Thứ Hai, 8 tháng 4, 2013
NGÀN NĂM ĐỢI CHỜ
Em nói anh điên?
Có khi thế thật!
Đường đời anh sao quá nhiều uẩn khúc
Lưu lạc hoài trong ngược gió mù mây?
Anh ngày xưa rủ rê em thơ ngây
Tin hồn nhiên vào thánh đường Hạnh Phúc
Giờ tỉnh ngộ, em trách hờn, nhiếc móc
Gã hình nhân, tim óc loạn, dị, khờ
Trong mắt em, anh sách vở dư thừa
Trong mắt anh, em thô sơ, thiếu thốn...
Có khi anh điên thật
Bày tỏ cạn niềm mà em chẳng hiểu ra!...
Tâm thức chúng mình, đành lạnh lẽo chia xa
Để sống còn hai xác mơ tương phản.
Anh buồn lắm nhưng không hề ân hận
Vì luôn mong điều tốt đẹp nhất cho em!
***
Em nói anh điên,
Anh cúi đầu thừa nhận!
Nhường nhịn em loay hoay trong hồn chật
Đay nghiến tình anh là gây hấn, hồ đồ!...
***
Tội nghiệp đôi ta, anh chết lặng, phát rồ,
Đờ đẫn nhớ quanh, long lanh ngàn năm đợi...
Trần Hạnh Thu
Chủ Nhật, 7 tháng 4, 2013
BỨC TƯỢNG ĐÀI
(Kính tặng hương hồn Xervantex)
Hỡi dòng người lại qua
Ai kết án ta
Là viển vông mù lòa
Tật nguyền, bệnh hoạn
Dại khờ, ngẩn ngơ, điên loạn?
Không! Hãy hiểu cho lòng ta
Dù người ngựa khẳng khiu, queo quắt xương da
Tơi tả hình hài, lưu đày khổ ải
Mê mải chiến công để suốt đời chất chồng thất bại
Trả giá niềm tin cho toàn chuyện bông phèng
Ta lê la rong ruổi mọi miền
Nhận gánh trên vai cán cân công lý
Múa may quay cuồng thây ma hiệp sĩ
Mò mẫm khua ngọn giáo quáng gà
Chặt xích phá xiềng cứu Vũ Trụ bao la
Bênh kẻ yếu hèn
Diệt gian trừ bạo
Chịu bao phen u đầu, sứt tai, mềm xương, xịt máu
Vẫn tận thủy, tận chung
Giữa cảnh đời mờ mịt mông lung
Bốn bề trắng đen hư ảo
Thật giả tùng phèo bát nháo...
Hỡi dòng người lại qua
Ai kết án ta
Là viển vông mù lòa
Tật nguyền bệnh hoạn
Dại khờ, ngẩn ngơ, điên loạn
Ghê rợn bóng ma
Nấp trong thân xác xấu xí úa già
Đầu thai sống lầm thế kỷ
Một hình nhân khôi hài, mất hồn, vô lý?
Không!
Hãy hiểu cho lòng ta
Hỡi thiên hạ, anh em bầu bạn gần xa
Ta tài giỏi vô song, cực kỳ tỉnh táo
Dù nát thịt nhừ xương vẫn không hề khát máu
Ta là kẻ thù của man rợ chiến tranh
Huynh đệ tương tàn
Lương tri tan nát
Ta chưa từng bắt Vũ Trụ bao la về cho riêng một kiếp
Ta xả thân mình vạch trần những băng hoại thế gian
Chỉ rõ thau vàng...
Hãy hiểu cho lòng ta, xin đừng lẫn lộn!
Nếu đã là hồn ma bệnh hoạn
Thì làm gì còn nỗi khát khao giúp ích cho đời?...
Ta chỉ nói thế thôi!
Hỡi dòng người hối hả lại qua
Hãy hiểu thấu lòng ta!
Ta chính là Con Người lòng lành phúc hậu
Con Người là ta: vui vẻ yêu đời, chứa chan hoài bão
Từ rác rưởi, phù sa
Tự kết thành tinh hoa
Vô giá, vượt tầm thời đại
Bức tượng đài của tâm hồn nhân loại
Muôn đời ngợi ca
Đôn Kihôtê,
chàng quí tộc tài ba
của xứ Mantra!*
Trần Hạnh Thu
Chú thích: *Đôn Kihôtê là tên nhân vật chính trong bộ tiểu thuyết bất hủ "Đôn Kihôtê, chàng qúi tộc tài ba của xứ Mantra" của Xervantex (1547-1616), nhà đại văn hào người Tây-ban-nha.
Xervantex (Miguel de Cervantes Saavedra) sinh tại thị trấn Alcala đê Enarêx, gần thủ đô Mađrít, trong một gia đình quí tộc nhỏ đã sa sút. Cha ông làm nghề thầy thuốc. Lúc nhỏ, Xervantex phải theo cha lang thang đó đây để kiếm tiền nuôi gia đình nên việc học hành cũng thất thường. Khoảng năm 22 tuổi, Xervantex
theo làm người hầu cho một vị hồng y giáo chủ ở Ý. Đây là cơ hội tốt cho ông được đọc nhiều sách và tiếp thu kiến thức văn chương. Tiếp đó, ông gia nhập quân đội Tây-ban-nha đồn trú trên đất Ý. Năm 1571, trong trận thủy chiến giữa một bên là hạm đội của đế quốc Thổ-nhĩ-kỳ và một bên là hạm đội của liên minh Cộng hòa Venise với Tây-ban-nha, Xervantex bị trọng thương, bàn tay phải bị dập nát. Sau thời gian điều trị, ông tiếp tục ở trong quân ngũ thêm ba năm nữa. Năm 1575, Xervantex lên đường về nước, mang theo bức thư giới thiệu của vị tướng chỉ huy hạm đội với hy vọng được nhà vua trọng dụng. Nhưng không may, giữa đường tàu của ông bị cướp biển tấn công và ông bị bắt giải về An-giê. Trong thời gian bị giam cầm, Xervantex đã nhiều lần tổ chức vượt ngục nhưng không thành, cũng nhiều lần cầu cứu triều đình Tây-ban-nha giải thoát nhưng vô vọng. Mãi đến năm 1580, nhờ sự nỗ lực lo liệu tiền bạc của gia đình mình và của nhà dòng, ông mới được cứu chuộc về nước. Dù đã từng lập nên công trạng nhưng Xervantex vẫn không được triều đình đoái hoài, cất nhắc. Năm 1585 ông lấy vợ và đồng thời cũng chính thức bước vào con đường văn chương với mục đích trước mắt là kiếm thêm tiền nuôi gia đình.
Bộ tiểu thuyết "Đôn Kihôtê, chàng quí tộc tài ba của xứ Mantra" được Selinh (Schelling), triết gia người Đức đánh giá: "Chúng ta sẽ không quá lời khi khẳng định rằng cho tới nay chỉ có hai cuốn tiểu thuyết, đó là cuốn "Đôn Kihôtê" của Xervantex và cuốn "Vinhem Maixtơ" của Gớt". Còn Sơlêgơn (Schlegel), nhà phê bình văn học người Đức, thì cho rằng đó là "tác phẩm có một không hai trong loại của nó, mở đầu cho tiểu thuyết cận đại".
HÌNH ẢNH 2
yasuomi nomura đã chia sẻ bài đăng này đầu tiên:
Nhận xét:
Gieo gió, gặt bão
Ác giả, ác báo
Thấy cảnh thì vui
Mà buồn mai hậu
Nhận xét:
Gieo gió, gặt bão
Ác giả, ác báo
Thấy cảnh thì vui
Mà buồn mai hậu
Thứ Bảy, 6 tháng 4, 2013
Tư liệu về Vũ Trụ 2
|
Thứ Sáu, 5 tháng 4, 2013
KHỔ ĐỜI
Ếch ngồi đáy giếng ngó trăng
Đêm tròn vành vạnh, hồng nhan cũng tròn
Trăng già quyến rũ hơn non
Một thân nà nõn, một mâm hương tình
Ếch ngồi hun hút đáy trần
Ngỏng lên ồm ộp: -Trăng gần hay xa?
Nồng nàn nhờ gió bao la
Hay là ngà ngọc tỏa ra nồng nàn?
Ếch ngồi ồm ộp kêu than
Muốn lên cợt nhả mà duyên không thòng
Bày chi hơ hớ má hồng
Cho thèm nhỏ dãi anh hùng sa cơ!?
Trần Hạnh Thu
Đêm tròn vành vạnh, hồng nhan cũng tròn
Trăng già quyến rũ hơn non
Một thân nà nõn, một mâm hương tình
Ếch ngồi hun hút đáy trần
Ngỏng lên ồm ộp: -Trăng gần hay xa?
Nồng nàn nhờ gió bao la
Hay là ngà ngọc tỏa ra nồng nàn?
Ếch ngồi ồm ộp kêu than
Muốn lên cợt nhả mà duyên không thòng
Bày chi hơ hớ má hồng
Cho thèm nhỏ dãi anh hùng sa cơ!?
Trần Hạnh Thu
Thứ Tư, 3 tháng 4, 2013
TRÊN ĐỐNG RÁC*
Chiều xuân muộn trải tâm tình khao khát
Máu thầm yêu rào rạt mảnh hồn trai
Tôi gặp em một mình trên đống rác
Tóc rối bời nắng nhạt phủ bờ vai
Em đào em bới
Em xới em moi
Đống cặn bã của vàng son nhung lụa
Dưới lớp rác hôi tanh và nhầy nhụa
Em đang tìm chén gạo cho ngày mai
Một cây đinh ngắn
Nửa mảnh sứ dày
Vài chiếc khoen đồng
Đôi con vít sắt
Người ta vứt của đời em cứ nhặt
Nhục hay vinh thây kệ chuyện trần ai
Một kẻ đi qua
Nhiều kẻ đi qua
Một chiếc xe qua
Nhiều chiếc xe qua
Người trên xe bịt mũi phất mùi xoa
Kẻ dưới lộ cũng cau mày rảo bước
Người ta sợ mùi hôi tanh ẩm ướt
Làm bợn nhơ nếp sống đượm xa hoa
Áo đẹp, khăn thơm, mắt biếc, tay ngà
Ai để ý làm chi trên đống rác
Đang triển lãm bức tranh đời bi đát
Đượm màu thương thời đại chửa ghi lời!
Người em thương yêu ơi!
Em có biết hay là em không biết
Rằng đất nước em giàu khôn kể xiết
Vô tận tài nguyên, phong phú hoa màu
Bạc nào mua cho hết lúa Cà Mau
Vàng đọng khối cao su miền đất đỏ
Cây trái ngọt bốn mùa thơm, béo bổ
Bờ Cửu Long hiền dịu tiếp phù sa
Bởi vì đâu bầu vú mẹ tuôn ra
Dòng sữa ngọt mà con không được hưởng?
Để cho em phải sớm chiều vất vưởng
Mảnh đời thơ làm bạn với hôi tanh
Cành hoa non ngào ngạt đượm hương lành
Nở gượng gạo âm thầm trong héo hắt
Nắng nhạt lần lần, một ngày sắp tắt
Em ra về, bóng nhỏ ngả xiêu xiêu
Mảnh thân gầy chập choạng trên đường chiều
Bên tấp nập dòng người xe cuộn chảy
Bỗng dừng bước em cau mày ái ngại
Một lão già hành khất mỏi hơi than
Giơ tay xin, lê lết tấm thân tàn
Trên hè phố, cạnh dòng đời lạnh lạt
Người ta phớt, người ta xua, người ta quát
Hoặc lắc đầu bình thản bước đi qua
Từ nhà ai văng vẳng một lời ca:
"Đời đẹp lắm, buồn đau đà rũ sạch!"
Em ứa lệ lần trong manh áo rách
Cầm trao cho tờ giấy bạc bèo nhèo
Bài thơ thương giữa những kẻ đói nghèo
Đâu ai thấy chói ngời trên đống rác!
Người em nhỏ mà tuổi thơ bi đát
Kéo lê thê trên đống rác ven đường
Má chưa hồng đã dạn gió dày sương
Môi chưa thắm đã héo cùng mưa nắng
Em đã rắc những ý tình cay đắng
Lên lòng tôi để kết lại thành thơ
Đắng mà thơm, ngào ngạt đượm hương mơ
Cay mà dịu, ngọt thanh tình nhân loại.
Đêm nay,
Mực chảy thành thơ giữa tiếng cười man dại
Ngoài đường kia ánh điện nở hào quang
Trải vàng son lên đại lộ huy hoàng
Tôi ngồi đây âm thầm trong hẻm tối
Trách tất cả gông cùm trên thế giới
Sao lại xiềng đôi cánh của tình thương?!...
Đại Chúng sưu tầm
Chú thích: Được chép lại từ một cuốn sổ nhật ký của bậc lão thành.
Nghe nói (lâu quá rồi không nhớ chính xác) đăng trên
báo "Nhân đạo", Sài gòn 1951.
Máu thầm yêu rào rạt mảnh hồn trai
Tôi gặp em một mình trên đống rác
Tóc rối bời nắng nhạt phủ bờ vai
Em đào em bới
Em xới em moi
Đống cặn bã của vàng son nhung lụa
Dưới lớp rác hôi tanh và nhầy nhụa
Em đang tìm chén gạo cho ngày mai
Một cây đinh ngắn
Nửa mảnh sứ dày
Vài chiếc khoen đồng
Đôi con vít sắt
Người ta vứt của đời em cứ nhặt
Nhục hay vinh thây kệ chuyện trần ai
Một kẻ đi qua
Nhiều kẻ đi qua
Một chiếc xe qua
Nhiều chiếc xe qua
Người trên xe bịt mũi phất mùi xoa
Kẻ dưới lộ cũng cau mày rảo bước
Người ta sợ mùi hôi tanh ẩm ướt
Làm bợn nhơ nếp sống đượm xa hoa
Áo đẹp, khăn thơm, mắt biếc, tay ngà
Ai để ý làm chi trên đống rác
Đang triển lãm bức tranh đời bi đát
Đượm màu thương thời đại chửa ghi lời!
Người em thương yêu ơi!
Em có biết hay là em không biết
Rằng đất nước em giàu khôn kể xiết
Vô tận tài nguyên, phong phú hoa màu
Bạc nào mua cho hết lúa Cà Mau
Vàng đọng khối cao su miền đất đỏ
Cây trái ngọt bốn mùa thơm, béo bổ
Bờ Cửu Long hiền dịu tiếp phù sa
Bởi vì đâu bầu vú mẹ tuôn ra
Dòng sữa ngọt mà con không được hưởng?
Để cho em phải sớm chiều vất vưởng
Mảnh đời thơ làm bạn với hôi tanh
Cành hoa non ngào ngạt đượm hương lành
Nở gượng gạo âm thầm trong héo hắt
Nắng nhạt lần lần, một ngày sắp tắt
Em ra về, bóng nhỏ ngả xiêu xiêu
Mảnh thân gầy chập choạng trên đường chiều
Bên tấp nập dòng người xe cuộn chảy
Bỗng dừng bước em cau mày ái ngại
Một lão già hành khất mỏi hơi than
Giơ tay xin, lê lết tấm thân tàn
Trên hè phố, cạnh dòng đời lạnh lạt
Người ta phớt, người ta xua, người ta quát
Hoặc lắc đầu bình thản bước đi qua
Từ nhà ai văng vẳng một lời ca:
"Đời đẹp lắm, buồn đau đà rũ sạch!"
Em ứa lệ lần trong manh áo rách
Cầm trao cho tờ giấy bạc bèo nhèo
Bài thơ thương giữa những kẻ đói nghèo
Đâu ai thấy chói ngời trên đống rác!
Người em nhỏ mà tuổi thơ bi đát
Kéo lê thê trên đống rác ven đường
Má chưa hồng đã dạn gió dày sương
Môi chưa thắm đã héo cùng mưa nắng
Em đã rắc những ý tình cay đắng
Lên lòng tôi để kết lại thành thơ
Đắng mà thơm, ngào ngạt đượm hương mơ
Cay mà dịu, ngọt thanh tình nhân loại.
Đêm nay,
Mực chảy thành thơ giữa tiếng cười man dại
Ngoài đường kia ánh điện nở hào quang
Trải vàng son lên đại lộ huy hoàng
Tôi ngồi đây âm thầm trong hẻm tối
Trách tất cả gông cùm trên thế giới
Sao lại xiềng đôi cánh của tình thương?!...
Đại Chúng sưu tầm
Chú thích: Được chép lại từ một cuốn sổ nhật ký của bậc lão thành.
Nghe nói (lâu quá rồi không nhớ chính xác) đăng trên
báo "Nhân đạo", Sài gòn 1951.
Thứ Ba, 2 tháng 4, 2013
KHOẢNG KHẮC VÀ VĨNH HẰNG
Trong thư viện
Bốn bề là lương tri nhân loại
Chàng và nàng
Bất chợt
Ánh mắt trao nhau!
Tiếng sét ái tình phát nổ từ đâu
Mà choáng váng, hôn mê sâu tâm thức?
Nàng nhìn chàng hớp hồn không chớp
Đôi hàng mi rợp thảng thốt nỗi mừng
Chàng nhìn nàng
Soi rọi xa xôi, ngỡ ngàng lý tưởng
Không gian yên ắng
Thời gian ngừng trôi
Chớp nháy thôi
Mà miên man như hàng thế kỷ
Trong thư viện, giữa bạt ngàn chân lý
Có hai linh hồn vỗ cánh bay lên
Dập dìu bên nhau khắp cõi thần tiên
Thêu vĩnh hằng trong ảo giác
Dệt xum vầy trong hoang lạc...
.....
....
Chàng cặm cụi đi
Lầm lũi tư duy
Trên xa lộ chang chang quay cuồng cát bụi
Mồ hôi nhễ nhại
Gầy guộc xanh xao
Cất bước tự độ nào
Chưa hề tới đích
Cứ nhẫn nại qua ngày vượt tháng
Độc hành si và mê mải suy...
Quên lâu rồi tích Mỵ Nương-Trương Chi*
Tương lai nào biết đợi chờ dĩ vãng!?...
....
Nắng dịu, trời trong
Thắm hồng đôi má
Nàng cười tươi
Ôi, đời đẹp quá!
Rộng mở thênh thang...
Tạm biệt nhé mái trường
Những năm học trò, áo dài tóc cài hoa trắng
Và nàng hân hoan bay tìm thần tượng
Hiển hiện một lần thêu dệt ngây thơ
Trong cõi thần tiên đắm đuối mộng mơ...
.....
Tình cờ
Hay cố ý
Hỡi đất-trời, tạo hóa?
Đang gió khô, nắng lóa
Bỗng ầm ào giông, mưa
Cùng vội nép vào gốc đa
Trú nhờ tán lá
Là chàng và nàng
Hai nẻo yêu thương
Đã từng
Mừng trong thư viện
Giữa muôn ngàn lý giải cuộc đời,
suy vong-hưng thịnh...
.....
Ánh mắt điếng lặng giao nhau
Cái bất ngờ như định mệnh từ lâu
Một thoáng thôi, xé rách đau tiềm thức
Dưới mắt nàng,
Vỡ tan lâu đài nguy nga trên cát
Chàng,
khắc khổ, điêu tàn, bạc thếch tương lai...
Cơn mưa dài
Mệt nhoài sỏi đá
Nước miệt mài, dầm dề tán lá
Đầm đìa mái tóc chàng trai
Mặt đất vơi đầy
Cuồn cuộn nổi chìm bất tận
Ôi! những lá vàng
Đã từng tươi xanh kết thân dày rộng
Che mưa, che nắng cho đời!...
Dưới mắt chàng,
Thực tại lạnh lùng
Má phấn môi hồng rã rời nghĩa lý
Mưa gột phũ phàng,
lột trần truồng nhân thế...
Ánh mắt thất thần, ngơ ngác, xa nhau
Nàng quay đầu
Và chàng cúi đầu
Ôi, trớ trêu nghiệt ngã!
Lần tái ngộ ngỡ sấm rền, chớp lóa
Báo hiệu mùa vui đám cưới, hoa đăng
Ngờ đâu,
Là tràng pháo động quan
Khóc hai xác mơ bủng vàng ảo giác
Đoàn đưa tiễn
Chỉ hai linh hồn bơ vơ, u uất
Lặng lẽ chia ly theo hai ngả con đường
Dọc bức tường
Mà bên kia là khuôn viên thư viện
Cùng vẫy ngày xưa chung một lần thêu dệt
Bức tranh ảo huyền trong chốn tinh hoa
Ngây ngất mê hồn mà hụt hẫng thiết tha...
Chào phân ưu từ biệt
Khoảng khắc bất tuyệt giữa vĩnh hằng bất tuyệt!
.....
Trời quang mây tạnh
Giọt nắng long lanh
Thoáng đãng, mát lành!...
Cây đa già ngàn năm đứng đó
Sừng sững xum xuê giữa trời nắng gió
Chào ngàn đời bất chợt lại qua
Chốn tuổi thơ nô đùa
Che thanh xuân tình tự
Chứa những giá trị nhân văn hóa thành bất tử
Chờ những mộng đời hoang tưởng, dại khờ
lụy tàn, mục rữa, phôi phai...
Trần Hạnh Thu
Chú thích: *Ngày xưa, Mỵ Nương là con một quan đại thần. Nhan sắc nàng đẹp tuyệt trần. Lớn lên, không biết vì đâu mà nàng luôn sầu muộn, miệng không hề nở nụ cười. Cha nàng thấy vậy bèn xây một cung lầu trong khuôn viên nhà, nơi sát bờ sông để mong nàng ở đó ngoạn cảnh, thêu thùa, đọc sách cho khuây khỏa....Trương Chi là một chàng ngư phủ mồ côi, ngày ngày vẫn chài lưới trên quãng sông trước cung lầu, vừa làm lụng vừa ca hát, đêm đêm cũng thường ra đó thổi sáo. Tiếng hát của chàng ngư phủ ngân vang tha thiết, tiếng sáo của chàng réo rắt du dương.
Từ ngày ra ở cung lầu, Mỵ Nương trở nên hoạt bát, vui vẻ, hay nói hay cười, nét mặt tươi như hoa mới nở mỗi khi Trương Chi cất tiếng hát hay thổi sáo.
Sau một thời gian thì chàng Trương Chi bỏ đi, đến một quãng sông khác sinh sống. Mỵ Nương vì thế không còn được nghe chàng hát và thổi sáo nữa.Cũng từ đó, nàng lại lâm vào cuộc sống sầu muộn, lặng lẽ như người mất hồn với nét mặt lúc nào cũng ủ dột, héo hắt, não nề. Thế rồi nàng ốm liệt giường. Quan đại thần thương con, cho vời các danh y đến xem mạch bốc thuốc, tích cực chữa trị cho Mỵ Nương. Nhưng bệnh tình nàng vẫn không thuyên giảm. Sau, qua dò hỏi mà quan đại thần biết được con mình đã mê đắm tiếng hát và tiếng sáo của chàng ngư phủ có tên Trương Chi. Quan bèn cho người đi tìm và vời đến.
Được yêu cầu, Trương Chi vui vẻ ngồi bên ngoài cung vừa hát vừa thổi sáo. Nhờ thế, Mỵ Nương mau chóng bình phục và đòi gặp mặt chàng trai mà lòng nàng từ lâu đã thầm thương trộm nhớ. Trương Chi chỉ là một ngư phủ nghèo hèn, hơn nữa, chàng lại còn đen đúa và rất xấu xí. Cho nên vừa gặp mặt Trương Chi, ngọn lửa tình hừng hực trong tâm hồn Mỵ Nương vụt tắt ngấm. Nàng thất vọng hoàn toàn và do đó mà cũng tỏ rõ vẻ lạnh nhạt, coi thường.
Đến lượt Trương Chi, từ ngày gặp mặt Mỵ Nương thì trở nên si tình, đem lòng yêu thương Mỵ Nương tha thiết trong nỗi bất lực khôn cùng. Quá buồn chán và tủi cho thân phận mình, chàng bỏ bê làm ăn và thân xác chàng ngày càng tiều tụy. Rồi một hôm, chàng bỗng cất tiếng hát:
Kiếp này đã dở dang nhau
Thì xin kiếp khác, duyên sau cho lành
Hát thế xong, chàng nhảy xuống sông tự vẫn.
Ít lâu sau, có người vớt được một khúc gỗ quí. Quan đại thần mua được cho tiện một bộ chén trà. Mỵ Nương thích thú, tò mò đem ra uống thử. Vừa cầm chén nước lên thì lạ thay trong lòng chén hiện lên hình ảnh chàng trai năm xưa (tức Trương Chi), đồng thời tiếng hát trong trẻo hòa quyện với tiếng sáo nỉ non như hờn như trách của chàng cũng văng vẳng bên tai nàng. Mỵ Nương cảm thấy chạnh lòng, nỗi ân hận trào dâng làm nàng ứa lệ. Một giọt lệ của nàng rơi vào trong chén làm nó vỡ, tan ra thành nước.
(Truyện cổ tích Việt Nam)
NHẮN MỜI
Bạn hiền, kiếm ở đâu ta?
Trước là uống rượu, sau là hàn huyên
Đông-tây-nam-bắc, cổ-kim
Trên trời-dưới biển, thánh hiền-thất phu
Hơn-thua, danh-lợi, khôn-ngu
Để là vui chút, nhẹ đầu hôn mê
Ngày ngày huyễn hoặc ngô nghê
Hồn vùi đống sách, xác tê ghế mòn
Đầu chồn lủi thủi leo non
Râu phờ, mắt mỏi, cô thân giữa ngàn...
Bạn hiền đâu đó, có chăng
Bằng không, hỏi có mấy thằng như ta?
Để chiều bù khú, ba hoa
Vui chung rượu lạt, hò ca cũng tình
Cười cười, nói nói linh tinh
Cho vơi chất chứa nín thinh một ngày
Xả thân nhẫn nại vai cày
Trên đồng giấy trắng gieo đầy mực đen
Oải tay nuôi chí vững bền
Ép tim bơm máu tưới lền ước mong!...
Bạn hiền, bợm nhậu có không?
Ta mời vang vọng, đừng im như tờ!
Chiều nay gió mỏng mưa thưa
Một mâm thịt chó, đến... vua còn thèm!...
Trần Hanh Thu
Trước là uống rượu, sau là hàn huyên
Đông-tây-nam-bắc, cổ-kim
Trên trời-dưới biển, thánh hiền-thất phu
Hơn-thua, danh-lợi, khôn-ngu
Để là vui chút, nhẹ đầu hôn mê
Ngày ngày huyễn hoặc ngô nghê
Hồn vùi đống sách, xác tê ghế mòn
Đầu chồn lủi thủi leo non
Râu phờ, mắt mỏi, cô thân giữa ngàn...
Bạn hiền đâu đó, có chăng
Bằng không, hỏi có mấy thằng như ta?
Để chiều bù khú, ba hoa
Vui chung rượu lạt, hò ca cũng tình
Cười cười, nói nói linh tinh
Cho vơi chất chứa nín thinh một ngày
Xả thân nhẫn nại vai cày
Trên đồng giấy trắng gieo đầy mực đen
Oải tay nuôi chí vững bền
Ép tim bơm máu tưới lền ước mong!...
Bạn hiền, bợm nhậu có không?
Ta mời vang vọng, đừng im như tờ!
Chiều nay gió mỏng mưa thưa
Một mâm thịt chó, đến... vua còn thèm!...
Trần Hanh Thu
Thứ Hai, 1 tháng 4, 2013
copy tu butluan.blog
Khi phản biện xã hội được sử dụng như một “chiêu bài”!
Ðể thực hành phản biện xã hội với các ý nghĩa tích
cực, trước hết có một nguyên tắc cần tuân thủ là phải dựa trên nền tảng
tri thức, thái độ khách quan, lấy lợi ích của cộng đồng làm mục đích,…
Nếu không phản biện xã hội sẽ dễ chỉ là ý kiến chủ quan, cảm tính và
phiến diện, thậm chí là cực đoan, không đóng góp với tiến trình phát
triển xã hội mà còn cản trở tiến trình đó. Từ việc quan sát, đánh giá
hoạt động “phản biện xã hội” của một số cá nhân trên in-tơ-nét trong
thời gian qua, tác giả Huỳnh Tấn gửi tới Báo Nhân Dân bài Khi phản biện
xã hội được sử dụng như một “chiêu bài”!. Xin giới thiệu cùng bạn đọc.
“Ngày nay, có thể nói mạng internet đã tạo cơ hội để con người có nhiều hơn một khuôn mặt. Chưa có thời kỳ nào khuôn mặt con người lại đa dạng đến thế… Ở đó, họ dễ dàng hành xử như một người vô danh, hoặc bỗng nhiên nhờ vào thế giới ảo mà trở thành nổi tiếng” – đó là nhận xét của tác giả Nguyên Anh trong bài Thế giới mạng và sinh mạng thứ hai. Căn cứ vào diễn biến của hiện tượng, có thể nói nhận xét này khá phù hợp với một số người nhân danh “phản biện xã hội”, “tinh thần dân chủ” và “lòng yêu nước” vẫn hằng ngày xuất hiện trên internet. Vì vài năm sau ngày Việt Nam hòa mạng toàn cầu, đã xuất hiện một số website, blog, facebook cá nhân,… là nơi công bố ý kiến “phản biện xã hội” của một số người, trong đó có người thường được BBC, VOA, RFA,… giới thiệu là “nhân sĩ, trí thức hàng đầu”. Về các “phản biện xã hội” đó, trong một bài viết đăng trên sachhiem.net, GS Trần Chung Ngọc – tác giả là người Mỹ, gốc Việt, nhận xét: “Tôi có cảm tưởng là đối với họ, phản biện có nghĩa là phải chống đảng, cãi đảng, bất kể đó là vấn đề gì của đảng, đúng hay sai”. Nhận xét của GS Trần Chung Ngọc xác đáng như thế nào, hãy để bạn đọc đánh giá. Nhưng dù vậy, liệu có thể coi là bình thường nếu đọc các bài vở, ý kiến, xem các bức ảnh, video-clip của những người này trên mạng?
Không thể coi là bình thường vì cứ dăm bữa, nửa tháng lại thấy xuất hiện một “thư ngỏ”, “kiến nghị”,… chủ yếu được công bố trên internet trước khi tới nơi cần gửi! Ðứng đầu danh sách ký tên vào “thư ngỏ”, “kiến nghị”,… thường là một nhóm người nếu tên tuổi không gắn với một chức danh, học vị thì cũng đi liền với một hai chức vụ thời quá khứ và hình như họ không có việc gì khác để làm, chỉ viết đơn, thư!? Không bàn tới các entry, comment chửi bới, vu cáo, xúc phạm bất kỳ người nào có ý kiến khác mình, chỉ đề cập tới hiện tượng liên quan tới các cá nhân đang hăng hái “phản biện” trên internet đã thấy nhiều chuyện bi hài. Như ông “phó giáo sư” nọ lại tự giới thiệu là “giáo sư”, rồi ông “chủ tịch hội đồng khoa học” một viện nghiên cứu – chức vụ mang tính lâm thời, về hưu từ lâu mà vẫn xăm xắn với chữ “chủ tịch”. Thật sửng sốt khi thấy một vị tiến sĩ hùng hổ quát tháo, mày tao chi tớ với nhân viên bảo vệ tượng đài Cảm tử cho Tổ quốc quyết sinh. Có ông chưa biết phân biệt Mục Nam Quan, Ải Chi Lăng khác nhau như thế nào, không biết Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Quân đội ta trung với Ðảng, hiếu với dân…” mà vẫn say sưa “phản biện”. Có ông năm trước vừa “vinh danh” một người, ngay năm sau người mới được “vinh danh” đã lên facebook kể ông nọ gọi mình là “kẻ vô ơn”, và hứa hẹn “sẽ chứng minh ngược lại họ chính là kẻ vô ơn và láo xược”! Bình luận về tình trạng hỷ nộ ái ố trên, một blogger viết: “Ðứng trên góc độ một người được giáo dục thì phải biết tôn ti trật tự, biết tôn trọng các quy định chung của xã hội, của cộng đồng. Ðó là cái lễ. Các vị mang danh là “trí thức” thì chắc chắn đã được giáo dục rồi, thậm chí họ còn đi giáo dục người khác nữa chứ! Nhưng mà sao xem clip các vị ấy tự biên, tự diễn thì tôi không thấy thế? Xem nó tôi có cảm giác giống như xem mấy clip của cái tụi choai choai rỗi hơi gọi điện chọc phá các điện thoại viên rồi đăng lên Youtube để hỷ hả với nhau”! Blogger khác bình luận: “Hầu hết những người đồng đơn với ông, khi ký tên vào bản kiến nghị, đều treo lủng lẳng bên cạnh mình một loạt chức danh có được trong chế độ độc đảng mà cái chế độ đó nay họ đòi loại bỏ. Không ai tự phủ nhận mình khi ghi các chức danh đó… vì nếu phủ nhận mình thì tiếng nói của mình cũng thành vô giá trị”!
Năm 2012, trong lời giới thiệu bài Trí thức và phản biện của GS Trần Chung Ngọc, tòa soạn sachhiem.net viết: “Nói rằng một người có cặp mắt sáng có thể lái xe ban đêm giỏi, nhưng không thể căn cứ vào tài lái xe ban đêm để đo lường độ sáng của cặp mắt. Cũng vậy, phản biện có thể là một trong những hành vi mà một trí thức có thể làm, nhưng không thể là một định nghĩa cho trí thức. Nhất là, gặp gì cũng phản biện, phản biện số 2 thành số 7, phản biện cho mầu đỏ thành mầu đen,… thì nhất định không phải là phản biện. Ðành rằng, một khi có được các phản biện có giá trị, điều đó sẽ làm cho xã hội tiến bộ hơn; nhưng nếu cho đó là nhiệm vụ của “trí thức”, sẽ trở thành hàm hồ. Thái độ “gom về mình” để được mặc áo trí thức mỗi khi phản biện, thì lại càng không nên là hành vi của một trí thức”. Trong bài viết, GS Trần Chung Ngọc khẳng định: “chức năng của trí thức thì đa dạng, và với sự hiểu biết của họ, với kiến thức chuyên nghiệp, họ có thể giúp ích cho xã hội nhiều hơn là lao mình vào lĩnh vực phản biện, nhất là khi họ không có đủ thông tin, không có sự hiểu biết sâu rộng và chính xác về vấn đề, thì đó chỉ là một quan niệm cá nhân… Ðiều hiển nhiên là không có một trí thức nào có thể bao quát được mọi vấn đề trong xã hội, họ chỉ có thể đóng góp cho xã hội trong lĩnh vực chuyên môn của họ, đi ra ngoài lĩnh vực mà họ không nắm vững thì họ trở thành một anh thợ giày mà lại cứ muốn đi lên trên nơi giày dép… Phản biện là dùng lý lẽ, biện luận với thông tin, tài liệu, bằng chứng, để phản bác, chứng minh một vấn đề nào đó, có thể là một luận cứ văn học, một quan điểm về khoa học, một nhận định xã hội, một luận cứ trong Tòa án, v.v. là không đúng, là sai lầm cho nên cần phải bác bỏ… Ðây không phải là điều trí thức nào cũng làm được, nhất là về lĩnh vực chính trị, đối ngoại hay đường hướng quốc gia, các lĩnh vực mà Nhà nước tất nhiên có cái nhìn bao quát, tổng hợp và đầy đủ thông tin hơn cá nhân. Nước Mỹ là nước được cho là dân chủ nhất thế giới, dù chính sách đối ngoại của Mỹ không có gì là dân chủ. Trong chế độ dân chủ của Mỹ, người dân có quyền bỏ phiếu để chọn lựa nguyên thủ quốc gia, tuy nhiều khi phiếu của người dân (popular vote), dù là đa số, cũng không có giá trị bằng phiếu của các vị đại diện cho họ (electoral vote). Năm 2000, trong cuộc bầu cử Tổng thống, Al Gore được nhiều phiếu của dân chúng hơn, nhưng Bush vẫn thắng vì được nhiều phiếu của các dân cử. Ðây không hẳn là dân chủ theo nghĩa “thiểu số phục tùng đa số”. Nhiều trí thức Mỹ đã lên tiếng phê bình vấn nạn này. Chính quyền Bush tạo ra những thông tin ngụy tạo về Iraq để có cớ xâm lăng Iraq, người dân cũng chỉ có thể phản đối hay biểu tình chống chiến tranh, nhưng không thể phản biện. Và chiến tranh Iraq đã tốn mấy nghìn nhân mạng lính Mỹ, vài trăm tỷ đô-la, vài trăm nghìn người Iraq, cuối cùng thì Mỹ cũng rút quân để lại không biết bao nhiêu là hệ lụy cho Iraq”.
Là lẽ thông thường nhưng cần thiết, phản biện xã hội là hoạt động phải được khuyến khích trong sinh hoạt xã hội. Nếu một mặt phản biện có thể giúp điều chỉnh xã hội từ vi mô tới vĩ mô, thì mặt khác, phản biện là biểu thị cho tính dân chủ của xã hội. Vấn đề là ở chỗ, phản biện phải hướng tới ổn định và phát triển xã hội – con người, không thể chấp nhận phản biện nhằm gây mơ hồ, làm lạc hướng nhận thức chung, tiến công vào nguyên tắc tổ chức và hệ thống chính trị của xã hội. Tuy nhiên cần nhấn mạnh rằng, mọi tổ chức từ Trung ương tới địa phương, mọi cá nhân có trách nhiệm ở các cấp chính quyền cần tiếp nhận ý kiến phản biện một cách khách quan để tổng kết, rút ra tham vấn hữu ích nhằm điều chỉnh. Hiện tại, việc triển khai kế hoạch lấy ý kiến nhân dân với Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 đã và đang nhận được sự quan tâm của toàn xã hội. Ðây là thời điểm quan trọng để mọi công dân thể hiện tinh thần trách nhiệm với quá trình hoàn thiện, phát triển đất nước. Ðã có nhiều ý kiến tâm huyết gửi tới cơ quan có trách nhiệm, đó là biểu hiện cụ thể về sự trưởng thành của ý thức công dân. Và đó cũng là để khẳng định sự lạc lõng của một số người đang sử dụng phản biện xã hội làm “chiêu bài” phục vụ cho các tham vọng thiếu cầu thị.
HUỲNH TẤN
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)