạm Hạp là Nguyễn Đê cũng được cất nhắc làm quan võ của nhà Tiền Lê. Lê Đại Hành vô tư tới mức không phòng ngừa rằng sau này chính Đê là người tham gia đưa Lý Công Uẩn lên ngôi thay nhà Tiền Lê. Ngoài ra, các đại thần từng là bạn thân của Tiên Hoàng như Trịnh Tú, Lưu Cơ, hai người nằm trong bộ tứ "Điền, Bặc, Tú, Cơ" theo vua Đinh từ ngày hàn vi cũng được Đại Hành trọng dụng, không vì lý do "cùng bè đảng" với Nguyễn BặcĐinh Điền mà kiếm cớ trừ khử hay sa thải hai người này. Chính nhờ chính sách dùng người khoan dung, trọng tài năng không vì tình riêng khiến ông quy tụ được nhân tâm, củng cố sức mạnh trong nước, vượt qua được khó khăn trong thời buổi đất nước rối ren, lòng người dao động khi nam, bắc đều bị uy hiếp.

      Về tên "Đại Hành"

      Theo Đại Việt Sử ký Toàn thư, khi vua mới mất mà chưa được đặt thụy hiệu thì được gọi là Đại Hành Hoàng đế. Do vua nối ngôi là Lê Ngọa Triều đã không đặt thụy hiệu nên "Đại Hành Hoàng đế" đã trở thành thụy hiệu của Lê Hoàn.
      Sử gia Lê Văn Hưu viết:
      "Thiên tử và hoàng hậu khi mới băng hà, chưa chôn vào sơn lăng, thì gọi là Đại Hành Hoàng Đế, Đại Hành Hoàng Hậu. Đến khi lăng tẩm đã yên thì hợp bầy tôi bàn xem đức hạnh hay dỡ để đặt thụy là mỗ hoàng đế, mỗ hoàng hậu, không gọi là Đại Hành nữa. Lê Đại Hành thì lấy Đại Hành làm thụy hiệu mà truyền đến ngày nay là làm sao? Vì Ngọa Triều là con bất tiếu (không giống ông cha), lại không có bề tôi Nho học để giúp đỡ bàn về phép đặt thụy cho nên thế."
      Tuy nhiên, có sách giải thích "đại hành" là đi xa hẳn không trở lại. Có sách khác lại giải thích "đại hành" là đức hạnh lớn (hành và hạnh viết cùng một chữ 行, âm cổ đọc như nhau).

      Đền thờ

      Các nhà nghiên cứu đã thống kê được hơn 47 nơi thờ Lê Đại Hành (trong đó có 16 nơi thờ riêng, 5 nơi phối thờ với bà vợ cả là Đô Hồ phu nhân; 2 nơi phối thờ với Thái hậu Dương Vân Nga và 24 nơi thờ với các vị thần khác). Ninh Bình là tỉnh có nhiều di tích thờ Lê Hoàn nhất 13 nơi; tiếp theo là Thái Bình với 10 nơi; Hà Nội có 10 nơi, Nam Định 4 nơi, Hà Nam 3 nơi; Hải Dương, Thanh Hoá 2 nơi, các tỉnh Hưng Yên, Hải Phòng, Hải Dương, Phú Thọ đã tìm thấy 1 nơi thờ.
      Ninh Bình là vùng đất kinh đô của đất nước dưới thời Lê Hoàn, các đền thờ thường tập trung nhiều ở khu di tích cố đô Hoa Lư và phía nam tỉnh, nơi tương truyền vua đánh Tống và dẹp Chiêm đi qua như đền Vua Lê Đại Hành và đình Yên Thành ở cố đô Hoa Lư, đình Trung Trữ ở Ninh Giang (Hoa Lư), các xã Yên Lâm, Yên Thắng và Yên Thái (Yên Mô), Khánh Ninh và thị trấn Yên Ninh (Yên Khánh), di tích chùa Đẩu Long, đền Đồng Bến (thành phố Ninh Bình) và đền Lê Hoàn ở Lai Thành (Kim Sơn)...
      Thái Bình là nơi diễn ra trận đánh Lục Đầu Giang chiến lược trong cuộc kháng chiến chống Tống lần thứ nhất. Điều này có thể giải thích cho việc nhân dân quanh khu vực diễn ra trận Lục Giang thờ cúng Lê Hoàn, đặc biệt là vùng đất thuộc hai tổng Xích Bích và Ỷ Đôn xưa. Các nơi thờ tiêu biểu như di tích đình và đền Vua Lê Đại Hành ở các xã Chi Lăng, xã Đông Đô; xã Bắc Sơn, xã Tây Đô, xã Hòa Bình (huyện Hưng Hà); xã Thái Thịnh (huyện Thái Thuỵ); xã Quỳnh Sơn, xã Quỳnh Trang (huyện Quỳnh Phụ); xã Minh Tân (Đông Hưng)...
      Các đền thờ ở khu vực Hà Nội đều tập trung ở ven sông Nhuệ, trong đó Hà Đông 4 nơi, Thanh Trì 3 nơi ở xã Tả Thanh Oai và Hữu Hòa, Sơn Tây 2 nơi và Ứng Hòa 1 nơi ở Đình Thanh Dương xã Đồng Tiến.
      Khu di tích Đình, chùa, miếu của khu Mộ Chu Hạ, phường Bạc Hạc, Việt Trì, Phú Thọ thờ Lê Đại Hành và 2 bà hoàng hậu. Đây là nơi rất xa kinh đô Hoa Lư so với các di tích khác thờ Lê Hoàn.
      Hà Namđền Lăng ở xã Liêm Cần quê hương là nơi thờ Lê Hoàn. Ông cũng được thờ ở đình Cẩm Du, xã Thanh Lưu, huyện Thanh Liêm.
      Thanh Hóađền thờ Lê Hoàn ở làng Trung Lập, xã Xuân Lập, Thọ Xuân được cho là quê hương của người và đền Vua Lê Đại Hành ở chân dãy núi Tam Điệp, thuộc xã Nga Giáp, Nga Sơn, thuộc khu vực cửa biển Thần Phù xưa mà ở bên Ninh Bình cũng có nhiều đền thờ Lê Hoàn.
      Các thần tích, thần sắc tại Hải Dương, Hải Phòng - nơi diễn ra trận Bạch Đằng năm 981 cho thấy các tướng của ông được thờ ở rất nhiều nơi và trong thần tích, thần sắc của họ có mô tả lại những chiến công của Lê Hoàn tại khu vực này. Đền Vua Lê Đại Hành ở Hải Dương được xây dựng tại xã An Lạc, huyện Chí Linh và đình Mạc Động xã Liên Mạc, Thanh Hà cũng thờ Lê Hoàn. Tại thị trấn Minh Đức (Thủy Nguyên, Hải Phòng) cũng có đền riêng thờ Vua Lê Đại Hành. Đền được xây dựng ngay tại khu vực núi đá Tràng Kênh, ngã ba sông Bạch Đằng, nơi diễn ra đại thắng mùa xuân 981.
      Trang này được sửa đổi lần cuối lúc 11:26, ngày 5 tháng 7 năm 2014.
      Xem tiếp...