ĐẤT RỪNG PHƯƠNG NAM

Đám lá tối trời và pháo đài đất | Báo điện tử Tiền Phong

ĐẤT RỪNG PHƯƠNG NAM
 
Mới thấy đã mến anh
Chàng trai miền Tây hiền hòa, bình dị
Theo anh bơi xuồng cắm cần câu lịch*
Trổ tài trên vuông** quê hương
Chân tình , dễ gần, dễ thương!
Sống đời nhẹ tênh, chân phác 
Dân miền Tây rộng lòng khoáng đạt
Giữa sông nước hiền hòa... 

Trời đất rền vang bản giao hưởng - trường ca
Hoạt cảnh một thời hiện về hùng tráng
An Giang, Đồng Nai, Sóc Trăng, Đồng Tháp
Sông Tiền, Sông Hậu, Năm Căn, Cà Mau...
Tên vùng, tên miền thân thiết biết bao
Nhớ mãi danh xưng Nam Kỳ Lục Tỉnh!...
 
Và chiều nay,
Một đám hậu duệ vui tươi, chân chất
Quây quần nhậu lịch nướng chao
Trong cuộc say sưa, sôi nổi, ồn ào
Tiếng anh nông dân rề rà, ung dung, hào sảng
Gợi nhớ về dĩ vãng

Mới sáng bơi xuồng thu cần câu lịch
Chiều đã lai rai, khề khà sự tích:
Về thằng Cò, thằng An, ông Ba, Võ Tòng
Về bác Ba Phi, về cô gái Út Trong ...
Về miền quê sông nước
Về xứ sở gian lao mà bất khuất
Về Đất Rừng Phương Nam
Ngày ấy vùng lên chống giặc ngoại xâm
Hào hùng một thuở!...
Gió mát hàng dừa còn giữ gìn trong cõi nhớ
Còn thơm lừng hơi thở
Của chị Út Tịch đánh giặc năm xưa
Lay động con tim đến tận bây giờ:
"Còn cái lai quần cũng đánh!"*** 
Ôi những linh hồn chân quê vụt hóa thành thần thánh
Kiên trinh - bất khuất - trung hậu - đảm đang
Một miền đất vinh quang
Ra ngõ gặp anh hùng, về nhà gặp dũng sĩ
Hiển hiện "dáng-đứng-Việt-Nam tạc vào thế kỷ"****
......
 
 
Một lần về Đất Rừng Phương Nam
Theo chàng nông dân hiền hòa, vui tính
Đi cắm cần câu lịch
Chiều về quây quần nhậu lịch nướng chao
Rổn rảng mời chào
Người miến Tây cười đùa, thân mật
Trước lạ sau quen, bạn bè chân thật...
 
 
Ngồi nghe xóm làng nhắc nhở những chuyện ngày xưa:
Chuyện ông Trương Định bình Tây, dựng cờ*****
"Vốn chẳng phải quân cơ, quân vệ,...
Chẳng qua là dân ấp, dân lân, mến nghĩa làm quân chiêu mộ."******
Chuyện về lẽ yêu nước, trung thần
Chuyện "Phan Lâm mãi quốc, triều đình khí dân"
Chuyện Nguyễn Trung Trực lẫy lừng sông Nhật Tảo*******
Chuyện Nam Bộ vùng lên chiến đấu
Chuyện nóp, giáo ngang vai, lừng tiếng anh hào
Chuyện "Đất rừng phương Nam" đi trước về sau
Chuyện vinh danh "Thành Đồng Tổ Quốc"...********
Nghe say sưa, thêm yêu thương, thêm tự hào Đất Nước!

Ôi! Quê hương ơi!
Ta muốn ngàn năm là con cháu của người!

 
Trần Hạnh Thu 
 
CT: *: Cắm câu lịch (lươn nước mặn): nghề độc đáo ở Cà Mau. 
    **Vuông : đầm 
  ***: Nguyễn Thị Út, tham gia cách mạng năm 1945. Từ năm 1945 đến năm 1965, Nguyễn Thị Út là du kích xã Tam Ngãi, cùng Đội du kích của xã Tam Ngãi kiên cường, mưu trí, sáng tạo, đánh 23 trận (có 8 trận trong kháng chiến chống Pháp), diệt và làm bị thương 200 tên địch, thu 70 súng, làm thất bại nhiều cuộc càn quét của địch, tuyên truyền vận động nhiều binh lính địch bỏ ngũ, nhiều lần dẫn đầu bộ đội diệt đồn bốt địch, thu vũ khí không phải nổ súng.

Nguyễn Thị Út nuôi dưỡng 6 con nhỏ nhưng vẫn tham gia đánh giặc giữ làng, làm nòng cốt trong đấu tranh chính trị ở địa phương, là người có câu nói nổi tiếng trong kháng chiến chống Mỹ "Còn cái lai quần cũng đánh".

Nguyễn Thị Út được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Quân công Giải phóng hạng ba, ngày 05/5/1965, được tuyên dương danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

 ****: Trong bài thơ "Dáng đứng Việt Nam" của Lê Anh Xuân
*****: Trương Định sinh năm 1820 quê ở huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi. Thân phụ ông là Lãnh binh Trương Cầm, sinh trưởng trong một gia đình võ quan phong kiến. Ngay từ nhỏ, Trương Định đã tỏ ra xuất sắc hơn người, “tướng mạo khôi ngô, thông hiểu binh thư, kiếm cung rất giỏi”. Năm 1844, ông theo cha vào Nam. Sau khi cha mất, ông chọn Tân An làm nơi lập nghiệp. Năm 1848, ông bắt đầu chiêu mộ những nông dân lưu tán quanh vùng, bắt tay khai hoang lập ấp. Năm 1850, hưởng ứng chính sách khẩn hoang của Nguyễn Tri Phương, ông đứng ra lập đồn điền ở Gia Thuận (Gò Công) và được triều đình Huế phong chức Phó Quản cơ, rồi Quản cơ, hàm chánh Lục phẩm. Từ đây, nhân dân trong vùng thường gọi ông với tên thân mật là Quản Định.
 Tháng 9/1858, thực dân Pháp tấn công thành Đà Nẵng, Trương Định vừa tổ chức xây dựng đồn điền, vừa gấp rút chuẩn bị lực lượng đánh Pháp. Tháng 02/1859, Pháp đánh vào Gia Định, Trương Định là người tiên phong và lập nhiều chiến công, diệt nhiều tên địch (đặc biệt đã phục kích giết chết tên Đại úy Barbé (12/1860) và tổ chức bắt giết tên Việt gian tay sai Bá hộ Huy ở Đồng Sơn). Trương Định được làm Chánh Quản cơ, chỉ huy sáu liên đội phòng ngự đồn Chí Hòa. Khi đồn Chí Hòa bị vỡ, các tướng lĩnh Triều đình rút về Biên Hòa “án binh bất động”, còn Trương Định rút về Tân Hòa xây dựng căn cứ, liên kết các văn thân sỹ phu yêu nước, với một địa bàn hoạt động rộng lớn: Gò Công, Tân An, Mỹ Tho, Chợ Lớn, Gia Định, Đồng Tháp Mười,… lan rộng hai nhánh sông Vàm Cỏ từ biển Đông đến tận biên giới Campuchia, phục kích nhiều trận ở Mỹ Tho, Chợ Lớn, giải phóng Gò Công (01/1862 – 3/1862), được Triều đình phong chức Phó Lãnh binh Gia Định. Ông khiến thực dân Pháp vô cùng hoang mang với “cuộc khởi nghĩa như từ dưới đất mọc lên”. Vào ngày 05/6/1862, Triều đình nhà Nguyễn kí với Pháp Điều ước Nhâm Tuất: Pháp chính thức chiếm ba tỉnh miền Đông Nam Kì. Ông đã từ chối thư dụ hàng của tướng Pháp là Bonard, bất chấp chiếu vua ra lệnh bãi binh, rút quân về Gò Công, cùng nhân dân Gò Công tiếp tục kháng chiến. Trong tình thế ấy, nhân dân và nghĩa quân đã tôn Trương Định là Bình Tây Đại Nguyên soái: “Bởi lòng chúng chẳng nghe Thiên tử chiếu; đón ngăn mấy dặm mã tiền; theo bụng dân phải chịu Tướng quân phù, gánh vác một vai khổn ngoại”. Ông lấy Gò Công làm bản doanh, xây dựng các căn cứ địa kháng chiến. Trương Định tiếp tục xây dựng phòng tuyến ở Tân Hòa, phối hợp chặt chẽ ở các địa phương bằng chiến thuật đánh du kích, giành thắng lợi vào năm 1862 với các trận: Sông Tra, Qui Sơn, Rạch Lá, Gò Xoài, Trại Cá, Giồng Tháp, Giồng Ông Lãnh, Bến Chùa, Cửa Khâu, Rạch Tra,… Nghĩa quân làm chủ đường Sài Gòn, Biên Hòa, cắt đường giao thông Chợ Lớn - Bến Lức.
 Trước tình hình đó, đầu tháng 02 - 1863, thực dân Pháp đã huy động lực lượng hùng hậu tấn công căn cứ Gò Công. Ông đã bình tĩnh và mưu trí chỉ huy nghĩa quân kiên cường đánh trả, nhưng do quân đông lại được liên tục bổ sung quân số và vũ khí, nên quân Pháp đã phá được căn cứ của nghĩa quân. Để tiếp tục cuộc chiến đấu, ông cho rút quân qua Lý Nhơn (nay thuộc huyện Cần Giờ, TP Hồ Chí Minh), lập căn cứ mới.

Nhận thấy hoạt động của nghĩa quân có chiều hướng ngày càng gia tăng, ngày 25 - 9 - 1863, quân Pháp mở cuộc đột kích vào căn cứ Lý Nhơn. Nghĩa quân phá vòng vây, trở về vùng Gò Công và chọn khu vực Đám lá tối trời làm nơi ẩn náu. Với chủ trương “tịnh vi dân, động vi binh”, ông cho nghĩa quân vừa sản xuất, vừa chiến đấu, tiếp tục chiêu mộ nhân tài, luyện tập binh sĩ chuẩn bị cuộc tấn công quy mô đánh úp Tân Hòa. Tiếc thay, vào đêm 19/8 rạng sáng 20/8/1864, do có sự phản bội của tên Việt gian Huỳnh Công Tấn, Trương Định bị phục kích bất ngờ, ông bị thương nặng. Để khỏi sa vào tay giặc, ông rút gươm tuẫn tiết:

“Tiếng đồn đám lá tối trời                                                                                                                             Có ông Trương Định trải phơi gan vàng”.

 Trương Định là nhà quân sự lỗi lạc, là tấm gương sáng ngời về lòng yêu nước, thương dân và tinh thần kiên trung bất khuất. Tuy nghiệp lớn không thành, nhưng Trương Định và cuộc khởi nghĩa do ông lãnh đạo đã ghi một dấu son vào lịch sử kháng chiến chống Pháp oanh liệt của nhân dân Nam bộ nửa sau thế kỷ XIX.                                                                                                                                                ******: "Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc" (Nguyễn Đình Chiểu)                                                   *******:Nguyễn Trung Trực, người anh hùng dân tộc lập nên chiến công hiển hách, đánh chìm tàu Pháp trên sông Nhật Tảo (1861) và trận chiếm đồn Kiên Giang (1868) cùng câu nói bất hủ lúc bị giải ra pháp trường “Bao giờ người Tây nhổ hết cỏ nước Nam thì mới hết người Nam đánh Tây”. Khí phách hiên ngang ấy gắn với nhiều giai thoại, truyền thuyết bi hùng về một vị tướng kiên trung, quả cảm, coi cái chết nhẹ tựa lông hồng.                                                                                                            ********: "Thành đồng Tổ quốc" là danh hiệu vẻ vang mà Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ tặng cho Nam Bộ vào tháng 2 năm 1946 để ghi nhận và biểu dương tinh thần chiến đấu kiên cường, bất khuất của quân và dân Nam Bộ trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược bắt đầu từ ngày 23 tháng 9 năm 1945.


TÔI VẪN NHỚ | METAL ROCK | Nhạc cover rock đang hay và hot hiện nay, nghe cực cháy


Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

BÍ ẨN ĐƯỜNG ĐỜI 156

MUÔN MẶT ĐỜI THƯỜNG I/30

KIẾP GIANG HỒ 4