Hiển thị các bài đăng có nhãn Khac. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Khac. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Năm, 2 tháng 5, 2019

NGỘ (ĐL)

(ĐC sưu tầm trên NET)
 
Phim truyện cuộc đời ĐỨC PHẬT THÍCH CA



Có Phật không?
Không thấy Phật!
Phật ở trong tâm.
Tâm từ đâu mà có?
Có Người!...

Người có cũng như không.
Có cái Tôi thì Người là có
Không còn hồn vía, Người có còn không?
Tôi học làm Người thì Tôi có tâm
Tâm hiền lương thì tâm có Phật.

Phật là hiền lương,
Lương tâm đâu phải Phật?
Có Người thì như có,
Không Người chắc là không!

Có Phật không?...

                                                       Trần Hạnh Thu




Vào 2.500 năm trước tại Ấn Độ cổ, Đức Thế tôn Thích Ca Mâu Ni Phật sau khi giáng sinh, tu hành, giác ngộ, chứng đắc chính quả đã vì muốn phổ độ chúng sinh mà bắt đầu truyền giảng Phật Pháp.

phật Thích Ca Mâu Ni
Chùa Huyền Không, Trung Quốc (Ảnh qua woman.hotnews.bg)

Lúc ban đầu, khi Đức Thích Ca Mâu Ni truyền giảng Pháp ở Ấn Độ là không có chùa chiền. Về sau, vì để cung cấp nơi chốn cho Phật Thích Ca Mâu Ni giảng kinh Pháp nên người ta bắt đầu xây dựng “Tinh xá”. Đây được xem là nguồn gốc ra đời đầu tiên của chùa chiền.
“Chi Viên tinh xá” và “Trúc Lâm tinh xá” ở nước Xá Vệ của Ấn Độ cổ xưa được xem là những ngôi chùa miếu đầu tiên của nước Ấn Độ. “Trúc lâm tinh xá” là do Vua Bimbisāra, đệ tử đầu tiên của Phật Thích Ca Mâu Ni trong hàng Vua chúa xây cất và phát tâm cúng dường Phật cùng các chư tăng làm nơi an cư.
Ngoài ra, vào thời kỳ đầu, Phật giáo tại Ấn Độ chủ yếu hoạt động ở trong các công trình kiến trúc hang đá. Vô luận là hang đá hay tinh xá thì mục đích chủ yếu là để chúng tăng sinh sống và tu hành. Bởi vậy mà ban đầu trong đó cũng không có tượng Phật và kinh sách như trong chùa chiền ngày nay.
Nguyên nhân là bởi vì khi Phật Thích Ca Mâu Ni truyền Pháp hoàn toàn đều là truyền miệng, không có ghi chép lưu lại. Hơn nữa, Phật Thích Ca Mâu Ni không cho phép mọi người tạc tượng để cúng bái. Đó là bởi vì ngài yêu cầu các đệ tử của mình dựa vào Phật Pháp làm gốc để tu hành chứ không phải dựa vào những thứ bề ngoài như uy tín, quyền uy.
Sau khi Đức Phật Thích Ca Mâu Ni niết bàn, thi thể của ngài được hỏa táng. Tám vị quốc vương ở Ấn Độ cổ phái sứ giả đến nơi hỏa táng, yêu cầu được chia xá lợi Phật. Nhưng còn hai Quốc vương nữa đến nhưng không nhận được xá lợi Phật, nên một người liền lấy chiếc bình đựng xá lợi, một người lấy tro cốt của Đức Phật về an táng.
Tám quốc gia được phân chia Xá lợi Phật đã trở về nước mình xây tháp để an táng và định kỳ tổ chức lễ hội tưởng niệm. Cho nên, ở toàn thể nước Ấn Độ cổ thời ấy đã kiến tạo mười tòa tháp, bao gồm tám tòa tháp an táng xá lợi Phật, một tòa tháp an táng chiếc bình đựng xá lợi Phật và một tòa tháp an táng tro cốt Phật.

phật Thích Ca Mâu Ni
Thích Ca Phật Đài – Vũng Tàu (Ảnh qua wikimapia.org)

“Tháp” trong tiếng Phạn là Stupa có nghĩa là phần mộ cao, thông thường là phần mộ để tưởng niệm ở các địa phương.
Ngoài ra, thời kỳ ấy, các tăng nhân cũng bắt đầu biên tập, sửa sang lại các nội dung mà Phật Thích Ca Mâu Ni đã giảng nói. Bởi vậy, từ đây bắt đầu xuất hiện kinh Phật (kinh của Phật Thích Ca Mâu Ni).
Vào thời kỳ Vua Ashoka, khoảng thế kỉ thứ 3 TCN, Phật giáo trở thành quốc giáo ở Ấn Độ. Vì muốn mở rộng và làm hưng thịnh Phật Pháp, Vua Ashoka đã hạ lệnh khai quật tám vương xá lợi tháp lên. Nhưng, trong đó, có một, hai tòa tháp bởi vì kiến tạo quá chắc chắn nên không thể khai quật được. Toàn bộ phần xá lợi Phật sau khi lấy ra, một lần nữa được chia làm 84.000 phần được đựng trong 84.000 hộp quý giá nhỏ được an táng trong 84.000 tòa tháp.
Tại chùa Pháp Môn ở Tây An, Trung Quốc cất giữ xá lợi xương ngón tay của Phật Thích Ca Mâu Ni. Thuận theo việc các nơi xây dựng tòa tháp, xá lợi cũng được truyền đến rất nhiều nơi tín ngưỡng Phật giáo. Cũng bởi vì thế mà tháp trở thành nơi người dân cúng bái Phật Thích Ca Mâu Ni. Về sau, tháp cũng trở thành một trong những kiến trúc chủ yếu của Phật tự, đền thờ Phật giáo.
Sau này, nghệ thuật tạc tượng từ Hy Lạp được truyền vào đất Ấn Độ, các Phật tử bắt đầu kiến tạo tượng Phật, tượng Bồ Tát. Việc thờ phụng trong Phật giáo cũng theo đó mà chuyển từ thờ phụng xá lợi sang thờ phụng tượng Phật.
Sau khi xuất hiện việc tạc tượng, người ta bắt đầu phải xây dựng nơi để đặt tượng Phật. Cho nên, chúng ta có thể thấy kiến trúc chùa chiền ngày nay cũng là thuận theo đó mà được xây dựng, trong đó tạc tượng chiếm một vị trí rất quan trọng. Tạc tượng cũng theo đó mà truyền nhập vào Trung Quốc và các nước khác.

phật Thích Ca Mâu Ni
Một bức tượng Phật (Ảnh qua Erkusov.com)

Trên thực tế, bất luận là tháp, Phật tượng hay kiến trúc chùa chiền thì ở mỗi địa phương, mỗi quốc gia lại có sự khác nhau.
Phật tử thông thường lễ bái là kinh Phật, Phật tháp (xá lợi) và Phật tượng, trong đó Phật tượng là phổ biến nhất. Phật tự (chùa miếu) bản thân nó vốn chủ yếu cũng là để thờ cúng kinh Phật, tượng Phật, tượng Bồ Tát mà được kiến tạo.
Mặc dù việc kiến tạo Phật tượng cũng không phù hợp với lời dạy của Phật Thích Ca Mâu Ni khi còn tại thế: Không dùng tượng làm đối tượng tín ngưỡng. Nhưng con người luôn mong muốn dùng một hình tượng hữu hình tốt đẹp nào đó để biểu đạt lòng mình. Chính vì thế mà xuất hiện việc điêu khắc tượng Phật và kiến tạo chùa chiền.
Từ nguồn gốc sự ra đời của chùa chiền có thể thấy, điều quan trọng nhất của tu luyện là tu tâm, phải dựa vào Phật Pháp làm gốc để tu hành. Nếu chỉ đặt tâm tư, suy nghĩ vào điêu khắc tượng Phật, xây dựng chùa chiền mà không thật tâm tu thì sẽ rất khó để có thể tu hành được đến đích.
An Hòa (biên dịch và t/h)

Truyền Thuyết Đức Phật Di-lặc

28/04/20184:00 SA(Xem: 9094)

TRUYỀN THUYẾT ĐỨC PHẬT DI-LẶC
Phước Nguyên

blank
Kể từ thời điểm Phật giáo khai sinh và nở hoa khắp mọi miền thế giới, hễ mỗi khi nói đến hình ảnh một vị Phật xuất hiện trong tương lai, phần lớn người ta thường nhắc đến đầu tiên là Bồ-tát Di-lặc, hình ảnh vị Bồ-tát Đại sĩ được tôn thờ phổ biến trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền. Danh hiệu ngài vốn không chỉ quen thuộc đối với Phật tử Đại thừa, mà cũng xuất hiện rất nhiều trong kinh điển Pāli thuộc bộ phái Theravāda.
1. Danh hiệu
 “Di-lặc 彌勒”, tiếng Sanskrit gọi là Maitreya (Pāli: Metteyya), ngài Huyền Tráng phiên âm là: Mỗi-đát-lị-da 梅呾利耶, dịch là Từ thị 慈氏, xưa phiên là Xưng (Di?)-đế-lệ 稱帝麗 hay Di-lặc 彌勒, thảy đều nhầm với tiếng Sanskrit.
Về danh hiệu “A-dật-đa 阿逸多” cũng gọi A-di-đá, hay A-thị-đa, Sanskrit=Pali: Ajita, Hán dịch: Vô Năng Thắng 無能勝. Danh hiệu này các thư tịch ghi nhận không đồng nhất:
-Truyền thống bộ phái: Căn cứ vào các tài liệu Hán tạng, đại biểuTrung A-hàm 13, kinh 66. Thuyết bản[1], đơn hành bản tương đương: No. 44, Cổ lai thế thời kinh, cho thấy trong Phật giáo bộ phái, A-dật-đa (Ajita) và Di-lặc (Mettaya), là hai nhân vật khác nhau, cả hai vị này đều là Tỷ-kheo trong chúng Thanh văn được Phật Thích-ca thọ kí, một vị làm vua Chuyển luân và một vị làm Phật.
-Truyền thống Đại thừa: Căn cứ Hán dịch, kinh Pháp hoa 6, phẩm Tùy hỉ công đức[2], đức Phật gọi Di-lặc là A-dật-đa (Ajita). Điểm này cũng được thấy tương đương trong thủ bản Saddharmapuṇḍarīkasūtram bằng tiếng Sanskrit[3], tức đồng nhất hai nhân vật là Di-lặc và A-dật-đa thành một[4].
2. Huyền kí thị hiện
Về kỉ nguyên của đức Phật Di-lặc, trong Trường A-hàm 6– kinh Chuyển luân vương tu hành nói rõ:
Trong lúc nhân loại sống tám vạn tuổi, con gái đến năm trăm tuổi mới gả chồng, và có chín thứ bệnh (…) Vào thời kì ấy thì có đức Phật ra đời hiệu là Di-lặc Như Lai.”[5]
Huyền kí này cũng được tìm thấy tương đương trong kinh 26. Cakkavatti (Chuyển luân vương)[6] thuộc Dīgha-nikāya:
Khi tuổi thọ loài người lên đến tám vạn tuổi, bấy giờ có Thế Tôn hiệu là Di-lặc xuất hiện ở đời.”
Hệ Pāli còn có một bản thi tụng nhan đề: Anāgatavaṃsa (Đương lai), kể riêng về chuyện đức Phật Di-lặc đương lai, được nói là do Trưởng lão Kassapa soạn; tài liệu Journal of the Pali Text Society, 1886.
Huyền ký tương tự cũng được nói đến trong Trung A-hàm 13, kinh 66. Thuyết bản. Ở kinh này có thêm chi tiết khác:
Sau khi nghe đức Thế Tôn huyền ký về sự xuất hiện của một Chuyển luân vương tên Loa[7], bấy giờ trong hội chúng có một vị Tỷ-kheo tên là A-di-đá[8] đứng dậy bạch Phật, ông muốn trong tương lai ông sẽ là vị Chuyển luân vương đó: “Bạch Thế Tôn! Một thời gian lâu dàivị lai, lúc con người thọ đến tám vạn tuổi, con sẽ có thể được làm vua, hiệu là Loa, là Chuyển luân vương[9]. Ước nguyện này bị Phật khiển trách: “Ngươi là kẻ ngu si, chỉ nên chết thêm một lần, sao lại mong một lần tái sanh nữa[10]. Tỷ-kheo này bị quở trách, vì không mong cầu chấm dứt bóng tối của đêm dài sinh tử, chứng nghiệm vô thượng Niết-bàn; lại muốn tái sinh nhiều đời kiếp nữa để làm vua chúa. Sau đó Phật lại huyền ký về sự xuất hiện của vị Phật tương lai hiệu Di-lặc, trong triều đại Loa Chuyển luân vương. Bấy giờ tôn giả Di-lặc cũng hiện diện trong hội chúng, đứng dậy chắp tay bạch Phật, phát nguyện sẽ là vị Phật được huyền ký đó: “Bạch Thế Tôn! Một thời gian lâu dài ở thời vị lai, lúc con người thọ mạng đến tám vạn tuổi, con sẽ thành Phật hiệu là Di-lặc Như Lai[11]. Phát nguyện này được Thế Tôn tán thán: “Lành thay! Lành thay! Di-lặc, ngươi phát tâm cực diệulãnh đạo đại chúng[12]. Ngay khi ấy, đức Thế Tôn dạy ngài A-nan mang ra chiếc y được dệt bằng kim tuyến do bà Kiều-đàm-di hiến cúng Phật, trao cho Di-lặc: “Này A-nan, ngươi hãy lấy tấm y được dệt bằng sợi tơ vàng mang lại đây. Nay Ta muốn cho Tỷ-kheo Di-lặc[13]. Tuy ước nguyện tái sinh nhiều đời nữa, nhưng Di-lặc được Phật khen ngợi, vì ước nguyện quảng đại: “vì muốn cứu hộ thế gian và mong cầu thiện lợi và hữu ích, mong an ổn khoái lạc (cho thế gian)” [14].
Tuy có một vài điểm sai khác giữa các truyền thống kinh điển, nhưng điểm được thừa nhận chung và phổ biến: Tỷ-kheo Di-lặc là vị Phật tương lai, sau một thời gian dài, kế tiếp đức Phật Thích-ca để tuyên thuyếttruyền thừa Chánh Pháp. Hiện tại, Ngài đang là Bồ-tát trú tại cung trời Đâu-suất (Tuṣita)[15]. Sự hiện hữu này được kinh điển gọi là là nhất sinh bổ xứ Bồ-tát[16], hay nhất sinh sở hệ Bồ-tát[17]. Phật giáo Bộ pháiĐại thừa đều chấp nhận quan điểm này. Địa vị đã chứng nghiệm của Ngài hiện tại: avaivartya-bhūmi, Hán dịch là A-duy-việt-trí địa hay A-bệ-bạt-trí địa (bất thối chuyển).
3. Khảo sát về danh hiệu “A-dật-đa 阿逸多
Bài khảo luận này dành riêng một mục để khảo sát về danh hiệu A-dật-đa, vì như đã nói ở phần 1, danh hiệu này các truyền thống ghi nhận không đồng nhất.
“A-dật-đa”, tiếng Sanskrit: Ajita, Pāli: Ajita, Tây Tạng: Mi tham pa. Hán phiên âm: A dật 阿逸, A thị đa 阿嗜多, A thị đa 阿恃多, A chế đa 阿制多, A di đà 阿夷陀, A thì đa 阿時多, A di đầu 阿夷頭, A dật đa阿逸多, A thệ đảm 阿誓擔, Kha dật đa 呵逸多, A di đa 阿夷多, Ai di đà 哀駘它 v.v… Dịch là: Vô thắng 無勝[18] Vô năng thắng 無能勝[19], Vô tam độc 無三毒[20], Thiên thắng天勝.
Từ Ajita trong tiếng Sanskrit và kinh tạng Pāli là danh hiệu của nhiều nhân vật khác nhau, nên khi truyền sang Trung quốc nó không được phiên âm một cách thống nhất. Thậm chí cùng một người mang tên Ajita, nhưng văn bản Trung quốc có đến ba bốn từ phiên âm khác nhau, tùy theo nhận thức của dịch giả. Dưới đây là sự khảo sát những nhân vật chính yếu, khác nhau, cùng mang danh hiệu Ajita xuất hiện trong văn học Phật giáo.
a. Tên một Tỷ-kheo đệ tử Phật
Trung A-hàm 13 (kinh Thuyết bản)[21], Hiền ngu kinh 12[22] ghi nhận A-dật-đa là danh hiệu một vị đệ tử Phật được huyền kí sẽ trở thành vị Chuyển luân vương tên Loa[23]. Đồng thời kinh cũng ghi rằng có tôn giả Di-lặc, cũng là đệ tử Phật Thích-ca, được huyền kí trở thành Phật Di-lặc.
Như thế, A-dật-đa và Di-lặc từ nguyên ủy là hai nhân vật khác nhau cùng là đệ tử Phật. Sự kiện này, được xác nhận cụ thể trong văn hệ Pāli:
- Sutta Nipāta (kinh Tập) có kinh Tissamet­tey­ya (Đế-tu Di-lặc)[24], Tissa­met­teyya­māṇava­pucchā (câu hỏi của Đế-tu Di-lặc)[25]Ajitamāṇavapucchā (câu hỏi của A-dật-đa)[26] xác định sự khác nhau như vậy giữa A-dật-đa và Di-lặc.
-Sutta Nipāta 5.1, có Vatthugāthā[27] còn ghi rằng họ là hai Phạm chí đệ tử của Bāvari:
Bāvarissa vaco sutvā,Sissā soḷasa brāhmaṇā;Ajito tissametteyyo,Puṇṇako atha mettagū
“Nghe lời Bāvari,
mười sáu người đệ tử Bà-la-môn:
Ajita, Tissametteyya,
Punnaka, Mettagu ...”
- Theragāthāpāḷi (Trưởng lão kệ) bài kệ 20. Ajitattheragāthā, do Ajita là tác giả[28].
- Aṅguttaranikāya (Tăng chi bộ) có kinh Ajita[29], thuật lại tăng sĩ Ajita hỏi đức Phật: Thế nào là lời nói đúng pháp? Thế nào là lời nói phi pháp?
-Apadāna (1. 397) kể về thượng tọa Ajita và tiền thân của Ajita dưới thời Thế Tôn Padumuttara được huyền kí sẽ trở thành đệ tử của Thế Tôn Gotama.
Như vậy, căn cứ các thư tịch được liệt kê ở trên, cùng với nền văn học chú giải của hệ Pāli, chúng ta có thể phác họa lại hình ảnh Ajita như sau:
Ajita thuộc giai cấp Bà-la-môn, sinh ra tại Śrāvastī (Xá-vệ). Cha làm quan thời vua Kośalā, lớn lên Ajita trở thành một ẩn sĩ của Bāvari sống trong vùng AssakaMulaka, dọc theo bờ sông Godhāvari của Dakkhinajanapada (cộng hòa miền nam). Sau này, Ajita hội kiến đức Phật, với tư cách ẩn sĩ, đã hỏi Phật về pháp và phi pháp (như được tường thuật trong kinh Ajita của Aṅguttaranikāya). Đến khi Bāvari nhờ Ajita đến thưa hỏi đức Phật về việc bị vỡ đầu, Ajita được Phật giải đáp, rồi ông xin được xuất gia, tu tậpchứng quả A-la-hán.
Điểm cần chú ý ở đây là nhân vật Ajita này lại khác với Tissametteyya. Chính kinh Thuyết bản dẫn trên, đã nói rõ tôn giả A-di-đa (Ajita) và Di-lặc (Mettaya) là hai đệ tử của Phật Thích-ca. Đoạn kinh này cũng được Đại tỳ-bà-sa luận 178[30], dẫn và giải thích, có hai nhân vật này khác nhau, một vị gọi là Bí-sô A-thị-đà 阿氏多, còn vị kia thì gọi là Bồ-tát Từ thị 慈氏.
blank
Một bức tượng của Bồ Tát Di Lặc, tại chùa Kōryū-ji
b. Tên tự của đức Phật Di-lặc.
Như đã trình bày, mặc dù tên A-dật-đa và Di-lặc là để chỉ cho hai vị đệ tử khác nhau của đức Phật. Nhưng trong Phật giáo Đại thừa, đã đồng nhất hai vị này thành một. Ngay từ thời La-thập, sự đồng nhất này đã xảy ra:
Chú Duy-ma-cật kinh 1 (Phật quốc phẩm), Tăng Triệu ghi lại quan điểm của La-thập: "Di-lặc là họ, A-dật-đa là tự, là con của một người Bà-la-môn ở Nam Thiên Trúc"[31].
Sự đồng nhất này sau đó đã trở thành một định lệ cho các chú sớ sau này:
-Nhất thiết kinh âm nghĩa 71, Đường, Tuệ Lâm soạn: "A-thị-đa, đây dịch là Vô thắng. Cựu dịch A-kỳ-đa, hoặc A-dật-đa đều là sai. Đó là tên đời nay của Di-lặc"[32].
-A-di-đà kinh sớ của Khuy Cơ: "Bồ tát A-dật-đa, tân dịch dựa vào ‘Xưng tán tịnh độ kinh’ dịch là Vô Năng Thắng hoặc gọi là Di-lặc, đây dịch là Từ thị, do ngài hay tu tập lòng từ, hay nhập định từ, nên gọi là Từ thị, tu tập lòng từ tối thắng, nên gọi Vô Năng Thắng"[33].
- Tân dịch đại phương quảng Phật hoa nghiêm kinh âm nghĩa 1: "A-dật-đa gọi cho đúng là A-chế-đa, đây dịch là Vô Năng Thắng"[34].
Như vậy, theo truyền thống Đại thừa Phật giáo, A-dật-đa chính là tên chữ của Bồ-tát Di-lặc.
c) Tên vị A-la-hán thứ mười lăm trong mười sáu vị A-la-hán.
Đại Tạng Kinh 49, số hiệu 2030, Đường, Huyền Tráng dịch, Đại A-la-hán Nan-đề-mật-đa-la sở thuyết pháp trụ ký, 1 quyển[35] trang 12c7- 14c22, có kể một câu chuyện, tóm tắt như sau:
A-la-hán Nan-đề-mật-đa-la ở nước Sư tử[36], khi gần viên tịch đã nói cho đệ tử mình biết rằng, từ lâu đức Thích-ca Thế Tôn đã dặn dò và kí thác mười sáu vị A-la-hán trở lại để hộ trì Chánh Pháp, mà vị thứ mười lăm danh hiệu là A-thị-đa sẽ ở tại đỉnh Linh Phong cùng với 1500 vị A-la-hán thân thuộc để hộ trì.
Huyền thoại mà Pháp trụ kí này nói tới, cũng thấy xuất hiện trong ĐTK Tây Tạng, thông trật đệ 64Wa, No.231, trang 1b1-112b7, Ḥphags-pa dkon-mchog sprin shes-bya-ba theg-pa chen-poḥi mdo; do Rin-chen ḥtsho và Chos-ñid tshul-khrims dịch[37]; Hán tương đương, ĐKT 16, số hiệu 0658, Bảo vân kinh 7, Lương, Mạn-đà-la-tiên dịch[38].
Kể từ khi Huyền Tráng dịch Đại A-la-hán Nan-đề-mật-đa-la sở thuyết pháp trụ ký, tín ngưỡng về mười sáu vị A-la-hán này phát triển hưng thịnh và trở thành đề tài của nhiều tác phẩm hội họa và điêu khắc, cũng như văn học, thi ca ngợi khen, mà hiện nay ở Trung quốc, người ta đã tập thành trong La hán đồ tán tập[39]. Tại đây, hình tượng La-hán A-dật-đa được vẽ thành một hình dáng khắc khổ, diện mạo già nua, má hóp vào, hai tay ôm đầu gối, dáng nhìn cuộc đời một cách thiểu não, nên Đức Thanh đã vịnh một bài thơ như sau (Lê Mạnh Thát dịch):
Nhọc gì ôm gối,Lồi lõm đầu non,Miệng hàm vừa mở,Dáng lưỡi khá dòn,Dùng mắt thuyết pháp,Mở nhắm không thường,Thay nhau sáng tối,Sáng ấy sao vương.
Việt Nam, tín ngưỡng mười sáu vị A-la-hán này được phát triển không kém. Chùa Tây Phương (Hà Nội), hiện có tôn tượng mười sáu vị A-la-hán này rất nổi tiếng. Tại đây, tượng của vị A-la-hán A-dật-đa này được gọi là Di-lặc và điêu khắc đúng theo hình mẫu đức Phật Di-lặc, tức diện mạo vui vẻ, đầy đặn, bụng phệ, ngực để trần, hình ảnh khác hoàn toàn với những hình vẽ La-hán này tại Trung quốc[40].
4. Bồ-tát Di-lặc dạy Thiện Tài phát Bồ-đề tâm
Bồ-đề tâm là gì?
Bồ-đề tâm 菩提心, tiếng Sanskrit gọi là Bodhicitta, Tib. byang chub sems, nói đủ là anuttara-samyak-saṃbodhi-citta: vô thượng bồ-đề tâm 無上菩提心, hay 阿耨多羅三藐三菩提心 a-nậu-đa-la tam- miệu-tam-bồ-đề tâm, tức tâm nguyện thành tựu sự giác ngộ tối thượng:
Bồ đề tâm, đó là chí nguyện nóng bỏng của một chúng sinh tự thấy mình đang sống trong cảnh tối tăm, giữa đọa đày khổ nhục, mong tìm một con đường sáng không những để giải thoát bản thân khỏi những đe dọa áp bức mà còn là để giải thoát cho tất cả những người cùng cảnh ngộ.
Bồ-đề tâm, đó là ý chí kiên cường bất khuất của một người bị cột trói trên ngọn lửa rực cháy, bị chà đạp dưới những sức mạnh tàn khốc của tham vọng điên cuồng của chính ta và của một tập thể ma quái chung quanh ta.[41]
Do vậy, lời Phật dạy, chúng ta cần ghi nhớ:
“Vui cười gì, thích thú gì, giữa ngọn lửa không ngừng thiêu đốt?Bị bao phủ trong bóng tối, sao không đi tìm ngọn đuốc?”[42]
Không có tâm nguyện Bồ-đề đó, không có ý chí giác ngộ đó, thì quả vị Phật thừa không thể kì vọng được, cũng không hơn một tiếng nói suông của một người mê sảng trong giấc ngủ ngày và sự an lạcgiải thoát trong hiện tại chỉ là một miền đất hứa xa xôi, không tưởng, thần thoại hoang đường, mà không bao giờ có thể tìm thấy trong thế gian này.
Nhưng tâm nguyện Bồ-đề chỉ có thể được phát khởi khi gốc rễ của tín tâm đã được gieo trồng cẩn thận. Ngài Nāgārjuna trong Đại trí độ nói: «Phật pháp như đại hải, có thể vào bằng tín, có thể vượt qua bằng trí»[43], và cũng trong luận này ngài đã minh giải về ý nghĩa của Bồ-đề tâm: “Vị Bồ-tát sơ phát tâm, lấy vô thượng Bồ-đề làm đối tượng, nói rằng: Mong tôi sẽ thành Phật. Đó gọi là Bồ-đề tâm.”[44]
Khi đề cập về ý nghĩa độc đáo của Bồ-đề tâmphát Bồ-đề tâm, có lẽ không giải thích nào lý thú về đề tài này hơn kinh Hoa nghiêm, thông qua sự thuyết giảng của Bồ tát Di-lặc cho Thiện Tài đồng tử:
Bồ-đề tâmhạt giống của hết thảy Phật Pháp. Bồ-đề tâmruộng phước vì nuôi lớn pháp bạch tịnh. Bồ-đề tâm là cõi đất lớn, vì nâng đỡ hết thảy thế gian. Bồ đề tâmtịnh thủy, vì rửa sạch tất cả cáu bợn phiền não, Bồ-đề tâm ví như gió lớn, vì nó thổi khắp thế gian không bị cản ngại; Bồ-đề tâm ví như lửa lớn, vì nó có khả năng thiêu rụi hết thảy rừng củi tà kiến; Bồ-đề tâm ví như mặt trời thanh tịnh, vì nó soi chiếu khắp cả thế gian; Bồ-đề tâm ví như trăng rằm, vì các pháp thanh tịnh đều viên mãn; Bồ-đề tâm ví như ngọn đèn sáng, vì có khả năng phóng ra các loại ánh sáng Chánh Pháp; Bồ-đề tâm ví như mắt sáng, vì thấy hết thảy cùng khắp mọi chốn an nguy; Bồ-đề tâm ví như con đường lớn, vì khiến tất cả đều được đi vào kinh thành đại trí,…”[45]
Thiết lậptoàn thiện Bồ-đề là cơ sở thành tựu bất khả tư nghị nguyện lực của Bồ-tát hàng Pháp thân, nghĩa là những ai đã khởi hành trên cỗ xe Bồ-tát, đã trải qua một thời gian dài tu tập, tích lũy được những kinh nghiệm và hành trang thiết yếu, sẽ thấy rõ được thể tính của thế gian, thông đạt sâu xa giáo nghĩa, thể nhiệm được Pháp tính siêu nghiệm.
Để hiểu rõ về tính đặc sắc của Bồ-đề tâm như được diễn tả trong kinh Hoa nghiêm (dẫn trên), chúng ta có thể đọc thêm một đoạn khác trong phẩm «Nhập pháp giới», đoạn Bồ-tát Di-lặc khen ngợi Thiện Tài đồng tử:
Với những kẻ trôi nổi trong bốn dòng thác lũ, con người chân thật này muốn làm con thuyền đại pháp đưa chúng sinh vượt qua biển cả. Với những kẻ chìm ngập trong vũng lầy của kiến chấp, người này muốn làm chiếc cầu đại pháp. Với những kẻ tối tăm ngu dốt, người là ngọn đèn đại trí. Với những người lạc lối trong sa mạc sanh tử, người muốn làm kẻ chỉ bày lối đi của bậc Thánh…”[46]
Sau khi Bồ-tát Văn-thù giới thiệu Bồ-đề tâm và chỉ thị Nhất thừa đạo, Thiện Tài trải qua năm mươi mốt địa tích, tham vấn đạo lý giác ngộyếu chỉ thực tập trên quá trình tu chứng của Đại thừa với các vị Đại sĩ. Trong hành trình đó, chàng thanh niên ấy hội kiến Bồ-tát Di-lặc, lại một lần nữa được nghe giảng luận về Bồ-đề tâm, bấy giờ bằng chí nguyện thâm thiết của mình, Thiện Tài đồng tử đã hoàn toàn thiết lập vững chắc trong chí nguyện Đại thừa, và đã thực hiện cụ thể chí nguyện ấy. Ước nguyệnhành vi của Thiện Tài, cả hai không còn cách biệt. Vì vậy, lời khen ngợi của Bồ tát Di- lặc, chính là sự tán dương tâm nguyện Bồ-đề và sự thành tựu tâm nguyện ấy của Thiện Tài đồng tử. Sau khi nghe những lời khen thưởng từ Bồ-tát Di-lặc, bản thân Thiện Tài hoan hỷ phấn chấn, cung kính chắp tay hướng về Bồ tát Di-lặc, rồi bất giác nhìn lại hai bàn tay của mình thấy đầy những hoa thơm đang nở rộ. Đó phải chăng chính là hương hoa của sự thành tựu tâm nguyện Bồ-đề?
5. Kết luận
Kinh nói: “Bấy giờ Phật nói với Bồ-tát Di-lặc: Này Di-lặc, nay ta đem Pháp giác ngộ vô thượng chính đẳng chính giác đã tập thành trong vô lượng kiếp phó chúc cho ông. Vào thời mạt thế, sau khi Phật diệt độ, ông nên dùng khả năng thần thông để giảng truyền rộng rãi những kinh như vậy nơi cõi Diêm-phù-đề, chớ để bị đoạn tuyệt.[47]
Vì sao đức Phật Thích-ca đem Chánh Pháp phó chúc cho đức Di-lặc Đại sĩ?
Vì Di-lặc (Maitreya) là hiện thể của phẩm tính maitrī (Pāli mettā): lòng từ, nội hàm hiểu theo ngôn ngữ ngày nay là sự tử tế, hay lòng nhân từ độ lượng. Do y vào phẩm tính này, nên trong hết thảy sự hóa độ chúng sinh, ngài luôn dìu dắt họ bằng lòng từ, khiến họ phát Bồ-đề tâm, hướng đến Bồ-tát đạo. Hễ khi nào còn có chúng sinh sung mãn tâm từ khởi hành trên cỗ xe Bồ-tát, thì khi ấy Chánh Pháp không thể bị đoạn diệt.
Vì Di-lặc là hiện thể của phẩm tính Ajita: “Bất khả chiến bại”. Chiến đấu với cái gì mà không bị chiến bại? Chiến đấu với với phiền não của tự thân, chiến đấu với rắn độc: tham-sân-si, dẹp yên được độc tố nhiễm ô (Vô tam độc), đạt đến sự thanh tịnhlòng từ không ai hơn được (vô năng thắng) và không bao giờ bị gục ngã dưới chân ma quân. Chánh Phápđại biểu cho chân lý, là ngọn cờ của sức mạnh đánh bại phiền não. Hễ khi nào còn hiện thân của phẩm tính Aijta, thì khi ấy Chánh Pháp không bao giờ đoạn tuyệt.
Cho nên việc lễ bài, tôn kínhhành trì danh hiệu Di-lặc, chính là hành trì theo những phẩm tính siêu việt của ngài. Truyền thuyết, có một bài chỉnh cú luôn được gán cho đức Phật Di-lặc:
彌勒真彌勒,
分身千百億,
時時示時人,
時人自不識.[48]
Di-lặc chân di lặc,Biến thể trăm ngàn ức,Luôn luôn hiện trước người,Người thường tự chẳng biết”.
Đức Phật Di-lặc không chỉ thường trú ở Thiên cung Đâu-suất xa xôi, mà ngài luôn hiện hữu nơi tâm thức của những hữu tìnhhành vi cử chỉ của lòng từ mẫn song vận với Bồ-đề tâm. Cho nên, bất cứ khi nào và bất cứ ở đâu, có người phát triển tâm từ, thực hành hạnh hỷ xả, kiên lập chí nguyện thành tựu bốn vô lượng tâm: từ, bi, hỷ, xả, thì lúc đó và nơi đó, có đức Phật Di-lặc biến thể xuất hiện, hướng dẫn chúng sinh trực diện chiến đấu với ma quân phiền não, để họ không bao giờ bị chiến bại trước một chút phù danh, một chút lợi dưỡng hay những ân huệ dư thừa của thế tục. Lòng từ và sự chiến thắng ấy, là những đóa hoa hương sắc, là những biểu hiện cụ thể của một mùa xuân Chánh Pháp, một mùa xuân mà dòng suối Từ vẫn âm thầm tuôn chảy, làm cho Phật chủng Di-lặc cũng từ đó mà luân lưu bất tuyệt trên thế gian này.
P.N
Thư Viện Hoa Sen 

Câu chuyện cuộc đời Phật Thích Ca Mâu Ni và lời tiên tri cho thời đại chúng ta


Phật Thích Ca Mâu Ni
Đức Phật, Người vốn là ai? Ai có thể trở thành Phật? Chúng ta cùng xem câu chuyện cuộc đời của đức Phật Thích Ca Mâu Ni, để hiểu rằng từ một vị hoàng tử dũng cảm rời bỏ cuộc sống nhung lụa nơi hoàng cung, trải qua hành trình tìm kiếm sự giác ngộ đầy khó khăn và gian khổ, cuối cùng thấy được chân lý vũ trụ và truyền bá Phật Pháp, để lại những dự liệu tiên tri cho tới tận thời đại chúng ta ngày nay… 
Giấc mơ báo trước sự đản sinh của một vĩ nhân 
Tại vương quốc Ca Tỳ La Vệ (Kapilavattsu), ngày nay thuộc nước Nepal, vào thế kỷ thứ 6 trước Công nguyên, hoàng hậu là Ma Da (Mahamaya) là vợ đức vua Tịnh Phạn (Suddodana), khi ấy sắp tới ngày sinh hạ đứa con đầu lòng, đã có một giấc mơ báo điềm đặc biệt.
Trong mơ, bà thấy rõ ràng một luồng ánh sáng trắng mỹ diệu chiếu rọi vào bà, và từ trong luồng sáng xuất hiện một con voi trắng vô cùng thánh khiết với sáu chiếc ngà. Con voi bước đến gần rồi hòa tan vào cơ thể bà. Bà đã kể lại giấc mơ với nhà vua ngay khi tỉnh lại và ngay sáng hôm đó, nhà vua cho triệu tập các nhà hiền triết. Họ cho biết rằng đó chính là điềm lành báo hiệu rằng hoàng hậu sẽ sinh ra một vĩ nhân.
Nhà vua đã vô cùng chấn động. Theo tục lệ thời đó, hoàng hậu Ma Da sẽ di chuyển về nhà mẹ đẻ để sinh nở. Đó là một ngày trăng tròn theo lịch Ấn Độ. Khi dừng chân để nghỉ ngơi tại vườn Lâm Tỳ Ni, bà bất chợt trở dạ và thế là hoàng tử vương quốc Ca Tỳ La Vệ đã hạ sinh đến cõi trần một cách nhẹ nhàng.
Hoàng Hậu MaDa mộng gặp voi trắng
Hoàng Hậu MaDa mộng gặp voi trắng. Ảnh: push01.net
Một cơn mưa nhẹ sau đó đã gội rửa cho cả người mẹ và đứa trẻ. Cùng ngày đó, bảy sinh mệnh khác cũng được xuất sinh, lần lượt là cây bồ đề, công chúa Da Du Đà La (Yashodhara), con ngựa Kiền Trắc (Kantaka), người đánh xe ngựa Sa Nặc (Channa), con voi Kaludayi (người bạn thời thơ ấu của hoàng tử), và bảy kho báu vô chủ.
Hoàng tử nhỏ được đưa trở về kinh thành ngay đêm hôm đó. Năm ngày sau, hoàng tử được đặt tên là Tất Đạt Đa (Siddhartha), nghĩa là “người mà sẽ đạt được mục đích của mình”. Rất nhiều nhà thông thái đã đến để gặp mặt và cầu chúc cho vị hoàng tử mới sinh, trong số đó có A Tư Đà, vốn là thầy dạy học cũ của nhà vua và là một người tu hành khổ hạnh đã đạt được nhiều thành tựu.
Nhà vua cảm thấy rất vinh dự bởi chuyến thăm của đạo sỹ A Tư Đà (Asita), nên cho người mang đứa trẻ đến bên vị đạo sỹ để đứa bé tỏ lòng tôn kính với ông. Ngay lập tức, A Tư Đà đứng phắt dậy và nhận ra ngay những đường nét trên cơ thể hoàng tử báo hiệu một khuynh hướng tâm linh và tôn giáo. Với năng lực siêu thường, ông nhìn thấy sự vĩ đại trong tương lai của vị hoàng tử mới sinh và chào đón cậu với những cái siết tay thật chặt.
Lời tiên đoán về cuộc đời tu hành của hoàng tử và sự cách ly khỏi thế giới đau khổ
Hoàng hậu Ma Da đột ngột qua đời 7 ngày sau đó, để lại vị trí của bà cho người em gái Kiều Đàm Di (Mahaprajapati), người sau này đã nuôi nấng hoàng tử với sự yêu thương, chăm sóc hết mực. Khi Tất Đạt Đa tròn 12 tuổi, nhà vua đã cho gọi các nhà hiền triết đến để dự đoán tương lai của hoàng tử. Họ đều nói rằng hoàng tử Tất Đạt Đa sẽ quyết định theo lối tu hành khổ hạnh nếu cậu nhìn thấy các dấu hiệu của lão, bệnh, tử hoặc gặp một nhà tu hành khổ hạnh.
Các nhà hiền triết dự đoán tương lai của hoàng tử.
Các nhà hiền triết dự đoán tương lai của hoàng tử. Ảnh: soffiyaliu333.pixnet.net
Hoàn toàn không muốn con mình trở thành người tu hành, nhà vua Tịnh Phạn muốn đã sắp đặt con đường để hoàng tử nối ngôi trị vì vương quốc như một vị minh quân. Ông bèn cho canh gác cung điện nghiêm ngặt và cấm sử dụng từ “chết” hoặc “khổ” trong cung, để không tạo cho hoàng tử một khái niệm nào về sự đau khổ cõi trần thế.
Ông tách hoàng tử cách xa bất cứ điều gì có thể gợi đến cảm hứng tu hành. Do đó, hoàng tử chỉ biết hưởng thụ cuộc sống nhung lụa trong cung. Hoàng tử lớn lên và trở thành một người đàn ông mạnh mẽ, được rèn luyện các kỹ năng chiến đấu và thành hôn với công chúa nước láng giềng là Da Du Đà La vào năm 16 tuổi.
Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên
Con người gắng sắp đặt mọi điều, nhưng ý trời cuối cùng rồi vẫn sẽ quyết định tất cả. Đó là điều chúng ta thấy được thông qua câu chuyện cuộc đời của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Mặc dù bị cách ly nghiêm ngặt khỏi mọi điều có thể truyền cảm hứng tu hành, cuối cùng những gì vốn được sắp đặt cho tương lai của vị hoàng tử trẻ tuổi vẫn theo trình tự đến ngày hiển lộ…
Trong cuộc sống hoàng cung nhung lụa, Tất Đạt Đa bắt đầu xuất hiện ước mong khám phá thế giới trần tục bên ngoài cung cấm. Người đã quyết định thực hiện một chuyến đi thăm thú vương quốc và thần dân của mình.
Không có lý do chính đáng nào để ngăn cản nguyện vọng này, nhà vua đành chấp thuận và gắng bày xếp và chuẩn bị trước hoàn hảo nhất. Ông cẩn thận lên kế hoạch chuyến đi và trang hoàng mọi thứ trên lộ trình mà hoàng tử sẽ đi qua, biến tất cả thành hạnh phúc, giàu có và đẹp đẽ.
Những cảnh tượng xấu hoặc buồn khổ sẽ được loại bỏ để ngăn không cho hoàng tử nhìn thấy bốn dấu hiệu đã được chỉ ra bởi những nhà thông thái là các dấu hiệu Lão – Bệnh – Tử, hay gặp 1 nhà tu hành khổ hạnh. Nhưng tất cả sự đề phòng của nhà vua đã trở nên vô ích khi hoàng tử đi du ngoạn với người đánh xe ngựa Sa Nặc, người đã được sắp đặt sinh cùng ngày với Tất Đạt Đa.
Khi đang ngao du trong một thị trấn nhỏ, hoàng tử Tất Đạt Đa vô tình nhìn thấy khuôn mặt hằn sâu những nếp nhăn của một ông lão. Đó chính là dấu hiệu đầu tiên trong dự báo của các nhà tiên tri: dấu hiệu của Lão. Tất Đạt Đa ngạc nhiên và hỏi Sa Nặc về người đàn ông đó.
Rồi cậu lại nhìn thấy một người đàn ông bị bệnh và đang ho, nó khiến người cảm thấy khó lý giải. Đó là dấu hiệu thứ 2 mà các nhà tiên tri đã nói: Bệnh. Cuối cùng, hoàng tử bắt gặp một đám tang ở bờ sông và một nhà tu hành khổ hạnh—người đã từ bỏ tất cả các niềm vui thế tục để đạt được sự an lạc trong nội tâm và hạnh phúc vĩnh hằng.
Vậy là 2 dấu hiệu cuối cùng là Tử và sự hiện diện của một người tu hành khổ hạnh đã xuất hiện trước mắt Tất Đạt Đa. Sự an lạc từ bi trên gương mặt của nhà sư đã gây ấn tượng mạnh cho Tất Đạt Đa. Người hỏi Sa Nặc ý nghĩa của tất cả những thứ này. Người đánh xe ngựa kể cho hoàng tử nghe về hiện thực của cuộc sống mà đáng ra nên được biết từ lâu.
Trở lại cung điện, Tất Đạt Đa đã xin phép vua cha cho rời cung điện và trở thành một nhà sư khất thực để tìm kiếm chân lý cuộc đời.
Thái Tử rời khỏi hành cung để đi tìm chân lý cuộc đời
Thái Tử rời khỏi hành cung để đi tìm chân lý cuộc đời. Ảnh dẫn theo dhamma-stream.blogspot.sg
Với những hạt giống tiềm ẩn được gieo sẵn trong tâm hoàng tử, khi gặp hiện thực xã hội, người đã ngay lập tức hiểu được rằng hết thảy mọi thứ trên đời là phù du và huyễn hoặc và thoảng qua, sự vĩnh hằng của sinh mệnh mới là điều chân chính cần phải kiếm tìm.
Nhà vua Tịnh Phạn cảm thấy rất đau khổ và thất vọng, những gì ông trù tính rốt cuộc cũng không thành công. Nhà vua bèn sai binh lính tăng cường phòng ngự nghiêm ngặt xung quanh cung điện, đồng thời tổ chức thêm nhiều thú vui tiêu khiển để níu chân hoàng tử, hy vọng làm con mình quên đi những gì đã gặp ngoài xã hội. Đúng lúc này, phu nhân hoàng tử, công chúa Da Du Đà La đã sinh hạ người con đầu tiên mà cậu đặt tên là La Hầu La (Rahula), nghĩa là “sự ràng buộc.”
Tất Đạt Đa thấy cuộc sống nhung lụa vô nghĩa và cuối cùng đã quyết định bỏ trốn trên con ngựa Kiền Trắc với sự giúp đỡ của người thầy thân tín, Sắc Na. Hoàng tử đã thức dậy trong đêm, nhìn vợ con lần cuối, rồi lên ngựa, và phóng đi. Trước cổng thành, hoàng tử cắt đi mái tóc dày và giao lại chiếc áo choàng hoàng tử cho Sắc Na.
Hành trình đầy gian khổ tìm kiếm chân lý cuộc đời của Tất Đạt Đa
Sau khi rời khỏi cung điện, Tất Đạt Đa đi đến Vương Xá Thành, kinh đô của nước Ma Kiệt Đà thời Ấn Độ cổ, nơi người gặp một số vị sư đang thiền định trong các hang động trên núi. Hoàng tử trở thành đồ đệ của nhà tu hành A La La Ca Lam (Alara Klama), và được dạy cho cách tu luyện. Sau một thời gian tu luyện, hoàng tử không thấy tiến bộ hơn nữa nên theo học một nhà tu ẩn dật tên là Ưu Đà La La Ma Tử (Uddaka Ramaputta).
Tuy nhiên, sau một thời gian, người lại nhận ra rằng không thể tiến bộ thêm nữa. Do đó, Tất Đạt Đa tham gia cùng với năm nhà tu hành ở trong rừng Benares để tu luyện bằng cách hành xác, ăn cực ít và trải nghiệm sự khắc khổ. Từ đó trở đi, người ta bắt đầu gọi hoàng tử Tất Đạt Đa dưới cái tên Thích Ca Mâu Ni (Sakyamuni), nghĩa là “nhà hiền triết của dòng họ Thích Ca”. Sau khi tu luyện như vậy được sáu năm, Thích Ca Mâu Ni phát hiện ra rằng ông chưa đạt được sự giác ngộ nhưng thân thể thường nhân của ông đã trở nên vô cùng suy kiệt.
Vào một ngày khi ông đang thiền định, ông bất chợt nghe thấy cuộc trò chuyện giữa hai nhạc công trên một con thuyền. Người nhạc công dày dạn kinh nghiệm nói với người tập việc rằng các sợi dây của đàn nguyệt không nên quá căng hoặc quá chùng. Nếu dây được kéo quá căng, chúng sẽ đứt; và nếu được kéo quá trùng, âm thanh phát ra sẽ không đúng nữa.
Ngay khi nghe được điều này, Thích Ca Mâu Ni chợt giác ngộ ra được đạo lý trung dung (đi đường giữa) và không đi sang phía cực đoan; sau đó ông rời đi để tản bộ. Trên đường đi, ông gặp một cô thôn nữ tên là Sujata, và cô tỏ ý muốn bố thí bánh gạo cho Thích Ca Mâu Ni; vốn giờ đã quá suy kiệt. Truyền thuyết kể lại rằng thân thể của Thích Ca Mâu Ni đã trở về bình thường ngay sau khi ăn nó.
Cô thôn nữ tên là Sujata bố thí bánh gạo cho đức Thích Ca Mâu Ni
Cô thôn nữ tên là Sujata bố thí bánh gạo cho đức Thích Ca Mâu Ni. Ảnh dẫn theo djzhj.com
Giác ngộ
Sau đó ông đã ngồi dưới cội Bồ Đề trong rừng Urvela và nguyện sẽ không ra khỏi trạng thái thiền định nếu không đạt được sự giác ngộ. Ông đã đối mặt với sự can nhiễu từ một con quỷ tên là Mara, nó dùng trăm mưu nghìn kế để quấy nhiễu ông nhưng không thể nào xoay chuyển được ý chí kiên định của Thích Ca Mâu Ni.
Khi chứng kiến việc Thích Ca Mâu Ni đột phá khỏi sự kiềm tỏa của ham muốn và ràng buộc, Mara trở nên cực kỳ phẫn nộ và nó gửi hàng tá ma quỷ có vũ khí đến để tấn công Thích Ca Mâu Ni, nhưng Ngài vẫn giữ nguyên trạng thái bất động.
Sau khi bị đánh bại và nhận ra rằng nó sẽ không tài nào can nhiễu được đến định lực phi phàm của Thích Ca Mâu Ni, Mara đã mỉa mai ông và nói rằng mặc dù ông đã chiến thắng, nhưng sẽ không có ai chứng kiến được điều này. Thích Ca Mâu Ni chạm tay xuống mặt đất, ám chỉ rằng đất sẽ là vật chứng kiến.
Mặt đất bất giác rung chuyển như để đáp lại rằng nó sẽ chứng kiến cho sự vinh diệu của Thích Ca Mâu Ni. Từ khoảnh khắc đó, Thích Ca Mâu Ni tiếp tục quá trình thiền định của ông và cuối cùng đã đạt được sự giác ngộ, trí huệ của ông đã được khai mở, và ông đã đạt đến cảnh giới của Phật sau 49 ngày thiền định dưới cội bồ đề.
Thực hiện sứ mệnh tiền định: Truyền rộng Phật Pháp, từ bi cứu độ chúng sinh 
Ngay sau khi chứng đắc quả vị Phật, ông bắt đầu sứ mệnh tiền định của mình là truyền rộng Phật Pháp, cứu độ chúng sinh. Thích Ca Mâu Ni đã giảng bài Pháp đầu tiên cho những người đồng tu trước đây của ông, năm nhà tu hành ở Benares. Dần dần, số lượng các đồ đệ của ông đã tăng lên đến con số 80.000.
Khi vua Tịnh Phạn biết được rằng con trai ông đã trở thành một vị Phật, ông đã cho mời Thích Ca Mâu Ni vào cung và quở trách việc ông đã đi xin ăn trong khi ông giàu đến nỗi có thể nuôi hàng nghìn tín đồ. Thích Ca Mâu Ni giải thích cho cha rằng đó là một yêu cầu của hệ thống tu luyện của ông.
Trong thời gian này, người em trai cùng cha khác mẹ A Nan Đà (Ananda) của Thích Ca Mâu Ni, người sẽ được phong làm hoàng thái tử và có đính ước với công chúa Tôn Đà Lị (Sundari), cũng quyết định bước chân vào con đường tu luyện và trở thành đồ đệ của Thích Ca Mâu Ni. Sau đó, con trai của Thích Ca Mâu Ni là La Hầu La và mẹ cũng đã trở thành đồ đệ của ông.
Tuy nhiên, những can nhiễu và ghen tỵ hãm hại cũng có: Đề Bà Đạt Đa (Devadutta), anh họ của Thích Ca Mâu Ni, đã cố gắng sát hại ông rất nhiều lần vì lòng ghen tỵ, nhưng Đức Phật đều tha thứ cho ông với lòng từ bi của mình. Tướng cướp Vô Não (Ương Quật Ma La – Angulimal) cũng đã cố gắng sát hại ông nhưng cuối cùng lòng từ bi của ông đã hóa giải tất cả và khiến tướng cướp quy phục và cũng trở thành đồ đệ của ông.
Ảnh minh họa: butsen.net
Chúng ta thấy một chân lý qua câu chuyện: Lòng từ bi của Phật có thể hóa giải tất cả
Vào đêm trăng tròn đúng tháng sinh của mình, năm 483 TCN, Thích Ca Mâu Ni đã truyền dạy đệ tử lần cuối trước khi nhập Niết Bàn.
Những lời tiên tri của Phật Thích Ca Mâu Ni về sự đản sinh của một vị Phật tương lai
Trong rất nhiều lời truyền giảng, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni để lại những lời tiên tri về thời mạt kiếp về sự đản sinh của một vị Phật tương lai, 2500 năm sau khi Ngài tạ thế, ứng với thời đại ngày hôm nay của chúng ta…
Kinh Phật ghi lại “Long Hoa tam hội nguyện tương phùng, sau năm mươi ức năm, Phật Di Lặc hạ thế, giảng Pháp tam biến, độ hết tất cả chúng sinh hữu duyên”.
Quyển 8 kinh “Huệ Lâm Âm Nghĩa”, có nhắc tới sự đản sinh của một đức Phật Như Lai hay một đức Chuyển Luân Thánh Vương, và sự đản sinh của Ngài sẽ đi cùng dấu hiệu nơi thế gian là những bông hoa Ưu Đàm Bà La, một loài thiên hoa nhỏ li ti trắng muốt, thân hoa mỏng như sợi tơ, trong suốt, sắc trắng như tuyết, xung quanh tỏa ra vầng sáng nhàn nhạt, có khả năng mọc trên bất kỳ chất liệu nào mà những loài hoa thông thường không thể mọc được như đồng, sắt thép, thủy tinh, keo dán, trái cây, thực vật, và những bông hoa này cũng được lưu giữ đến hàng năm không phai tàn…
Kinh Huệ Lâm Âm Nghĩa viết: “Ưu Đàm Hoa, là lược dịch sai từ tiếng Phạn Cổ. Đúng Phạn Ngữ là Ô Đàm Bạt La, nghĩa là điềm lành linh dị. Đây là thiên hoa, thế gian không có loại hoa này. Nếu Như Lai giáng sinh, Chuyển Luân Thánh Vương xuất hiện nơi thế gian con người, loài hoa này sẽ xuất hiện nhờ đại đức và đại ân của Ngài”
Quyển 4 kinh “Pháp Hoa Văn Cú” viết: “Ưu Đàm Hoa, có nghĩa là may mắn linh thiêng. Ba nghìn năm mới nở một lần, khi nở là Kim Luân Vương xuất hiện.”
Kinh Phật cũng ghi lại rằng Đức Chuyển Luân Thánh Vương là vị vua lý tưởng, người sẽ cai trị thế giới không phải bằng vũ lực mà bằng công lý. Những ai dùng thiện để đối đãi với người khác sẽ có cơ hội gặp đức Chuyển Luân Thánh Vương, bất kể người đó thuộc tôn giáo nào – Phật giáo, Cơ Đốc giáo, Khổng giáo hay một tín ngưỡi nào khác.
Những bông hoa Ưu Đàm Bà La, một loài thiên hoa nhỏ li ti trắng muốt, thân hoa mỏng như sợi tơ, trong suốt, sắc trắng như tuyết, xung quanh tỏa ra vầng sáng nhàn nhạt...Ảnh chụp thật bởi Thời Báo Đại Kỷ Nguyên, kích cỡ phóng to 400 lần, nhìn rõ thân hoa trong suốt như pha lê và từng lớp cánh mỏng phát sáng.
Những bông hoa Ưu Đàm Bà La, một loài thiên hoa nhỏ li ti trắng muốt, thân hoa mỏng như sợi tơ, trong suốt, sắc trắng như tuyết, xung quanh tỏa ra vầng sáng nhàn nhạt… Ảnh chụp thật bởi Thời Báo Đại Kỷ Nguyên, kích cỡ phóng to 400 lần, nhìn rõ thân hoa trong suốt như pha lê và từng lớp cánh mỏng phát sáng.
Lời tiên tri trong kinh Phật đã ứng nghiệm, những bông hoa Ưu Đàm Bà La hiện giờ đã khai nở khắp nơi, phải chăng Đức Chuyển Luân Thánh Vương đã có mặt tại nhân gian và đang cứu độ chúng sinh rồi?
Một nhà sư người Đài Loan, Thích Chứng Thông đã viết bài thơ cảm kích:
Khi Phật tại thế ta đắc Pháp
Khi Phật Chính Pháp ta đang tìm
Mừng gặp kiếp này đủ phúc phận
Được thấy chân Phật thân vàng kim.
Xem video để cảm nhận bài viết: 
Hà Phương Linh
ADVERTISEMENT
Phật Thích Ca Mâu Ni không phải là đấng toàn năng sáng tạo ra vạn vật, ngài cũng từng có thân thể bằng máu thịt như thân thể con người chúng ta. Đồng thời, ngài cũng phải nếm trải qua sinh, lão, bệnh, tử. Nhưng đương nhiên, ngài có rất nhiều chỗ là không giống chúng ta. Một trong số đó là ngài không có phiền não, không kêu than và đau buồn, không để tâm vào chuyện vặt đời thường như chúng ta.

Phật Thích Ca Mâu Ni
(Hình minh họa: Qua pinterest)

Ngoài việc trên thân thể có khả năng cảm thụ những vui buồn với bên ngoài ra thì trong tâm của ngài không có một tia lo lắng, tức là ngoại cảnh chỉ có thể tác động đến thân thể xác thịt chứ không thể tác động đến tâm của ngài. Đối với ngài mà nói, mọi sự trên đời đều là “duyên đến duyên đi”, sao phải vì thế mà phiền não, u buồn?
Trong cuốn “Hưng khởi hành kinh” kể rằng, Phật Thích Ca Mâu Ni từng bị bệnh đau nhức xương khớp. Đây là một trong 10 khổ nạn mà ngài gặp phải trong cuộc đời. Rất nhiều người không hiểu vì sao Phật Thích Ca Mâu Ni đức độ lại có thể bị bệnh đau ốm. Phật Thích Ca Mâu Ni đã giải thích rằng, đây là do nghiệp lực kiếp trước còn sót lại, kiếp này phải hoàn trả.
Phật Thích Ca Mâu Ni đã kể lại rằng:
Xưa kia, đã rất lâu rồi, ở trong thành La Duyệt Kỳ (Vương xá) của nước Ấn Độ cổ có một người là con trai của một ông lão giàu có đột nhiên bị sốt cao, bệnh tình vô cùng nghiêm trọng.
Lúc ấy ở trong thành đó có một vị danh y không những tinh thông đủ loại  y thuật mà còn giỏi về chữa trị đủ các loại bệnh khó gặp và kỳ lạ. Con trai ông lão liền mời gấp danh y kia đến để chữa trị cho mình.
Anh ta nói với vị danh y: “Xin ngài hãy chữa trị bệnh cho ta. Nếu như ta có thể khỏi bệnh, ta nhất định sẽ tặng cho ngài thật nhiều vàng bạc châu báu.” Vị danh y dốc lòng dốc sức chữa trị bệnh cho anh ta.
Nhờ sự chăm sóc cẩn thận và sự dốc sức của danh y, sau thời gian ngắn con trai vị trưởng lão đã khỏi hẳn bệnh tình. Nhưng vào lúc anh ta sắp khỏi hẳn bệnh lại vì tham lam mà vong ân phụ nghĩa, không muốn thực hiện lời hứa của mình lúc trước.
Một thời gian sau, người con trai của vị trưởng lão giàu có lại bị nhiễm bệnh trở lại. Anh ta lại đưa ra lời hứa “mê hoặc” người khác để nhờ vị danh y kia chữa bệnh cho mình. Nhưng lần này cũng vẫn như lần trước, vừa khỏi bệnh xong, anh ta lại vong ân phụ nghĩa, không thực hiện lời hứa của mình. Cứ như vậy trải qua 3 lượt mắc bệnh, 3 lượt mời vị danh y và hứa những điều “dụ dỗ” người rồi cuối cùng lại chối từ thực hiện lời hứa.

Phật Thích Ca Mâu Ni
(Hình minh họa: Qua pinterest)

Sau 3 lần như vậy, vị danh y vô cùng phẫn nộ. Ông cảm thấy rằng mình bị con trai của vị trưởng lão coi là đứa ngốc mà đùa giỡn hết lần này đến lần khác và cảm thấy bị khinh thường. Vì thế, vị danh y này bắt đầu âm thầm kế hoạch trả thù của mình. Ông ta cho con trai trưởng lão uống một loại dược liệu không phải trị bệnh sốt cao khiến con trai trưởng lão chết không minh bạch.
Phật Thích Ca Mâu Ni kể đến đây liền giải thích: “Mọi người có biết vị danh y kia là ai không? Đó chính là ta ở kiếp trước. Còn người con trai của trưởng lão giàu có bị bệnh kia chính là kiếp trước của Đề Bà Đạt Đa.”
Phật Thích Ca Mâu Ni kể tiếp: “Bởi vì ta cho con trai vị trưởng lão uống độc dược, khiến anh ta bị chết oan uổng nên ta đã bị đày xuống địa ngục. Sau khi trải qua rất nhiều khổ sở vì bị trừng phạt suốt những năm tháng dài đằng đẵng, về sau lại chuyển sinh thành súc sinh và chịu khổ trong cõi ngạ quỷ. Cho nên mặc dù kiếp này đã tu hành nhưng vẫn phải chịu đau do nghiệp lực kiếp trước của mình gây ra. Nghiệp lực do mình gây ra thì phải trả, vì thế đời này mọi người luôn phải thời thời khắc khắc mà tu dưỡng thân, khẩu, ý của bản thân mình!” (Tu thân, khẩu, ý bên nhà Phật có nghĩa là: Không làm điều ác, không nói lời ác và không nghĩ điều ác.)
Câu chuyện nhân quả của Phật Thích Ca Mâu Ni nhắc nhở chúng ta rằng, khi người khác có lỗi với chúng ta, chúng ta ngàn vạn lần đừng đi trả thù đối phương. Khi chúng ta trả thù đối phương thì cũng giống như chúng ta cầm trên tay con dao hai lưỡi, đả thương người đồng thời cũng làm mình bị thương. Bởi vậy, suy cho cùng, hại người cũng chính là hại mình.
An Hòa (dịch theo sự cho phép của tác giả)
Xem tiếp...