Muốn xa anh, thì em cứ xa
thôi
Anh yêu em, vẫn yêu mãi thế
rồi
Em là trăng sánh vai cùng chú
cuội
Anh thầm ngắm em ở tít xa xôi!
Anh sẽ dõi theo vằng vặc lòng
người
Lặng lẽ bồi hồi hàng đêm thao
thức
Theo ý muốn của ông trời định
trước
Thỏa ước tâm hồn vời vợi, trăng ơi!
Em là ánh trăng thơm ngát
mộng vùi
Tình yêu em chan chứa, sáng
soi
Cho anh nâng niu vầng trăng ngào
ngạt
Và khuôn trăng rười rượi ngàn đời!
Trần Hạnh Thu
Trăng Tàn Trên Hè Phố - Trường Vũ
Hình ảnh hình nền ánh trăng, mặt trăng đẹp nhất
Tổng hợp những hình ảnh, hình nền mặt trăng, ánh trăng đẹp nhất
Hình ảnh mặt trăng là hình ảnh rất gần gũi và thân thuộc với mỗi người.
Mặt trăng rất dễ tìm trên bầu trời đêm, có đêm trăng sáng, có đêm trăng
to, có đêm trăng tròn hoặc là đêm không trăng. Mặt trăng cách rất xa
trái đất ta, đã có rất nhiều nhà khoa học thám hiểm lên mặt trăng và
nghiên cứu về nó và thu thập được một số kết quả rất cần thiết. Khi xưa
chưa có điện đường nhiều như ngày nay thì mặt trăng là vật thể soi sáng
đường đi vào ban đêm, trăng gắn liền với tuổi thơ của rất nhiều người
qua những câu chuyện kể của bà dưới trăng. Và bài viết này vforum cũng
đề cập vấn đề liên quan đến mặt trăng đó là Hình ảnh hình nền ánh trăng, mặt trăng đẹp nhất? Sau đây hãy cùng vforum tìm hiểu nhé.
Hình ảnh hình nền ánh trăng, mặt trăng đẹp nhất
Hình ảnh ánh trăng
Hình ảnh ánh trăng đẹp
Hình ảnh ánh trăng khuyết
Hình ảnh ánh trăng
Hình nền ánh trăng
Hình nền ánh trăng đẹp
Hình nền ánh trăng khuyết
Hình nền ánh trăng cho máy tính
Hình nền ánh trăng cho điện thoại
Hình nền máy tính ánh trăng
Hình nền điện thoại ánh trăng
Hình nền desktop ánh trăng
Hình ảnh mặt trăng máu
Hình ảnh mặt trăng
Hình ảnh mặt trăng đẹp nhất
Hình ảnh mặt trăng tròn
Hình ảnh mặt trăng và các vì sao
Hình nền mặt trăng cho điện thoại
Hình nền mặt trăng cho máy tính
Hình nền mặt trăng xanh
Hình nền máy tính mặt trăng
Hình nền điện thoại mặt trăng
Hình nền desktop mặt trăng
Trên đây là bài viết về Hình ảnh hình nền ánh trăng, mặt trăng đẹp nhất?
Mong rằng bài viết này sẽ giúp ích các bạn biết thêm nhiều hình ảnh đẹp
về mặt trăng nhé.
-Chiến tranh là thể hiện sự thờ ơ, vô cảm khốn nạn tột cùng về việc hủy diệt tàn bạo cuộc sống và thân phận con người.
-Chiến
tranh phi nghĩa là chiến tranh "nặn ra" lý do từ không có lý do, hủy
diệt và tàn phá cuộc sống một cách không chính đáng. Chiến tranh chính
nghĩa là chiến tranh nảy sinh từ việc giải phóng hoặc chống chiến tranh phi nghĩa, được
hủy diệt và tàn phá cuộc sống một cách chính đáng (?).
-Tóm
lại, bộ mặt thật của chiến tranh nhìn từ mọi phía nói chung là độc ác,
thiểu năng trí tuệ đến ngỡ ngàng của con người luôn tự vỗ ngực là khôn ngoan, có lý trí.
-Ngày
chiến thắng 30/4, lũ bán nước cay cú gọi là ngày quốc hận, người cộng
sản cực đoan cho rằng đó là ngày toàn dân phải vui mừng, riêng cố thủ
tướng Võ Văn Kiệt, người cộng sản có vợ con đều chết trong chiến tranh, thì nói,
đó là ngày có triệu người vui và cũng có triệu người buồn.
-Lão
Tử, một đại hiền triết thời cổ đại của Trung Quốc, từng nói: "Giết hại
nhiều người thì nên lấy lòng bi ai mà khóc, chiến thắng thì nên lấy tang
lễ mà xử".
-Giống
như bóng tối không thể làm tiêu tan bóng tối, thì hận thù không thể xoa
dịu được hận thù, và chiến tranh không thể xóa bỏ được chiến tranh
-Chỉ
khi con người thoát ra khỏi vòng tham muốn danh lợi, thấu hiểu ý nghĩa
thiêng liêng của cuộc sống, thấu hiểu về sự vô nghĩa tột cùng của cái
chết và sự cảm thông, yêu thương sâu sắc đồng loại, mới có thể loại trừ
được gây hấn và chiến tranh ra khỏi đời sống xã hội!
-Một khi còn tình cảm dân tộc hẹp hòi, lòng tham vị kỷ về danh lợi và cái tâm hận thù của con người, thì vẫn còn chiến tranh.
------------------------------------------------
(ĐC sưu tầm trên NET)
Phát hiện mới về cuộc chiến sớm nhất trong lịch sử loài người
Chủ Nhật, ngày 30/05/2021 13:30 PM (GMT+7)
61 bộ xương
được khai quật ở thung lũng sông Nile thuộc Sudan, được coi là bằng
chứng về cuộc chiến xảy ra sớm nhất giữa người với người.
Hai bộ xương đươc tìm thấy ở nghĩa trang Jebel Sahaba, Sudan.
Các bộ xương được tìm thấy ở nghĩa trang Jebel Sahaba có niên đại
khoảng 13.000 năm, cho thấy những vết thương là kết quả của những cuộc
đụng độ dữ dội, chủ yếu do vũ khí tầm xa như giáo và mũi tên gây ra.
Trong nghiên cứu mới được công bố trên tạp chí Scientific, các nhà
khoa học kiểm tra các hài cốt một lần nữa bằng công nghệ hiện đại nhất,
phát hiện nhóm người cổ đại không chết trong một trận chiến duy nhất.
Theo nghiên cứu, nhiều cộng đồng người cổ đại đã xung đột với nhau
trong nhiều năm. Nguyên nhân có thể là do biến đổi khí hậu và sự thay
đổi của môi trường trong giai đoạn này.
Các nhà nghiên cứu ở Pháp và Anh phát hiện các vết thương được chữa
lành trên mẫu xương mà các nghiên cứu trước đây chưa từng ghi nhận. 61
bộ xương nằm trong cộng đồng người cổ đại sống trong giai đoạn với nhiều
cuộc đột kích, phục kích và giao tranh.
Nhà nghiên cứu Isabelle Crevecoeur (phải) tìm hiểu các bộ hài cốt.
Đó là một cộng đồng thợ săn, hái lượm, bắt cá với đàn ông, phụ nữ và
trẻ em đều bị ảnh hưởng, Isabelle Crevecoeur, nhà nghiên cứu tại Trung
tâm Nghiên cứu Khoa học Quốc gia Pháp (CNRS) và Đại học Bordeaux, nói.
“Sự khác biệt duy nhất có lẽ là những vết thương. Phụ nữ có xu hướng
bị thương ở phần cánh tay còn đàn ông bị thương ở bàn tay. Đó là do phụ
nữ thường lấy cánh tay đỡ đòn theo bản năng còn đàn ông dùng tay để
chiến đấu”, bà Crevecoeur nói.
Hài cốt các trẻ em có xu hướng bị tổn thương ở phần đầu nhiều nhất do chịu tác động của lực đánh mạnh.
Trong nghiên cứu mới nhất, các nhà khoa học phát hiện hơn 100 vết
thương mới, gồm cả vết thương đã lành hoặc chưa lành trên xương, do các
vũ khí bằng đá gây ra.
Gần như tất cả 61 bộ xương đều có các chấn thương ở nhiều mức độ khác
nhau, có thể là rạn xương hoặc vết thương găm sâu do vũ khí tầm xa gây
ra. Khoảng 40% các bộ xương có cả vết thương được chữa lành và vết
thương chưa lành, cho thấy bạo lực diễn ra khá phổ biến trong giai đoạn
này.
Vết thương do giáo hoặc mũi tên bằng đá gây ra trên xương.
Các nhà khoa học cũng phát hiện chính xác niên đại của các bộ xương
là 13.400 năm. Đây là bằng chứng về cuộc chiến xảy ra sớm nhất giữa
người với người.
Các nhà nghiên cứu cho rằng, các cộng đồng người khác nhau chạm trán
để tranh giành nguồn thức ăn và nước uống hạn chế do tác động của biến
đổi khí hậu.
Khí hậu Trái đất biển đổi rõ rệt trong giai đoạn 20.000 – 11.000 năm
trước, khi các tảng băng bao phủ phần lớn Bắc bán cầu tan chảy trong kỷ
băng hà cuối cùng.
Bà Crevecoeur cho biết thung lũng sông Nile có thể là nơi sinh sống
của nhiều cộng đồng người khác nhau trong giai đoạn này. Biến đổi khí
hậu ngày càng đẩy các cộng đồng người cổ đại tập trung ở khu vực gần
sông Nile hơn, để có thể dễ dàng săn bắn và bắt cá.
Cũng có bằng chứng về lũ lụt nghiêm trọng xảy ra ở sông Nile trong giai đoạn này, bà Crevecoeur nói thêm.
“Sự thay đổi về lãnh thổ và môi trường sống do biến đổi khí hậu là
nguyên nhân các cuộc xung đột xảy ra thường xuyên trong thời kỳ này”, bà
Crevecoeur giải thích. “Những thay đổi này rất đột ngột. Những người cổ
đại đã phải tìm mọi cách để sống sót”.
Xác ướp Ai Cập cổ đại 2.000 tuổi, được cho là thuộc về một phụ nữ thuộc tầng lớp thượng lưu ở thành cổ Thebes,...
Theo Đăng Nguyễn - CNN (Dân Việt)
Gốc rễ kinh hoàng trong 2 vụ ném bom hủy diệt của Mỹ: Cái chết từ khối lập phương 2 kg
Trang Ly |
"Nếu Đức Quốc xã thành công trong việc chế tạo vũ khí hủy diệt, thế giới sẽ rất khác!"
Người bình thường sẽ không chú ý đến một vật hình
khối, màu xám trên bàn làm việc của ai đó. Bởi họ nghĩ rằng đó đơn thuần
là dụng cụ chặn giấy.
"Cháu gái của nhà vật lý, hóa học
người Pháp gốc Ba Lan Marie Curie có một chiếc. Và cô ấy sử dụng nó như
một dụng cụ chắn cửa", Tiến sĩ Miriam Hiebert, một nhà sử học và nhà
khoa học vật liệu người Mỹ nói.
Tuy nhiên, trọng lượng
của các vật thể dài 5 cm có khả năng gây kinh ngạc cho bất cứ ai khi
chạm tay vào chúng - mỗi vật nặng khoảng 2 kg! Đó là bởi vì chúng được làm từ nguyên tố nặng bậc nhất trên Trái Đất: Uranium. Và chúng có một quá khứ rất thăng trầm.
Các khối lập phương này từng là một phần của các lò phản ứng hạt nhân thử nghiệm mà Đức Quốc xã
thiết kế trong Thế chiến thứ hai (1939-1945). Theo những gì các nhà
nghiên cứu biết, trên thế giới chỉ còn lại 14 khối lập phương, trong số
hơn 1.000 khối được sử dụng trong các thí nghiệm vũ khí hạt nhân của Đức Quốc xã.
Hơn
600 khối đã bị thu đưa về Mỹ trong những năm 1940. Nhưng ngay cả sau
đó, điều gì đã xảy ra với hầu hết các hình khối Uranium này vẫn chìm
trong bóng tối bí ẩn.
Tiến
sĩ Miriam Hiebert (trái) và Trợ lý Giáo sư Timothy Koeth - người đang
cầm trên tay khối Uranium của Đức Quốc xã. Ảnh: John T. Consoli / Đại
học Maryland
Tiến sĩ Miriam Hiebert và Trợ lý
Giáo sư Timothy Koeth, thuộc khoa học vật liệu và kỹ thuật tại Đại học
Maryland (Mỹ), đang viết một cuốn sách về các hình khối Uranium. Sau
nhiều năm nghiên cứu, họ nói với Business Insider rằng họ biết điều gì đã xảy ra.
1. QUÁ KHỨ THĂNG TRẦM
Trợ
lý Giáo sư Timothy Koeth - Nguyên Giám đốc, Lò phản ứng hạt nhân &
Cơ sở bức xạ của Đại học Maryland - mô tả các khối lập phương Uranium là
"di tích sống duy nhất" về nỗ lực hạt nhân của Đức Quốc xã. Ông nói:
"Chúng là động lực cho toàn bộ dự án Manhattan".
[Dự án Manhattan chính là "cái nôi" cho ra đời quả bom nguyên tử đầu tiên trong lịch sử nhân loại, mật danh "Trinity" của Mỹ - Đọc thêm tại đây].
Trước
chiến tranh, Đức là nước dẫn đầu thế giới về vật lý, và khoa học về
năng lượng hạt nhân vẫn còn sơ khai. Năm 1938, nhà hóa học người Đức
Otto Hahn (1879-1968) tiết lộ rằng ông đã tạo ra sự phân hạch bằng cách
cho nổ neutron ở lõi Uranium.
Trước cuộc truy sát của Đức
Quốc xã, các nhà khoa học chạy trốn khỏi châu Âu, bao gồm Albert
Einstein và Enrico Fermi. Chính họ đã lên tiếng cảnh báo Mỹ rằng Đức có
thể phát triển bom nguyên tử.
Trước đó, tháng 8/1939,
một tháng trước khi Thế chiến II chính thức nổ ra, nhà bác học người Đức
Albert Einstein viết thư cho Tổng thống Mỹ Franklin D. Roosevelt cảnh
báo rằng: Phản ứng dây chuyền hạt nhân liên quan đến Uranium có thể tạo
ra loại bom hủy diệt mạnh chưa từng có trong lịch sử - chính là bom
nguyên tử.
Khi cuộc chiến nổ ra, Adolf Hitler đặt rất
nhiều kỳ vọng vào loại vũ khí hủy diệt này, hòng phục vụ cho những nước
cờ đầy toan tính của hắn. Mỹ sợ!
Cuộc chạy đua vũ trang/săn lùng nguyên tố phóng xạ diễn ra từ đó!
huyện gì sẽ xảy ra nếu Adolf Hitler nắm trong tay thứ vũ khí hủy diệt ấy? Nguồn: New York Post
Mỹ
và Đức Quốc xã đều chạy đua phát triển công nghệ hạt nhân trong chiến
tranh. Người Đức đã có một khởi đầu thuận lợi, họ sở hữu những bộ óc
thiên tài có thể phát triển quá trình phân hạch hạt nhân với mục tiêu
cuối cùng là phát triển một loại vũ khí hủy diệt mạnh nhất thế giới.
Để
tránh mọi con mắt dòm ngó, Đức Quốc xã triển khai 2 nhánh sản xuất vũ
khí hủy diệt. Hai nhành này được giao cho 2 nhà lãnh đạo chương trình
hạt nhân của Đức Quốc xã, Werner Heisenberg và Kurt Diebner
Nhóm
của Werner Heisenberg làm việc ở ngoài Berlin, trước khi chuyển đến
Haigerloch ở tây nam nước Đức để trốn tránh quân đội Đồng minh; trong
khi nhà khoa học Kurt Diebner đứng đầu một nhóm nghiên cứu ở Gortow,
miền bắc nước Đức.
Giữa hai cơ sở, Đức Quốc xã đã tích
lũy được từ 1.000-1.200 khối Uranium. Các khối này dài khoảng 5 cm mỗi
cạnh, có màu xám than và nặng khoảng 2,2 kg.
Ở dạng tự
nhiên, Uranium không có tính phóng xạ cao. Vì vậy, các hình khối không
nguy hiểm lắm. Nhưng áp dụng một neutron vào Uranium, cụ thể là đồng vị
Uranium-235 (U-235), nó sẽ giải phóng năng lượng cực cao.
[Sức
công phá khủng khiếp của quả bom Little Boy Mỹ ném xuống thành phố
Hiroshima của Nhật đến từ sự phân hạch hạt nhân của Uranium-235].
Để
tạo ra một vụ nổ, điều kiện là phải xảy ra trong một phản ứng dây
chuyền: Neutron bị bắt bởi một nguyên tử Uranium khác, nguyên tử này
tách ra, tạo ra nhiều neutron hơn... Để làm được điều đó, các neutron
cần được làm chậm lại bởi một chất gọi là chất điều tiết.
Mỹ đã sử dụng than chì
cho điều đó, và nó đã mang lại hiệu quả cao. Các nhà khoa học thuộc Dự
án Manhattan đã tạo ra một phản ứng dây chuyền hạt nhân tự duy trì vào
tháng 12 năm 1942.
Một
bản sao của lò phản ứng hạt nhân mà Đức Quốc xã đã xây dựng tại
Haigerloch, miền nam nước Đức. (CC BY-SA 3.0, ArtMechanic, Wikipedia)
Đức lại khác. Những nhà lãnh đạo chương trình hạt nhân của Đức Quốc xã, Werner Heisenberg và Kurt Diebner, đã chọn nước nặng
làm chất điều tiết: Nước nặng trong đó các nguyên tử hydro được thay
thế bằng đơteri (Deuterium). Các khối Uranium sẽ được nhúng vào nước
nặng.
Đức Quốc xã đã phát triển hai lò phản ứng nguyên
mẫu, lò phản ứng lớn hơn có 664 khối Uranium được xâu lại thành nhiều
chuỗi Uranium lớn và treo lơ lửng trên một hố nước nặng. Lò phản ứng nhỏ
hơn sử dụng khoảng 400 khối.
2. SỨ MỆNH MANG MẬT DANH "ALSOS"
Vào
thời Thế chiến II, lực lượng Đồng minh không nắm được chương trình hạt
nhân của Đức Quốc xã đã đi được bao xa. Và điều này khiến họ rất lo
lắng.
Vì vậy, vào năm 1943, quân Đồng minh đã phát động một nhiệm vụ bí mật - mật danh là "Alsos" - để tìm hiểu.
Một
nhóm khoảng chục người, bao gồm binh lính, nhà khoa học và thông dịch
viên, đã đi qua Ý, Pháp và Đức để tìm kiếm dấu vết của các phòng thí
nghiệm hạt nhân của Đức Quốc xã. Sau đó, khi chiến tranh gần kết thúc,
mục tiêu của sứ mệnh chuyển sang đảm bảo vật liệu hạt nhân (hoặc các nhà
khoa học của Đức) sẽ không lọt vào tay Liên Xô.
Các
sĩ quan tình báo thu thập các khối Uranium của Đức tại Haigerloch, Đức.
Ảnh: Samuel Goudsmit / AIP Emilio Segrè Visual Archives
Khi
quân Đồng minh tấn công Đức Quốc xã vào tháng 4 năm 1945, một đội đặc
biệt đã săn lùng chương trình vũ khí hạt nhân của Đức Quốc xã và nhà vật
lý nổi tiếng thế kỷ 20 Werner Heisenberg.
Tại
thị trấn Haigerloch ở miền nam nước Đức, ẩn mình trong một hang động
bên dưới một lâu đài, đội Đồng minh đã phát hiện ra một lò phản ứng hạt
nhân thử nghiệm lớn cùng 659 khối Uranium, nặng khoảng 1,5 tấn.
Người
đứng đầu của Dự án năng lượng nguyên tử của Đức Quốc Xã là nhà bác học
Werner Heisenberg, cùng nhóm của ông trước đó đã ẩn náu ở miền nam nước
Đức.
Sau khi biết sự truy quét của quân Đồng Minh,
Werner Heisenberg đã vội vã chạy trốn trong đêm, đi xe đạp với một ba lô
chất đầy các khối phóng xạ. Đó là lý do, người ta gọi các khối lập
phương Uranium này là Khối Heisenberg (theo tên của nhà lãnh đạo chương
trình hạt nhân của Đức Quốc xã Werner Heisenberg).
Kết
thúc sứ mệnh Alsos, gần như tất cả các khối Uranium và nước nặng của Đức
Quốc xã rơi vào tay người Mỹ. Nhưng tung tích hàng trăm khối Uranium
của lò phản ứng nhỏ hơn vẫn còn là bí mật.
3. BÍ MẬT CỦA HƠN 1.000 KHỐI URANIUM
Sau
khi các khối lập phương Uranium đến Mỹ, mọi tung tích về các khối này
chìm nhanh vào quên lãng - Tiến sĩ Miriam Hiebert cho biết. Không phải
bởi Mỹ vứt chúng vào xó. Mỹ âm thầm sử dụng các khối Uranium của Đức
Quốc xã cho chương trình hạt nhân của mình một cách bí mật trước truyền
thông, đặc biệt là trước Liên Xô - kỳ phùng địch thủ của họ trong cuộc
chiến không đổ máu mới - Chiến tranh Lạnh (1946-1991).
"Chúng
tôi chỉ biết 14 trong tổng số hơn 1.000 khối Uranium tồn tại. Số còn
lại vẫn còn bí mật, Nhưng 14 khối đó cũng có thể cung cấp những manh môi
về những gì có thể đã xảy ra với phần còn lại" - Hai nhà khoa học Mỹ
cho biết.
Tác giả người Anh Mike Rossiter viết trong cuốn sách "The Spy Who Changed the World" rằng:
Công việc nghiên cứu và chế tạo bom nguyên tử của các nhà khoa học
trong Dự án Manhattan là "công việc bí mật nhất thế kỷ 20".
Trợ
lý Giáo sư Timothy Koeth, một người đam mê sưu tập các vật thể hạt nhân
từ khi còn là một thiếu niên, có 2 trong số 14 khối Uranium. Cả hai đều
được các đồng nghiệp tặng cho anh. Món quà đầu tiên là một món quà sinh
nhật khoảng một thập kỷ trước, nhưng người tặng yêu cầu giấu tên và
Timothy Koeth sẽ không tiết lộ cách họ có được khối lập phương.
Món
quà đi kèm với một ghi chú viết tay có nội dung: "Được lấy ở Đức từ lò
phản ứng hạt nhân mà Hitler đã cố gắng xây dựng. Quà của Ninninger".
Ghi chú đi kèm với khối lập phương mà Trợ lý Giáo sư Koeth được tặng. Ảnh: Timothy Koeth
Hóa
ra Robert D. Nininger (tên của ông chỉ có một n), là một nhà địa chất
học của Ủy ban Năng lượng Nguyên tử Mỹ vào những năm 1950.
Tiến
sĩ Miriam Hiebert và Trợ lý Giáo sư Timothy Koeth đã tìm thấy các tài
liệu cho thấy Robert D. Nininger đã làm việc với Dự án Manhattan.
Khối
lập phương Uranium thứ hai của Timothy Koeth đến từ một cựu giảng viên
tại Đại học Maryland, người đã nhận nó từ một giảng viên khác, Duffey.
Trong chiến tranh, Duffey, một kỹ sư hóa học, đã làm việc tại một nhà
máy ở Beverly, bang Massachusetts (Mỹ) - nơi xử lý Uranium phế liệu,
Timothy Koeth nói.
Dựa
trên những phát hiện này và những phát hiện khác, Tiến sĩ Miriam
Hiebert và Trợ lý Giáo sư Timothy Koeth cho rằng hầu hết các khối lập
phương của Đức Quốc xã đưa tới Mỹ đều được tái sử dụng và sử dụng trong
chương trình hạt nhân của chính nước Mỹ. Nhưng một vài trong số đó được
giữ lại làm kỷ niệm.
Đối với 400 khối Uranium từ lò phản
ứng thứ hai, Tiến sĩ Miriam Hiebert và Trợ lý Giáo sư Timothy Koeth đã
tìm thấy một số tài liệu cho thấy chúng có khả năng được chuyển đến Liên
Xô, trong khi số khác được bán trên thị trường chợ đen ở châu Âu.
"Mục
đích của các lò phản ứng của Đức Quốc xã là sản xuất Plutonium cho
chương trình vũ khí hủy diệt của họ, vì vậy thực ra họ không quan tâm
đến chính Uranium. Tất cả các dấu hiệu cho thấy họ đã không thành công
trong việc sử dụng Uranium" - các nhà khoa học cho biết.
Nhưng người Mỹ lại thành công với Uranium và cả Plutonium!
Cuộc
thử nghiệm Trinity là kết quả của "Dự án Manhattan" nhằm tạo ra thứ vũ
khí khủng khiếp nhất trong lịch sử nhân loại. Và ít ai ngờ, 'cái nôi'
của "Dự án Manhattan" đến từ những khối Uranium sẵn của của Đức Quốc xã.
Và
vào ngày 6/8/1945, Mỹ đã sử dụng quả bom hạt nhân mật danh "Little Boy"
(Sức công phá đến từ sự phân hạch hạt nhân của Uranium-235) để ném
xuống thành phố Hiróhima của Nhật Bản.
Quả bom nguyên tử
thứ hai tên "Fat Man" mà Mỹ ném xuống Nagasaki, Nhật Bản ngày 9/8/1945
có lõi làm bằng Plutonium. Fat Man có sức công phá tương đương 22.000
tấn thuốc nổ TNT, khiến hàng chục nghìn người thiệt mạng.
Và rồi, phần lịch sử tang thương đó cũng dần khép lại...
4. TỪ LÒ PHẢN ỨNG HẠT NHÂN ĐẾN NỖ LỰC CHỐNG PHỔ BIẾN VŨ KHÍ HẠT NHÂN
Các nhà nghiên cứu ở Mỹ hiện đang lần đầu tiên thực hiện phân tích pháp y hạt nhân
trên ba khối Uranium được cho là từ các phòng thí nghiệm của Đức Quốc
xã, trong một dự án có thể có ý nghĩa lịch sử cũng như tác động đến an
ninh hạt nhân.
Phòng thí nghiệm Quốc gia Tây Bắc Thái
Bình Dương (PNNL) của Mỹ sở hữu một khối Uranium khác của Đức Quốc xã
nhưng không có hồ sơ ghi lại lịch sử của nó.
Vì vậy, hai
nhà khoa học ở đó, Jon Schwantes và Brittany Robertson, cùng với Tiến sĩ
Miriam Hiebert và Trợ lý Giáo sư Timothy Koeth gần đây đã tìm ra một
phương pháp mới để xác định niên đại của khối lập phương - và các sản
phẩm Uranium khác - chính xác hơn những gì có thể trước đây.
Để làm như vậy, họ đã đo mức độ của hai nguyên tử, Protactinium và Thorium, tích tụ theo thời gian khi Uranium phân hủy.
[Protactinium (Pa) có Pa-231 là sản phẩm phân rã từ Uranium-235 (U-235), và có chu kỳ bán rã là 32.760 năm].
Trong
một bài thuyết trình vào tháng 8/2021 tại cuộc họp thường niên của Hiệp
hội Hóa học Mỹ, hai nhà khoa học PNNL Jon Schwantes và Brittany
Robertson đã tiết lộ rằng khi họ áp dụng phương pháp này vào khối lập
phương trong phòng thí nghiệm của họ, kết quả đã phát hiện độ tuổi dự
kiến - Khối Uranium này có từ những năm Đức Quốc xã phát triển vũ khí
hạt nhân.
"Làm việc với khối Uranium từng có trong tay
của nhà khoa học nổi tiếng thế giới thế kỷ 20 Werner Heisenberg quả thực
rất áp lực và đáng sợ. Nếu các nhà khoa học Đức Quốc xã thành công, thế giới sẽ rất khác, cả ở châu Âu và trên toàn thế giới. Chúng tôi cố gắng không đánh mất thực tế đó" - nhóm các nhà khoa học nghiên cứu 3 khối Uranium bộc lộ.
Tất
nhiên, ngày nay, khối lập phương Uranium có một chức năng khác: "Mục
đích chính mà nó được sử dụng là đào tạo", Jon Schwantes cho biết.
Phòng
thí nghiệm Quốc gia Tây Bắc Thái Bình Dương (PNNL) dạy các nhân viên an
ninh cách nhận biết vật liệu hạt nhân và phóng xạ. Vì vậy, khối lập
phương cung cấp một ví dụ đào tạo tốt.
Jon Schwantes nói:
"Tôi thấy đó thực sự là một cốt truyện thú vị cho khối lập phương này -
rằng nó được sản xuất lần đầu tiên cho chương trình hạt nhân của ai đó,
và bây giờ nó đang được sử dụng để phi phổ biến hạt nhân".